Đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố Hà Nội thời kỳ 2001-2010

Lời nói đầu C ổ Loa - Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội: Một địa danh tiêu biểu cho lịch sử hàng ngàn năm văn hiến của đất nước Việt Nam. Với những thuận lợi về vị trí địa lý, khí hậu thủy văn, địa hình và địa chất, đất đai, giao thông, kinh tế, văn hoá, xã hội, con người Hà Nội có nhiều lợi thế để phát triển. Năm 2010, Thủ đô Hà Nội kỷ niệm 1000 năm lịch sử. Thời kỳ 2001-2010 là thời kỳ phát triển đặc biệt, không những đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô, mà còn đóng vai trò đầu tàu

doc99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1374 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố Hà Nội thời kỳ 2001-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đối với sự phát triển của các địa phương khác nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Một trong những mục tiêu hàng đầu trong Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô giai đoạn 2001 -2010 là chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến một cơ cấu mới hợp lý hơn và phù hợp hơn với đặc điểm tự nhiên cũng như hiện trạng kinh tế - xã hội của Thủ đô Hà Nội. Năm 2003 được coi là năm bản lề của thời kỳ 10 năm phát triển. Do vậy, tôi xin chọn đề tài Đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố Hà Nội thời kỳ 2001-2010 làm luận văn tốt nghiệp. Trong đề tài xin đánh giá hiện trang cơ cấu kinh tế Hà Nội 5 năm gần đây (1997-2001), trên cơ sở đó đề xuất phương hướng điều chỉnh cơ cấu kinh tế phù hợp với đặc điểm tự nhiên cũng như hiện trạng kinh tế xã hội thành phố Hà Nội. Với phương pháp nghiên cứu điều tra thống kê và phân tích tổng hợp, đề tài được chia thành 3 phần: Phần I: Lí luận chung về cơ cấu kinh tế và đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Phần II: Thực trạng đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 1997 – 2001. Phần III: Một số phương hướng và giải pháp đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2003 - 2010 có hiệu quả. Qua luận văn này xin được cảm ơn thầy Nguyễn Hồng Minh và các cô chú phòng Kế hoạch tổng hợp - Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài. Hà Nội tháng 5 năm 2003 Sinh viên: Trần thị Châu Giang. Chương I: Những vấn đề lý luận chung I. Đầu tư và đầu tư phát triển 1. Khái niệm và bản chất của đầu tư 1.1. Khái niệm Thuật ngữ ‘đầu tư’ có thể được hiểu đồng nghĩa với sự ‘bỏ ra’, sự ‘hi sinh’. Từ đó, có thể coi ‘đầu tư’ là sự bỏ ra, sự hi sinh những cái gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Tất cả những hành động bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động trên đây đều nhằm mục đích chung là thu được lợi ích nào đó (về tài chính, về cơ sở vật chất, về nâng cao trình độ, bổ sung kiến thức,…) trong tương lai, lớn hơn những chi phí đã bỏ ra. Và vì vậy, nếu xem xét trên giác độ từng cá nhân hoặc đơn vị đã bỏ tiền ra thì các hành động này đều được coi là đầu tư. Tuy nhiên, nếu xem xét trên giác độ toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất cả hành động trên đây đều đem lại lợi ích cho nền kinh tế và được coi là đầu tư của nền kinh tế. Các hoạt động gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phần, mua hàng tích trữ không làm tăng tài sản (tài chính, vật chất, trí tuệ,…) cho nền kinh tế. Các hành động này thực chất chỉ là việc chuyển giao quyền sử dụng tiền từ người này sang người khác và do đó chỉ làm cho số tiền thu về của người đầu tư lớn hơn số tiền mà họ đã bỏ ra tuỳ thuộc vào lãi xuất tiết kiệm hay lợi tức cổ phần. Giá trị tăng thêm của người đầu tư ở đây lại chính là giá trị mất đi của quỹ tiết kiệm, của cổ đông đã bán lại cổ phần. Tài sản của nền kinh tế trong trường hợp này không có sự thay đổi một cách trực tiếp. Các hoạt động bỏ tiền xây dựng thêm kho chứa nguyên liệu, phát hành chứng khoán để xây dựng thêm một phân xưởng mới, tổ chức báo cáo khoa học, đã làm tăng thêm các tài sản vật chất (xây thêm kho chứa nguyên vật liệu, thêm một phân xưởng mới) tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực cho nền kinh tế. Các hoạt động này gọi là đầu tư phát triển hay đầu tư trên giác độ nền kinh tế. Như vậy, đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hi sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế. Các hoạt động mua bán, phân phối lại, chuyển giao tài sản hiện có giữa các cá nhân, các tổ chức không phải là đầu tư đối với nền kinh tế. 1.2. Bản chất của các loại đầu tư trong phạm vi quốc gia. - Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư. Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng. Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra để đầu tư. Để giảm độ rủi ro, họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi có một ít tiền. Đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. - Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương) mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung. - Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. Loại đầu tư này được gọi chung là đầu tư phát triển. 2. Đầu tư phát triển và vai trò đối với nền kinh tế 2.1. Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước a. Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu - Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng kéo theo sản lượng cân bằng tăng theo và giá cả của các đầu vào của đầu tư cũng tăng. - Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên kéo theo sản lượng tiềm năng tăng, và do đó làm giá cả sản phẩm giảm. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội b. Đầu tư có tác động hai mặt đến ổn định kinh tế Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho gía của các hàng hóa có liên quan tăng (giá cho phí vốn, giá Công nghệ, lao động, vật tư) đến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. Khi giảm đầu tư cũng dẫn đến tác động hai mặt, nhưng theo chiều hướng ngược lại so với các tác động trên đây. Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. c. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15-25% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước. ICOR= Vốn đầu tư / Mức tăng GDP Từ đó suy ra: Mức tăng GDP= Vốn đầu tư / ICOR Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Tại các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5-7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng Công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển ICOR thấp từ 2-3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn, do sử dụng Công nghệ kém hiện đại, giá rẻ. Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Kinh nghiệm các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực sản xuất. Do đó, ở các nước phát triển, tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp. Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến. Tại nhiều nước, đầu tư đóng vai trò như một ‘cú hích ban đầu’, tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế. d. Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và Công nghệ của đất nước. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng Công nghệ của nước ta hiện nay. Có hai con đường cơ bản để có Công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra Công nghệ và nhập Công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới Công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. e. Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn (từ 9-10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là rất khó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ câú kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị,… của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. 2.2. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Để tạo dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ đang tồn tại: sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất – kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất – kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học – kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư. Đối với các cơ sở vô vị lợi đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất – kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư. II. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư và đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế. Trong các tài liệu kinh tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm cơ cấu kinh tế. Những cách tiếp cận này thường bắt đầu từ khái niệm “cơ cấu”. Là một phạm trù triết học, khái niệm cơ cấu được sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành của một hệ thống. Cơ cấu được hiểu như là tập hợp những mối quan hệ liên kết hữu cơ, các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định. Cơ cấu là thuộc tính của hệ thống, do đó khi nghiên cứu cơ cấu phải đứng trên quan điểm hệ thống. Một cách tiếp cận cho rằng: cơ cấu kinh tế hiểu một cách đầy đủ là tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau trong những không gian và thời gian nhất định, trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định, được thể hiện cả về mặt định tính lẫn định lượng, cả về số lượng và chất lượng phù hợp với các mục tiêu được xác định của nền kinh tế. Trong cơ cấu kinh tế có sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Theo Mác, cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất. Vì vậy có thể hiểu: “Cơ cấu kinh tế là tổng thể các quan hệ chủ yếu về chất lượng và số lượng tương đối ổn định của các yếu tố kinh tế hoặc các bộ phận của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cũng như mối quan hệ giữa các yếu tố đó trong quá trình tái sản xuất xã hội với những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định”. Mục tiêu của nghiên cứu cơ cấu kinh tế đó là: - Để xác định được các mối quan hệ tỷ trọng giữa các yếu tố cấu thành của nền kinh tế, nhưng tồn tại và vướng mắc trong nền kinh tế cũng như nguyên nhân của nó. - Xác định xu hướng phát triển nền kinh tế. - Đề ra các phương hướng và giải pháp thực thi để đưa nền kinh tế đến một cơ cấu phù hợp hơn. Từ việc tiếp cận cơ cấu kinh tế theo các cách trên, có thể thấy cơ cấu kinh tế có các đặc trưng chủ yếu sau: - Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, luôn luôn phản ánh và chịu sự tác động của các quy luật khách quan. Vai trò của yếu tố chủ quan là thông qua nhận thức ngày càng sâu sắc những quy luật đó, phân tích đánh giá những xu hướng phát triển khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau để tìm ra phương án thay đổi cơ cấu cho phù hợp với những điều kiện cụ thể của đất nước, cũng như của từng địa phương, từng vùng, từng ngành trong quá trình phát triển kinh tế. Đối với một quốc gia hay một ngành, một địa phương cơ cấu kinh tế được nhận thức và phản ánh dưới chiến lược phát triển kinh tế xã hội, ở các chương trình dự án, kế hoạch phát triển của Nhà nước, của ngành hay địa phương. - Thứ hai, cơ cấu kinh tế mang tính lịch sử xã hội, thực tế cho thấy nền kinh tế chỉ phát triển được khi xác định được một mối quan hệ cân đối giữa các bộ phận của quá trình tái sản xuất xã hội và phân công lao động xã hội. Cơ cấu kế gắn