Mục lục
Trang
Lời nói đầu 6
Kết luận: 107
Lời nói đầu
Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam từ trước đến nay là tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để bước vào thế kỷ XXI một cách thuận lợi. Đặc biệt trong lần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX chúng ta đã đưa ra mục tiêu: Đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Nước ta với nền kinh tế kém phát triển, chủ yếu dựa vào
108 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1919 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn đối với sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn huyện Gia Lâm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nông nghiệp thì việc thực hiện mục tiêu đề ra là khó khăn nhưng không phải là không thực hiện được. Đó là trong nền kinh tế chúng ta cần phải có được các yếu tố nội sinh bởi vì các yếu tố này quyết định đến quá trình tăng trưởng kinh tế. Các yếu tố nội sinh trên được hình thành từ các loại hình đầu tư bổ trợ mà đặc biệt là đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Một hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển mạnh sẽ tạo cơ sở vật chất cho việc thực hiện đường lối, chính sách phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Chính phủ.
Gia Lâm là một trong năm huyện ngoại thành Hà Nội, có nhiều tiềm năng và lợi thế trong xây dựng và phát triển vành đai kinh tế ven đô, là nơi giao lưu huyết mạch kinh tế giữa các tỉnh, đặc biệt nằm trên trục tam giác Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh rất thuận lợi trong việc tiếp cận thông tin, công nghệ tiên tiến phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhất là công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và từ đó nâng cao đời sống nông dân bằng việc quy hoạch, hướng nông dân tới sản xuất hàng hoá phục vụ cho nu cầu thủ đô, đa đạng hoá các loại hình nông sản cao cấp. Do đó việc phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn theo hướng phục vụ công ngiệp hoá- hiện đại hoá vẫn là vấn đề cần được quan tâm
Các lý thuyết kinh tế đều coi đầu tư đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng và điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm tạo thế và lực để đưa nước ta hoà nhập vào cộng đồng quốc tế trong thế kỷ XXI.
Như vậy để quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Đảng, của Nhà nước, thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, giảm khoảng cách giữa thành thị và nông thôn… đã đề ra trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX thì chiến lược đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn là nhiệm vụ quan trọng. Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề này tôi xin được bày tỏ những suy nghĩ của mình thông qua đề tài: “Đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn đối với sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn huyện Gia Lâm”. bản chuyên đề thực tập sẽ tập trung phân tích, đánh giá quá trình đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn huyện Gia Lâm trong những năm qua, từ đó thấy được những thành tựu và những tồn tại cần phải đổi mới. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện cho lĩnh vực này. Ngoài lời nói đầu và phần kết luận, đề tài gồm các nội dung sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về đầu tư, công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và vai trò của đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn với sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông thôn, nông nghiệp huyện Gia Lâm.
Chương II: Thực trạng đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn huyện Gia Lâm đối với sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông thôn, nông nghiệp huyện.
Chương III: Phương hướng và giải pháp đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đaị hoá nông nghiệp, nông thôn huyện Gia Lâm.
Được sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Nguyễn Ngọc Mai và các cán bộ chuyên viên Phòng Kế hoạch huyện Gia Lâm bản chuyên đề đã được hoàn thành. Tuy nhiên, do thời gian, kinh nghiệm và trình độ có hạn bài viết không tránh khỏi thiếu sót về nội dung và phương pháp thể hiện. Vậy kính mong thày cô, các bạn đánh giá và góp ý để bản chuyên đề được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung
***********************
Đầu tư phát triển :
I.1.1.Khái niệm, vai trò đầu tư phát triển:
Đầu tư theo nghĩa thông thường nhất có thể được hiểu là sự hy sinh nguồn lực ở hiện tại nhằm đạt được những kết quả có lợi trong tương lai. Tuy nhiên, chỉ các hoạt động đầu tư nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực SXKD và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội mới được gọi là đầu tư phát triển.
Xem xét đầu tư phát triển, các lý thuyết kinh tế, cả lý thuyết kinh tế kế hoạch hoá tập trung và lý thuyết kinh tế thị trường đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Thực vậy, là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế (24-28% cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới- số liệu của WB ) sự tăng lên của đầu tư sẽ làm tổng cầu tăng lên trong ngắn hạn và khi các thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực sản xuất mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt tổng cung dài hạn tăng lên kéo theo sản lượng tiềm năng tăng, giá cả giảm từ đó cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng, đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển xã hội, tăng thu nhập cho người lao động nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Dưới tác động của đầu tư các phản ứng dây chuyền xảy ra làm cho nền kinh tế ngày càng phát triển, tốc độ tăng trưởng ngày càng cao. Lý thuyết J. Manard Keynes về đầu tư và mô hình số nhân chứng minh điều trên.
Bên cạnh đó, với sự tác động không đồng đều của đầu tư đến tổng cung, tổng cầu đã làm cho sự thay đổi của đầu tư cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định của nền kinh tế vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định. Điều đáng nói ở đây là trong điều hành vĩ mô nền kinh tế cần phải thấy hết tác động 2 mặt để đưa ra chính sách nhằm hạn chế tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
I.1.2. Nguồn vốn đầu tư phát triển:
Con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong sản xuất và tiêu dùng. Tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế mở nguồn vốn để đầu tư ngoài tiết kiệm trong nước còn có thể huy động vốn từ nước ngoài trong trường hợp tiết kiệm không đáp ứng nhu cầu đầu tư, thâm hụt tài khoản vãng lai .
Từ đây có thể chỉ ra các hướng chính trong nguồn đầu tư phát triển:
* Nguồn trong nước : bao gồm tích luỹ từ năng suất, vốn tích luỹ của các doanh nghiệp, tiết kiệm của dân cư.
* Nguồn vốn đầu tư của các cơ sở : vốn ngân sách cấp, vốn viện trợ không hoàn lại, vốn tự có, vốn liên doanh, liên kết .
* Vốn huy động từ nước ngoài .
Trong cả 3 nguồn trên thì vốn huy động từ nước ngoài đóng vai trò quan trọng, trong những bước đi ban đầu nó chính là những cái “hích” đầu tiên cho sự phát triển, tạo tích luỹ ban đầu từ trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế. Nhưng nếu xét về lâu dài nguồn vốn đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế một cách liên tục, đưa đất nước đến sự phồn vinh một cách chắc chắn và không phụ thuộc lại là nguồn vốn trong nước . Đây chính là nền tảng để tiếp thu và phát huy tác dụng của vốn đầu tư nước ngoài. Đề cập đến sự phát triển nông nghiệp, nông thôn VN trong giai đoạn hiện nay có nhiều khía cạnh cần phải quan tâm : đất đai, kỹ thuật, con người, vốn, môi trường .. trong đó vốn tiền tệ là một trong những nhân tố hết sức quan trọng, như một trong những tiền đề không thể thiếu được. Thiếu vốn sẽ không có cơ hội - không có tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế nói chung, phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn nói riêng. Vì vậy, thu hút tăng cường nguồn vốn và sử dụng một cách đúng đắn sao cho nâng cao hiệu quả đầu tư, đảm bảo khả năng sinh lợi bảo toàn, phát triển của đồng vốn là một việc làm vô cùng cần thiết.
I.1.3.Vai trò của đầu tư với sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
I.1.3.a.Về lý luận
Đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế thì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc vào tỷ lệ vốn đầu tư. Mô hình phát triển kinh tế do các nhà kinh tế Roy-Harrod người Anh và Evssey-Domar người Hoa Kỳ nêu ra từ những năm 40 đã chỉ ra mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và nguồn VĐT:
Vốn đầu tư
Mức tăng GDP = -------------------
ICOR
Như vậy tốc độ tăng trưởng của mỗi quốc gia tỷ lệ nghịch với hệ số ICOR và tỷ lệ thuận với VĐT. Một nền kinh tế muốn giữ được tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thiết phải được đầu tư thoả đáng. Quá trình sử dụng VĐT gồm 2 giai đoạn và tác động của từng giai đoạn cũng khác nhau:
Giai đoạn 1: Sự tăng lên về đầu tư làm cho nhu cầu chi tiêu tăng, tác động đến tổng cầu làm tăng sản lượng, việc làm và kèm theo biến động của giá cả.Tuy nhiên nhu cầu của quá trình đầu tư tạo ra chủ yếu là các nhu cầu về TLSX, cái mà các nước đang phát triển thiếu. Do đó nhu cầu xuất khẩu trong nước sản xuất để nhập khẩu TLSX là một tất yếu của quá trình phát triển. Mặt khác, khi tích luỹ trong nước còn thấp, việc thu hút vốn đầu tư từ nguồn vốn bên ngoài là cần thiết và tạo ra sự tăng trưởng rõ rệt trong quá trình thực hiện đầu tư .
Giai đoạn 2: Đầu tư dẫn đến tăng vốn vật chất bao gồm tài sản cố định, hàng hoá tồn kho cho sản xuất và các tài sản phi vật chất. Vốn sản xuất tăng làm tăng khả năng sản xuất, thúc đẩy gia tăng sản lượng, năng suất lao động và chất lượng hàng hoá sản xuất tạo ra. Điều đó tạo khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn thời gian và lao động. Vì vậy, vốn trở thành một yếu tố cơ bản của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế nước ta trong thời điểm hiện đại. Tất nhiên vai trò vốn được dựa trên cơ sở vốn được đầu tư đúng hướng, được quản lý và sử dụng có hiệu quả cho nhu cầu chi tiêu tăng lên .
Ngoài ra đầu tư còn tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng cường khả năng khoa học công nghệ của đất nước:
Công nghệ có thể có từ hai con đường: một là tự nghiên cứu phát minh, hai là nhập công nghệ từ nước ngoài. Cho dù bằng con đường nào thì vốn đầu tư cũng là điều kiện tiên quyết. Thực tế đã cho thấy công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá- hiện đại hóa nhưng theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ thế giới thì công nghệ của Việt nam lạc hậu hàng vài chục năm so với các nước trên thế giới và trên khu vực. Vấn đề đặt ra là cần phải tăng cường đầu tư để nghiên cứu công nghệ thích hợp cho từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
Qua kinh nghiệm của một số nước cho thấy để có tốc độ tăng trưởng nhanh thì Chính phủ cần tập trung đầu tư vào phát triển công nghiệp và dịch vụ tạo bước đột phá trong nền kinh tế sau đó quay lại đầu tư vào nông-lâm-ngư nghiệp. Còn theo cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có thể giải quyết những mất cân đối trong phát triển kinh tế giữa các vùng, Chính phủ tập trung đầu tư vào những khu vực kém phát triển như vùng núi, vùng sâu, vùng xa..giúp các khu vực này thoát khỏi đói nghèo, phát huy được lợi thế của mình .
I.1.3.b.Đầu tư phát triển trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước:
Đầu tư phát triển với việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế của nước ta
Trong những năm 80, nền kinh tế nước ta rơi vào khủng hoảng trầm trọng, tích luỹ của nền kinh tế gần như không có để đầu tư phát triển. Vốn đầu tư phát triển chủ yếu là trông chờ từ bên ngoài bằng viện trợ và vay nợ nước ngoài, điều đó dẫn đến qui mô sản xuất không được mở rộng, cơ cấu kinh tế chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới, tình hình kinh tế xã hội căng thẳng, đời sống nhân dân khó khăn... Từ năm 1986 đến nay, sau hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế đã có nhiều khởi sắc, đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc ổn định kinh tế- xã hội. Tốc độ tăng trưởng GĐP hàng năm giai đoạn 1991-1997 đạt mức trung bình 8,4%. Thực tế nền kinh tế nước ta trong những năm qua cho thấy mối tương quan mật thiết giữa tỷ lệ tăng trưởng GĐP với tỷ lệ tăng vốn đầu tư phát triển. Sự tăng trưởng nhanh của tổng vốn đầu tư phát triển trong nhữnh năm 1992 (83,6%), năm 1993 (70,5%)... là cơ sở cho sự tăng trưởng với tốc độ cao của tổng sản phẩm quốc nội những năm 1994 (8,8%), năm 1995 (9,5%) năm 1996 (9,3%). Sau thời kì tăng trưởng nhanh, tỷ lệ tăng trưởng vốn đầu tư sau năm 1993 có xu hướng giảm tương đối nhanh từ 70,5% năm 1993 xuống 28,7% năm 1994; 25,3% năm 1995; 19,8% năm 1996 và năm 1997 chỉ còn 15,7%, đặc biệt năm 1998 giảm tới 0,5%, nhưng đến năm 1999 đã có dấu hiệu phục hồi đạt xấp xỉ 7,9%. Chính sự suy giảm vốn đầu tư phát triển của giai đoạn này báo hiệu một thời kỳ tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP đã giảm rõ rệt trong năm 1997 (8,8%), năm 1998 (5,8%) và năm 1999 chỉ còn 4,8%. Nếu chính phủ không có những chính sách khuyến khích tăng trưởng mức vốn đầu tư hợp lý, đảm bảo thông thoáng và hiệu quả của quá trình đầu tư thì nước ta khó có khả năng duy trì được tốc độ tăng trưởng năng động của GDP trong thời gian tới. Về phần mình tăng trưởng kinh tế là nhân tố cơ bản để tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân, đảm bảo tiềm lực để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế- văn hoá- xã hội của đất nước.
