MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CTCK : Công ty chứng khoán
TTGDCK : Thị trường giao dịch chứng khoán
SGDCK : Sở giao dịch chứng khoán
TTCK : Thị trường chứng khoán
SHS : Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội
UBCKNN : Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Biểu đồ 1.1: Đường MACD 21
Biểu đồ 1.2: Đường RSI 22
Biểu đồ 1.3: Dải Bollinger Bands 23
Biểu Đồ : Tình hình phân chia vốn đầu tư cho các nghành trong năm 2008 của SHS. 74
Bảng: Danh mục đầu tư năm 2008 84
Sơ đồ
119 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1588 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh tại Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội (SHS), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1.1: Mô hình tự doanh 2 cấp 29
Sơ đồ 1.2. Mô hình tự doanh 3 cấp 30
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán Việt Nam trong những năm gần đây có sự phất triển vượt bậc cả chất và lượng,thể hiện trước nhất là quy mô của thị trường tăng nhanh và mạnh nếu trong năm 2006 mức vốn hóa của thị trường chứng khoán chiếm 22.7% GDP thì năm 2007 đã tăng lên trên 43% GDP.Các công ty chứng khoán nhanh chóng được thành lập sự ra đời của các công ty này trước hết đáp ứng được sự quá tải trong việc khối lương giao dịch tăng cao.Ngoài các nghiệp vụ chính của mình thì một số công ty chứng khoán đã tiến hành hoạt động tự doanh chứng khoán cho chính công ty của mình với mục tiêu đem lại lợi nhuận cho công ty cũng như đóng vai trò là những nhà tạo lập thị trường để đem lại sự ổn định trên thị trường chứng khoán
Trong hai năm 2006-2007 các công ty tham gia vào hoạt động tự doanh đều đem lại mức lợi nhuận khá lớn trong tỏng số lợi nhuận.điều này khẳng địnhvai trò ngày cáng quan trọng của hoạt động tự doanh ,tuy nhiên hoạt động này vẫn còn những hạn chế nhất định như rủi ro kha lớn,lợi nhuận cố thể tăng giảm không ổn định như trong năm 2008 một năm đen tối của thị trường chứng khoán Việt Nam mặc dù có những chuyển biến tích cực vào thời điểm cuối năm 2008 và đầu năm 2009.
Do vậy,để hiểu rõ hơn về phương pháp ,quy trình tiến hành hoạt động tự doanh,tôi đã quyết định chọn đề tài: Đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh tại công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội (SHS) để làm đề tài nghiên cứu chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Vì vậy để hiểu rõ vai trò hoạt động tự doanh trong các công ty chứng khoán thì chúng ta sẽ đi những nội dung chính sau:
CHƯƠNG I :ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN VÀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN THÔNG QUA NGHIỆP VỤ TỰ DOANH
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN THÔNG QUA NGHIỆP VỤ TỰ DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN SHS
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN THÔNG QUA NGHIỆP VỤ TỰ DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN SÀI GÒN HÀ NỘI
Để hoàn thành tốt chuyên đề này tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dần nhiệt tình của Giảng viên – Thạc Sĩ Lương Hương Giang cùng sự giúp đỡ của các anh chị trong phòng phân tích của Công Ty Cổ Phần Chứng Khoán Sài Gòn – Hà Nội (SHS)
Hà Nội, ngày 07 tháng 05 năm 2009
CHƯƠNG I
ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN VÀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN THÔNG QUA NGHIỆP VỤ TỰ DOANH
I. ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN VÀ NỘI DUNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN.
1. KHÁI NIỆM.
Đầu tư là việc chi dùng vốn cùng các nguồn lực (lao động, vốn...) trong hiện tại để tiến hành một hoạt động sản xuất kinh doanh ,dịch vụ nào đó nhằm thu về những lợi ích trong tương lai lớn hơn những nguồn lực đã bỏ ra.
Đầu tư chứng khoán là quá trình phân tích chứng khoán để đưa đến quyết định đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu,chứng chỉ quỹ, chứng khoán phái sinh nhằm đạt được một mức tỷ suất lợi nhuận hợp lý phù hợp với mức độ rủi ro của khoản đầu tư/ danh mục đầu tư trong một thời kỳ.
2. CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN.
2.1. PHÂN LOẠI THEO THỜI GIAN ĐẦU TƯ.
* Đầu tư ngắn hạn là hình thức đầu tư diễn ra trong một thời gian ngắn. Nghĩa là họ tiến hành hoạt động đầu tư chứng khoán thông qua việc giao dịch đặt lệnh trong 5 phiên, 10 phiên, 20 phiên hay 1 tháng.
Đó là hình thức đầu tư mà người đầu tư chứng khoán thường phải thường xuyên bám sát diễn biến, sự vận động của các cổ phiếu blue-chip đóng vai trò chi phối thị trường. Họ thường thông qua các xu huớng biến động giá cũng như khối lượng giao dịch hàng ngày để đưa ra các giao dịch mua, bán hay giữ cổ phiếu.
Điển hình trong hình thức đầu tư này là hình thức đầu tư “lướt sóng”.Ở hình thức đầu tư này thì các nhà đầu tư phải nghiên cứu kĩ hơn về thị trường trong một thời gian dài.Ngoài ra các nhà đầu tư cũng pphair mất nhiều công sức vào việc cập nhập thông tin để ra quyết định có nên bán hay mua loại chứng khoán nào đó hay không.
* Đầu tư dài hạn. Đó là hình thức đầu tư và nắm giữ chứng khoán trong một thời gian tương đối dài từ 6 tháng, 1 năm , 2 năm và có thể lâu hơn nữa. Vì xuất phát từ quan điểm của nhà đầu tư nhìn về xu hướng phát triển của thị trường trong một thời gian dài, cũng như sự phát triển của các công ty.
Những nhà đầu tư kiểu này thương quan tâm đến tình hình phát triển của nền kinh tế thế giới, của nền kinh tế trong nước, của chiến lược phát triển của thị trường chứng khoán, cũng như tình hình phát triển của ngành và công ty mà họ đang chuẩn bị tiến hành hoạt động đầu tư. Họ thường xác định rõ mức độ rủi ro và mức sinh lời dự kiến trong một khoảng thời gian nhất định.
Đầu tư dài hạn thì kỳ vọng ở sự phát triển của thị trường nói chung và đặc biệt là của công ty niêm yết mà mình đã đầu tư nói riêng. Đầu tư theo kiểu này đỡ phải đầu tư thời gian công sức hơn. Tuy nhiên, rất khó thu được lợi nhuận lớn, thường chỉ đạt lợi nhuận bình quân, bởi tốc độ tăng giá của các loại chứng khoán cao, thấp rất khác nhau, trong khi loại này tăng thì loại kia bị giảm.
2.2. PHÂN LOẠI THEO HÌNH THỨC ĐẦU TƯ.
* Hình thức đầu tư chứng khoán trực tiếp. là quá trình nhà đầu tư mua cổ phiếu của một hay nhiều công ty cổ phần đơn lẻ, tự tạo cho mình danh mục đầu tư cá nhân.Trong hình thức này thì nhà đầu tư tự lựa chọn và ra quyết định của riêng mình,việc này đòi hỏi nhà đầu tư phải có nhiều kinh nghiệm và lợi thế của hình thức này là chi phí của nó thấp
* Hình thức đầu tư gián tiếp. Là nhà đầu tư mua một hay nhiều gói hàng hỗn hợp của một hay nhiều quỹ đầu tư. Tùy theo mức độ rủi ro của các gói hàng hỗn hợp có thể bao gồm cổ phiếu các công ty, trái phiếu các loại, chứng chỉ quỹ, tiền mặt, ngoại tệ…theo tỷ lệ thay đổi linh hoạt vào từng thời kỳ.Ở hình thức này thì mặc dù mức độ rủi ro có giảm đi đáng kể nhưng chi phí cho nỏ là cung khá cao do vậy mà nó chỉ dành cho những nhà đầu tư ít có thời gian bám sát thị trường.
3. NỘI DUNG CỦA ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN.
3.1 ĐẦU TƯ CỔ PHIẾU.
Đầu tư cổ phiếu thường đầu tư thông qua hình thức đầu tư cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng khoán ( Trung Tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội và Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh ) hoặc đầu tư cổ phiếu trên thị trường OTC ( là thị trường chưa niêm yết).