liền với sự biến đổi không ngừng của bản thân các yếu tố, các bộ phận trong nền kinh tế và mối quan hệ giữa chúng chỉ khi nào giải quyết tốt mới diễn ra trôi chảy và đạt hiệu quả cao. - Thứ ba, cơ cấu kinh tế luôn vận động và phát triển ngày càng hợp lý hơn, hoàn thiện hơn và đạt hiệu quả cao hơn. Đó là sự vận động và phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội ngày càng ở trình độ cao hơn, phạm vi ngày càng mở rộng hơn. Khi tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ tác động làm cho lực lượng sản xuất và cấu trúc của nó có sự biến đổi về chất, khi đó sẽ tạo điều kiện cho con người ý thức để thực hiện cóhiệu quả chiến lược phát triển đồng bộ, hợp lý trong quá trình tái sản xuất xã hội ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể. - Thứ tư, cơ cấu kinh tế vận động theo hướng ngày càng tăng cường mở rộng sự hợp tác, phân công lao động trong nước và quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường, sự vận động khách quan của cơ cấu kinh tế theo hướng mở rộng sự hợp tác và phân công lao động diễn ra không chỉ ở trong phạm vi mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi quốc gia mà còn mở rộng ra các nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó, mỗi quốc gia muốn phát triển nhanh cần xác định được lợi thế của mình gắn với thị trường trong nước và quốc tế, nhằm tạo cơ cấu kinh tế hợp lý, thúc đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế còn là một phạm trù trừu tượng, muốn nắm vững bản chất của cơ cấu kinh tế và thực thi các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả cần xem xét từng loại cơ cấu cụ thể của nền kinh tế quốc dân: + Cơ cấu ngành kinh tế: là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu diễn mối liên hệ giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân như giữa nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Trong mỗi cơ cấu ngành lại phân chia thành ngành nhỏ hơn và cơ cấu nhất định, cơ cấu nhỏ nằm trong cơ cấu lớn. Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế quốc dân và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Thay đổi mạnh mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trưng của các nước đang phát triển, xu hướng vận động của cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ trên hai phương diện chủ yếu là giá trị sản xuất là lực lượng lao động xã hội. + Cơ cấu vùng kinh tế: Nếu cơ cấu ngành kinh tế hình thành từ quá trình phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất thì cơ cấu kinh tế lãnh thổ lại được hình thành từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Cơ cấu kinh tế vùng thể hiện sự phân công lao động xã hội trên lãnh thổ với lợi thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, của mỗi vùng mà hình thành các vùng kinh tế theo hướng sản xuất chuyên môn hoá, đa dạng hoá nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực và tiềm năng kinh tế trong vùng, tạo ra cơ cấu ngành trong điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Xu hướng phát triển của kinh tế vùng thường là phát triển nhiều mặt, tổng hợp có ưu tiên một vài ngành và gắn liền với hình thành sự phân bố dân cư phù hợp với các điều kiện, tiềm năng phát triển kinh tế của lãnh thổ, giảm sự chênh lệch giữa các vùng. + Cơ cấu thành phần kinh tế: Nếu như phân công lao động xã hội đã là cơ sở hình thành cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ thì chế độ sở hữu lại là cơ sở hình thành cơ cấu thành phần kinh tế. Cơ cấu thành phần kinh tế là cơ cấu giữa các thành phần kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản Nhà nước,kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Một cơ cấu thành phần kinh tế hợp lý phải dựa trên cơ sở hệ thống tổ chức kinh tế với chế độ sở hữu có khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phân công lao động xã hội,… Theo nghĩa đó, cơ cấu thành phần kinh tế cũng là một nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lãnh thổ. Sự tác động đó là một biểu hiện sinh động của mối quan hệ giữa các loại cơ cấu trong nền kinh tế. Ngoài ba cơ cấu chính nói trên, cơ cấu kinh tế còn bao gồm cơ cấu kinh tế kỹ thuật, cơ cấu tái sản xuất và cơ cấu các yếu tố cấu thành nền sản xuất xã hội như cơ cấu lao động, cơ cấu thị trường, cơ cấu hàng hoá dưới hình thức hiện vật và giá trị. Tóm lại, cơ cấu kinh tế thể hiện sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi vùng, của từng địa phương, cơ sở trong đó cơ cấu ngành kinh tế có vai trò quan trọng hơn cả, cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ có thể được chuyển dịch đúng đắn trên phạm vi không gian lãnh thổ và trên phạm vi cả nước. Cơ cấu vùng có ý nghĩa đối với việc quy hoạch chiến lược phát triển kinh tế xã hội đảm bảo sự phát triển cân đối hài hoà giữa các vùng miền, đồng thời phát huy được tiềm năng lợi thế của từng vùng. Cơ cấu thành phần kinh tế phù hợp tạo nội lực thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển. Cơ cấu theo quy mô Công nghệ là động lực thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu kinh tế hợp lý Một cơ cấu kinh tế hợp lý là cơ cấu đáp ứng các yêu cầu: - Có các loại hình với quy mô và trình độ phát triển của mỗi bộ phận hợp thành phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của đất nước và các yếu tố bên ngoài, cho phép khai thác triệt để các điều kiện đó (tính phù hợp của cơ cấu) - Quan hệ nội bộ giữa các ngành (có tính đến quan hệ đối ngoại) chặt chẽ, hài hoà, đảm bảo diễn biến cân đối, nhịp nhàng của quá trình tái sản xuất mở rộng (tính đồng bộ của cơ cấu) - Đảm bảo thu được hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất trong những điều kiện đã xác định (tính hiệu quả của cơ câú) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 3.1. Khái niệm Cơ cấu kinh tế thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế không cố định. Đó là sự thay đổi về số lượng các ngành hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế do sự xuất hiện biến mất của một số ngành và tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế là không đồng đều. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đơn giản có thể hiểu: “ là sự thay đổi tỷ trọng các ngành, vùng trong tổng giá trị sản phẩm GDP của nền kinh tế trong một giai đoạn phát triển nhất định”. Đây không phải đơn thuần là sự thay đổi vị trí, mà là sư biến đổi cả về lượng và chất trong nội bộ cơ cấu. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có, do đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cải tạo cơ cấu cũ lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng một cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế về thực chất là sự điều chỉnh cơ cấu trên ba mặt biểu hiện của cơ cấu kinh tế, nó gắn liền với quá trình phân công lao động xã hội, sự biến đổi của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế *Các nhân tố khách quan. Các yếu tố khách quan liên quan đến nhân tố này là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ phát triển của phân công lao động xã hội và điều kiện tự nhiên, khí hậu, tài nguyên của một nước cũng như một địa phương. Có thể nêu lên những khía cạnh chủ yếu: Một là, điều kiện vị trí địa lý, tài nguyên khoáng sản; nhân tố này quyết định quá trình phân bố và phát triển các ngành kinh tế thích ứng. Ví dụ như ở những nơi có tài nguyên, khoáng sản sẽ phát triển các ngành công nghiệp khai thác chế biến khoáng sản, ở những nơi có rừng thì phát triển khai thác chế biến lâm sản,… Hai là, trình độ phát triển của phân công lao động xã hội. Trình độ phát triển của phân công lao động xã hội càng cao, xuất hiện càng nhiều ngành nghề mới, sẽ làm biến đổi cơ cấu ngành, đồng thời nó càng làm phát triển phương thức hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp và nhờ đó làm thay đổi cơ cấu các loại lợi ích của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Ba là, điều kiện vật chất về vốn, kỹ thuật, công nghệ và nguồn nhân lực. Sự phát triển của các cơ cấu loại hình doanh nghiệp phụ thuộc vào quy mô vốn, kỹ thuật, công nghệ và trình độ phát triển nguồn nhân lực càng cao càng có điều kiện tập trung nâng cao quy mô của doanh nghiệp. Bốn là, tiến độ phát triển của thị trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với sự phát triển của thị trường. Sự xuất hiện các loại thị trường đầu vào và đầu ra của nền kinh tế là căn cứ cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành cũng như các loại hình doanh nghiệp của một đất nước. Chẳng hạn xu thế phát triển của các nền kinh tế gần đây là tăng cường thương mại dịch vụ và gắn kết các công ty quốc gia vào hệ thống sản xuất kinh doanh toàn cầu để tiếp tục tăng cường cơ cấu dịch vụ trong cơ cấu ngành và biến đổi cơ cấu loại hình doanh nghiệp theo hướng phát triển các chi nhánh của công ty đa quốc gia trên phạm vi cả nước. Năm là, xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường về bản chất là nền kinh tế mở, có mối liên hệ chặt chẽ với thế giới bên ngoài. Vì vậy xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới có sự ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế của một nước hoặc một địa phương kể cả cơ cấu ngành, loại hình doanh nghiệp, thành phần kinh tế và cơ cấu lãnh thổ. * Các nhân tố chủ quan. Các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế là hệ thống quan điểm, môi trường thể chế của một nước và năng lực của bộ máy quản lý cấu thành nền kinh tế. Theo hệ quan điểm phát triển, nước này hoặc địa phương này có thể bố trí loại hình doanh nghiệp Nhà nứoc nhiều hơn, song ở các nước khác hoặc địa phương khác lại bố trí doanh nghiệp Nhà nước ở một tỷ lệ nhất định nào đó. Cũng theo hệ quan điểm này mà một nước có thể đầu tư phát triển cả thị trường nông thôn và miền núi, nhưng có nước lại có chính sách thiên về thành thị. Như vậy hệ quan điểm sẽ được quy định cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến xu hướng nào. Cùng với hệ quan điểm, môi trường thể chế như chiến lược, chính sách, luật pháp cũng ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một chiến lược đúng sẽ đẩy nhanh tốc độ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có hiệu quả hơn. Hệ thống chính sách đúng sẽ kích thích sự phát triển nhanh chóng của các ngành, các loại hình doanh nghiệp, các thành phần kinh tế cũng như nâng được tính đồng đều giữa các vùng. Như vậy, môi trường thể chế thuận lợi sẽ thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch còn nếu không phù hợp sẽ kìm hãm thậm chí đẩy lùi quá trình chuyển dịch của cơ cấu kinh tế. Đồng thời việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn phụ thuộc vào quá trình tổ chức thực hiện, vào năng lực của bộ máy quản lý. Một bộ máy quản lý với đội ngũ cán bộ có đủ năng lực không những có thể giúp cho Đảng và Nhà nước hình thành nên hệ quan điểm đúng, môi trường thể chế thuận lợi cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà còn tác động tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Những nhân tố trên đây không chỉ ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên phạm vi cả nước mà còn trong phạm vi từng vùng. Tuy nhiên, về mức độ tác động