Đầu tư phát triển và khủng hoảng tài chính tiền tệ.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực với nguy cơ lan rộng toàn cầu đã được hạn chế nhưng những hậu quả to lớn mà nó để lại đang làm đau đầu các quốc gia lớn trên thế giới, đứng đầu là Mỹ, Nhật và Trung Quốc. Các tổ chức tài chính thương mại quốc tế đang tiến hành tìm kiếm và thực hiện những giải pháp, hướng đi thích hợp nhằm cứu vãn nền kinh tế thế giới ra khỏi nguy cơ suy thoái toàn cầu.
Cuộc khủng hoảng của các nước Đông Nam á về thực chất bắt đầu từ việc đầu tư kém hiệu quả, cơ cấu đầu tư có nhiều sai lệch, không theo định hướng kế hoạch được tính toán khoa học. Do không có qui hoạch đầu tư các ngành nghề một cách đồng đều, trong một thởi giai dài các nhà đầu tư chỉ tập trung vốn đầu tư vào các ngành nghề đem lại lợi ích tức thời cao như kinh doanh bất động sản và dịch vụ....thời gian thu hồi vốn ngắn. Và do vậy, các nhà đầu tư chấp nhận vay khoản vốn ngắn hạn lớn, trong khi đó Nhà nước kiểm soát tương đối lỏng lẻo. Các khoản vốn này lại không có những tính toán, thay đổi kịp thời về qui hoạch, chính sách đầu tư, lãi xuất, tỷ giá...trong điều kiện thị trường tiêu thụ vẫn chưa được mở rộng tương ứng nhất là thị trường xuất khẩu, dẫn đến việc đầu tư quá mức, đồng vốn đầu tư không phát huy hiệu quả như mong muốn. Việc quản lý nợ nước ngoài không nhất quán, khả năng kiểm soát luồng vay nợ kém, thêm vào đó là chế độ tỷ giá cố định trong khi hệ thống tiền tệ yếu kém, làm cho quá trình đầu tư kém hiệu quả đã gây áp lực làm bùng phát sự phá sản của hàng loạt các công ty tài chính. Trên thế giới hiện nay, trong quá trình quốc tế hoá bao trùm tất cả các lĩnh vực văn hoá- kinh tế- xã hội, tác động trên đã gây ra phản ứng dây chuyền có ảnh hưởng nạnh mẽ đến hệ thống tài chính trong khu vực và trên thế giới, đồng thời làm mất lòng tin của các nhà đầu tư vào tương lai phát triển của đất nước và khu vực.
Tính chất tài chính khép kín của Việt Nam đã bảo vệ nền kinh tế trước những ảnh hưởng ban đầu của cuộc khủng hoảng Đông Nam á nhưng khi sự suy thoái củc khu vực trở nên sâu sắc thì các nhà hoạnh định chính sách nhận thức rõ ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng là nghiêm trọng. Điều đó đã được thể hiện thông qua hàng loạt các điều chỉnh về chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, GDP xuống mức 4- 6% năm 1998 và 1999 nhưng trong thực tế còn thấp hơn. Trong những năm qua 2/3 xuất khẩu của Việt Nam là sang các nước Đông á và Đông Nam á, 2/3 đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam có nguồn gốc từ khu vực này. ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đã làm tốc độ xuất khẩu giảm mạnh từ rất cao ( 30% hàng năm ) trong những năm qua xuống còn 10% năm 1998. Nguồn FDI giảm 40% trong nửa đầu năm 1998 và giảm hơn 1 tỷ USD ( 4% GDP) cho cả năm. Mặc dù trong năm 1998 đồng Việt nam đã phá giá 18% so với đồng USD nhưng Việt Nam vẫn chưa giành được lợi thế so với các nước trong khu vực và không theo kịp với những điều chỉnh cơ cấu ở những nước này. Kết quả là sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam với thị trường quốc tế và các nhà đầu tư nước ngoài giảm sút đáng kể.
Đi tìm nguyên nhân có thể thấy rằng cuộc khủng hoảng trong khu vực bắt nguồn từ khủng hoảng trong quá trình đầu tư, những sai lầm trong quá trình đầu tư làm cho nguồn vốn bị suy giảm từ đó kéo theo mức tăng trưởng kinh tế cũng giảm. Việc suy giảm nhanh chóng trong quá trình đầu tư đã làm xáo trộn quan hệ kinh tế- tài chính- tiền tệ. Để khấc phục được tình trạng suy thoái kinh tế điều quan trọng nhất là phải chấn chỉnh, ổn định được quá trình đầu tư. Phải có những hướng đi, giải pháp thích hợp trong khuôn khổ một chính sách đầu tư hiệu quả.
Đầu tư phát triển và các vần đề xã hội khác
ã Đầu tư phát triển và việc giải quyết việc làm:
Đầu tư không những có vai trò hết sức quan trọng trong việc cải thiện thu nhập của các tầng lớp nhân dân mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tạo công ăn việc làm cho số lao động tăng thêm trong xã hội. Phân tích tình hình lao động nước ta trong giai đoạn 1991- 1999 cho thấy mặc dù tốc độ tăng dân số qua các năm có xu hướng giảm dần nhưng lực lượng lao động trong nền kinh tế vẫn tăng đều qua các năm (lượng lao động tăng thêm hàng năm vẫn ở mức 1,2 triệu người). Với con số lao động như thế việc giải quyết công ăn việc làm, đảm bảo sự ổn định trong xã hội là một điều không dễ. Chính việc đầu tư và đầu tư một cách hợp lý là một phương pháp hiệu quả góp phần giải quyết bài toàn khó này.
ã Đầu tư phát triển và vấn đề lạm phát:
Một trong những vấn đề vĩ mô quan trọng của nền kinh tế nước ta là mức lạm phát phải thường xuyên được khống chế. Lạm phát là một nhân tố có ảnh hưởng lớn và quyết định đến tốc độ tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Với đặc tính không xác định của mình lạm phát cao làm cho các nhà đầu tư không thể xác định được chính xác khả năng sinh lời của đồng vốn đầu tư bỏ ra, dẫn đến là nguyên nhân làm mất lòng tin của các nhà đầu tư. Tuy nhiên giảm phát lại là một yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế quốc dân, chỉ có khống chế được lạm phát mới giúp nền kinh tế phát triển đúng hướng, năng động, là một đòn bẩy kinh tế nhằm thực hiện công bằng xã hội trong việc phân phối lại lao động.
Quá trình đầu tư phát triển đóng vai trò rất lớn trong việc khống chế mức lạm phát. Quá trình đầu tư diễn ra sôi động với mức đầu tư cao sẽ dẫn đến tăng nhu cầu hàng hoá, vật tư, lao động... phục vụ cho quá trình đầu tư. Tăng cầu dẫn đến tăng giá cả sản phẩm, dịch vụ. Trong điều kiện kinh doanh bình thường đây là một nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển trong những năm 1992 (83,6%), năm 1993 (70,5%) tương đối cao đã tác động mạnh đến mức lạm phát những năm 1994 (14,4%), năm 1995 (12,7%). Sự giảm dần của tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư trong những năm gần đây đã ảnh hưởng và phát huy tác dụng ( đạt mức lạm phát thấp những năm 1996- 1999).
Theo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế phát triển khi mức độ lạm phát quá cao, Chính phủ thường có chính sách hạn chế quá trình đầu tư, không khuyến khích quá trình đầu tư tràn lan. Trong trường hợp ngược lại (tình trạng thiểu phát như ở Việt Nam hiện nay) Chính phủ lại dùng những đòn bẩy cũng như các chính sách khuyến khích, mở rộng hoạt động đầu tư.
Như vậy, việc mở rộng hay thắt chặt quá trình đầu tư sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nhiệm vụ khống chế mức lạm phát trong nền kinh tế. Để có thể thực hiện việc khống chế mức lạm phát một cách có hiệu quả đòi hỏi phải có hệ thống chính sách kinh tế- xã hội, trong đó những giải pháp về đầu tư đóng vai trò rất quan trọng.
ã Đầu tư phát triển và các chương trình kinh tế- xã hội:
Nội dung của các chương trình đầu tư mục tiêu quốc gia được thực hiện bằng nguồn vốn đầu tư phát triển gồm có chương trình xoá đói, giảm nghèo, định canh, định cư, hỗ trợ đồng bào dân tộc khó khăn, chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình, chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường... đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố và bảo vệ an ninh quốc phòng, ngăn ngừa và giải quyết các vấn đề về tệ nạn xã hội, về đói nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân, bảo vệ môi trường sinh thái...
Chú trọng đầu tư và đầu tư đúng mức vào các chương trình quốc gia trên góp phần giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh trong việc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện công bằng trong xã hội. Mặt khác đầu tư vào những chương trình này sẽ góp phần nâng cao sức mua của toàn xã hội, tăng tính hữu dụng của đồng vốn đầu tư, tăng tổng cầu của nền kinh tế, kích thích tăng trưởng kinh tế. Đầu tư vào các chương trình quốc gia này là xu hướng mà Chính phủ các nước đang hướng tới và nhận được sự ủng hộ tích cực của các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế.
Công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn- xu hướng phát triển tất yếu
I.2.1. Khái niệm công nghiệp hoá- hiện đại hoá
Thuật ngữ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện không còn là vấn đề mới mẻ và thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá là một tất yếu khách quan. CNH- HĐH, một nội dung đồng thời cũng là một biện pháp để đưa nước ta từ một nước đang phát triển trở thành một nước có nền công nghiệp hiện đại, nông nghiệp tiên tiến, xây dựng Việt Nam trở thành một nước dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Tuy nhiên, công nghiệp hoá- hiện đại hoá phải bắt đầu từ đâu, theo hướng nào lại tuỳ thuộc vào bối cảnh và mục tiêu của mỗi quốc gia. Vì vậy có rát nhiều quan điểm và khái niệm khác nhau, tuỳ theo từng giai đoạn phát triển của nỗi quốc gia mà áp dụng như thế nào cho đúng.
Theo tổ chức phát triển Liên Hợp Quốc thì công nghiệp hoá được coi là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bảo đảm đạt tới sự tiến bộ về kinh tế- xã hội. Khác với các quan điểm trước, cách hiểu này cho thấy công nghiệp hoá- hiện đại hoá không đồng nhất với quá trình phát triển công nghiệp mà là một quá trình bao trùm toàn bộ sự phát triển kinh tế- xã hội, nhằm đạt cả sự phát triển kinh tế lẫn tiến bộ xã hội.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá VII) kế thừa quan niệm này coi: “ CNH- HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp quản lý tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng xuất lao động xã hội cao”.
Tóm lại, công nghiệp hoá là sự phát triển công nghệ, là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội (cả công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội) từ trình độ công nghệ thấp lên trình độ công nghệ cao, tiên tiến, hiện đại và khi đó lực lượng lao động xã hội sẽ chuyển dịch thích ứng về cơ cấu ngành nghề, trình độ tay nghề, học vấn. Tuy nhiên, một xã hội được thừa nhận là hiện đại hoá thì trớc hết phải là một xã hội có nền kinh tế phát triển, thể hiện cao nhất ở nhịp độ tăng tổng sản phẩm chung và tính theo đầu người, cốt lõi của nó là tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH.
I.2.2.Sự cần thiết thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn:
CNH- HĐH theo định hướng XHCN là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ mà thực chất của quá trnhf nay là tạo ra những tiền đề vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Kinh nghiệm thực tế của các nước đã trải qua công nghiệp hoá- hiện đại hoá trên thế giới chỉ ra rằng: nếu không phát triển nông nghiệp thì không một nước nào có thể phát triển ổn định, bền vững với tốc đọ cao một cách lâu dài được. Điều này càng đúng với đất nước ta - xuất phát điểm từ một nước nông nghiệp, hiện nông thôn vẫn là khu vực rộng lớn với gần 80% dân số sinh sống, trên 70% lực lượng lao động xã hội làm việc, nông nghiệp vẫn đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Để đạt được những mục tiêu đề ra trong qúa trình CNH- HĐH trong những năm tiếp theo thì việc thực hiện CNH- HĐH nông thôn ở nước ta là một tất yếu trong quá trình phát triển của đất nước. Chính điều này mới có thể khắc phục được dần dần khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, tạo ra sự phát triển đồng đều trong cả nước.
Nội dung của quá trình CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn nhằm hướng tới:
Thúc đẩy qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông thôn theo hướng chung là phát triển công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ (hoặc công nghiệp- dịch vụ- nông nghiệp). Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn thúc đẩy quá trình phân công lao động ở nông thôn, lao động nhàn rỗi ở nông nghiệp sẽ chuyển sang các hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ, từng bước nâng cao thu nhập cho dân cư nông thôn, tăng khả năng tích luỹ của nông dân.