Đầu tư cổ phiếu trên sàn giao dịch bằng cách tiến hành hoạt động mua bán trực tiếp thông qua các tài khoản giao dịch chứng khoán.
Có thể đầu tư các loại cổ phiếu sau:
Đầu tư mua cổ phiếu của những công ty nhỏ
Tiềm năng tăng giá là sự hấp dẫn các nhà đầu tư áp dụng chiến lược này. Những công ty nhỏ có xu hướng đạt được mức lợi nhuận cao hơn công ty lớn, nhất là trong thời kỳ lạm phát kéo dài và nằm ở mức cao. Tuy nhiên, cổ phiếu của các công ty nhỏ có xu hướng mất giá nhiều hơn so với cổ phiếu của các công ty lớn trong giai đoạn này. Loại cổ phiếu này sẽ phù hợp hơn nếu nhà đầu tư sử dụng hình thức đầu tư lướt sóng.
Đầu tư mua cổ phiếu tăng trưởng
Cổ phiếu tăng trưởng là cổ phiếu của những công ty có doanh số, thu nhập và thị phần đang tăng với tốc độ nhanh hơn bình quân trong vài năm qua và người ta mong rằng nó còn tiếp tục chứng tỏ mức tăng trưởng lợi nhuận cao. Các công ty này thường quan tâm đến việc mở rộng và phát triển cho nên phần lớn lợi nhuận được giữ lại để tái đầu tư.Điều này có thể dẫn tới là lợi nhuận của các nhà đầu tư trong hiện tại sẽ bị thâm hụt nhưng trong tương lai khả năng tăng giá của các cổ phiếu này là rất cao
Thông thường, các công ty tăng trưởng có tỷ số P/E cao; vốn cổ phần lớn hơn hoặc bằng tổng nợ; tăng trưởng đều đặn, không ngừng trong thu nhập tính theo đầu cổ phiếu ít nhất là 10%/năm.Do vậy mà những cổ phiếu loại này không phải mua để bán.
Đầu tư mua cổ phiếu thượng đẳng
Cổ phiếu thượng đẳng là cổ phiếu của các công ty lớn có tiếng tăm, tiềm lực tài chính mạnh, thành tích kinh doanh vững chắc, lợi nhuận ổn định. Việc nắm giữ cổ phiếu này sẽ giảm thiểu yếu tố rủi ro, ngay cả trong thời kỳ suy thoái hay khủng hoảng kinh tế, nhưng thành tích của nó hiếm khi nổi bật. Chiến lược này phù hợp với những nhà đầu tư ngại rủi ro và muốn có thu nhập đều đặn tuy vậy nó cũng đòi hỏi nhà đầu tư có tiềm lực tài chính ổn định vì giá của các cổ phiếu thuộc loại này thường không thấp và quá trình vốn chết dài
3.2.ĐẦU TƯ TRÁI PHIẾU.
Đầu tư vào trái phiếu có độ rủi ro khá thấp so với cổ phiếu và có mức lãi suất hẫp dẫn hơn lãi suất ngân hàng.Các công cụ nợ quan trọng nhất trên thị trường vốn là trái phiếu trong nước và quốc tế. Đối với các nước trên thế giới, nguồn tài trợ này đã chứng tỏ là kênh huy động vốn dài hạn chủ yếu và hiệu quả cho các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng. Nó cũng cho phép các công ty huy động một lượng vốn lớn trong ngắn hạn.
3.3.ĐẦU TƯ CHỨNG CHỈ QUỸ.
Hiện nay thì đầu tư vào chứng chỉ quỹ cũng khá hấp dẫn nhờ tính chuyên nghiệp của quỹ đầu tư chứng khoán và thị giá cũng khá thấp và mức trả cổ tức cũng khá cao.
Chứng chỉ quỹ là một mặt hàng ngày càng được ưa chuộng trên thị trường này. Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp trong quỹ đại chúng.
Quỹ đại chúng là quỹ đầu tư chứng khoán hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đa dạng hóa đầu tư vào chứng khoán hoặc các dạng tài sản đầu tư khác nhau nhằm phân tán rủi ro, trong đó nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hàng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ. Khi muốn thành lập quỹ thì các công ty quản lý quỹ phải phát hành chứng chỉ quỹ, nhà đầu tư mua chứng chỉ quỹ tức là đã xác nhận sự góp vốn của mình vào quỹ chung đó. Về bản chất chứng khoán quỹ cũng giống như cổ phiếu của một công ty: là bằng chứng xác nhận quyền sở hữu, hưởng lợi nhuận trên phần vốn góp, và đặc biệt được niêm yết trên thị trường chứng khoán để mua bán giữa các nhà đầu tư.