của mỗi nhân tố có thể có sự khác nhau. Tuỳ theo mức độ tác động của các nhân tố khách quan, chủ quan ở mỗi địa phương mà quá trình chuyển dịch cơ cấu có thể diễn ra nhanh hơn hoặc chậm hơn. Đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Khái niệm Đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu một cách đơn giản là việc bỏ các nguồn lực tài chính, lao động, nguyên vật liệu,…vào nền kinh tế với mức độ nhất định để thay đổi số lượng, tỷ trọng và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành cơ cấu kinh tế. Hoạt động đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế được coi là có hiệu quả khi cơ cấu kinh tế thay đổi phù hợp với điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý và hiện trạng kinh tế xã hội của một đất nước hay một địa phương; theo đúng quy hoạch và chiến lược phát triển trong từng thời kỳ. 4.2. Nguồn vốn đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 4.2.1. Nguồn vốn trong nước. Nguồn vốn trong nước huy động cho đầu tư phát triển có nguồn gốc từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước, nguồn vốn từ các doanh nghiệp và nguồn vốn trong dân. - Nguồn ngân sách: là một hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối sản phẩm quốc dân và các nguồn tiền tệ khác thông qua việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung lớn của Nhà nước. Ngân sách Nhà nước có vai trò huy động tài chính, đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, nhằm điều tiết nền kinh tế vĩ mô và nền kinh tế thị trường đồng thời nó là một công cụ để phát triển kinh tế. Cơ sở của việc hình thành nên nguồn ngân sách Nhà nước là từ việc thu các loại thuế, phí, lệ phí, thu từ tài sản Nhà nước, do vay nợ và từ các khoản viện trợ. - Nguồn từ doanh nghiệp: là toàn bộ giá trị ứng do ban đầu và các quá trình tiếp theo cho sản xuất kinh doanh vốn này được biểu hiện bằng tiền mặt lẫn các giá trị vật tư, tài sản, hàng hoá của doanh nghiệp. Các nguồn hình thành chủ yếu của vốn trong doanh nghiệp là nguồn vốn nội bộ, nguồn vốn do liên doanh, liên kết và các nguồn khác như huy động từ thị trường vốn, nguồn vốn từ nước ngoài, nguồn vốn từ ngân sách đối với các doanh nghiệp Nhà nước. - Vốn trong dân: đây là nguồn vốn tiết kiệm trong các hộ gia đình dưới dạng tiền, hoạt động tài sản có giá trị, hoặc gửi tiết kiệm và một phần dùng trực tiếp cho các dự án đầu tư nhưng phần lớn là đầu tư ngắn hạn. Nguồn vốn trong dân nước ta theo số liệu của Bộ Kế hoạch và đầu tư và Tổng cục thống kê vào năm 2000 khoảng 7 tỷ USD nhưng mới chỉ huy động được khoảng 38% cho đầu tư phát triển, thông qua các hình thức như gửi tiết kiệm và đầu tư sản xuất kinh doanh. Việc huy động tối đa các nguồn lực để chuyển dịch cơ cấu kinh tế là hết sức quan trọng. Trong đó vai trò của các nguồn vốn khác nhau, dẫn đến việc xác định cơ sở hợp lý của nguồn vốn đầu tư phát triển rất quan trọng để vừa có thể huy động tối đa nguồn lực phát triển, vừa đảm bảo phát triển kinh tế bền vững. 4.2.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài Để nền kinh tế phát triển nhanh, ổn định thì vốn đầu tư không thể chỉ huy động từ trong nước mà vốn đầu tư từ nước ngoài cũng đóng một vai trò quan trọng. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm vốn đầu tư của tư nhân và vốn trợ giúp phát triển chính thức từ các chính phủ nước ngoàivà các tổ chức quốc tế. - Nguồn vốn tư nhân: Đối với nguồn vốn đầu tư của tư nhân thì đầu tư thông qua các hình thức như đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và tín dụng thương mại còn nguồn vốn phát triển chính thức thì thông qua các hình thức như hỗ trợ dự án, hỗ trợ phi dự án và tín dụng thương mại. + Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay một phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm giành quyền điều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh dịch vụ thương mại. Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư quyết địn._.h đầu tư, quyết định sản xuất, kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quản cao, không có những ràng buộc về chính trị, xã hội để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế. Thông qua đầu tư trực tiếp Nhà nước, nước nhận đầu tư có thể tiếp nhận Công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý, là những mục tiêu mà những hình thức đầu tư khác không giải quyết được. Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để tiến hành triển khai, mở rộng dự án, cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được. + Đầu tư gián tiếp nước ngoài: là hoạt động đầu tư quốc tế trong đó chủ đầu tư nước ngoài đầu tư bằng hình thức mua cổ phần chứng khoán của các công ty ở nước sở tại để thu lợi nhuận mà không trực tiếp tham gia quản lý điều hành công ty mà họ bỏ vốn đầu tư. Do đó phạm vi đầu tư có giới hạn vì các chủ đầu tư nước ngoài quyết định mua cổ phiếu của doanh nghiệp naò làm ăn có lãi hoặc cổ phiếu có triển vọng phát triển trong tương lai. Tính chất này khiến đầu tư đầu tư gián tiếp nước ngoài có phần bị hạn chế hơn so với đầu tư trực tiếp nước ngoài, tỷ trọng vốn trong cơ cấu đầu tư nước ngoài thường nhỏ. + Tín dụng thương mại: là hình thức đầu tư dưới dạng cho vay vốn và thu lợi nhuận qua lãi suất tiền vay. Ngân hàng là chủ thể cung cấp vốn cho hoạt động của doanh nghiệp. Trước khi cho vay đều phải nghiên cứu khả năng của dự án đầu tư, có yêu cầu về bảo lãnh tài chính, thế chấp các khoản vay để giảm số vốn đầu tư dưới dạng tiền tệ chuyển thành phương thức đầu tư khác. Doanh nghiệp vay vốn hoàn toàn có quyền sử dụng các vốn vay, còn chủ đầu tư nước ngoài thu lợi nhuận qua lãi suất Ngân hàng cố định. Mặc dù có những ràng buộc nhưng độ rủi ro đối với chủ đầu tư lớn, trong trường hợp các doanh nghiệp vay vốn làm ăn thua lỗ, phá sản. Do vậy, nguồn vốn đầu tư từ tín dụng thương mại cũng chiếm một tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài. - Trợ giúp phát triển chính thức: (ODF) là một nguồn vốn có vai trò rất quan trọng đối với các nước đang phát triển. Hỗ trợ phát triển chính thức là các khoản viện trợ không hoàn lại (ODA) và các khoản tài trợ có hoàn lại. Đây là nguồn tài trợ ưu đãi nước ngoài, các nhà tài trợ không trực tiếp điều hành dự án, nhưng có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hc chuyên gia. Nước chủ nhà có quyền quản lý và sử dụng vốn ODA nhưng hình thành danh mục dự án ODA phải có sự thoả thuận với các nhà tài trợ. Những nước nhận ODA phải có đủ một số điều kiện nhất định mới được nhận tài trợ. Điều kiện này tuỳ thuộc vào yêu cầu của nhà tài trợ nhưng nguồn vốn này chủ yếu dành hỗ trợ các dự án, cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải, y tế, giáo dục. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Để đánh giá một quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là có hợp lý và hiệu quả hay không người ta sử dụng hai nhóm chỉ tiêu chính: chất và lượng. Nhóm chỉ tiêu đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu xét về lượng. * Số lượng trong GDP Theo chỉ tiêu này, việc chuyển dịch cơ cấu có hiệu quả hay không hoặc có theo đúng phương hướng, mục tiêu phát triển hay không dựa vào số tuyệt đối về thu nhập quốc dân của ngành, loại hình doanh nghiệp hay một vùng lãnh thổ trong GDP có tăng lên hoặc giảm đi hay không. Chẳng hạn, với cơ cấu hiện tại là công nghiệp - nông nghiệp – dịch vụ; muốn chuyển tới cơ cấu mới là công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp người ta có thể đánh giá quá trình đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế này qua thu nhập quốc dân của công nghiệp và dịch vụ tăng lên, nông nghiệp giảm xuống hay không qua một số năm nhất định. * Tỷ trọng trong GDP Được tính theo công thức: Ti = Trong đó: Ti : Tỷ trọng của i trong GDP Si : Thu nhập quốc dân của i trong GDP i : Ngành, vùng lãnh thổ, loại hình doanh nghiệp,… Theo công thức này, việc chuyển dịch có đúng hướng và hợp lý không phụ thuộc vào Ti tăng lên hay giảm đi. Với ví dụ trên, việc chuyển dịch được coi là có kết quả khi tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm xuống, ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên theo một tỷ lệ nhất định. Trong thực tế, người ta thường dùng hai chỉ tiêu này làm thước đo kết quả và hiệu quả của một quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. * Sự phân bố lao động. Được xét cả về số lượng và tỷ trọng lao động trong từng ngành, vùng lãnh thổ hay loại hình doanh nghiệp trước và sau khi chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ví dụ như số lao động trong ngành nông nghiệp giảm, chuyển sang làm việc trong ngành công nghiệp hay dịch vụ thì có thể thấy việc chuyển từ cơ cấu công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ sang cơ cấu công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp đã có kết quả. Các chỉ tiêu đánh giá quá trình đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế xét về chất. Những chỉ tiêu này khó đánh giá vì nó là một hệ thống nối tiếp, đan xen và khó thống kê nhưng nó đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện hiệu quả của một quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thứ nhất, đó là mối quan hệ giữa các ngành, vùng, loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế. Mối quan hệ tương hỗ, quan hệ tổ chức quản lý càng chặt chẽ thì quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế càng có hiệu quả. Thứ hai, đó là hàm lượng khoa học và công nghệ trong từng bộ phận của cơ cấu kinh tế. Chẳng hạn, tỷ trọng của nông nghiệp cũng như tỷ trọng lao động trong nông nghiệp giảm xuống phù hợp với mục tiêu đặt ra thì quá trình đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế được coi là có kết quả; còn nếu công nghệ được ứng dụng vào việc sản xuất nông nghiệp tiến bộ, làm giảm lao động thủ công và tăng số thu nhập quốc dân của nông nghiệp trong GDP thì việc đầu tư được coi là có hiệu quả. Thứ ba, đó là hàm lượng chất xám trong lao động của từng bộ phận của cơ cấu kinh tế. Nếu số lao động không đổi nhưng tỷ trọng lao động có kỹ năng tăng, tỷ trọng lao động thủ công giảm thì việc đầu tư cũng được coi là có hiệu quả. Thứ tư, đó là quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới. Mối quan hệ này cho phép nhập nguồn nguyên vật liệu từ nước ngoài, tiêu thụ sản phẩm, huy động vốn,… tạo tiền đề và là một bộ phận của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chương II: Thực trạng cơ cấu vốn đầu tư và chuyển dịch cơ cấu đầu tư phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2001-2010 I- Thực trạng đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thủ đô Hà Nội. 1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của Thủ đô Hà Nội ảnh hưởng đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên. * Vị trí địa lý chính trị Hà Nội nằm ở trung tâm vùng đồng bằng Sông Hồng, tiếp giáp với 5 tỉnh Thái Nguyên ở phía bắc; Bắc Ninh, Hưng Yên ở phía đông; Vĩnh Phúc ở phía tây, Hà Tây và Hà Nam ở phía Nam. Hà Nội có diện tích tự nhiên là 920,97km2 và dân số tính đến ngày 31.12.2002 là 2812,1 ngàn người, chiếm 0,285 về diện tích tự nhiên và 3,54% về dân số so với cả