Phát triển công nghiệp ở nông thôn nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế- xã hội ở nông thôn đặc biệt là vấn đề lao động, việc làm ở nông thôn, ở đây vấn đề giải quyết việc làm không chỉ đơn thuần là việc nâng cao thu nhập và tích luỹ của người dân mà còn hạn chế được sự di dân tự do từ nông thôn ra thành thị để tìm việc làm gây ra những biến động về trật tự xã hội, sức ép về dân số ở các thị xã, thị trấn và các thành phố lớn.
CNH nông nghiệp, nông thôn gắn với việc cơ giới hoá trong nông nghiệp nhằm tăng năng xuất lao động, giải phóng sức lao động của người nông dân. Quá trình này còn gắn liền với các hoạt động chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào nông thôn, nông nghiệp như các ngành chế biến lâm, nông sản, đưa các giống mới, kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất... Từng bước nâng cao chất lượng nông sản hàng hoá, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn gắn liền với quá trình đô thị hoá nông thôn, phát triển hoàn thiện kết cấu hạ tầng trong nông thôn tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển công nghiệp - dịch vụ trong nông thôn.
I.2.3.Khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn:
CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng theo hướng tăng dần tỷ trọng của các hoạt động công nghiệp, dịch vụ, là quá trình thay đổi công nghệ sản xuất từ chủ yếu còn tự túc, tập quán sống cổ truyền sang công nghệ sản xuất tiên tiến đạt hiệu quả cao đi dần lên hiện đại với tập quán sống văn minh lành mạnh của nền văn minh công nghiệp mang đậm bản sắc dân tộc, trong đó thuỷ lợi hoá, điện khí hoá và sinh học hoá là những nội dung then chốt nhất.
CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn trước hết phải được bắt đầu từ những biến đổi sâu sắc về lượng và chất của chính bản thân sản xuất nông nghiệp, nhằm tạo ra những tiền đề về nhiên liệu dồi dào và năng xuất lao động cao, đảm bảo cho việc hình thành, duy trì và phát triển các hoạt động công nghiệp chế biến. Đó cũng là quá trình vận động nội tác của chính bản thân kinh tế nông thôn gắn liền với những đặc điểm, điều kiệ tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng vùng cụ thể. Quá trình vận động này luôn gắn liền với sự phát triển công nghệ của các nước, tạo môi trường thuận lợi và giữ vai trò khuyến khích, thúc đẩy sự vận động đi nhanh đúng hướng và có hiệu quả.
I.2.4.Những điều kiện cần thiết để thực hiện thành công CNH- HĐH nông thôn, nông nghiệp.
I.2.4.a.Điều kiện về vốn
Để thực hiện CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn chúng ta cần một lượng vốn khá lớn. Có thể nói vốn là điều kiện tiên quyết của bất kỳ một công cuộc đầu tư nào và nó càng trở nên quan trọng hơn khi Đảng và Nhà nước ta thực sự coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc CNH- HĐH đất nước. Có vốn chúng ta mới có thể xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, duy tu và bảo dưỡng thường xuyên, đảm boả thực hiện tốt có kết quả quá trình CNH- HĐH nông thôn, nông nghiệp: chuyển giao công nghệ gắn liền với với trang bị máy móc công nghiệ vào khu vực nông thôn, vào lĩnh vực nông nghiệp, vốn đầu tư cho việc phát triển công nghiệp chế biến các sản phẩm nông nghiệp, vốn đầu tư phát triển và hoàn thiện kết cấu hạ tầng nông thôn, đầu tư đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực…
Khu vực nông thôn hiện nay gặp nhiều khó khăn trong việc tìm, thu hút và khai thác các nguồn vốn như vốn trong dân, vốn đầu tư và cho vay của nước ngoài, các nguồn vốn từ các tổ chức kinh doanh tiền tệ được định hướng cho nông thôn và một số nguồn vốn khác (quỹ tài trợ, quỹ hỗ trợ quốc gia, hỗ trợ tìm việc làm..). Hiện nay, trong tất cả các nguồn vốn đầu tư vào nông thôn vốn Ngân sách Nhà nước vẫn giữ vị trí quan trọng (chiếm trên 10% tổng vốn đầu tư hàng năm) trong đó hàng nghìn tỷ đồng là đầu tư cho các hệ thống, công trình kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, đã tạo ra các đầu mối quan trọng ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên, đây vẫn chỉ là con số ít ỏi so với khu vực rộng lớn của khu vực nông thôn.
Ngoài vốn đầu tư Nhà nước thì vốn đầu tư của dân cư và các tổ chức kinh tế- xã hội khác cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển sản xuất và hoàn thiện kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. Trong những năm gần đây, nguồn vốn trong dân cư được huy động tốt hơn và trở thành nguồn đầu tư khá quan trọng cho việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng ở cấp địa phương và cơ sở, là nguồn chủ yếu để đầu tư mua sắm máy móc, trang thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp, khai hoang, cải tạo đất, xây dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ… Tuy nhiên, xung quan vấn đề này còn không ít khó khăn bởi thực tế cho thấy nhu cầu vốn đầu tư ở đây là rất lớn, vượt ra ngoài khả năng của người dân và của bản thân nền kinh tế nông thôn.
I.2.4.b.Hoàn thiện các công trình kết cấu hạ tầng nông thôn, các công trình phục vụ sản xuất nông nghiệp:
Kết cấu hạ tầng nông thôn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển CNH- HĐH nông thôn, nông nghiệp, có tác động mạnh mẽ và tích cực tới quá trình thay đổi cơ cấu sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế- xã hội nông thôn, mở mang văn hoá, xã hội và nâng cao đời sống của dân cư.
Một kết cấu hạ tầng hoàn thiện sẽ tạo điều kiện cơ bản, cần thiết cho sản xuất và thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. Nó tác động tới việc cung cấp dịch vụ, các yếu tố đầu vào của sản xuất và tái sản xuất, để quá trình sản xuất diễn ra liên tục. Đồng thời bảo đảm việc bảo quản, vận chuyển, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho đầu ra của quá trình sản xuất kinh doanh được thực hiện tốt. Hơn thế nữa, kết cấu hạ tầng nông thôn hoàn thiện còn phục vụ cho việc bảo vệ và cải tạo đất ._.đai, phòng chống thiên tai dịch bệnh, cải tạo hệ thống sinh thái và môi trường ở nông thôn.
I.2.4.c.Điều kiện trang bị kỹ thuật và chuyển giao công nghệ:
Nâng cao trình độ công nghệ kỹ thuật, tiếp nhận và ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất là một trong những nội dung quan trọng của quá trình CNH- HĐH nói chung và CNH- HĐH nôngnghiệp, nông thôn nói riêng. Chính nhờ quá trình này sẽ giúo cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh (tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ với chất lượng tốt hơn, chi phí thấp hơn, lợi nhuận cao hơn), bởi trong điều kiện nền kinh tế thị trường chất lượng và giá thành được coi là nhân tố cơ bản trong cạnh tranh. Đổi mới kỹ thuật, công nghệ gắn liền với việc đào tạo bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, trình độ tay nghề của người lao động sẽ tạo điều kiên để người nông dân tiếp cận với kỹ thuật mới, làm quen với phương thức sản xuất tiên tiến, nâng cao năng lực quản lý kinh doanh, từng bước thay đổi điều kiên lao động, sinh hoạt, lối sống, tạo điều kiện lao động sản xuất với năng suất và hiệu quả hơn, nếp sống văn minh tiến bộ hơn, từng bước thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa khu vực nông thôn và thành thị.
I.2.4.d.Về cơ chế chính sách:
Để thực hiện có kết quả những nội dung của quá trình CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn cần phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách tác động đồng bộ vào nền kinh tế quốc dân nó chung và khu vực nông thôn nói riêng như chính sách về đất đai, về tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư, chính sách về thuế và phí, chính sách về vốn và tín dụng, về khoa học công nghệ, chính sách đầu tư, chính sách phát triển nguồn nhân lực, chính sách về hợp tác hoá… Một chính sách đồng bộ và hoàn thiện sẽ là động lực phát huy nội lực, thúc đẩy nhanh quá trình CNH- HĐH nông thôn, nông nghiệp.
I.2.4.e.Nhân tố con người:
Đây là điều kiện quan trọng có ảnh hưởng lớn tới ự thành công của quá trình CNH- HĐH nói chung. Bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển, nhất là trong thời đại ngày nay - thời đại của cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng khoa học công nghệ thì chất lượng của người lao động càng được coi là yếu tố quyết định tới sự thành bại của sự nghiệp phát triển kinh tế.
Nâng cao trình độ tay nghề kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo của người lao động sẽ giúp cho việc nhận thức, tiếp thu và ứng dung những thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ tiến bộ một cách thích hợp, nhanh chóng và có hiệu quả, tạo điều kiện để người dân tiếp cận và làm quen với kỹ thuật, phương tiện sản xuất tiên tiến, nâng cao năng lực quản lý sản xuất và hiệu quả kinh doanh. Từng bước thay đổi điều kiên lao động, điều kiện sinh hoạt, lối sống tạo ra nếp sống văn minh ở khu vực nông thôn.
Vai trò của đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn với sự nghiệp CNH- HĐH nông thôn, nông nghiệp:
I.3.1.Khái niệm cơ sở hạ tầng, cơ sở hạ tầng nông thôn
I.3.1.a.Khái niệm:
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là cặp thuật ngữ đã xuất hiện ở Việt Nam vào những năm 30 do các ngà nghiên cứu lý luận Macxit dịch từ các từ infracstructure và supettructure ra tiếng Việt. Trong triết học macxit, cơ sở hạ tầng kinh tế (các lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất) là nền tảng có quan hệ chặt chẽ với hinh thái kiến trúc thượng tầng (chính trị, pháp luật, văn hoá, tư tưởng).
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, thuật ngữ infracstructure được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khoa học như quân sự, giao thông, kiến trúc, xây dựng, kinh tế vùng, quy hoạch vùng… với các khái niệm nhất định. Điều giống nhau căn bản của các khái niệm xoay quanh thuật ngữ này là sự nhận thức xuất phát từ nguồn gốc la tinh của thuật ngữ infracstructure (infa: ở dưới, tầng dưới; structure: cơ cấu, kết cấu, kiến trúc). Đó là những cấu trúc làm nền tảng cho các đối tượng, các yếu tố hình thành và phát triển ở trên. Gần đây khái niệm này được làm sáng tỏ hơn. Cơ sở hạ tầng là các công trình vật chất kỹ thuật mà kết quả hoạt động của nó là những dịch vụ có chức năng phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất và dân cư, được bố trí trên một phạm vi lãnh thổ nhất định.
Hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm: đường sá, hải cảng, sân bay, kho tàng, nhà máy, hệ thống truyền dẫn năng lượng, mạng lưới thông tin liên lạc, điện tín, điện báo, các công trình thuỷ lợi, thuỷ nông, hệ thống cấp thoát nước, màng lưới thị trường, chợ búa, hệ thống trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu khoa học…
Cơ sở hạ tầng nông thôn là một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nông nghiệp, nông thôn được tổ chức thành các đơn vị sản xuất và dịch vụ, các công trình sự nghiệp có khả năng bảo đảm sự di chuyển các luồng thông tin, vật chất nhằm phục vụ nhu cầu có tính phổ biến của sản xuất đại chúng, của sinh hoạt dân cư nông thôn nhằm đạt hiệu quả kinh tế- xã hội cao.
Cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm: hệ thống giao thông đường bộ, đường thuỷ, các công trình bến bãi, cầu cống, các công trình cung cấp điện, cung cấp nước, điện thoại, các cơ sở trường học, y tế, văn hoá, hệ thống cung ứng vật tư kỹ thuật, nguyên nhiên liệu phục vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn.
Cơ sở hạ tầng nói chung có thuộc tính của hàng hoá công cộng và nó có những tác động ngoại lai tích cực đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Chính vì vậy, cơ sở hạ tầng là một trong những chương trình đầu tư công cộng. Chương trình đầu tư công công thực chất là một chương trình tổng thể các nguồn lực bảo đảm hàng hoá và dịch vụ công cộng cho toàn xã hội. Đây là một bộ phận rất quan trọng của hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tạo lên nền tảng ban đầu cho các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh cũng như hệ thống tổ chức giáo dục, y tế văn hoá, khoa học kỹ thuật… có điều kiện phát triển thuận lợi.
Bản chất của cơ sở hạ tầng là ấn định lệ phí vào người sử dụng để bù đắp chi phí cung cấp. Tuy nhiên, vấn đề thu hồi vốn xây dựng cơ sở hạ tầng gặp nhiều khó khăn và không được ủng hộ. Vì vậy, nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng thường là từ thuế.
I.3.1.b.Đặc điểm của cơ sở hạ tầng nói chung:
Cơ sở hạ tầng và cơ sở hạ tầng nông thôn đều có các đặc điểm sau:
Thứ nhất: Kết quả các công trình cơ sở hạ tầng là dịch vụ phục vụ trực tiếp nhu cầu sản xuất và đời sống trên phạm vi lãnh thổ đó.