Tuy nhiên có ba điểm khác nhau giữa chúng: cổ phiếu là phương tiện huy động vốn của một công ty kinh doanh một vài ngành nghề cụ thể còn chứng chỉ quỹ là phương tiện để thành lập quỹ của một quỹ đầu tư chứng khoán mà ngành nghề hoạt động chính là "chơi chứng khoán". Thứ hai, nếu người sở hữu cổ phiếu phổ thông có quyền biểu quyết hay quản lý công ty thì nhà đầu tư sở hữu chứng khoán quỹ không có quyền tương tự, mọi quyền hành đều do công ty quản lý quỹ quyết định.
3.4.ĐẦU TƯ VÀO CÔNG CỤ PHÁI SINH.
Nhắc đến chứng khoán, mọi người thường chỉ nghĩ đến cổ phiếu, trái phiếu như những công cụ đầu tư hiệu quả, trong khi thị trường chứng khoán còn rất bao la, mà cổ phiếu, trái phiếu chỉ là một vài trong số đó. Còn vô số những khái niệm và công cụ đầu tư khác phải kể đến, mà chứng khoán phái sinh chính là yếu tố quan trọng đầu tiên không thể bỏ qua.
Chứng khoán phái sinh (derivatives) là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu, nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Các chứng khoán phái sinh sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu, hoặc để đảm bảo rằng nếu giá của cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính, như quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn. Các công cụ phái sinh rất phong phú và đa dạng, nhưng có bốn công cụ chính là Hợp đồng kỳ hạn (forwards), Hợp đồng tương lai (futures), Quyền chọn mua hoặc bán (options) và Hợp đồng hoán đổi (swaps). Ngày nay khi thị trường chứng khoán biến động từng giây từng phút thì việc nắm trong tay những công cụ phái sinh là một biện pháp khôn ngoan để đối phó với rủi ro.
II. HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN THÔNG QUA NGHIỆP VỤ TỰ DOANH TAI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN .
1. CÔNG TY CHỨNG KHOÁN.
1.1. KHÁI NIỆM.
Công ty chứng khoán là tổ chức tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán,các công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần theo quy định của luật doanh nghiệp
1.2.CÁC NGHIỆP VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
* Môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động kinh doanh chứng khoán trong đó một CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với những hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.
* Tự doanh chứng khoán
Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các giao dịch mua bán các chứng khoán cho chính mình.
Hoạt động tự doanh của CTCK có thể được thực hiện trên các thị trường giao dịch tập trung (TTGDCK, SGDCK), hoặc trên thị trường OTC…Trên thị trường giao dịch tập trung, lện giao dịch của các CTCK được đưa vào hệ thống và thực hiện tương tự như lệnh giao dịch của các khách hàng. Trên thị trường OTC, các hoạt động này có thể được thực hiện trực tiếp giữa công ty với các đối tác hoặc thông qua một hệ thống mạng thông tin. Tại một số nước, hoạt động tự doanh của các CTCK còn được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường (ví dụ như ở Mỹ). Trong hoạt động này, CTCK đóng vai trò nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán với các khách hàng nhằm hưởng phí giao dịch và hưởng chênh lệch giá.
Các loại hình tự doanh chứng khoán
Hoạt động đầu tư ngân quỹ: Do chứng khoán là các tài sản có tính thanh khoản cao nên thay vì nắm giữ lượng tiền mặt nhàn rỗi khồng thể sinh lời, các CTCK thực hiện nắm giữ các chứng khoán theo các danh mục đầu tư, hoạt động này vừa hưởng lợi lại có thể chuyển đổi sang tiền mặt khi cần.