nước. Hà Nội có vị trí địa lý – chính trị quan trọng, có ưu thế đặc biệt độc đáo hơn bất kỳ tỉnh nào trong cả nước. Đảng và Nhà nước đã xác định “Hà Nội là trung tâm đầu não về chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật; đồng thời là một trung tâm lớn về kinh tế, một trung tâm giao dịch quốc tế của cả nước”. Từ nay đến năm 2010, tất cả các tuyến giao thông quan trọng nối liền Hà Nội với các nơi đều sẽ được cải tạo và nâng cấp. Đó là những yếu tố gắn bó chặt chẽ Hà Nội với các trung tâm trong cả nước và tạo điều kiện thuận lợi để Hà Nội tiếp nhận kịp thời các thông tin, thành tựu khoa học và kỹ thuật của thế giới; tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, khu vực và cùng hoà nhập vào quá trình phát triển năng động của tam giác phát triển quốc tế. Nhờ là vị trí trung tâm của vùng Bắc bộ và là Thủ đô của cả nước, Hà Nội có khả năng to lớn để thu hút các nguồn lực của cả nước, của bên ngoài cho sự phát triển của mình. Đồng thời sự phát triển của Hà Nội có vai trò to lớn thúc đẩy sự phát triển của cả vùng cũng như cả nước. *Đặc điểm địa hình Hà Nội nằm ở trung tâm đồng bằng châu thổ Sông Hồng, có diện tích tự nhiên là 920,97 km2, trong đó diện tích nội thành là 84,30 km2. Cấu trúc địa chất không phức tạp đã tạo cho địa hình Hà Nội đơn giản hơn so với nhiều khu vực ở miền bắc nước ta. Nhìn chung địa hình của Hà Nội so với các khu vực khác ở miền bắc và miền trung tương đối đơn giản, nhưng cũng khá đa dạng, làm nền tảng cho cảnh quan tự nhiên, tạo những nét độc đáo cho phong cảnh, cũng như cho việc phát triển các loại hình kinh tế, đặc biệt là cho du lịch. *Thời tiết khí hậu Nằm ở trung tâm vùng đồng bằng bắc bộ, Hà Nội mang sắc thái đặc trưng của khí hậu vùng với đặc điểm khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa. Mưa mùa hạ phần lớn là mưa dông, có cường độ mưa lớn, tập trung trong thời gian ngắn nên thường làm thời tiết dịu mát hơn, thuận lợi cho các hoạt động văn hoá du lịch. Nằm ở trung tâm vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nên Hà Nội cũng chịu nhiều ảnh hưởng của gió mùa đông bắc, dông bão,…gây những trở ngại nhất định trong đời sống và sản xuất của người dân Thủ đô. *Thuỷ văn nguồn nước Nguồn nước của Hà Nội tương đối dồi dào (không kể nguồn nước mặt phong phú, Hà Nội có khả năng khai thác nước ngầm khoảng 1 triệu m3 ngày đêm), có thể đáp ứng nhu cầu phát triển với quy mô lớn. Nguồn nước dồi dào không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp mà còn đảm bảo cho nhu cầu sử dụng nước ngày càng nhiều của người dân ở các đô thị mới sẽ được hình thành. *Thổ nhưỡng và tài nguyên đất. Hà Nội nằm ở trung tâm vùng đồng bằng sông Hồng, tập trung các loại phù sa mới. Đất phù sa sông Hồng rất màu mỡ, màu nâu tuơi, thành phần cơ giới trung bình, cấu tượng tốt, phản ứng từ trung tính đến kiềm yếu, thích hợp với nhiều loại cây trồng nhiệt đới. Nhìn chung, quỹ đất xây dựng công nghiệp khá phong phú, không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đô thị mà còn cho phép dành một phần đáng kể khoảng vài nghìn ha quỹ đất để liên doanh, hợp tác với với nước ngoài. Tại các huyện Đông Anh, Sóc Sơn, Gia Lâm, Từ Liêm và Thanh Trì có thể dành nhiều khu vực với quy mô tập trung từ vài chục đến hàng trăm ha để xây dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung kỹ thuật cao, khu du lịch, khu vui chơi giải trí, khu văn hóa tần cỡ quốc gia. Trong khu vực nội thành cũng còn nhiều nơi có thể dành đất cho phát triển công nghiệp, liên doanh với nước ngoài để xây dựng khách sạn, trụ sở giao dịch, cơ sở sản xuất trong tất cả các lĩnh vực… *Tài nguyên khoáng sản Nhờ có vị trí cấu trúc đặc biệt, nơi quy tụ nhiều đới kiến tạo, khoáng sản của Thủ đô Hà Nội và vùng phụ cận rất phong phú và đa dạng, có nhiều loại có quy mô trữ lượng hoặc có chất lượng có thể đáp ứng được phần đáng kể cho các yêu cầu xây dựng và phát triển các cơ sở kinh tế – công nghiệp của Hà Nội nói riêng cũng như của trung ương như: than đá, than nâu, sắt, đồng, niken, chì, kẽm, vàng, đá vôi, đá tảng, sét và nước khoáng, nước nóng… *Tài nguyên du lịch Tiềm năng du lịch của Hà Nội khá phong phú và đặc sắc. Trên lãnh thổ Hà Nội có nhiều hồ đẹp, nhiều làng hoa cây cảnh, công viên xanh, nhiều vùng bãi sông với tập đoàn sinh vật đa dạng, tạo thành những quần thể, những cảnh quan đẹp hấp dẫn du khách dạo chơi cùng với hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối phát triển, là đầu mối giao thông của cả nước, là trung tâm của các tuyến đường bộ, đường sắt, đường không và đường thuỷ, có hệ thống truyền thông hiện đại,…đặc biệt Hà Nội có nguồn tài nguyên nhân văn phong phú cho phát triển du lịch. Hà Nội có nhiều di tích lịch sử văn hoá, và cũng là nơi tập trung lễ hội truyền thống. Tất cả những điều này đều là đối tượng của du lịch, đặc biệt là du lịch văn hoá. Nhiều lễ hội gắn bó chặt chẽ với di tích, cùng với di tích đã trở thành một sản phẩm du lịch độc đáo. Hà Nội cũng là nơi tập trung những bảo tàng lớn và quan trọng nhất của nước ta như bảo tàng lịch sử, bảo tàng cách mạng, bảo tàng mỹ thuật, bảo tàng Hồ Chí Minh,…Trong thực tế các bảo tàng trên cũng là những di tích đặc sắc hấp dẫn du khách. 1.2. Các điều kiện về kinh tế xã hội * Điểm xuất phát: Những năm gần đây Hà Nội đã có một bước chuyển biến quan trọng, xu thế đổi mới là những điển hình làm ăn giỏi đã thay đổi nhiều mặt của Thủ đô, sự phát triển đã có sinh khí mới và hình thành môi trường có sự hấp dẫn đối với các Chính phủ, các tổ chức quốc tế và các nhà đầu tư nước ngoài. Từ điểm xuất phát thấp của năm 1990, Hà Nội đã từng bước phát triển và khởi sắc rõ nét từ năm 1993. Nhịp độ tăng trưởng GDP đạt khoảng 8% ở thời kỳ 1986-1991, tăng lên gần 9% ở hai năm 1991 –1992 (tỷ lệ này của cả nước là 7,2%) và 15% năm 1995; 12,98% vào năm 1996; 12,59% vào năm 1997, 12,01% vào năm 1998; 6,48% năm 1999; 9,1% năm 2000, năm 2001 là 10,03%. Xu hướng này đang tiếp tục diễn biến tốt, các ngành dịch vụ, một số lĩnh vực Công nghệ kỹ nghệ cao đang giữ vai trò quyết định sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Hàng năm. GDP của Hà Nội vượt quá mức chi dùng xã hội trên địa bàn khoảng 14% và mức đóng góp của Hà Nội cho ngân sách Nhà nước trung ương là khoảng hơn 2000 tỷ đồng. Con số này còn khiêm tốn nhưng đã minh chứng cho vai trò của Hà Nội. * Cơ sở vật chất trình độ khoa học –Công nghệ Cơ sở vật chất kỹ thuật nhìn chung còn yếu kém, là một trong những khó khăn lớn nhất của Hà Nội. Tuy so với cả nước, hiện nay Hà Nội có nhiều xí nghiệp giữ vị trí đầu đàn trong các lĩnh vực công nghiệp chủ đạo của nước ta, song hầu hết trang thiết bị còn lạc hậu, cần được hiện đại hoá. Hiện nay đường giao thông nội thị và hệ thống cấp thoát nước, mạng lưới khách sạn và thông tin liên lạc mới bước đầu cải tạo, và tốc độ phát triển chậm đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự hấp dẫn các nhà đầu tư và du khách nước ngoài. Hệ thống tiêu nước còn kém, khi mưa to vẫn còn tình trạng ngập úng ở một số nơi thuộc khu vực nội thành. * Trình độ dân trí và lao động Nguồn nhân lực được xem như một lợi thế phát triển quan trọng. Lực lượng lao động của Hà Nội khá dồi dào, số người trong độ tuổi lao động chiếm xấp xỉ 58-60% dân số, trong đó số người có khả năng lao động chiếm 76% nguồn lao động. Với đội ngũ hiện có trên 14000 cán bộ trên đại học, 26000 người có trình độ đại học và cao đẳng, 11 vạn người có trình độ trung cấp, tính đến 33.12.2001. Hà Nội là địa phương có chất lượng lao động khá nhất trong cả nước, có nhiều nghề tinh xảo ở đỉnh cao của đất nước. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 30% (tỷ lệ chung cả nước 9,77%). Hà Nội hiện có 43 trường đại học, cao đẳng quốc lập và dân lập (chiếm 60 cả nước), 34 trường trung học chuyên nghiệp, 41 trường dạy nghề, 112 viện nghiên cứu chuyên ngành (86% cả nước). Đây là một lợi thế rất lớn của Hà Nội so với các tỉnh, thành phố khác trong cả nước. Nếu có chính sách khai thác và phối hợp tốt thì lực lượng cán bộ khoa học này sẽ có đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế của cả vùng và đất nước. Tuy nhiên, thành phố cũng đang đứng trước một nguy cơ mới. Hà Nội là thành phố có dân số trẻ. Tốc độ phát triển dân số Hà Nội tăng nhanh. Dự báo dân số Hà Nội có khoảng hơn 2,9 triệu người vào năm 2010 trong đó dân số thành thị chiếm khoảng 52%. Trong tương lai xa, dân số Hà Nội sẽ đạt 3,8 triệu người vào năm 2020 và dân thành thị chiếm khoảng 92% (tương đương với các thành phố Thủ đô khác của các nước trong khu vực hiện nay). Số người trong độ tuổi lao động cần bố trí việc làm tăng khoảng gần 22 vạn (đến năm 2001) và trên 70 vạn người (đến năm 2020). Đó là tiềm năng lớn nhưng cũng là sức ép gay gắt đối với vấn đề tạo việc làm cho thành phố. Do sức hút của quá trình phát triển kinh tế, đặc biệt là quá trình phát triển Công nghiệp và tốc độ đô thị hóa ngày càng cao tạo ra các dòng di cư đến thành phố Hà Nội tìm việc làm ngày càng lớn. Số người cư trú không được đăng ký quản lý ngày một tăng, hiện nay ước khoảng 20 –25 vạn người. Đây đang là sức ép lớn về mọi mặt trong quá trình phát triển kinh tế của Thủ đô. *Triển vọng thị trường trong nước và nước ngoài ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của cả nước. Sự phát triển của cả nước, đặc biệt là của vùng bắc bộ ảnh hưởng lớn đến Hà Nội. Xu hướng mở cửa mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước vừa ảnh hưởng tới Hà Nội, vừa đặt ra nhiệm vụ đầu tàu và chức năng động lực cho Hà Nội. Vùng bắc bộ ảnh hưởng trực tiếp đến Hà Nội. Đây là thị trường lớn cho ngành Công nghiệp hàng tiêu dùng của Hà Nội. Đồng thời Hà Nội còn là một trong các cửa khẩu nhập loại máy móc thiết bị vật tư hàng hoá phục vụ cho quá trình phát triển sản xuất hàng xuất khẩu của vùng bắc bộ. Để khai thác có hiệu quả các ảnh hưởng này, Hà Nội cần phải tính toán phát triển dịch vụ, nhất là thương mại du lịch, tài chính, ngân hàng cho cả vùng lớn *Triển vọng hơp tác quốc tế và đầu tư nước ngoài của Việt Nam ảnh hưởng đến phát triển kinh tế – xã hội của Hà Nội. Dự báo trung tâm kinh tế thế giới trong những thập kỷ tới sẽ chuyển từ Tây sang Đông, từ Tây Âu sang Châu á - Thái Bình Dương, Việt Nam hiện tại có thuận lợi cơ bản là nằm trong vùng khu vực đang phát triển. Việt Nam đã chủ động giải quyết tốt hơn quan hệ với các nước công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Pháp, Đức, Anh,…với các nước trong khu vực như Trung Quốc, ASEAN. Việt Nam đã đăng ký bảo hộ đầu tư với 40 nước trên thế giới bao gồm ý, Bỉ, Philipin,… cùng với việc bình thường hoá quan hệ Việt – Mỹ, các công ty Mỹ, các tập đoàn lớn của nhiều nước khác sẽ không bị ràng buộc trong việc đầu tư vào Việt Nam. * Xuất phát từ những phân tích ở trên cho thấy Hà Nội cần tập trung khai thác thuận lợi về điều kiện địa lý tự nhiên cũng như kinh tế – xã hội theo định hướng sau: + Phát triển các khu công nghiệp quy mô lớn, các khu chế xuất hướng vào phát triển các ngành công nghiệp có trình độ công nghệ cao, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, cơ khí chế tạo, điện, điện tử,… + Nâng cao trình độ và chất lượng sản xuất nông nghiệp, tập trung vào các mặt hàng đem lại hiệu quả kinh tế như hoa, rau sạch,… + Phát triển thương mại, du lịch, hệ thống tài chính ngân hàng,… 2. Mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội Thủ đô giai đoạn 2001 -2010 Xuất phát từ tình hình thế giới, khu vực và trong nước, từ tiềm năng, thế mạnh của Thủ đô và trên cơ sở những thành tựu của 15 năm đổi mới, Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ 13 đã đề ra mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội Thủ đô cho giai đoạn 2001- 2010 là “phát triển kinh tế – khoa học công nghệ – văn hoá xã hội toàn diện, bền vững; đảm bảo xây dựng về cơ bản nền tảng vật chất, kỹ thuật và xã hội của Thủ đô xã hội chủ nghĩa giầu đẹp, văn minh, thanh lịch, đậm đà bản sắc ngàn năm văn hiến, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; phấn đấu trở thành một trung tâm ngày càng có uy tín ở khu vực, xứng đáng với danh hiệu Thủ đô Anh hùng” Qua mục tiêu trên của chiến lược 10 năm, các cấp lãnh đạo thành phố Hà Nội phải thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm là: - Tiếp tục thực hiện tốt cơ cấu kinh tế Công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp. Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế (theo GDP) bình quân 10-11%/năm. Tiếp tục phát triển những ngành và sản phẩm đang có sức cạnh tranh và triển vọng thị trường. Đồng thời đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế theo hướng hiện đại và hiệu quả. - Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Ưu tiên cho mục tiêu tăng nhanh xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu, thu hút vốn, Công nghệ từ bên ngoài. Khẩn trương chuẩn bị các điều kiện cần thiết nhất để thực hiện các cam kết quốc tế và hội nhập kinh tế theo lộ trình một cách chủ động, hiệu quả, an toàn. - Phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với tăng cường củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất. Sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả của khu vực kinh tế Nhà nước. Khuyến khích các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh mới theo hướng đa ngành, đa sở hữu, có hiệu quả kinh tế – xã hội cao. Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng và thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển lành mạnh, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Tăng tính liên kết giữa các doanh nghiệp, giữa sản xuất – dịch vụ, sản xuất – lưu thông – tiêu thụ. - Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội để vừa giải quyết những yêu cầu bức xúc trong xây dựng và quản lý đô thị, vừa từng bước xây dựng Thủ đô đồng bộ, hiện đại theo quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Phát triển nhanh các khu đô thị mới đi đôi với quản lý, bảo tồn, tôn tạo các khu phố cổ, khu phố cũ; cải tạo nâng cấp, chỉnh trang khu vực nội thành cùng với việc giảm mật độ dân cư trong khu vực nội thành cũ. - Đa dạng hoá hệ thống giáo dục, đáp ứng nhu cầu học tập của mọi người dân. Phát triển toàn diện chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại; chuẩn bị những điều kiện cần thiết để bước đầu xây dựng nền kinh tế tri thức. - Tập trung giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc. Tạo nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở cả thành thị và nông thôn; phát triển nhanh quỹ nhà ở, ngăn chặn sự gia tăng các tệ nạn xã hội. Phát triển mạnh văn hoá, thông tin,y tế và thể dục thể thao. Nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân. - Đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Đấu tranh mạnh mẽ với tệ quan liêu, tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống trong cán bộ công chức. Đấu tranh có hiệu quả với các tệ nạn xã hội. Xây dựng và thực hiện nếp sống tôn trọng pháp luật, thực hiện nghiêm trật tự kỷ cương trong mọi hoạt động của đời sống kinh tế – xã hội Thủ đô. - Kết hợp chặt chẽ các chương trình bảo vệ an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội với các chương trình phát triển kinh tế – xã hội. Xây dựng lực lượng công an Thủ đô trong sạch, vững mạnh theo hướng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc. Chăm lo phát triển tiềm lực quốc phòng. Xây dựng và hoàn thiện chiến lược phòng thủ từ xa phù hợp với vị trí, đặc điểm của Thủ đô trong thời kỳ mới, đủ sức bảo vệ Thủ đô trong mọi tình huống. 3. Các phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Để đạt được những mục tiêu nêu trên, một trong những vấn đề có tính chất mấu chốt và quyết định là lựa chọn cơ cấu kinh tế hợp lý. Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội Thủ đô trong thời kỳ 2001 – 2010 có đưa ra hai phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế được cân nhắc, xen xét như sau: Phương án I: Tỷ trọng công nghiệp – xây dựng trong GDP tăng từ 37,9% năm 2000 lên 41,7% năm 2010 và 45,8% năm 2010, sau 10 năm tăng 7,9%. Trong khi đó, tỷ trọng khối dịch vụ giảm tương ứng là 58,3%; 55,2% và 51,8% và tỷ trọng của nông nghiệp giảm cũng tại các mốc thời gian trên là 3,8%; 3,1% và 2,4%. Bảng 1: Dự báo chuyển dịch cơ cấu kinh tế (phương án I) Theo GDP (giá hiện hành) Theo lao động 2000 2005 2010 2000 2005 2010 Tổng số 100 100 100 100 100 100 CN-XD 37.9 41.7 45.8 23.8 28.3 35.4 NN 3.8 3.1 2.4 25.6 18.9 10.2 Dịch vụ 58.3 55.2 51.8 50.6 52.8 54.4 Nguồn: Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội Thủ đô Hà Nội 2001-2010 Phương án II: Do tập trung phát triển đồng đều các lĩnh vực, tỷ trong công nghiệp – xây dựng trong GDP tăng khoảng 4,2%; tỷ trọng của khối dịch vụ năm 2005 đạt 55,5%, năm 2010 tăng lên đạt 56%. Trong khi đó, tỷ trọng của nông nghiệp giảm, năm 2005 đạt 3%, năm 2010 giảm xuống 2%. Về cơ cấu lao động chuyển dịch như sau: tỷ trọng lao động của công nghiệp xây dựng tăng từ 23,8% năm 2000 lên 28,8% năm 2005 và 36,2% năm 2010. Tỷ trọng của khối dịch vụ tăng từ 50,6% năm 2000 lên 53% năm 2005 và 54,3% năm 2010. Trong khi đó, tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm từ 25,6% năm 2000 xuống còn 18,2% năm 2005 và 9,5% năm 2010. Bảng 2: Dự báo chuyển dịch cơ cấu kinh tế (phương án II) Theo GDP (giá hiện hành) Theo lao động 2000 2005 2010 2000 2005 2010 Tổng số 100 100 100 100 100 100 CN-XD 37.9 41.5 42 23.8 28.8 36.2 NN 3.8 3.0 2.0 25.6 18.2 9.5 Dịch vụ 58.3 55.5 56 50.6 53.0 54.3 Nguồn: Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội Thủ đô Hà Nội 2001-2010 Lựa chọn phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong thời kỳ 2001-2010, Hà Nội chọn phương án II để chuyển dịch cơ cấu kinh tế vì mấy lý do chủ yếu sau: - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo phương án II sẽ đảm bảo cho Hà Nội đạt được mục tiêu nhịp độ tăng trưởng GDP đạt 10-11%/năm thời kỳ 2001-2010. Tỷ trọng GDP của Hà Nội so với cả nước từ 7,3% hiện nay tăng lên 9,8% vào năm 2010; GDP/người năm 2010 bằng 268% so với cả nước (năm 2000 là 207%). - Đảm bảo được tính năng động, có khả năng thích ứng nhanh nhạy với kinh tế thị trường, gắn bó chặt chẽ trong tổng thể nền kinh tế của cả nước, thể hiện rõ vị trí, vai trò đi đầu, là động lực thúc đẩy, lôi kéo các vùng khác trong nước phát triển. - Trong 5 năm đầu (2001-2005) cơ cấu chuyển dịch theo hướng công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp; trong giai đoạn tiếp theo, cơ cấu chuyển dịch theo hướng dịch vụ – công nghiệp – nông nghiệp. - Khả năng đảm bảo một cách tương đối về vốn đầu tư. - Thành tựu và xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đạt được trong những năm vừa qua, nhất là 10 năm 1991-2000. Bảng 3: Tổng hợp các phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế Theo GDP (sau 10 năm chuyển dịch) Theo lao động (sau 10 năm chuyển dịch) PA I PA II PA I PA II Tổng số 100.0 100.0 100.0 100.0 CN_XD +7.9 +4.1 +11.6 +12.4 NN -1.4 -1.8 -15.4 -16.1 Dịch vụ -6.5 -2.3 +3.8 +3.7 Nguồn: Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội Thủ đô Hà Nội 2001-2010 4. Thực trạng cơ cấu nguồn vốn đầu tư và chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế của Hà Nội. Vì điều kiện tài liệu thu thập được, chuyên đề này xin được đánh giá tình hình thực hiện vốn đầu tư cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thủ đô Hà Nội trong 5 năm 1997- 2001. 4.1. Thực trạng vốn đầu tư xã hội và cơ cấu nguồn vốn đầu tư của Thủ đô giai đoạn hiện nay. Năm năm qua, vốn đầu tư xã hội của Hà Nội ước đạt khoảng 66.358 tỷ đồng. Trong đó vốn đầu tư trong nước là 39.008 tỷ đồng, vốn đầu tư nước ngoài là 27.350 tỷ đồng. Tốc độ tăng vốn đầu tư xã hội bình quân hàng năm đạt 0,68%/năm. So với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của thời kỳ này là 10,6%/năm thì vốn đầu tư xã hội của Hà Nội tăng thấp. Nguyên nhân của tình trạng vốn đầu tư của Hà Nội tăng thấp so với mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm là do trong giai đoạn này vốn đầu tư nước ngoài chiếm một tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư có sự giảm sút mạnh vào những năm cuối. Vốn đầu tư xã hội tăng thấp và rất không ổn định, nhất là sự giảm sút mạnh của vốn đầu tư nước ngoài là một trong những nguyên nhân quan trọng làm hạn chế tăng trưởng và phát triển kinh tế Thủ đô, hạn chế sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thủ đô theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bảng 4: Quy mô và tốc độ tăng vốn đầu tư xã hội của Hà Nội trong 5 năm 1997- 2001. STT Nguồn vốn 1997 1998 1999 2000 2001 A. Tổng vốn đầu tư xã hội. 13020,9 15436,2 13326 11198 13377 I. Đầu tư trong nước 6043,9 6612,2 6095 8450 11807 1. Vốn đầu tư của Nhà nước 1438,9 1827,2 1875 2173 2892 a. Vốn ngân sách 1199,8 1454,9 1461 1793 2442 b. Vốn tín dụng ĐT Nhà nước 239,1 372,3 414 380 450 2. Vốn DNNN đầu tư 2300 2325 1960 3286 4720 3. Vốn đầu tư của KT ngoài NN 1990 2088 1860 2341 3465 a. Các doanh nghiệp ngoài NN 1142 1235 960 1241 3465 b. Các hộ cá thể 758 853 900 1100 1150 4. Vốn dân góp 150 200 150 220 180 5. Vốn dân tự xây nhà 165 172 250 400 1537 II. Vốn đầu tư nước ngoài 6977 8824 7231 2748 27350 1. Vốn FDI 6655 8544 6786 2328 25433 2. Vốn ODA 302 240 445 420 1857 B. Tốc độ tăng trưởng vốn hàng năm(%) 18,55 -13,67 -15,97 0,68 I. Đầu tư trong nước 9,40 -7,82 38,64 18,22 1. Vốn đầu tư của Nhà nước 26,99 2,62 15,89 19,07 a. Vốn ngân sách 21,26 0,42 22,72 19,44 b. Vốn tín dụng đầu tư NN 55,71 11,20 -8,21 17,13 2. Vốn doanh nghiệp NN đầu tư 1,09 -15,70 67,65 19,69 3. Vốn đầu tư của kinh tế ngoài Nhà nước 4,92 -10,92 25,86 14,87 4. Vốn dân góp xây đường làng ngõ xóm 33,33 -25,00 46,67 4,66 5. Vốn dân tự xây nhà 4,24 45,35 60,00 35,12 II. Vốn đầu tư nước ngoài 26,47 -18,05 -62,00 -31,13 1. Vốn FDI 28,38 -20,58 -65,69 -35,95 2. Vốn ODA -20,53 85,42 -5,62 10,48 Nguồn: Sở Kế hoạch và đầu tư Hà Nội . Vốn đầu tư nước ngoài sau khi đạt đỉnh cao là 8824 tỷ đồng vào năm 1997 đã giảm mạnh và liên tục còn 7231 tỷ đồng năm 1998, còn 2748 tỷ đồng năm 1999 và còn 1570 tỷ đồng năm 2000, làm cho cả giai đoạn 5 năm 1997-2001 vốn đầu tư nước ngoài giảm bình quân 3,13%/năm. Vốn đầu tư nước ngoài giảm là do vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh trong 3 năm 1998-2000. Năm 1998 vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giảm 20,58% so với năm 1999. Vốn viện trợ chính thức (ODA) tuy không ổn định, song vẫn duy trì tốc độ tăng bình quân cả giai đoạn là 10,48%/năm. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng giảm mạnh vốn đầu tư nước ngoài có nhiều, song ảnh hưởng mạnh nhất và trực tiếp nhất là do: Thứ nhất, sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực làm cho nền kinh tế của chính các nước trong khu vực gặp nhiều khó khăn, chính phủ một số nước đã thi hành chính sách hạn chế đầu tư ra nước ngoài để tập trung vốn cho phát triển kinh tế trong nước; một số nhà đầu tư nước ngoài do khó khăn của nền kinh tế trong nước đã không còn đủ khả năng thực hiện đúng tiến độ các dự án đầu tư đã được cấp giấy phép và không mở rộng hoạt động đầu tư. Thứ hai, do cạnh tranh trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng gay gắt giữa các nước, giữa các địa phương trong nước đã làm cho Hà Nội ngày càng mất dần thế mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài so với giai đoạn đầu (do môi trường đầu tư nước ngoài của các nước được cải thiện nhanh hơn, nhất là các thủ tục hành chính được đơn giản hoá; do cơ sở hạ tầng: giao thông, điện, thông tin liên lạc,… của các địa phương đã được nâng lên đạt mức khá cùng với giá thuê đất thấp hơn đã hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài). Thứ ba, việc chậm giải ngân các dự án ODA so với hiệp định chủ yếu do những khó khăn về giải phóng mặt bằng đã hạn chế nhiều đến việc huy động nguồn vốn này cho đầu tư phát triển của thủ đô trên cả hai phương diện là thực hiện các dự án đã ký kết và kêu gọi những dự án mới. Ngược lại với đầu tư nước ngo._.g mại nhanh chóng, kịp thời và thông suốt. + Khuyến khích đầu tư nước ngoài để phát triển thương mại. 2. Giải pháp về quy hoạch Để nâng cao tính cạnh tranh của chiến lược, quy hoạch cơ cấu kinh tế, điều quyết định là phải nâng cao chất lượng của chiến lược và quy hoạch phát triển theo hướng: - Đi đôi với xây dựng chiến lược dài hạn (5năm, 10 năm) - Gắn chiến lược phát triển với chiến lược sản phẩm và chiến lược thị trường của các doanh nghiệp. - Các quy hoạch phải xây dựng trên cơ sở: + Coi trọng công tác điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường và dự đoán sự thay đổi của thị trường. + Dự báo tiến bộ của khoa học công nghệ của ngành và tác động của nó tới phát triển các bộ phận của cơ cấu kinh tế. + Đánh giá đầy đủ: nguồn lực, cơ hội, thách thức và khả năng cạnh tranh. + Tổ chức việc phối hợp giữa các cơ quan của Thành phố trong xây dựng và thực hiện quy hoạch. - Phải gắn quy hoạch với chính sách và các giải pháp thực hiện 3. Giải pháp về nguồn nhân lực Con người có vai trò quyết định trong quá trình phát triển kinh tế. Một mặt con người là tiềm lực sản xuất chính của xã hội, mặt khác là người được hưởng những lợi ích và thành quả của phát triển kinh tế. Trên ý nghĩa đó nó là động lực của quá trình phát triển của một đất nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định một trong những mục tiêu của chương trình phát triển giáo dục - đào tạo là: “đào tạo bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu CNH – HĐH…, đảm bảo nguồn lao động có chất lượng cho các lĩnh vực ứng dụng công nghệ tiên tiến. Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ vững mạnh, đủ sức giải quyết những vấn đề được đặt ra trong chương trình phát triển khoa học và công nghệ”. Quán triệt tư tưởng trên, để thực hiện tốt quá trình CNH - HĐH kinh tế Thủ đô nói chung và quá trình chuyển dịch cơ cấu nói riêng, Hà Nội cần có chính sách phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. - Chính sách giải quyết việc làm và phân bố lao động: đây là một chính sách mang tính chất chiến lược. Chính sách này cần được đặt trong mối quan hệ thống nhất với các chính sách sau: + Phát triển các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, các dự án thu hút vốn đầu tư nước ngoài để tạo việc làm có giá trị kinh tế cao và giá trị lao động cũng cao. + Phát triển các lĩnh vực ngành nghề có khả năng thu hút được nhiều lao động như công nghiệp điện - điện tử, công nghiệp chế biến, dệt may,… đối với khu vực phi chính thức, chú ý tới các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực sản xuất - kinh doanh và dịch vụ. + Phát triển hình thức gia công sản xuất hàng hoá tiêu dùng cho xuất khẩu theo hướng đa dạng hoá mặt hàng, trước hết là các mặt hàng có công nghệ sử dụng nhiều lao động như may mặc, gốm sứ, lắp ráp điện tử,… + Phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, sử dụng nhiều lao động nhưng cần ít vốn, khôi phục các làng nghề truyền thống có giá trị kinh tế cao ở khu vực nông thôn ngoại thành nhằm giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động ở khu vực nông thôn. - Chính sách đào tạo: để có khả năng đứng vững trong sự cạnh tranh của thị trường, tạo được những sản phẩm có chất lượng và có khả năng xuất khẩu đòi hỏi có một trình độ công nghệ sản xuất cao, đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề và những cán bộ quản lý giỏi. Chính sách đào tạo và tái đào tạo lao động và cán bộ cần được thực hiện theo hướng sau: + Đào tạo và đào tạo mới các đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu ở các cơ quan tổng hợp, các nhà doanh nghiệp, lao động kỹ thuật kết hợp với huy động lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật đông đảo của trung ương trên địa bàn tham gia xây dựng Thủ đô đáp ứng yêu cầu đổi mới. + Khuyến khích và có những hình thức thích hợp tranh thủ chất xám, trình độ khoa học, kỹ thuật cao của các viện nghiên cứu, các trung tâm khoa học, các trường đại học… trên địa bàn Hà Nội trong việc giúp đào tạo, tái đào tạo, nâng cao chất lượng lao động Thủ đô, cũng như giúp cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của các địa phương khác. + Mở rộng sự hợp tác quốc tế trong việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ, công nhân kỹ thuật với nhiều hình thức phong phú để nhanh chóng nâng cao trình độ, tay nghề của lao động ở Thủ đô. + Tập trung hơn nữa việc đào tạo lại cho số cán bộ, công nhân kỹ thuật bằng nhiều hình thức linh hoạt để họ nhanh chóng nắm bắt những kiến thức mới, đáp ứng kịp thời yêu cầu mới mà nền kinh tế thị trường đặt ra. 4. Các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, huy động vốn cho đầu tư phát triển. Để tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi, trong thời gian tới cần chú trọng trước hết vào các biện pháp kinh tế vĩ mô nhằm bảo đảm sự ổn định chính trị, kinh tế và xã hội. Xây dựng đồng bộ, nhất quán các pháp chế kinh tế, bảo đảm trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế, thực hiện cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng giữa mọi thành phần kinh tế, tạo lập môi trường tài chính tiền tệ lành mạnh, khống chế lạm phát; xây dựng nền hành chính Nhà nước chuyển từ “quản lý” các hoạt động đầu tư sang “giúp đỡ”, “hỗ trợ” các hoạt động đầu tư. Thực hiện cải cách các thủ tục hành chính nhằm tạo mọi điều kiện thuậ lợi nhất cho nhà đầu tư thực hiện các hoạt động đầu tư trên địa bàn Hà Nội. Thực hiện đối xử bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, nhất là trên các phương diện tiếp cận tín dụng, đất đai để thực hiện các hoạt động đầu tư, tiếp cận thông tin và thị trường (cả thị trường trong nước và hoạt động xuất nhập khẩu)… Tiếp tục hoàn chỉnh các quy hoạch tổng thể, quy hoạch phát triển ngành; hoàn thành các quy hoạch chi tiết trên địa bàn Thủ đô và công bố công khai các quy hoạch để mọi người dân đều biết và thực hiện theo quy hoạch. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng ưu tiên phục vụ tốt cho các hoạt động đầu tư, hỗ trợ xây dựng hạ tầng các khu công nghiệp. Thành lập tổ chức hỗ trợ đầu tư trực thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố với các nhiệm vụ: cung cấp các thông tin cần thiết, hướng dẫn làm các thủ tục, thực hiện tư vấn cho nhà đầu tư. Mở rộng thị trường chứng khoán, tạo điều kiện cho mọi người, mọi doanh nghiệp đều có thể tham gia đầu tư trực tiếp thông qua mua cổ phiếu và trái phiếu. Thí điểm thành lập 1 –2 công ty đầu tư của Thành phố để tham gia đầu tư vào các doanh nghiệp nhằm giúp các doanh nghiệp có khó khăn về vốn trong đầu tư phát triển sản xuất. Cùng với những giải pháp chung trên đây, mỗi loại hình, mỗi khu vực đầu tư lại có những nét đặc thù riêng cần có những giải pháp riêng như nhóm giải pháp cho khu vực đầu tư trong nước; nhóm giải pháp cho khu vực đầu tư nước ngoài,… 4.1. Khu vực đầu tư trong nước 4.1.1. Đầu tư của ngân sách Nhà nước Đầu tư hàng năm của ngân sách Nhà nước thường chỉ chiếm 13-16% trong tổng đầu tư xã hội của Thành phố. Tuy nhiên đây là nguồn đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong tạo các cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội ở Thủ đô. Chính sự đầu tư này đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho thu hút các nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế khác. Trong thời gian tới, đầu tư ngân sách của Thành phố ngoài việc tập trung cho xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội ở Thủ đô cũng cần dành một phần thoả đáng để hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành, lĩnh vực mà Thành phố khuyến khích phát triển thông qua hỗ trợ vốn xây dựng dự án, hỗ trợ xây dựng hạ tầng ngoài hàng rào, hỗ trợ lãi suất tiền vay,… Để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án sử dụng vốn ngân sách cần tăng cường các biện pháp : Nâng cao chất lượng công tác xây dựng và thẩm định các dự án đầu tư. Thực hiện nhanh việc phê duyệt các thủ tục đầu tư. - Ban hành và thực hiện nhất quán chính sách đền bù giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng của Thành phố. - Tăng cường việc kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các dự án đầu tư đã được ghi kế hoạch vốn hàng năm. Thực hiện nghiêm chỉnh kỷ luật trong thực hiện các kế hoạch Nhà nước trong đầu tư xây dựng của Thành phố nhàm khắc phục tình trạng công trình không thực hiện hết vốn phải điều chỉnh nhiều lần và kéo dài thời gian thực hiện dự án làm giảm hiệu quả của vốn đầu tư. 4.1.2. Đối với khu vực doanh nghiệp - Thực hiện việc khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng phần lợi nhuận của mình để tái đầu tư như: hoàn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần vốn tái đầu tư lấy từ lợi nhuận, hỗ trợ lãi suất đối với các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, đầu tư vào các lĩnh vực mới mà Thành phố khuyến khích phát triển. - Tập trung giải quyết các vấn đề nợ tồn đọng giữa các doanh nghiệp để tạo điều kiện về vốn cho các doanh nghiệp mở rộng đầu tư. - Đẩy mạnh hoạt động của các trung tâm xúc tiến thương mại, tạo điều kiện tiếp cận thông tin thị trường cho các doanh nghiệp (kể cả việc hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp tham gia các hội trợ trong và ngoài nước để giới thiệu sản phẩm). - Cải tiến các thủ tục cho vay, cấp ưu đãi đầu tư, cấp phép đầu tư theo hướng tạo điều kiện và giúp đỡ các doanh nghiệp. - Cho phép các doanh nghiệp có đủ điều kiện được phát hành cổ phiếu