Thứ hai: Cơ sở hạ tầng khác với khu vực công cộng. Cơ sở hạ tầng chỉ là một phần của khu vực công cộng, do cả Chính phủ và tư nhân đầu tư xây dựng. Khu vực công cộng do Chính phủ đầu tư.
Thứ ba: Các công trình cơ sở hạ tầng đòi hỏi số vốn đầu tư lớn, chủ yếu thuộc vốn dài hạn thời gian thu hồi vốn lâu và vốn được thu hồi thông qua các hoạt động sản xuất khác. Vì vậy, khu vực tư nhân không tích cực tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng mà chủ yếu là Chính phủ. Trong công tác kế hoạch hoá phát triển cơ sở hạ tầng đòi hỏi phải làm tốt công tác thăm dò tài nguyên, thiên nhiên, phải nghiên cứu phương hướng phát triển lâu dài của vùng, có như vậy mới đảm bảo hiệu quả sử dụng công trình.
Thứ tư : Các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng sau khi được xây dựng sẽ có thời gian tồn tại lâu dài trên phạm vi lãnh thổ và phục vụ lâu dài cho hoạt động sản xuất và đời sống. Bởi vậy, khi xây dựng các công trình phải cân nhắc, lựa chọn công nghệ kỹ thuật tiên tiến nhất để phục vụ lâu dài cho đời sống, làm sao để các công trình này không lạc hậu so với sản xuất.
I.3.1.c. Phân loại cơ sở hạ tầng:
Căn cứ vào đặc điểm, tính chất hoạt động của các công trình cơ sở hạ tầng, chúng ta chia cơ sở hạ tầng thành hai loại: cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sỏ hạ tầng xã hội.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật (cơ sở hạ tầng kinh tế, cơ sở hạ tầng sản xuất) là những công trình phục vụ sản xuất như bến cảng, điện, giao thông, sân bay…
Cơ sở hạ tầng xã hội: là những công trình phục vụ đời sống như trường học, trạm xá, bệnh viện, công viên, các nơi vui chơi giải trí…
Có thể minh hoạ việc phân loại trên bằng sơ đồ sau:
Hệ thống
cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng
xã hội
Cơ sở hạ tầng
kỹ thuật
Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ mang tính tương đối bởi vì một công trình có thể thực hiện nhiều chức năng khác nhau như giao thông, điện lưới vừa phục vụ đời sống nhân dân và vừa phục vụ quốc phòng. Giữa cơ sở hạ tầng kinh tế và cơ sở hạ tầng xã hội có mối quan hệ với nhau. Mối quan hệ này phản ánh quan hệ giữa sản xuất và đời sống: khi cơ sở hạ tầng kinh tế phát triển, sản xuất phát triển, thu nhập tăng, đời sống xã hội được nâng cao, cơ sở hạ tầng xã hội phát triển.
Hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn cũng được chia làm hai nhóm:
Nhóm 1: Các công trình cơ sở hạ tầng kinh tế. Đây là tổ hợp của các công trình giao thông, thuỷ lợi, cung cấp vật tư nguyên liệu.
Nhóm 2: Các công trình cơ sở hạ tầng xã hội.
Đây là tổ hợp của các công trình vật chất kỹ thuật có chức năng phục vụ đời sống cư dân nông thôn như các cơ sở y tế, văn hoá, trường học… Trong nhóm này cơ sở hạ tầng xã hội còn được phân chia theo nhu cầu hoặc nhóm nhu cầu, theo đối tượng dân cư lựa chọn những đối tượng cần được xã hội quan tâm đặc biệt để xây dựng cơ sở dịch vụ riêng. Trong xã hội những người đó thường là những người già, người tàn tật, những người có công lớn đối với dân tộc và xã hội. Ngoài ra, tuỳ theo chế độ và hoàn cảnh đặc biệt mà mỗi nước có những ưu tiên riêng theo chế độ phục vụ tức là theo đó người sử dụng cơ sở hạ tầng xã hội phải trả hay không phải trả tiền.
Do điều kiện bị hạn chế nên trong bài viết này không thể đề cập tới tất cả các công trình cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội được. Đối tượng được đề cập sâu rộng nhất đó là các công trình có ý nghĩa to lớn vừa phục vụ sản xuất vừa phục vụ đời sống nhân dân như giao thông đường bộ, cung cấp điện, thuỷ lợi thuộc nhóm cơ sở hạ tầng kinh tế.
I.3.2.Vai trò của cơ sở hạ tầng nông thôn đối với sự phát triển kinh tế- xã hội.
Cơ sở hạ tầng là điều kiện vật chất quan trọng, có tính quyết định đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn cũng như sự chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp.
Cơ sở hạ tầng tốt sẽ là giúp giảm giá thành sản xuất, giảm rủi ro, thúc đẩy lưu thông hàng hoá trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp và các ngành liên quan trực tiếp tới nông nghiệp - khu vực phục thuộc rất nhiều vào thiên nhiên.
Cơ sở hạ tầng phát triển sẽ tác động đến sự tăng trưởng và phát triển nhanh khu vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn, tạo ra điều kiện cạnh tranh lành mạnh, tăng sức thu hút vốn đầu tư nước ngoài và sức huy động nguồn vốn trong nước vào thị trường nông nghiệp, nông thôn. Những vùng có cơ sở hạ tầng đảm bảo sẽ là một nhân tố để thu hút nguồn lao động, hạ giá thành trong sản xuất và mở rộng thị trường nông thôn. Bởi cơ sở hạ tầng đảm bảo các điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết cho các hoạt động sản xuất thường xuyên và phát triển.
Cơ sở hạ tầng là điều kiện quan trọng tác động tới việc phân bố lực lượng sản xuất theo lãnh thổ. Phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn sẽ tạo điều kiện phát triển đồng đều giữa các vùng trong cả nước, góp phàn thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội. Bởi vì, thực hiện công bằng xã hội không chỉ thể hiệ ở khâu phân phối kết quả mà nó còn thể hiệ ở chỗ tạo điều kiện sử dụng tốt năng lực của mình, đó chính là cơ hội học tập, cơ hội được chăm lo sức khoẻ và đặc biệt là cơ hội được làm việc, tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội.
Cơ sở hạ tầng nông thôn phát triển sẽ tăng cường được khả năng giao lưu hàng hoá, thị trường nông thôn được mở rộng, kích thích kinh tế hộ gia đình tăng gia sản xuất, làm thay đổi bộ mặt nông thôn, thu nhập của các hộ nông dân tăng, đời sống nông dân được tăng cao, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, giảm sự phân hoá giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn.
Phát triển cơ sở hạ tàng nông thôn sẽ tạo điều kiện tổ chức tốt đời sống xã hội trên từng địa bàn, tạo một cuộc sống tồt hơn cho nhân dân, nhờ đó mà giảm được dòng di dân tự do từ nông thôn ra thành thị, giảm bớt gánh nặng cho thành thị.
Nói tóm lại, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn là nhân tố đặc biệt quan trọng, là khâu then chốt để thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội nói chung và để thực hiện chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Vì vậy, trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, cấu trúc nền kinh tế thế giới thay đổi đã đặt ra nhu cầu: Cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước để tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành, các vùng phát triển.
I.3.3.Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển cơ sở hạ tầng:
Chúng ta đã biết cơ sở hạ tầng là công trình phục vụ sản xuất và đời sống của dân cư. Chính vì vậy mục tiêu của phát triển cơ sở hạ tầng là để phục vụ sản xuất, nâng cao tính hiệu quả của sản xuất, nâng cao đời sống dân cư. Song nếu cơ sở hạ tầng phát triển quá nhanh so với nhu cầu thì sẽ không phát huy được hiệu quả. Ngược lại, nếu phát triển cơ sở hạ tầng chậm hơn, ít hơn so với sản xuất thì sẽ không đáp ứng được nhu cầu của sản xuất. Do đó, một vấn đề đặt ra là phải xây dựng một cơ cấu hợp lý giữa đầu tư cho cơ sở hạ tầng và đầu tư cho sản xuất. Qua kinh nghiệm thực tế cho thấy để đảm bảo mối quan hệ thì kết cấu hạ tầng phải được phát triển nhanh hơn sản xuất, tức là đầu tư cho cơ sở hạ tầng phải tăng nhanh hơn đầu tư cho sản xuất, đó là quy luật chung. Tuy nhiên ở mỗi nước khác nhau, điều kiện khác nhau thì tỷ lệ trên cũng có sự khác nhau và sự khác nhau về những điều kiện này chính là nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ sở hạ tầng.
Kết cấu hạ tầng bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố nhưng chủ yếu là nhóm bốn nhân tố sau:
I.3.3.a.Nhân tố tự nhiên môi trường:
Điều kiện tự nhiên môi trường có ảnh hưởng mang tính chất quyết định đến việc xây dựng các dự án kết cấu hạ tầng. Những ảnh hưởng này xảy ra sẽ mang cả tính tích cực và tiêu cực, đó là:
ảnh hưởng tới hình thức, quy mô kích thước công trình. Từ đó ảnh hưởng tới khối lượng vật liệu, vốn đầu tư và tính khả thi của dự án.
ảnh hưởng tới hiệu quả của dự án thông qua chi phí quản lý, vận hành, duy tu bảo dưỡng hàng năm của các dự án công trình. Những vùng có điều kiện tự nhiên- môi trường thuận lợi sẽ cho hiệu quả dự án cao và ngược lại những vùng có điều kiện tự nhiên- môi trường xấu sẽ cho hiệu quả dự án tháp.
I.3.3.b. Nhân tố văn hoá- xã hội:
Những ảnh hưởng của nhân tố văn hoá- xã hội trong khu vực tói công trình dự án cơ sở hạ tầng là:
Đặc điểm văn hoá- xã hội, mức độ dân trí sẽ ảnh hưởng đến tính khả thi của công trình, dự án thông qua nhận thức và sự đóng góp, ủng hộ của nhân dân trong vùng.
ảnh hưởng tới chất lượng thực hiện, thời gian và năng lực hoạt động của dự án thôngqua ý thức giữ gìn, bảo vệ của nhân dân. Qua đó ảnh hưởng tới vốn đầu tư, chi phí quản lý vận hành và hiệu quả khai thác.
I.3.3.c.Nhân tố kinh tế- dịch vụ:
Nhân tố này gây ra những ảnh hưởng sau cho dự án:
Khả năng tài chính khu vực ảnh hưởng quyết định tới quy mô, tiến độ thực hiện và sự đồng bộ của dự án.
Vùng có kinh tế dịch vụ phát triển sẽ cho hiệu quả cao, thu hút được đầu tư.
Phương hướng, định hướng phát triển kinh tế, dịch vụ của vùng sẽ ảnh hưởng đến việc quyết định thực hiện dự án của các ngành.
I.3.3.d.Nhân tố khoa học kỹ thuật- công nghệ:
Khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày nay phát triển với tốc độ như vũ bão, nhiều phát minh sáng chế ra đời ngày càng tiên tiến, hiện đại hơn. Chính vì vậy nhân tố khoa học, kỹ thuật công nghệ ảnh hưởng lớn tới các dự án công trình kết cấu hạ tầng công trình- những dự án cần thiết phải áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Những ảnh hưởng đó là:
Kỹ thuật công nghệ tiên tiến hiện đại ảnh hưởng đến vốn đầu tư, chi phí quản lý và vận hành, quy mô của công trình dự án.
Kỹ thuật công nghệ lạc hậu làm giảm hiệu quả, gây ra sự thiếu đồng bộ trọng quá trình đầu tư và vận hành.
Tất cả các nhân tố trên ảnh hưởng rất lớn tới việc phát triển cơ sở hạ tầng. Vì vậy để lựa chọn, tính toán được một tỷ lệ thích hợp giữa đầu tư cho cơ sở hạ tầng và đầu tư cho sản xuất chúng ta phải tính đến ảnh hưởng của các nhân tố trên sao cho phù hợp với điều kiện của đất nước.
I.3.4.Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn phục vụ sự nghiệp CNH- HĐH nông thôn, nông nghiệp:
Nông thôn, nông nghiệp Việt Nam trong những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước đã đạt được những bước phát triển ổn định, khá toàn diện, cải thiện và nâng cao được đời sống của người dân nông thôn. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp CNH- HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn thì nông thôn hiện nay còn nhiều khó khăn, yếu kém mà dưới góc độ quản lý Nhà nước cần nhìn nhận một cách đúng đắn để có giải pháp khắc phục.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã ghi: “ đẩy mạnh xây ựng cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, ưu tiên cho công trình trọng điểm phục vụ chung cho ngành kinh tế…, xây dựng một cơ sở hạ tầng thiết yếu ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tăng tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn, xây dựng và nâng cao cơ sở hạ tầng”. Từ đó cho thấy Đảng và Nhà nước ta luôn luôn xem nông nghiệp và nông thôn là mặt trận kinh tế trọng yếu, nông nghiệp và nông thôn là cơ sở để phát triển công nghiệp, dịch vụ và là thị trường rộng lớn của công nghiệp, là nguồn cung cấp nguyên liệu, lao động cho công nghiệp và các ngành nghề khác.