Đầu tư hưởng lợi: Bất kỳ một nhà đầu tư dù là cá nhân hay tổ chức khi đầu tư cũng đều nhằm mục đích này và lợi nhuận mang lại từ trái tức, cổ tức hay phần chênh lệch giá. Đầu tư hưởng lơi bao gồm:
Hoạt động kinh doanh chênh lệch giá: Kinh doanh chênh lệch giá là việc các nhà đầu tư mua chứng khoán ở một mức giá thấp và bán chúng ở một mức giá cao hơn hoặc mua chứng khoán ở một nơi có có mức giá thấp và bán chúng ở một nơi có mức giá cao hơn, phần lợi nhuận thu về là phần chênh lệch giá.
Hoạt động đầu cơ: Hoạt động đầu cơ được các nhà đầu cơ sử dụng với hi vọng kiếm được lợi nhuận thông qua hành vi chấp nhận rủi ro về giá chứng khoán. Tức là mua nhiều chứng khoán vào thời điểm giá thấp và bán chúng với giá cao trong tương lai.
- Hoạt động đầu tư phòng vệ: Là hoạt động nhằm tự bảo vệ trước sự biến động của giá chứng khoán của các nhà đầu tư tham gia thị trường. Để có thể thực hiện được mục đích của mình, các nhà đầu tư phòng vệ phải sử dụng đến các công cụ phòng vệ như option, future, swap,…các công cụ này sẽ cho phép các nhà đầu tư bảo vệ mình trước những sự biến động theo chiều hướng không thuận lợi của giá chứng khoán.
Hoạt động tạo lập thị trường: Nhiệm vụ của các nhà hoạt động tạo lập thị trường là tạo tính thanh khoản cho thị trường thông qua việc nắm giữ một lượng chứng khoán để sẵn sàng giao dịch với khách hàng.
Hoạt động đầu tư nắm quyền kiểm soát: Các nhà đầu tư thường chấp nhận bỏ ra một chi phí lớn để nắm được quyền kiểm soát và trong tương lai dễ dàng điều tiết và thu được những nguồn lợi cao như mong muốn. Mục đích của họ không chỉ nhằm vào các công ty đang hoạt động trên thị trường mà còn thực hiện đầu tư nắm giữ các công ty mới thành lập, hoặc các công ty sắp phá sản…để thực hiện hoạt động thâu tóm sát nhập, tận dụng ưu thế trên thị trường và thương hiệu trước đó của các công ty bị thâu tóm, nắm quyền kiểm soát.
Mục đích của hoạt động tự doanh
Mục đích của hoạt động tự doanh của các CTCK nhằm thu lợi cho chính mình. Tuy nhiên, để đảm bảo sự ổn định và tính minh bạch của thị trường, pháp luật các nước đều yêu cầu các CTCK khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định ngoài các điều kiện về vốn và con người.
Tách biệt quản lý:
Các CTCK phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự doanh và nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động. Sự tách bạch này bao gồm cả yếu tố con người và các quy trình nghiệp vụ. Bên cạnh đó các CTCK phải đảm bảo sự tách bạch về tài sản của khách hàng với tài sản của chính công ty.
Ưu tiên khách hàng.
Pháp luật của hầu hết các nước đều yêu cầu CTCK phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên cho khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Điều đó có nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của công ty. Nguyên tắc này đảm bảo sự công bằng cho các khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán.
Bình ổn thị trường .
Do tính đặc thù của TTCK, đặc biệt là các TTCK mới nổi bao gồm chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ thì tính chuyên nghiệp trong hoạt động tự doanh không cao. Điều này rất dễ dẫn đến những biến động bất thường trên thị trường. Vì vậy, bên cạnh với tư cách là một nhà đầu tư lớn và chuyên nghiệp trên thị trường, các CTCK với khả năng chuyên môn và nguồn vốn lớn của mình có thể thông qua hoạt động tự doanh góp phần rất lớn trong việc điều tiết cung cầu, bình ổn giá cả của các loại chứng khoán trên thị trường.
Bên cạnh đó, các CTCK còn phải tuân thủ một số quy định khác như giới hạn về đầu tư, lĩnh vực đầu tư,…Mục đích của các quy định này là nhằm đảm bảo một độ an toàn nhất định cho các CTCK trong quá trình hoạt động tự doanh động, tránh những sự đổ vỡ gây thiệt hại chung cho cả thị trường.