doanh nghiệp bán cho mọi người có nhu cầu tham gia đầu tư trực tiếp. 4.1.3. Đối với đầu tư của khu dân cư Đầu tư của dân cư Thủ đô là một tiềm năng lớn cần được huy động cho phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian tới. Những biện pháp tăng cường thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư cho đầu tư phát triển của Hà Nội là: - Tạo điều kiện để dân cư tự đầu tư như: cung cấp rộng rãi và đầy đủ thông tin định hướng để người dân lựa chọn hình thức và nơi đầu tư phù hợp với điều kiện của họ; tạo môi trường kinh doanh an toàn và lành mạnh để giúp người dân an tâm đầu tư vào sản xuất kinh doanh: làm tốt công tác quản lý thị trường, quản lý chất lượng, mẫu mã và nhãn hiệu sản phẩm để ổn định môi trường kinh doanh lành mạnh. - Thực hiện cơ chế huy động đóng góp đầu tư tuỳ theo khả năng, điều kiện và nhu cầu các tầng lớp dân cư khác nhau. Tạo điều kiện thuận lợi cho những người có nhu cầu tự đầu tư xây nhà được đầu tư để xây dựng nhà của mình, đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng trong nội bộ các khu dân cư. Mở rộng cơ chế huy động đóng góp đầu tư của dân chúng cho sự phát triển các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hoá, vệ sinh môi trường. - Đẩy mạnh các hoạt động thu hút vốn trong dân vào đầu tư phát triển các công trình dô thị tập trung thông qua phát hành trái phiếu công trình. - Đổi mới hoạt động của hệ thống tín dụng trên cả hai phương diện thu hút tiền gửi và mở rộng cho vay đầu tư. - Đẩy nhanh tiến trình thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước cũng tạo môi trường thuận lợi và là một biện pháp quan trọng để thu hút vốn đầu tư dài hạn trong dân cư thông qua bán cổ phiếu của các doanh nghiệp cho dân chúng. 4.2. Khu vực đầu tư nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Trong những năm qua đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nguồn lực bên ngoài rất quan trọng cho phát triển kinh tế của Thủ đô (năm 2001 đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp gần 13% GDP, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1997-2001 đạt trên 22%/năm; gía trị sản xuất công nghiệp chiếm tới 32%). Trong những năm tới, đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn giữ một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế ở Hà Nội, nó không những bổ sung nguồn vốn quan trọng mà còn cung cấp và là nhân tố thúc đẩy đổi mới thiết bị, Công nghệ thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế Thủ đô, góp phần nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, từ đó nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh. Những giải pháp nhằm cải thiện môi trườngg đầu tư, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư FDI của Hà Nội trong thời gian tới là: - Thực hiện nghiêm chỉnh luật đầu tư nước ngoài sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua trên địa bàn Thủ đô nhằm tạo những thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, thực hiện việc giải quyết các thủ tục cấp phép đầu tư nước ngoài ở Hà Nội theo nguyên tắc một cửa, nhanh gọn và thuận lợi. Thực sự coi các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân và đối xử với các doanh nghiệp này cũng bình đẳng như các doanh nghiệp trong nước. - Tiếp tục cân đối vốn để xây dựng hoàn chỉnh các công trình hạ tầng kỹ thuật (hệ thống cung cấp điện; hệ thống cấp thoát nước; hệ thống thông tin liên lạc, đường giao thông,…) đến chân hàng rào các khu công nghiệp, các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài. - Xây dựng chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên cơ sở chuẩn bị thật tốt danh mục các lĩnh vực, các dự án đầu tư nước ngoài thành phố ưu tiên và có chính sách cụ thể, hấp dẫn. - Đảm bảo mọi diện tích đất khi giao cho các dự án đầu tư nước ngoài thuê đều đã hoàn thành việc giải phóng mặt bằng. - Có chính sách ưu đãi hơn đối với các dự án đầu tư vào các khu công nghiệp tập trung như: giảm giá thuê đất, giảm giá kinh doanh cơ sở hạ tầng trong các khu công nghiệp, đa dạng các hình thức thanh toán tiền thuê đất và cơ sở hạ tầng nhằm tạo những thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư. - Đề nghị Nhà nước cho phép mở rộng các lĩnh vực và hình thức thu hút đầu tư nước ngoài, cho phép áp dụng hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài đối với các lĩnh vực trước đây không cho phép xây dựng như: xây dựng và kinh doanh bất động sản (khách sạn, thương mại, văn phòng, căn hộ); vui chơi giải trí…Mở rộng việc khuyến khích triển khai các dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT. - Tạo điều kiện thuận lợi cho phép các dự án tồn đọng lâu, khả năng thực hiện thấp được chuyển nhượng cho các nhà đầu tư khác, chuyển đổi hình thức đầu tư và thậm chí có thể cho chuyển đổi mục tiêu hoạt động của dự án cho phù hợp với những biến động của thị trường. - Tập trung đào tạo nguồn nhân lực bảo đamr cung cấp nhu cầu tuyển dụng của các nhà đầu tư nước ngoài. Đối với thu hút vốn ODA Trong những năm qua, vốn ODA đã góp phần quan trọng trong phát triển các cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội của Hà Nội. Các lĩnh vực thu hút nhiều vốn ODA là: cấp nước, thoát nước, xây dựng hạ tầng đô thị mới, tiếp đến là vệ sinh môi trường, y tế, giáo dục - đào tạo. Trong thời gian tới nguồn vốn viện trợ ODA vẫn có ý nghĩa quan trọng mà chúng ta cần tích cực thu hút để đầu tư phát triển các cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội của Thủ đô. Những biện pháp cần thiết triển khai để cải thiện môi trường, tăng thu hút vốn ODA của Hà Nội là: - Ban hành quy chế quản lý, điều phối và sử dụng thống nhất nguồn vốn ODA. Xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan Nhà nước trong việc thu hút và sử dụng vốn ODA vừa hiệu quả, vừa phù hợp thông lệ quốc tế. - Hoàn thành nhanh chóng các quy hoạch chi tiết trên địa bàn Thủ đô. Tăng cường công tác kế hoạch hoá các chương trình, dự án ODA để chủ động cân đối nguồn vốn ở trong nước từ khâu chuẩn bị đầu tư cho tới quá trình thực hiện chương trình, dự án. Củng cố hệ thống tổ chức và bố trí các cán bộ đủ năng lực làm các công việc quản lý, điều phối và sử dụng vốn ODA, thực hiện nguyên tắc một cửa và đổi mới cách tiếp cận các dự án ODA theo ngành và theo chương trình tổng thể để tránh trùng lắp và sử dụng lãng phí nguồn vốn này. - Nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị, xây dựng các chương trình, dự án đầu tư cần kêu gọi vốn ODA để chủ động kêu gọi các nguồn vốn. - Hoàn thiện chính sách giải phóng mặt bằng, đảm bảo giải phóng mặt bằng tiến độ thực hiện các dự án đầu tư, tạo điều kiện giải ngân nhanh các nguồn vốn ODA để lấy lại cảm tình và lòng tin của các nhà tài trợ. Ban hành các chính sách khuyến khích và sử dụng lực lượng trực tiếp của Nhà nước nhằm hướng dẫn mọi thành phần kinh tế chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo đúng định hướng đã đề ra. - Có chính sách miễn, giảm thuế đối với các hoạt động đầu tư tạo sản phẩm mới, sản phẩm xuất khẩu, đầu tư vào Công nghệ cao, đầu tư vào các ngành mà Thành phố ưu tiên phát triển nhằm cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng đã xác định. - Tạo mọi điều kiện thuận lợi về cung cấp các loại dịch vụ, điều kiện về cơ sở hạ tầng cho phát triển những vùng, những ngành mà Thành phố khuyến khích. - Thành phố tập trung đầu tư trực tiếp hoặc hỗ trợ đầu tư cho các ngành, các lĩnh vực có tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thủ đô theo hướng đã định như Công nghệ thông tin, khoa học Công nghệ, đào tạo nghề,… Tăng cường vai trò của Chính quyền Thành phố trong lĩnh vực đầu tư công cộng; sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ ngân sách. Đầu tư công cộng thường được thể hiện dưới dạng các chương trình đầu tư công cộng nhằm đảm bảo các hàng hoá và dịch vụ công cộng cho toàn xã hội, tạo nên nền tảng ban đầu cho các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh, cũng như hệ thống tổ chức, giáo dục y tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật,… có điều kiện phát triển thuận lợi. Trong điều kiện kinh tế thị trường, một trong những chức năng của Chính quyền các cấp đã được khẳng định là đảm bảo cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng. ở nước ta trong những năm tới các chương trình đầu tư công cộng cần được mở rộng, hơn nữa là với tốc độ nhanh. Trong đó các mục tiêu đầu tư ưu tiên của Thành phố cần tập trung ưu tiên vào kết cấu hạ tầng và dịch vụ công cộng. Do yêu cầu cấp bách của việc cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng, nhu cầu đầu tư của Thành phố cho mục tiêu này hết sức căng thẳng. Để giải quyết được nhiệm vụ này, Thành phố phải xử lý ba vấn đề chủ yếu sau: - Tiết kiệm chi tiêu thường xuyên để nâng cao tỷ lệ ngân sách cho các chương trình đầu tư - Cân nhắc, lựa chọn các mục tiêu đầu tư công cộng để đạt được hiệu quả kinh tế xã hội lớn nhất. - Thực hiện lồng ghép các dự án theo các nguồn vốn và các chủ đầu tư. Tiếp tục đổi mới kế hoạch hoá Công tác kế hoạch hoá trong thời gian tới phải tiếp tục đổi mới theo hướng nâng cao chất lượng xây dựng chiến lược và quy hoạch các ngành, các lĩnh vực của kinh tế Thủ đô. Cần khẩn trương nghiên cứu, xác định vị trí của các ngành, các lĩnh vực trong một chiến lược cơ cấu kinh tế dài hạn để phân bổ vốn đầu tư một cách có hiệu quả. Cần đánh giá tiềm năng lợi thế của các ngành, các lĩnh vực để chủ động trong việc phối hợp cơ cấu kinh tế với các tỉnh trong cả nước, các nước trong khu vực mà trước hết là trong khối ASEAN. Mở rộng và hoàn thiện các phương pháp kế hoạch hoá theo chương trình và dự án để tập trung nguồn lực còn hạn hẹp vào mục tiêu cần ưu tiên của kế hoạch Nhà nước. Khuyến khích đầu tư FDI một cách có lựa chọn và nâng cao hiệu quả sử dụng chúng. Để thu hút vốn FDI đầu tư theo hướng chuyển dịch cơ cấu đầu tư, trước hết cần tiến hành đánh giá tình hình thực hiện vốn đầu tư của các dự án trên giác độ phù hợp với quy hoạch phát triển của các ngành, các lĩnh vực ưu tiên để từ đó xác định yêu cầu của việc phân phối lại vốn và dự án. Bước tiếp theo là tiến hành nghiên cứu và xây dựng danh mục các dự án trọng điểm theo hướng chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo thứ tự ưu tiên. Cùng với việc tiếp tục hoàn thiện môi trường đầu tư cần đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư bằng nhiều hình thức. Mục tiêu mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm nhiều nhất là lợi nhuận, còn về phía Việt Nam, một trong những khai thác quan trọng từ FDI là nhằm cấu trúc lại nền kinh tế Thủ đô. Hai mục tiêu đó thường có xu hướng xa rời nhau và tất nhiên vấn đề quan trọng là phải có biện pháp để kéo gần lại. Thực tế đã chỉ rõ, chính sách về ưu đãi thuế là một công cụ hiệu quả để điều chỉnh mối quan hệ giữa hai mục tiêu cuả hai phía. Các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm đến chính sách ưu đãi về thuế, vì đó là ưu đãi cụ thể, chi tiết và hữu hình nhất, ổn định lâu dài được pháp luật đảm bảo. Theo hướng này không nên xác định sự tiếp nhận vốn đầu tư phụ thuộc vào khu vực địa lý hay ngành nghề mà cần phân biệt