Phát triển cơ sở hạ tầng là giải pháp cơ bản và quan trọng bậc nhất trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội nông thôn và nông nghiệp Việt Nam.
Cơ sở hạ tầng nông thôn dưới góc độ kinh tế- xã hội nổi lên các lĩnh vực chính sau đây:
Hệ thống đường sá, giao thông trong nông thôn.
Hệ thống điện trong sản xuất và sinh hoạt ở nông thôn.
Hệ thống cấp nước sạch cho dân cư sinh hoạt và hệ thống thuỷ lợi chủ động tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp.
Cơ sở trường học cho con em nông dân trong đó có các trường tiểu học ở vùng sâu, vùng xa.
Cơ sở y tế xã chăm lo sức khoẻ cho người dân, ngoài ra còn có dịch vụ cung ứng hàng hoá và tiêu thụ sản phẩm cho sản xuất nông nghiệp mà trung tâm của nó là các chợ xã và liên xã.
Đảng và Nhà nước Việt Nam xem chương trình xoá đói giảm nghèo là chương trình kinh tế- xã hội quan trọng trong chiến lược phát triển nông thôn Gắn xoá đói giảm nghèo với việc tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nên việc thực hiện đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng được thực hiện theo phương châm sau:
Nhà nước đầu tư hỗ trợ giúp nông dân.
Cộng đồng xã hội tham gia đầu tư giúp nông dân.
Nông dân giúp nông dân.
Bên cạnh đói gắn việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn với các chương trình kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng. Đảng và Nhà nước đã vạch rõ đường lối và quan điểm về cơ sở hạ tầng nông thôn như sau:
Quan niệm chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn:
Nhà nước thay đổi cơ cấu đầu tư, tăng thêm tỷ lệ vốn đầu tư cho nông nghiệp. Trong xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn hiện nay cần ưu tiên xây dựng đường sá giao thông bởi khi chuyển sang sản xuất hàng hoá thì việc giao lưu trao đổi trở nên cấp thiết dẫn đến đòi hỏi có đường và đường tốt để vừa vận tải nhanh với giá vận tải hạ, đảm bảo hàng hóa không bị hỏng…. Đây chính là điều kiện cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Thực tế ở Việt Nam những năm gần đây đường sá mở đến đâu thì bến xe, chợ, thị trấn, thị tứ mọc ra đến đó, sự giao lưu hàng hoá từ đó phát triển. Với ý nghĩa đó đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tâng nông thôn phải trở thành chiến lược lâu dài, đầu tư lớn.
Quan điểm tính hiệu quả trong đầu tư:
Để khắc phục tình trạng đầu tư dàn đều như các năm trước đây, nhất là thời kỳ bao cấp vốn đầu tư có tính chất cấp phát do đó địa phương nào, cơ quan nào cũng tìm mọi cách để xin được vốn đầu tư mà không tính đến hiệu quả. Trong thời gian tới, việc đầu tư xây dựng cơ bản trong nông nghiệp, nông thôn phải được thực hiện theo những quy định nhất định, trước hết phải có luận chứng kinh tế, có đầy đủ các điều kiện tiếp nhận vốn đầu tư, người chủ công trình phải chịu trách nhiệm tổ chức quản lý, sử dụng vốn có hiệu quả.
Quan điểm đa dạng hoá hình thái vốn đầu tư:
Vốn ngân sách cấp, vốn vay dài hạn, trung hạn, lãi xuất thấp hay không lãi, huy động vốn theo phát hành tín phiếu có mục tiêu hay huy động vốn theo dạng cổ phần đầu tư vào từng công trình cần thực hiện một cách đa dạng. Bên cạnh đó cần có chiến lược vốn đầu tư xây dựng cơ bản chung cho nền kinh tế của đất nước và cho phát triển kinh tế nông thôn nói riêng.
I.3.5.Điều kiện để có cơ sở hạ tầng- sự cần thiết phải tăng cường vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn:
Như đã phân tích ở trên, cơ sở hạ tầng đóng vai trò đặc biệt trong sự nghiệp CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng và sự nghiệp CNH- HĐH cả nước nói chung. Tuy nhiên có được cơ sở hạ tầng và làm sao để nó phát huy hiệu qủa thì lại không phải là dễ dàng. Đầu tư là yếu tố quan trọng có khả năng thúc đẩy nền kinh té phát triển chính vì vậy nhu cầu đầu tư trong từng vùng, từng ngành càng trở nên cần thiết hơn và trở thành một nhu cầu cấp bách nhất thiết phải được đáp ứng để phát triển ngành, phát triển vùng.
Đối với nước ta, nông nghiệp là một ngành chiếm tỷ trọng lao động và giá trị sản lượng lớn. Kinh tế nông thôn ở nước ta chủ yếu là kinh tế nông nghiệp song là một nền nông nghiệp lạc hậu, phần lớn các hoạt động sản xuất (từ làm đất cho đến gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch được tiến hành bằng lao động thủ công, năng suất lao động thấp. Cơ cấu kinh tế của nông thôn chưa có khả năng thay đổi căn bản cũng như việc thu hút và giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động trong khu vực này chưa có chuyển biến đáng kể. Mặt khác, lao động trong nông thôn nước ta hiện nay có đến gần 80% chưa được đào tạo nghề nghiệp, một bộ phận không nhỏ trong số họ đặc biệt là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa nạn mù chữ còn nhiều…
Từ những thực tại nói trên, vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn nức ta là một đòi hỏi cấp bách. Mặt khác, trong số chín mặt hàng chủ lực xuất khẩu của Việt Nam là: dầu thô, gạo, dệt may, giày dép, thuỷ sản, cà phê, hạt điều, cao su, than đá và tơ tằm thì sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu đã chiếm tới 5 mặt hàng, trong đó gạo chiếm tỷ lệ xuất khẩu lớn. Điều này đã chứng tỏ vị trí của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Do đó, muốn thực hiện việc kiến thiết nông thôn chúng ta phải xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn. Bởi vì cơ sở hạ tầng là bước khởi động, nó tạo điều kiện cho cuộc sống vật chất, tinh thần ở nông thôn được nâng cao, tạo đà cho các doanh nghiệp, các hộ kinh tế gia đình đầu tư phát triển nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm thành hàng hoá, phục vụ trao đổi và xuất khẩu. Có thể nói cơ sở hạ tầng nông thôn là nhân tố quan trọng quyết định sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp và biến đổi kinh tế vùng nông thôn. Vậy vấn đề đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn là chiến lược quan trọng, cần thiết, bức xúc trong giai đoạn hiện nay.
Thực tế hiện nay, vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn còn bị hạn chế, nguồn vốn huy động để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng nông thôn còn gặp nhiều khó khăn. Thực trạng cơ sở hạ tầng nông thôn Việt Nam còn yếu kém, nghèo nàn lạc hậu, không có kinh phí để xây dựng mới và bảo dưỡng tu sửa, cơ sở hạ tầng phát triển không đồng đều giữa các vùng.
Với thực trạng trên, để thực hiện CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn thì việc cung ứng vốn cho việc phát triển nông nghiệp nói chung và cho cơ sở hạ tầng nông thôn nói riêng là vấn đề hàng đầu. Lượng vốn cung ứng này rất lớn nên chúng ta không chỉ trông chờ vào ngân sách Nhà nước mà cần phải có chính sách và giải pháp để tăng cường huy động mọi nguồn vốn của mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Nguồn huy động vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn chủ yếu từ các nguồn sau: Vốn ngân sách Nhà nước (bao gồm cả vốn ngân sách Trung ương và vốn ngân sách địa phương); vốn dân cư, vốn tín dụng vay Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, vốn nước ngoài. Trong đó vốn Ngân sách Nhà nước là cơ bản, vốn góp của hộ nông dân bao gồm cả tiền tài, vật lực là quan trọng.
Chương 2:
Thực trạng đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn
huyện Gia Lâm đối với sự nghiệp công nghiệp hóa –
hiện đại hóa nông thôn, nông nghiệp huyện
***************************
II.1.Giới thiệu địa bàn nghiên cứu
II.1.1.Vị trí địa lý:
Huyện Gia Lâm nằm tại phía đông bắc thành phố Hà Nội, ngăn cách với nội thành bởi sông Hồng. Huyện có 31 xã và 4 thị trấn được giới hạn như sau:
+ Phía Đông, Đông Bắc giáp tỉnh Bắc Ninh.
+ Phía Nam, Đông Nam giáp tỉnh Hưng Yên.
+ Phía tây giáp sông Hồng (nối với Hà Nội qua cầu Long Biên và cầu Chương dương).
+ Phía bắc giáp huyện Đông Anh.
Quan hệ giao lưu giữa nội thành Hà Nội và huyện Gia Lâm rất thuận lợi, thông qua cầu Long Biên và cầu Chương Dương.
Gia Lâm có vị trí chính trị quan trọng do nằm ở cửa ngõ thủ đô Hà Nội- trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước lại có thuận lợi về mặt đối ngoại do là trung tâm của tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh. Sự phát triển của tam giác này sẽ là động lực quan trọng góp phần thúc đẩy quá trình đô thị hoá, phát triển kinh tế xã hội của huyện.
Bên cạnh đó, do là đầu mối của các tuyến đường giao thông quan trọng (bao gồm đường không, đường bộ, đường thuỷ và đường sắt) nối liền Hà Nội và các tỉnh phía Bắc, với cảng Hải Phòng, cảng Cái Lân… nên huyện Gia Lâm có thế mạnh đặc biệt trong phát triển công nghiệp, xuất nhập khẩu, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Đây có thể được coi là lợi thế so sánh to lớn của Gia lâm hơn các quận, huyện khác của Hà Nội. Hơn thế, là một huyện sát với trung tâm Hà Nội, quan hệ giao thông thuận lợi, Gia Lâm sẽ là một điểm đón nhận các doanh nghiệp công nghiệp di chuyển từ nội thành sang.
Ngoài các quan hệ kinh tế, mối quan hệ lao động việc làm, đào tạo giữa Hà Nội và Gia Lâm cũng có nhiều tiềm năng và đã bắt đầu phát triển.
II.1.2. Hiện trạng phát triển kinh tế xã hội:
II.1.2.a.Đánh giá vị trí, chức năng:
Huyện Gia Lâm là một huyện có tiềm năng phát triển mạnh, là khu vực nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc Hà Nội- Hải Phòng- Quản Ninh. Phần đô thị hoá ( Gia Lâm, Sài Đồng…) sẽ từng bước hình thành một bộ phận của đô thị mới Bắc sông Hồng, gắn liền với trung tâm thành phố Hà Nội. Đây cũng là nơi tập trung nhiều khu công nghiệp của Hà Nội, là huyện ngoại thành với nhiều vùng trọng điểm trồng lúa, chăn nuôi bò sữa và nhiều làng nghề truyền thống.
Qua số liệu tổng hợp một số chỉ tiêu cho thấy mối tương quan của huyện Gia Lâm trong thành phố Hà Nội như sau:
- Diện tích tự nhiên (km2)
172,85
972,39
19%
- Dân số (người)
22 800
2553.700
12,64%
- Tổng giá trị sản xuất( tỷ đồng)
5 326,7
-
-
+ GTSX công nghiệp, XDCB
3140
13.875
22,6%
+ GTSX thương mại- dịch vụ
1 957
-
-
+GTSX nông nghiệp
229,7
1195,9
19,2%
- Tổng mức bán lẻ hàng hoá
xã hội
1 800
18033
10%
Nguồn: Niên giám thống kê+ Cục thống kê ( số liệu 1999)
Như vậy, Gia Lâm đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của thủ đô, là một trong những khu vực được coi là thuận lợi để phát triển công nghiệp. Giá trị sản phẩm công nghiệp chiếm tỷ lệ 18,6% so với toàn thành phố Hà Nội, trong tương lai khi các khu công nghiệp Đài Tư, Gia Lâm đi vào hoạt động, quá trình phát triển kinh tế xã hội của huyện Gia Lâm sẽ càng được đẩy nhanh. Thương mại, dịch vụ và du lịch sinh thái cũng là một thế mạnh và là yếu tố kinh tế quan trọng của huyện, tuy nhiên tỷ trọng của ngành so với thành phố chưa cao.
II.1.2.b. Thực trạng phát triển kinh tế xã hội:
Về tăng trưởng kinh tế:
Trong những năm gần đây nền kinh tế xã hội huyện Gia Lâm đã có những chuyển biến tích cực, các thành phần kinh tế kể cả kinh tế tư nhân phát triển nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực. Thu nhập dân cư từng bước được cải thiện, đóng góp ngân sách gia tăng. Giá trị sản xuất tăng trưởng bình quân từ 1991- 1999 đạt khá cao, tốc độ trung bình là 25%/ năm, đặc biệt là sự gia tăng do đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp và nhà máy trên địa bàn những năm 1995- 1997.