*Bảo lãnh phát hành chứng khoán
Để thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoán ra công chúng đòi hỏi tổ chức phát hành phải cần đến các CTCK tư vấn cho đợt phát hành và thực hiện bảo lãnh, phân phối chứng khoán ra công chúng. Đây chính là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của CTCK và là nghiệp vụ chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng doanh thu của CTCK.
*Tư vấn đầu tư chứng khoán
Cũng như các loại hình tư vấn khác, tư vấn đầu tư chứng khoán là việc CTCK thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng.
Hoạt động tư vấn chứng khoán được phân loại theo các tiêu chí sau:
Theo hình thức của hoạt động tư vấn: bao gồm tư vấn trực tiếp (gặp gỡ khách hàng trực tiếp hoặc thông qua thư tín điện thoại) và tư vấn gián tiếp (thông qua các ấn phẩm sách báo) để tư vấn cho khách hàng.
Theo mức độ ủy quyền của tư vấn: bao gồm tư vấn gợi ý (gợi ý cho khách hàng về phương cách đầu tư hợp lý, quyết định đầu tư là của khách hàng) và tư vấn ủy quyền (vừa tư vấn vừa quyết định theo sự phân cấp, ủy quyền thực hiện của khách hàng).
Theo đối tượng của hoạt động tư vấn: bao gồm tư vấn cho người phát hành (tư vấn cho tổ chức dự kiến phát hành: cách thức,hình thức phát hành, xây dựng hồ sơ, bản cáo bách và giúp tổ chức phát hành trong việc lựa chọn tổ chức bảo lãnh, phân phối chứng khoán) và tư vấn đầu tư (tư vấn cho khách hàng đầu tư chứng khoán trên thị trường thứ cấp về giá, thời gian, định hướng đầu tư vào các loại chứng khoán ).
*Các hoạt động phụ trợ khác
- Lưu ký chứng khoán
Là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài koản lưu ký chứng khoán. Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng khoán, bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các công ty chứng khoán (nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức ghi sổ) hoặc ký gửi các chứng khoán (nếu phát hành dưới hình thức chứng chỉ vật chất). Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ nhận được các khoản thu phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán.
Nghiệp vụ tín dụng
Đối với các TTCK phát triển, bên cạnh nghiệp vụ môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, CTCK còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện giao dịch bán khống (short sale) hoặc cho khách hàng vay tiền để khách hàng thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ (margin purchase).
- Nghiệp vụ quản lý quỹ
Ở một số TTCK,pháp luật về TTCK còn cho phép CTCK được thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư.Theo đó CTCK cử đại diện của mình để quản lý quỹ,sử dụng vốn và tài sản của quỹ đầu tư để đầu tư vào chứng khoán.CTCK được thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu tư.
2.QUY TRÌNH VÀ THỦ TỤC THỰC HIỆN ĐẦU TƯ THEO PHƯƠNG THỨC TỰ DOANH
2.1.QUY TRÌNH THỰC HIỆN ĐẦU TƯ THEO PHƯƠNG THỨC TỰ DOANH.
Thực chất của hoạt động tự doanh chứng khoán là đầu tư thông qua danh mục đầu tư của mình. Cũng như các hoạt động nghiệp vụ khác, hoạt động tự doanh không có một quy trình chuẩn hay bắt buộc nào. Các CTCK, tùy thuộc vào cơ cấu tổ chức của mình sẽ có các quy trình nghiệp vụ riêng, phù hợp. Tuy nhiên,trên giác độ chung nhất, bất kỳ một CTCK nào có hoạt động tự doanh cũng đều có những bộ phận chuyên gia nghiên cứu phân tích để đưa ra các dự đoán có tác động trực tiếp tới các quyết định đầu tư. Nghiên cứu đầu tư tập trung vào việc nghiên cứu và dự đoán các yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến việc đầu tư như lãi suất, tỷ giá,…dự đoán khuynh hướng biến động của toàn thị trường nói chung cũng như phân tích và dự đoán sự phát triển hay tăng trưởng trong tương lai của từng ngành,khu vực kinh doanh cụ thể. Thông thường quy trình hoạt động tự doanh có thể được chia thành một số bước sau:
2.1.1.XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU ĐẦU TƯ.