các mức độ ưu đãi khác nhau được khuyến khích đầu tư. - Cần đặc biệt chú trọng đầu tư trong nước Trong điều kiện thiếu vốn gay gắt, việc khuyến khích đầu tư nước ngoài là hết sức quan trọng. Song dù nguồn vốn nước ngoài lớn thì vốn trong nước vẫn chiếm vị trí quyết định, có tính bền vững, lâu dài. Do đó, đầu tư trong nước phải thật sự được coi trọng. Vấn đề đặt ra hiện nay là giải quyết mối quan hệ giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài như thế nào cho hợp lý. Việc đẩy mạnh đầu tư trong nước hoàn toàn không mâu thuẫn với chiến lược tăng trưởng hướng về xuất khẩu, mặc dù Công nghệ của ta còn ở trình độ thấp. Xét trên phương diện một số sản phẩm nào đó, sản xuất trong nước có thê chia làm 3 mức độ: Hoàn toàn chưa sản xuất được trong khi thị trường trong nước và xuất khẩu đang đòi hỏi lớn. Đối với những sản phẩm đó, việc khuyến khích đầu tư nước ngoài là hết sức cần thiết cả về phương diện vốn đầu tư cả phương diện kỹ thuật – Công nghệ. Đã sản xuất được song chưa vươn lên trình độ khu vực và thế giới. Đối với những sản phẩm đó, cần thiết kêu gọi đầu tư nước ngoài ở một mức độ nhất định, vừa khai thác lợi thế so sánh phục vụ xuất khẩu, vừa tạo môi trường cạnh tranh cần thiết cho sản xuất trong nước vươn lên trình độ quốctế. Đã sản xuất được với trình độ khá cao, có thể cạnh tranh với sản phẩm nước ngoài. Với sản phẩm đó, cần hạn chế đầu tư nước ngoài đến mức mà dành phần ưu tiên khyến khích đầu tư trong nước. Để khuyến khích đầu tư trong nước, Thành phố cần phải tạo ra môi trường thuận lợi, có chính sách ưu đãi đối với các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, không khác gì so với cơ chế ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài. Để các doanh nghiệp trong nước có mức lợi nhuận thoả đáng, Nhà nước cần hỗ trợ trên các mặt chủ yếu sau: - Thực hiện quy chế ưu đãi có thứ tự ưu tiên theo định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã được định hướng. - Hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp một cách bình đẳng giữa các thành phần kinh tế bằng các chính sách kinh tế như: tín dụng, mặt bằng sản xuất, khoa học – Công nghệ, đào tạo nhân lực,… Phát triển nguồn nhân lực Phát triển nguồn nhân lực trong thời gian tới cần chú ý cả về số lượng và chất lượng. Cần nâng cao thể lực toàn diện nguồn nhân lực trên cơ sở đảm bảo về dinh dưỡng, về dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ. Nâng cao trình độ học vấn của nguồn nhân lực bằng các biện pháp như: cải thiện điều kiện giáo dục đối với lứa tuổi đến trường, tăng cường công tác giáo dục thường xuyên (bao gồm cả xoá nạn mù chữ), mở rộng các hình thức đào tạo nghề và nâng cao kỹ năng trình độ nghề nghiệp của nguồn nhân lực, đào tạo cán bộ chuyên môn khoa học kỹ thuật. Mở rộng quy mô đào tạo các chủ doanh nghiệp, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn đối với đội ngũ công chức Nhà nước phát triển nguồn nhân lực cần chú trọng đến cơ cấu, đặc biệt là cơ cấu ngành nghề, để chuẩn bị, đón đầu cho từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cùng với việc phát triển nguồn nhân lực trong nước, cần ra sức tranh thủ lực lượng các nhà khoa học người Việt sống ở nước ngoài (khoảng 400.000 người), giúp họ có cơ hội gây dựng sự nghiệp lớn cho bản thân và cho quê hương bản quán. Trước mắt cần xúc tiến nhanh việc thành lập các tổ tư vấn về khoa học Công nghệ phục vụ việc chuyển giao Công nghệ vào thành phố đạt kết quả cao. 5. Các giải pháp về sử dụng vốn đầu tư. Đây cũng là một giải pháp quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Giải pháp này dựa trên việc phát huy độ “mở” của cơ cấu kinh tế. Chỉ trên cơ sở mở rộng được thị trường mới có thể thực hiện được các định hướng và các mục tiêu kinh tế xã hội đồng thời cũng góp phần thúc đẩy việc hình thành các ngành “cực tăng trưởng” cho Thủ đô. Trong giai đoạn 2001-2010 để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, Hà Nội cần triệt để khai thác thị trường các khu vực, thúc đẩy mối quan hệ bạn hàng vốn sẵn có, nâng cao năng lực sản xuất phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. 5.1. Đối với thị trường trong nước Việc mở rộng thị trường Hà Nội phải trên cơ sở phân tích lợi thế so sánh của thị trường Hà Nội với thị trường các vùng trong nước và trên quan điểm liên kết hợp tác và hỗ trợ để cùng nhau phát triển. Với đặc điểm về vị trí địa lý tự nhiên, về giao thông vận tải và tiềm năng kinh tế, thị trường Hà Nội cần mở rộng và liên kết với thị trường Hải Phòng và Quảng Ninh để hình thành một trục phát triển nòng cốt về kinh tế – thương mại, có vai trò động lực và dẫn dắt thị trường khu vực Bắc Bộ và cả nước phát triển. Việc liên kết này là toàn diện, nhưng cần đặc biệt quan tâm trong việc liên kết các hoạt động xuất nhập khẩu. Với lợi thế so sánh của thị trường Hà Nội, cần mở rộng mối liên kết và hỗ trợ với thị trường các tỉnh thuộc khu vực Bắc Bộ, trong đó thị trường Hà Nội giữ vai trò là thị trường trung tâm, thị trường buôn bán phát luồng ở khu vực phía Bắc nước ta. Nhìn chung, trong việc mở rộng thị trường, Hà Nội cần chú ý mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá sản xuất của Hà Nội và thu mua nguyên vật liệu, hàng hoá của các địa phương khác sản xuất, phục vụ cho sản xuất, đời sống và xuất khẩu của Hà Nội. Trong việc tiêu thụ hàng hoá sản xuất của Hà Nội, phải làm tốt việc tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu và tổ chức tốt các kênh lưu thông để cung cấp hàng hoá thuận tiện cho người tiêu dùng và cần chú ý thị trường khu vực Bắc Bộ mà Hà Nội có thế mạnh. Trong việc thu mua nguyên vật liệu và hàng hoá của các địa phương sản xuất cần phát huy thế mạnh của Hà Nội là đầu mối giao lưu hàng hoá và đầu mối phát luồng lớn nhất ở phía Bắc, cho nên không chỉ là việc thu mua đơn thuần mà quan trọng là việc liên kết và tổ chức khơi nguồn hàng, giúp đỡ tạo ra vùng sản xuất nguyên liệu và hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu tiêu thụ của thị trường Hà Nội, thị trường xuất khẩu và các thị thị trường khác trong nước. Hình thức liên kết giữa Hà Nội và các địa phương để khơi nguồn hàng rất phong phú và đa dạng như góp vốn liên doanh, ký kết hợp đồng dài hạn, các địa phương sản xuất thô, Hà Nội sản xuất tinh,… 5.2. Đối với thị trường ngoài nước. - Với đặc điểm là trung tâm giao lưu hàng hoá, đầu mối xuất nhập khẩu trong nước và của miền Bắc, vai trò về xuất nhập khẩu hàng hoá của Hà Nội rất lớn. Để mở rộng thị trường ra nước ngoài, Hà Nội cần làm tốt việc tiếp thị, tìm hiểu nhu cầu về hàng hoá Việt Nam, về hàng hóa sản xuất ở Bắc Bộ, ở thị trường thế giới, ở các thị trường trong khu vực. Một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện mục đích đó là xây dựng “trung tâm thương mại quốc tế” ở Thủ đô nhằm thông tin tiếp thị, tư vấn, giao dịch và tạo ra các mối quan hệ, ký kết hợp đồng thương mại quốc tế. Trước đây Hà Nội có thế mạnh xuất khẩu hàng hóa sang thị trường các nước Đông âu. Đây là thị trường truyền thống, có tiềm năng tiêu thụ lớn hàng hoá của Hà Nội và Bắc Bộ. Trong tương lai cần dần phục hồi xuất khẩu các thị trường này, nâng cao chất lượng và mẫu mã để có sức cạnh tranh lớn hơn. - Thị trường phía Nam Trung Quốc là thị trường rộng lớn, tiếp giáp với Miền Bắc, có tiềm năng tiêu thụ hàng hoá rất đa dạng, kể cả các loại hàng hoá có chất lượng không cao. Trong thời gian qua thị trường này mới chủ yếu tiêu thụ hàng lương thực thực phẩm và hàng nguyên liệu. Trong thời gian tới Hà Nội cần mở rộng xuất khẩu sang các loại mặt hàng thực phẩm chế biến và các loại hàng công nghệ phẩm mà Hà Nội có thế mạnh như cơ khí tiêu dùng, điện tử,… - Thị trường các nước Đông Bắc á và Đông Nam á là các thị trường mới phát triển và tiêu thụ tỷ trọng hàng xuất khẩu của Hà Nội trong những năm gần đây, cần được tiếp tục đầu tư mở rộng những mặt hàng mà Hà Nội có thế mạnh như hàng may mặc, dagiày, thủ công mỹ nghệ, thực phẩm và thực phẩm chế biến,… Với việc đẩy mạnh đầu tư mở rộng thị trường trong nứoc và ra nước ngoài, trong thời gian tới, đầu tư xây dựng thị trường Thủ đô thành trung tâm giao lưu kinh tế với trong nước và nước ngoài vào loại lớn nhất cả nước, với bộ mặt thị trường văn minh, hiện đại và hệ thống các loại hình thị trường tương đối đầy đủ, tạo nên sức hút đầu tư và thương mại đối với các vùng trong cả nước và với các nhà đầu tư nước ngoài. Kết luận Q ua hơn 10 năm đổi mới, cùng với cả nước trong quá trình hướng tới mục tiêu từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước Công nghiệp...Trong cơ cấu kinh tế, tuy Nông nghiệp liên tục phát triển mạnh, song Công nghiệp và dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng rất lớn trong GDP và lao động xã hội, Thủ đô Hà Nội đã đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhìn chung trong suốt thời gian qua cơ cấu kinh tế của Thủ đô Hà Nội bước đầu đã có sự thay đổi về chất. Tỷ trọng Nông nghiệp giảm đi, tỷ trọng các ngành Công nghiệp tăng đáng kể. Cùng với sự đi lên của các ngành công nghiệp, khối ngành dịch vụ đã có những hướng phát triển mới, tạo sự thay đổi căn bản về bộ mặt của Thủ đô và nâng cao đời sống của nhân dân thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, những kết quả đó chỉ là bước đầu, Hà Nội vẫn còn phải đương đầu với những khó khăn và thách thức lớn: công nghiệp chưa thực sự giữ vai trò đầu tàu phát triển, mối quan hệ công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ chưa gắn bó chặt chẽ...Để có một cơ cấu kinh tế hợp lý tạo cơ sở cho tăng trưởng và phát triển kinh tế,xứng đáng với vai trò là trung tâm đầu não về chính trị, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, đồng thời là một trung tâm lớn về kinh tế, một trung tâm giao dịch quốc tế của cả nước. Hà Nội cần tiếp tục thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thực hiện điều này đòi hỏi sự khai thác, vận dụng tổng hợp các tiềm năng sẵn có và những điều kiện thuận lợi từ bên ngoài. Tài liệu tham khảo Giáo trình kinh tế đầu tư - Th.S Từ Quang Phương- Nhà xuất bản thống kê Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX - NXB Chính trị quốc gia – 1996, 2001. Nghị quyết 15-NQ/TW của Bộ Chính trị Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển các ngành trọng điểm mũi nhọn ở Việt Nam. Chủ biên: Đỗ Hoài Nam – NXB Khoa học xã hội – 1996. Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội thành phố Hà Nội giai đoạn 2001-2010 Số liệu Kinh tế xã hội của Thủ đô Hà Nội – Cục thống kê Hà Nội - 1997,1998, 1999, 2000 Các nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ CNH ở Việt Nam – Chủ biên: Bùi Tất Thắng – NXB Khoa học xã hội – 1997. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với kinh tế thế giới - Đồng chủ biên: Lê Du Phong – Nguyễn Thành Đô - NXB Chính trị quốc gia – 1999. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH nền KTQD. Nguyễn Đình Giao – NXB Chính trị quốc gia – 1994. Hà Nội niên giám Thống kê - Cục Thống kê Hà Nội – 2001 Luận văn các khoá 39, 40 thuộc khoa Kinh tế đầu tư. Bài viết ở một số báo, tạp chí và Website. Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37008.doc
Tài liệu liên quan