Về chuyển dịch cơ cấu :
Thời gian qua, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện diễn ra rõ nét, đặc biệt là cơ cấu công nghiệp – thương mại – dịch vụ tăng mạnh, cơ cấu ngành nông nghiệp giảm dần. Nhóm ngành nông- lâm- ngư nghiệp đang có xu hướng chuyển dịch theo hướng đô thị hoá, giá trị sản xuất bình quân hàng năm tăng 4,6% (toàn thành phố Hà Nội tăng 6,3%), tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế chung giảm từ 15,93% (1991) xuống còn 4,31% (1999 ), dưới 4% năm 2000 và giảm cả về cơ cấu, số lượng lao động trong nội bộ ngành nông lâm ngư nghiệp. Nhóm ngành công nghiệp tăng mạnh, những năm 1995- 1997 tốc độ tăng trưởng trên 50% (do bắt đầu có sự hoạt động của các nhà máy có vốn đầu tư nước ngoài), tỷ trọng trong tổng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp tăng lên đến 60%. Nhóm ngành thương mại- dịch vụ vẫn phát triển nhanh do quá trình đô thị hoá. Tuy nhiên, tỷ trọng trong giá trị sản xuất giảm xuống dưới 40% do tốc độ tăng nhanh của ngành công nghiệp và xây dựng cũng như nhu cầu tiêu dùng có xu hướng giảm. (Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội huyện Gia Lâm năm 2000)
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế các ngành kinh tế do huyện quản lý
Đơn vị :%
Ngành
1998
1999
2000
Tốc độ phát triển bình quân
CN, TTCN, XD
38,6
39,7
41
18.7
TM- DV- DL
23,8
25,2
27,7
24,1
Nông nghiệp
37,6
35,1
31,3
4,9
Tổng số
100
100
100
15,1
Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội huyện Gia Lâm năm 2000.
Cơ cấu kinh tế giữa khu vực đô thị và nông thôn quá chênh lệch, khu vực thành thị rất nhỏ nhưng chiếm tới trên 90% giá trị sản xuất do phần lớn khu vực sản xuất ở nông thôn là nông nghiệp. Trong một vài năm gần đây, tỷ trọng trong giá trị sản xuất của khu vực nông thôn có tăng lên tuy còn thấp. Cần phải có chính sách tăng cường phát triển khu vực kinh tế nông thôn, đây là khu vực có tiềm năng lớn của huyện.
Về tổng quát, huyện Gia Lâm có cơ cấu tiến bộ nhưng chưa phù hợp để tạo đà phát triển mạnh, dễ dẫn đến nguy cơ chậm phát triển và tụt hậu.
II.2.Thực trạng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn huyện Gia Lâm:
II.2.1.Tình hình thực hiện huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển cơ cở hạ tầng huyện:
II.2.1.a.Tình hình tiết kiệm và đầu tư:
Là một huyện ngoại thành, nguồn vốn chi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của huyện ch._.chính là giải pháp để mạng lưới này phát triển theo đúng hướng, đúng quỹ đạo mà chúng ta đã đề ra.
III.2.2.Các giải pháp nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư :
Trước đòi hỏi phải chuyển đồi nhanh chóng cơ cấu kinh tế nông nghiệp và cải biến cơ cấu kinh tế nông thôn theo cơ chế thị trường, vấn đề đặt ra là phải có cơ sở hạ tầng phù hợp. Tuy nhiên, theo dự báo nhu cầu vốn đầu tư cho xây dựng hạ tầng phát triển nông nghiệp, nông thôn ở trên, chúng ta thấy nhu cầu về vốn đầu tư là khá lớn. Nhu cầu đó được thực hiện trong bối cảnh có nhiều khó khăn về vốn. Các khó khăn đó là:
+ Vốn ngân sách nhà nước đang rất eo hẹp, khả năng trong những năm tới là không lớn. Điều này càng trở nên khó khăn hơn khi lâu này đây là nguồn vốn chủ yếu đầu tư cho lĩnh vực hạ tầng nông thôn của huyện, hơn nữa lại được phân bổ không hợp lý, chủ động, mà cốt lõi là vấn đề tổ chức, qui hoạch hiện đang còn yếu kém.
+ Vốn tín dụng Nhà nước giải ngân chậm do thủ tục phiền hà, mặt khác các doanh nghiệp, hộ nông dân chưa thực sự chuẩn bị đủ các điều kiện để giải ngân nhanh và khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này.
+ Nguồn vốn trong dân còn bị hạn chế, manh mún, chắp vá. Mặt khác, dân còn chưa đủ tự tin khi đầu tư, mới chỉ quan tâm tới lợi ích trước mắt mà chưa thấy hết lợi ích lâu dài, lợi ích cộng đồng của công cuộc đầu tư, điều này là hệ quả tất yếu khi chính mức sống của người dân còn thấp.
Bên cạnh những khó khăn về nguồn vốn như trên thì công tác quản lý và triển khai các dự án cũng còn nhiều vấn đề bất cập như: chất lượng tư vấn các dự án đầu tư còn yếu gây khó khăn cho khâu xét duyệt và triển khai thực hiện, sự phối hợp giữa các ngành, các cấp còn lỏng lẻo, chưa ăn khớp, những điều này gây khó khăn không ít cho việc thực hiện các dự án đầu tư.
Trước tình hình trên, để nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nói chung và lĩnh vực hạ tầng nông thôn nói riêng ngày càng nhiều và đạt hiệu qủa cao thì huyện cần tập trung làm tốt các công tác sau:
III.2.2.a.Cải tiến chính sách tạo vốn:
Nguồn vốn huy động cho cơ sở hạ tầng nông thôn phát triển tuy không thể đa dạng như huy động vốn cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh song đến nay nguồn vốn này cũng đã thu hút nhiều đối tượng có vốn đầu tư và cơ cấu nguồn vốn cũng đã thay đổi. Thay vì trước kia chỉ có vốn ngân sách Nhà nớc đầu tư vào lĩnh vực này, bây giờ đã thu hút thêm được vốn của xã, vốn của các hộ nông dân, vốn đầu tư nước ngoài.
Trong những năm tới để huy động được các nguồn vốn trên bổ sung cho nguồn ngân sách, huyện cần có chính sách kinh tế thích hợp, nhất là các chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp, chính sách ruộng đất, trợ giá nông sản, xuất khẩu gạo, khoa học kỹ thuật, khuyến nông, xoá đói giảm nghèo…
Đối với chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp cần phải giảm và miễn thuế này cho nông dân. Nông dân được miễn giảm vừa có điều kiện nâng cao mức sống, hạn chế được dòng di dân từ nông thôn ra thành thị vừa tạo điều kiện nâng mức tỷ lệ tiết kiệm của hộ nông dân dẫn đến đầu tư của hộ tăng lên.
Với các chính sách trợ giá nông sản, xuất khẩu gạo, khuyến nông, khoa học kỹ thuất sẽ làm cho thị trường nông thôn được mở rộng, thu hút được lao động, các ngành nghề phi nông nghiệp phát triển, giảm khối lượng thời gian nhàn rỗi của nông dân, kinh tế nông thôn phát triển, mức thu nhập của hộ gia đình tăng, tỷ lệ tiết kiệm tăng. Ngoài ra, với chính sách đầu tư khai thác đất mới, xây dựng cơ sở hạ tầng, sau đó chuyển giao cho nông dân nghèo từ nơi khác đến lập nghiệp sẽ vừa tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho nông dân nghèo, vừa phân bổ lại dân cư và lao động trên các vùng lãnh thổ, rút ngắn khoảng cách về thu nhập và đời sống giữa các vùng, các tầng lớp dân cư ở nông thôn. Kết quả cuối cùng là sản xuất phát triển, độ đồng đều trong nông thôn cao hơn, vừa thực hiện được mục tiêu xoá đói giảm nghèo vừa tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư.
Để làm được những điều trên, huyện cần:
Xây dựng hệ thống biện pháp đồng bộ nhằm thu hút mọi nguồn vốn đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn trong đó nguồn vốn ngân sách đóng vai trò “dẫn đường, dọn đường, nền tảng“ của mọi công cuộc đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, do đó phải tiết kiệm, bảo toàn, đề cao hiệu quả kinh tế- xã hội của nguồn vốn này và điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo định hướng phát triển kinh tế- xã hội của huyện.
Xây dựng những dự án đầu tư tổng thể, cụ thể hoá phương châm phát huy nội lực trong huy động vốn đầu tư trên cơ sở đa dạng hoá, khai thác sử dụng có qui hoạch, có hiệu quả mọi tiềm năng, thế mạnh, lao động..
III.2.2.b.Cải tiến cơ chế huy động vốn:
Trong điều kiện hiện nay, trước nhu cầu đòi hỏi phải huy động một nguồn vốn khá lớn để đảm bảo xây dựng hệ thống hạ tầng huyện theo đúng hướng phát triển trong tương lai, thì giải pháp quan trọng để thực hiện thành công định hướng đã đề ra là cần phải huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư. Tuy nhiên, việc huy động vốn phải dựa trên cơ sở tính toán nhu cầu vốn đầu tư, khả năng các nguồn vốn cung ứng của từng lĩnh vực, đảm bảo thực hiện công tác kế hoạch hoá và điều hành công tác huy động vốn theo tháng, quý trên cơ sở chỉ tiêu cần đáp ứng. Trong những năm vừa qua, các doanh nghiệp ngoài việc đầu tư tái mở rộng còn góp phần đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng. Theo kinh nghiệm, chúng ta hoàn toàn có thể huy động được nhiều khả năng đóng góp tối đa của các doanh nghiệp vào phát triển kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý của Nhà nước, của các ngành trung ương đóng trên địa bàn huyện.
Đối với vốn ngân sách thành phố và ngân sách huyện, trích 45% thu từ thuế sử dụng nông nghiệp để lại địa phương xây dựng và phát triển nông thôn. Để giải quyết vấn đề vốn đầu tư, theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, có thể để lại toàn bộ số thủy lợi phí cho xã tổ chức sửa sang cầu cống, thay thế những máy bơm đã hỏng. Để lại toàn bộ số công lao động nghĩa vụ, dân công làm thuỷ lợi cho xã để xã tổ chức nông dân nạo vét kênh mương nội đồng. Hiện nay, Chính phủ đã ban hành chính sách thuỷ lợi phí mới thay thế cho Nghị định 112 cũ không còn phù hợp. Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách thuỷ lợi phí mới cần nêu rõ các nội dung chính sau:
+ Cơ cấu giá, giá thành thu đầy đủ đối với các doanh nghiệp khai thác thuỷ nông.
+ Giá thu đầy đủ các dịch vụ tưới, tiêu và cấp nước, giao thông thuỷ lợi ở các vùng kinh tế điển hình.
+ Phương thức cấp bù ngân sách phần chênh lệch giữa giá thu đầy đủ với thuỷ lợi phí.
Với các công trình lớn huyện cần phải huy động vốn thông qua nhiều công cụ khác nhau, song các công cụ này phải đảm bảo lợi ích một cách hợp lý giữa các nhà đầu tư và người huy động vốn. Ngân sách Nhà nước cần phải cắt giảm vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh để tăng tương ứng vốn đầu tư cho phát triển hệ thống hạ tầng. Mặt khác cần có cơ chế và chính sách để tận dụng và khai thác triệt để các nguồn thu trên địa bàn để tăng khả năng phân bổ ngân sách cho đầu tư phát triển.
Do ở huyện Gia Lâm nguồn vốn được phân bổ từ ngân sách thành phố, chính vì vậy để bổ sung cho nguồn ngân sách này, Hà Nội cần tập trung theo hướng:
Thực hiện tốt các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí, thu phạt… giải pháp chủ yếu là tăng cường các biện pháp nghiệp vụ của cơ quan hành thu, kiện toàn bộ máy cán bộ thuế để chống thất thu trong công tác thu thuế, tạo cơ chế quản lý phối hợp đồng bộ hoạt động giữa cơ quan thu với cơ quan quản lý Nhà nước, giáo dục tính tự giác của công dân, tăng cường các biện pháp hành chính. Hiện nay, với việc luật thuế tài sản nằm trong kế hoạch cải cách hệ thống chính sách thuế nội địa mục đích nhằm đảm bảo nguồn thu ngân sách trước thực tế thuế xuất nhập khẩu ngày càng giảm do hội nhập khu vực và quốc tế, trong khi nhu cầu chi tiêu phục vụ các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước ngày càng tăng đã góp phần phát huy nội lực trong nước, khoán sức dân, khắc phục phần nào những khuyết tật của cơ chế thị trường, đảm bảo sự công bằng và bình đẳng. Mục tiêu trước mắt là chống thất thu và tăng thu ngân sách.
Có cơ chế thích hợp để xử lý và khai thác nguồn thu từ đất ở và nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước mà Hà Nội đang quản lý. Cần đẩy nhanh tốc độ giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện nay, ý kiến của nhiều chuyên gia đều cho rằng biện pháp cơ bản thực hiện tốt điều này là thành phố cần rà soát lại và xây dựng được một chính sách giá hợp lý vừa phù hợp với quan hệ cung cầu nhà ở, đất ở, vừa phù hợp với mức sống chưa phải là cao của số đông người dân. Huy động và sử dụng tốt nguồn vốn từ quỹ đất để phát triển kết cấu hạ tầng. Đối với một huyện như Gia Lâm, một huyện đang trong thời kỳ phát triển mạnh mẽ chịu ảnh hưởng to lớn của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá cần có kế hoạch cụ thể để quản lý chặt chẽ và có hiệu quả. Cần sớm triển khai thực hiện cơ chế đấu thầu quyển dụng đất trong các dự án đầu tư phát triển mà UBND thành phố đã xác định theo qui hoạch. Với nguồn vốn ngân sách thu được, thành phố cần đưa ra kế hoạch đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn các huyện ngoại thành nói chung và huyện Gia Lâm nói riêng trong những năm tới:
+ Cân đối lại nguồn ngân sách, bố trí lại cơ cấu đầu tư hợp lý cho nông lâm, ngư nghiệp. Tăng tỷ trọng đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách cho xây dựng hạ tầng phát triển nông nghiệp, nông thôn (ít nhất là 20% tổng số vốn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn), trên cơ sở đó mở mang mạng lưới phục vụ sản xuất, lao động xã hội tạo ra môi trường thu hút vốn từ các thành phần kinh tế, từ các dự án đầu tư hợp tác nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh nông- lâm- ngư nghiệp và công nghệ chế biến.
+ Hoàn chỉnh các qui hoạch tổng thể kinh tế - xã hội các huyện, các qui hoạch chuyên ngành, phát triển nông - lâm - ngư nghiệp, thuỷ lợi, giao thông nông thôn… làm căn cứ lập dự án đầu tư trong năm tới.
+ Trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết từng vùng, từng xã, từng đoạn đường để phân loại các nguồn vốn đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng theo nguyên tắc:
ã Mạng lưới cơ sở hạ tầng thuộc cấp hành chính nào do cấp đó đầu tư.
ã Cấp nào đầu tư thì cấp đó được thu hồi vốn từ đối tượng sử dụng
+ Phân cấp và xác định đối tượng được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách theo từng lĩnh vực sau:
Ngân sách đầu tư 100%: cải tạo nâng cấp các công trình đầu mối thuỷ lợi, cứng hoá kênh mương loại I, II,đê điều, đường giao thông liên huyện, liên xã, xây dựng trạm biến áp, đường dây cao hạ thế, trạm cấp nước sạch đầu mối và đường trục ống dẫn nước…
Ngân sách hỗ trợ 30% vốn xây dựng các công trình đường liên thôn, các công trình đường thoát nước và vệ sinh môi trường nông thôn…
Ngân sách hỗ trợ phần hạ tầng xây dựng các nhà máy chế biến các sản phẩm nông nghiệp có công nghệ hiện đại.
Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách như vậy còn rất ít, do đó để nông nghiệp, nông thôn huyện ngày càng phát triển, huyện cần phải huy động lượng vốn đầu tư nhiều hơn nữa từ các nguồn vốn khác: vốn tín dụng, vốn đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư từ các doanh nghiệp và từ nội lực nông thôn. Trong đó:
Vốn dân góp bao gồm cả vốn tài chính và sức lao động. Huy động vốn của dân cư là huy động có tính lâu dài. Vì thế, trong cơ chế huy động vốn của dân cư cần phải tạo điều kiện cho người dân có được thu nhập cao hơn, thông qua các chính sách kinh tế nông nghiệp đối với nông thôn như cho vay vốn với lãi xuất ưu đãi, chính sách thuế, trợ giá nông sản…bởi mức sống của dân còn nghèo nên lợi ích là điều họ quan tâm tới trước nhất.
Đối với vốn trực tiếp nước ngoài chúng ta cần khuyến khích đầu tư cơ sở hạ tầng theo các hình thức: Hợp đồng xây dựng- chuyển giao - kinh doanh (BOT), hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao (BTO), hợp đồng xây dựng- chuyển giao (BT). Trong các hình thức BTO, BOT, BT chúng ta tích cực khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới hình thức BT. Hình thức này đem lại lợi ích cho cả hai bên đối tác trong lĩnh vực đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn. Trong những năm tới, hình thức BT chắc chắn sẽ thu hút không chỉ với các nhà đầu tư nước ngoài mà hình thức này còn thu hút được cả các nhà đầu tư trong nước.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng góp phần không nhỏ trong việc thực hiện huy động vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Trong những năm tới việc mở rộng qui mô, nâng cao năng lực của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là một yêu cầu cấp thiết.
Tóm lại, cần phải cải tiến cơ chế huy động vốn, coi nguồn vốn ngân sách Nhà nước là cơ bản, nguồn vốn đóng góp của dân là quan trọng. Trong cơ chế huy động vốn cần phải đa dang hoá các công cụ huy động, thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
III.2.2.c.Cải tiến cơ chế hoàn vốn:
Cơ chế hoàn vốn phải được tính toán phù hợp với điều kiện từng vùng. Chúng ta phải xác định một mức phí mà người hưởng lợi từ công trình phải trả sao cho thời gian thu hồi vốn không quá lâu, phí thu hồi được đầy đủ, hấp dẫn được các nhà đầu tư mà lại phù hợp với mức thu nhập của người sử dụng. Người dân vừa trả được phí sử dụng vừa cải thiện được đời sống, mức phí không ảnh hưởng nhiều đến thu nhập của họ. Hiện nay, phí giao thông, thuỷ lợi còn cao so với mức thu nhập của nông dân, đặc biệt giá điện còn ở tình trạng rất cao. Vì vậy, cần phải có chính sách bình đẳng về giá điện cho nông dân, cố gắng giảm phí thuỷ lợi, giao thông tới mức có thể so với mức hiện nay.
Những khoản tiền thu từ phí sử dụng công trình cơ sở hạ tầng sẽ có tác dụng tăng thêm nguồn thu cho quỹ xây dựng để đầu tư trở lại nâng cấp, sửa chữa, xây dựng mới các công trình cơ sở hạ tầng nông thôn và cũng là để hạn chế hiện tượng tiêu dùng quá mức không cần thiết.
Phí sử dụng cần được thu qua hai cách, đó là:
+ Đối với các công trình cơ sở hạ tầng có chi phí giao dịch thấp nên thu lệ phí đối với người sử dụng sau mỗi lần sử dụng.
+ Đối với các công trình cơ sở hạ tầng có chi phí giao dịch quá tốn kém nên thu phí thông qua đánh thuế sử dụng các công trình.
III.2.2.d.Giải pháp về sử dụng vốn:
Điều kiện nhu cầu về vốn đầu tư lớn trong khi khả năng còn hạn chế thì một trong các biện pháp quan trọng để thực hiện tốt các mục tiêu đề ra đó là sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả. Do đó, khi lập các dự án tiền khả thi, tới khả thi thì cần phải xem xét tới hiệu quả kinh tế- xã hội mà dự án đem lại. Lấy chỉ tiêu kinh tế- xã hội làm chỉ tiêu hàng đầu cho việc xét duyệt, lựa chọn các dự án. Bên cạnh đó, cần phải xem xét dự án có phù hợp với qui hoạch phát triển lâu dài không. Đặc biệt, việc đầu tư cho hệ thống hạ tầng có thể phân kỳ đầu tư mà vẫn đảm bảo chất lượng công trình, điều quan trọng là cần phải phân bố và sử dụng vốn đầu tư hợp lý, đảm bảo kịp tiến độ thi công nhưng không làm ứ đọng vốn.
Việc tổ chức đấu thầu cho các công trình lớn, đơn vị nào có dự toán thấp nhất đảm bảo thắng thầu sẽ góp phần tiết kiệm được nguồn vốn đầu tư. Khi lập dự toán phải tính toán được qui mô công trình sao cho xác đáng, tránh tình trạng chi vượt dự toán, đảm bảo tính khách quan khi duyệt thiết kế cần có một cơ quan khác.
Trong quá trình đầu tư, huyện cần chú trọng đến chất lượng của đầu tư, tránh tình trạng chạy theo thành tích hoàn thành vượt mức kế hoạch gây thất thoát và lãng phí. Cụ thể, các công trình đã đầu tư xong thì phải quan tâm đến chất lượng, khả năng đảm bảo tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật đã đề ra. Hơn nữa, trong quá trình đầu tư không thể thực hiện theo số lượng mà phải xem xét dưới góc độ chất lượng, nghĩa là làm sao đầu tư với chi phí vốn thấp mà đem lại hiệu quả cao nhất. Vì vậy, trong thời gian tới cần thực hiện một số biện pháp sau:
+ Tăng cường công tác quản lý, kiểm soát chi phí cho công trình, bảo đảm sử dụng vốn đầu tư theo đúng mục đích, kế hoạch, tiết kiệm hiệu quả và theo đúng chế độ quản lý tài chính của Nhà nước
+ Ưu tiên đầu tư cho những khu vực quan trọng trên cơ sở đã xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội huyện một cách cụ thể và chi tiết.
+ Gắn trách nhiệm của chủ đầu tư với hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
III.2.2.e.Giải pháp về tín dụng
Nguồn vốn đầu tư ( bao gồm cả vốn tín dụng của Nhà nước và tín dụng của ngân hàng) từ tín dụng có vai trò không nhỏ trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp- nông thôn nói riêng và quá trình đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn nói riêng. Đây chính là kênh vốn bổ sung cho nguồn vốn ngân sách còn đang hạ hẹp. Do vậy, ngày càng tăng cường nguồn vốn này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển. Để nguồn vốn này phát huy hiệu quả cần phải thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất: Về nhận thức cần làm rõ cho các cấp, các ngành và nông dân tín dụng là nguồn vốn chủ yếu cho nông dân để phát triển kinh tế- xã hội ngoại thành.
Thứ hai: Dự báo nhu cầu vốn tín dụng nhà nước cho hộ nông dân trong thời gian tới (2001- 2005).
Thứ ba: Nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức tín dụng cho nông dân (ngân hàng, quỹ quốc gia giải quyết việc làm…)
Thứ tư : Tăng cường nhu cầu thực sự về vốn của các hộ nông dân ( kích cầu vốn tín dụng đối với các hộ nông dân).
Thứ năm: Đào tạo nông dân, hỗ trợ họ trở thành những người chủ thực sự có khả năng vay vốn, giải ngân vốn và có ý thức trả nợ
Tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước và thành phố đối với việc quản lý vốn của Nhà nước cho nhân dân vay: Có hướng dẫn thống nhất về xử lý nợ quá hạn giữa các văn bản pháp luật của Nhà nước và các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội trên địa bàn. Tăng cường quản lý Nhà nước để giảm thiểu tối đa rủi ro trong kinh doanh
Thứ sáu: Mở rộng tín dụng nông thôn cả về nguồn vốn, phạm vi và hình thức hoạt động, cho nông dân vay vốn với lãi xuất ưu đãi, thủ tục đơn giản, linh hoạt về mức vay, thủ tục vay, biện pháp thế chấp, tín chấp và phương thức cho vay (cho vay tổ chức hay thông qua tổ chức, đại diện).
Ngoài ra, cần tranh thủ các nguồn vốn thuộc chương trình của Nhà nước: vốn hỗ trợ giải quyết việc làm, vốn vay từ quỹ xoá đói giảm nghèo, vốn ODA và các chương trình khác.
III.2.2.f.Huy động nguồn vốn nước ngoài:
Đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận quan trọng của hoạt động đầu tư toàn xã hội. Tuy nhiên, do những hạn chế của nông nghiệp, nông thôn nên số lượng các dự án và vốn đầu tư vào khu vực này còn rất ít. Do vậy, huyện và Sở Kế hoạch- Đầu tư nên thực hiện mạnh mẽ chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, nông thôn nói chung và lĩnh vực hạ tầng cơ sở nói riêng để bổ sung cho nguồn vốn trong nước. Để thu hút được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đặc biệt là đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn cần phải thực hiện các công việc sau:
+ Về chính sách cần có sự ưu tiên đối với các dự án đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn hơn so với các dự án khác, quan trọng nhất là chính sách thuế, ruộng đất, thủ tục duyệt và cấp giấy phép đầu tư.
+ Sớm tổng kết và rút kinh nghiệm về các dự án đầu tư cho nông nghiệp trong những năm qua. Khẩn trương nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội (giao thông, điện, nước, thuỷ lợi..). Thực hiện tốt điều này sẽ góp phần thu hút thêm vốn đầu tư nước ngoài và đến lượt mình số vốn này lại được đầu tư trở lại xây dựng mới, nâng cấp, sửa chữa cho hệt hống cơ sở hạ tầng nông thôn.
III.2.3.Một số giải pháp khác:
III.2.3.a.Các giải pháp về chính sách phát triển nguồn nhân lực:
Đào tạo những kiến thức về đầu tư, nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý:
Đầu tư là một lĩnh vực rộng lớn, bao gồm nhiều kiến thức về những lĩnh vực như lập dự án, thị trường vốn, đấu thầu, thẩm định dự án, luật đầu tư và các kiến thức về đầu tư nước ngoài. Vì vậy, để thực hiện tốt được các công việc được giao và có những quyết định đúng đắn, chính xác về đầu tư đối với mục tiêu đề ra của Nhà nước và thành phố thì huyện cần phải có kế hoạch rõ ràng, tiêu chuẩn cần thiết khi tiếp nhận cán bộ vào làm việc, thường xuyên cử cán bộ đi học hoặc mở các lớp đào tạo, tập huấn về kiến thức đầu tư cho cán bộ công nhân viên, tạo điều kiện cho cán bộ, công nhân viên tiếp cận kịp thời với những thay đổi thường xuyên của nền kinh tế.
Chống nạn tham ô cửa quyền, gây thất thoát nguồn vốn đầu tư. Kiên quyết xử lý các biện pháp mờ ám không minh bạch trong xét duyệt trúng thầu. Cần động viên các xí nghiệp đầu tư, ủng hộ vốn cho các ngành cơ sở hạ tầng.
Chính sách phát triển nguồn nhân lực:
Kinh nghiệm của nhiều nước đi lên từ nông nghiệp trong khu vực đều ghi nhận rằng: để có thể tiếp thu có chọn lọc các thành tựu công nghệ, tri thức quản lý, kinh nghiệm quản ký kinh doanh của các nước đi trước, nhằm đẩy mạnh quá trình phát triển nông thôn trong điều kiện cạnh tranh gay gắt thì công tác giáo dục đào tạo và bồi dưỡng nguồn lao động có vai trò vô cùng quan trọng. Đây cũng là vấn đề đòi hỏi sự quyết tâm nỗ lực lớn lao của cả phía Nhà nước và bản thân từng người dân.
+ Hệ thống giáo dục tốt là tiền đề, là điều kiện quan trọng để có thể thực hiện các yêu cầu của công cuộc đổi mới phục vụ sự phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn nói riêng cũng như phát triển cơ sở hạ tầng nói chung. Trước mắt cần áp dụng nhiều biện pháp (thông qua chế độ tiền lương, tiền thưởng), phong cấp các chức danh cao quý để nâng cao vị trí xã hội của người lao động có kỹ năng, những chuyên gia kỹ thuật đang công tác tại nông thôn phù hợp với thành tích đóng góp thực tế cuả họ. Bằng cách này xây dựng lại động cơ học tập cho thế hệ trẻ, tạo sự an tâm khi làm việc tại nông thôn.
Thực hiện đổi mới chương trình và phương pháp giáo dục ở các cấp phổ thông theo hướng kết hợp đào tạo phổ cập và bồi dưỡng năng lực thực hành nghề nghiệp của học sinh phù hợp với cơ cấu sản xuất và ngành nghề ở địa phương.
Đa dạng hoá hình thức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ ngành nghề cho người lao đông ở các lứa tuổi khác nhau (học hàm thụ, học tại chức, bồi dưỡng ngắn ngày, học theo chuyên đề tự đăng ký...), khuyến khích hoạt động của nhiều loại tổ chức đào tạo, bồi dưỡng (trường công, bán công, trường tư..), chú trọng bồi dưỡng những kiến thức về kinh tế thị trường, quản lý kinh doanh cho đông đảo tầng lớp nhân dân đặc biệt cho các chủ doanh nghiệp nhỏ, cho tầng lớp thanh niên.
+ Đào tạo lao động và chuyên gia để xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn, công nhân chuyên sâu một nghề nhưng am hiểu nhiều nghề. Xây dựng và hoàn thiện dần chương trình đào tạo kỹ sư ngành phát triển nông thôn, ngành tổng hợp thuỷ lợi, nông nghiệp, lâm nghiệp, giao thông, điện, cơ khí, tuỳ từng địa điểm mà có nội dung thay đổi thích ứng. Đào tạo đáp ứng nguồn nhân lực cho nông thôn cũng như nguồn nhân lực cho sự phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn cũng là nhằm phát triển nông thôn một cách bền vững.
III.2.3.Các giải pháp về kỹ thuật công nghệ:
Cùng với giáo dục đào tạo, việc nhanh chóng phỏ cập các tiến bộ khoa học công nghệ trong nhân dân là con đường có hiệu quả đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu và hiện đại hoá nông thôn. Trong trời kỳ này, các nỗ lực khoa học, công nghệ rất cần thiết trong phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn.
Với yêu cầu tăng mức đầu tư cho công tác nghiên cứu và phổ cập khoa học công nghệ vào nông thôn nói chung và phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn nói riêng cần thực hiện ngay một số chế độ cụ thể nhằm khuyến khích mạnh mẽ các cán bộ khoa học công nghệ về công tác tại nông thôn. Dành ưu tiên cao cho việc trang bị và hiện đại hoá cơ sở vật chất của các trạm, trại ở địa phương, phục vụ có hiệu quả công tác chỉ đạo sản xuất và phổ cập các tiến bộ khoa học kỹ thuật. Cần sắp xếp một bước cơ bản về mạng lưới các viện, trung tâm kha học kỹ thuật hiện có. Phát triển cơ sở hạ tầng cần thực hiện hai khía cạnh sau:
Chuyển giao công nghệ đô thị hoá nông thôn:
+ Huy động các đơn vị, các chuyên gia, tổ chức trong và ngoài nước thiiết kế các mẫu, kiểu, mô hình các loại công trình công cộng, công trình phục vụ sản xuất, các công nghệ hạ tầng kỹ thuật phục vụ xây dựng đường, cung cấp năng lượng cấp nước, thuỷ lợi…áp dụng vào từng địa bàn có đặc thù khác nhau. Mặt khác, nghiên cứu, ứng dụng, cải tiến các mô hình, mẫu, kiểu các công trình đã có trong và ngoài nước phù hợp với địa bàn.
+ Để tập trung các thành quả nêu trên, ở trung ương cần có một trung tâm nghiên cứu chuyển giao công nghệ cơ sở hạ tầng nông thôn, cấp đủ kinh phí cho trung tâm hoạt động với chức năng thu thập thông tin công nghệ, kiến nghị áp dụng đại tra và thông tin tuyên truyền, vận động ứng dụng công nghệ có hiệu quả cao.
+ Phân cấp đầu tư vốn cho nghiên cứu và chuyển giao công nghệ như sau:
Vốn ngân sách trung ương cho các công trình, đề tài, đề án, thiết kế quy hoạch, các công nghệ, xây dựng thực nghiệm mang tính chất chung phổ biến.
Vốn ngân sách các địa phương, các ngành để nghiên cứu các đề tài, đề án, công nghệ xây dựng thực nghiệm mang tính chất đặc thù tuỳ theo tính chất của từng địa điểm.
Phát triển vật liệu xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn:
Để phục vụ tốt việc phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, tiết kiệm nguyên vật liệu, tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước, đề phòng thiên tai hoả hoạn cần nghiên cứu chính sách sản xuất, cung ứng vật liệu xây dựng thích hợp với công nghệ chuyển giao, đáp ứng cho nhu cầu xây dựng từng địa phương. Về mặt này Gia Lâm tận dụng các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng sẵn có và nguồn vật liệu xây dựng tại chỗ để xây dựng các công trình.
Tóm lại, chúng ta hi vọng rằng cùng với tốc độ phát triển kinh tế đáng mừng của huyện Gia Lâm trong mấy năm qua cũng như quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đang diễn ra nhanh chóng, mạng lưới kết cấu hạ tầng sẽ sớm khẳng định vai trò của mình và ngày càng trở nên hoàn thiện hơn.
Kết luận
Đầu tư cho nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn là vấn đề lớn phức tạp, có liên quan đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nước ta hiện nay, chiến lược đầu tư nói chung và chính sách đầu tư trong nông nghiệp, nông thôn nói riêng gắn liền với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó nông nghiệp là ngành sản xuất chính.
Quán triệt Nghị quyết của Đại hội IX, các ngnàh, các cấp của trung ương và địa phương đã từng bước triển khai, không chỉ nghiên cứu về lý luận mà còn có hành động cụ thể. Từ một nước nông nghiệp với kỹ thuật sản xuất lạc hậu, thu nhập thấp, còn mang nặng tính tự cấp tự túc chuyển sang nền kinh tế công nghiệp hoá- hiện đại hoá là một việc làm vô cùng khó khăn. Từ định hướng, bước đi, phạm vi và đặc biệt là các giải pháp nhằm khai thác nội lực, nắm được xu hướng của thời đại, hoà nhập vào khu vực và quốc tế là rất cần thiết.
Là một huyện ngoại thành Hà Nội, có vị trí thuận lợi và có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế xã hội, trong những năm đổi mới cơ chế kinh tế vừa qua, huyện đã đạt được những thành quả đáng mừng: tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng nhanh từ 14- 16%, công nghiệp phát triển với tốc độ cao, các ngành dịch vụ, nông nghiệp phát triển nhịp nhàng, tốc độ đô thị hoá của huyện Gia Lâm diễn ra hết sưc nhanh chóng. Trong tương lai xu thế phát triển của huyện ngày càng mạnh mẽ. Song cùng với quá trình phát triển đó sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn ngày càng rõ nét. Chính vì vậy, việc đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn huyện Gia Lâm có ý nghĩa quan trọng. Để thực hiện thành công công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn trong những năm tới chúng ta cần có những yếu tố nội sinh để làm tiền đề. Một trong những yếu tố này là cơ sở hạ tầng nông thôn. Cơ sở hạ tầng nông thôn nhất thiết phải có, nó là nhân tố để thu hút vốn đầu tư, để khai thác tiềm năng của vùng mang lại lợi ích cho quá trình tăng trưởng. Mặt khác nó tạo điều kiện cho một sự phát triển công bằng. Song thực tế hiện nay, cơ sở hạ tầng nông thôn nước ta nói chung và Gia Lâm nói riêng chưa cân xứng với yêu cầu và tầm vóc của một ngành kinh tế thu hút tới 75% lực lượng lao động. Vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản ở nông thôn còn ít và chưa đáp ứng được sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước nhất là sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Qua một số đánh giá về hiện trạng cơ sở hạ tầng của huyện cho thấy nhìn chung cơ sở hạ tầng Gia Lâm phát triển tương đối với tốc độ phát triển kinh tế, dịch chuyển kinh tế của huyện, cơ sở hạ tầng của huyện có bước phát triển hơn các vùng ngoại thành khác. Tuy nhiên với tốc độ đô thị hoá nhanh như hiện nay thì cơ sở hạ tầng nói chung và cơ sở hạ tầng nông thôn nói riêng của huyện chưa đáp ứng đủ, vẫn còn yếu kém nhất là các xã nông nghiệp xa trung tâm.
Như vậy, Gia lâm muốn đưa nền kinh tế phát triển nhanh hơn nữa trong những năm tới thì vai trò, vị trí của việc quy hoạch, hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông thôn tạo điều kiện xây dựng cơ sở vật chất đủ lượng làm tiền đề cho sự nhảy vọt kinh tế huyện Gia Lâm trong sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn càng được khẳng định và đang trở nên ngày càng cấp thiết.
Trong tương lai Gia Lâm sẽ phát triển kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Để có được sự dịch chuyển này thì kinh tế- xã hội nông thôn phải phát triển, trình độ dân trí phải cao, khi đó ngành nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá có quy mô. Trước mắt cũng như lâu dài cần tập trung giải quyết những khó khăn cho việc phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn như hiện nay.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Kinh tế đầu tư, ĐHKTQD - PGS.TS Nguyễn Ngọc Mai.
Nhà xuất bản giáo dục năm 1998.
Báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Quốc hội khoá X ngày 18 tháng 11 năm 1999.
Dự án phát triển đa dạng hoá nông nghiệp của huyện Gia Lâm.
Đề án phát triển kinh tế xã hội Gia Lâm 2000 – 2010 theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với CNH – HĐH và đô thị hóa.
Niên giám Thống kê 1998- 2000.
Lương Xuân Chính: Báo cáo Th.S – Bước đầu nghiên cứu tình hình CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn huyện Gia Lâm.
Nguyễn Điền: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở các nước Châu á và Việt Nam, nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 1997.
PGS.TS Trần Văn Chử - Kinh tế học phát triển - Nhà xuất bản chính trị quốc gia 1999.
Báo cáo kết quả thực hiện chương trình phát triển kinh tế ngoại thành và xây dựng nông thôn mới huyện Gia Lâm 1999.
Tạp chí: Những vấn đề kinh tế thế giới, Nghiên cứu kinh tế, Kinh tế dự báo, Kinh tế phát triển, Tài chính, tạp chí tổng luận khoa học- kỹ thuật- kinh tế các năm 1998, 1999, 2000.
Báo đầu tư: năm 1998, 1999, 2000.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- G0025.doc