Trong việc đầu tư chứng khoán thì phải xác định rõ mục tiêu đầu tư chứng khoán là gì. Vì vậy mới có sự cố gắng để đạt được mục tiêu đề ra. Sau đây là một số mục tiêu đầu tư:
- Bảo toàn số vốn so với số lượng vốn ban đầu và sức mua của nó không thay đổi nếu thị trường có biến động.
- Có lợi tức dù trong hoàn cảnh nào của nền kinh tế.
- Thời gian đầu tư: Không có nguy cơ rủi ro, biểu hiện là chứng khoán sẽ không bao giờ bị đáo hạn khi người đầu tư vẫn còn muốn giữ nó.
- Dễ bán ngay khi được giá hoặc khi người đầu tư không muốn giữ.
2.1.2.KHAI THÁC TÌM KIẾM CƠ HỘI ĐẦU TƯ.
Sau khi xây dựng được mục tiêu đầu tư của công ty, bộ phận tự doanh sẽ triển khai tìm kiếm các nguồn hàng hóa, cơ hội đầu tư theo mục tiêu đã định.
Công việc này đòi hỏi mỗi cán bộ tự doanh phải mất công sức khá lớn để tìm kiếm và phát hiện cơ hội đầu tư tốt nhất.
2.1.3.PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH LỰA CHỌN CƠ HỘI ĐẦU TƯ.
Trong giai đoạn này, bộ phận tự doanh có thể kết hợp với bộ phận phân tích trong công ty tiến hành thẩm định, đánh giá chất lượng của các khoản đầu tư. Kết quả của giai đoạn này sẽ là những kết luận cụ thể về việc công ty có nên đầu tư hay không và đầu tư với số lượng, giá cả bao nhiêu thì hợp lý.
Cụ thể có các bước phân tích sau:
2.1.3.1 Phân tích cơ bản.
Phân tích cơ bản là một trong những phương pháp phân tích chứng khoán được sử dụng rất phổ biến. Các nhà đầu tư theo cách tiếp cận này thường quan tâm nhiều tới các thông số cơ bản một của công ty như tốc độ tăng trưởng doanh số và lợi nhuận, từ đó rút ra những kết luận về giá trị thực tế của cổ phiếu. Sau đó, bằng cách so sánh thị giá cổ phiếu với giá trị thực tế đó sau đó nhà đầu tư có quyết định mua hay là không.
*Phân tích vĩ mô nền kinh tế:
Bao gồm các vấn đề phân tích sau:
Phân tích tình hình kinh tế- chính trị- xã hội trong nước và quốc tế.
+ Mức tăng trưởng kinh tế của các nước nắm quyền chi phối nền kinh tế thế giới.
+ Mức tăng trưởng kinh tế của các nước trong khu vực.
+ Mức tăng trưởng của các nước có tỉ trọng giao dịch thương mại lớn đối với quốc gia và trực tiếp là đối với doanh nghiệp. Như đối với Việt Nam thì thị trường lớn như Mỹ, Châu Âu, Trung Đông, Châu Phi.
+ Môi trường kinh tế chính tri của Việt Nam có ảnh hửơng rất lớn đến hoạt động đầu tư của tổ chức, cá nhân, các nhà đầu tư nước ngoài.
+ Chính sách tiền tệ và các chính sách tài khóa có tác động rất lớn tới quyết định đầu tư. Có thể nói trong giai đoạn từ cuối năm 2007 đến qúy I năm 2008 Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chịu ảnh hưởng khá lớn từ chính sách tiền tệ, do tình hình lạm phát tăng cao năm 2007, Nhà Nước đã xiết chặt nguồn tiền bằng rất nhiều biện pháp như nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng, hạn chế cho vay chứng khoán, phát hành 20300 tỷ tín phiếu
+ Chính sách pháp luật như tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính khả thi của hệ thống pháp luật, tính hiệu quả của hệ thống pháp luật . Thì hiện tại ở Việt Nam thì sự ra đời của Luật chứng khoán 2006, là một điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư yên tâm đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán. Và nó cũng tạo điều kiện quan trọng cho các nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức nước ngoài, các quỹ đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
+ Phân tích yếu tố văn hóa xã hội và môi trường tự nhiên.
*Phân tích ngành.
Bao gồm các vấn đề sau:
+ Thực trạng của ngành trong nền kinh tế.
+ Trình độ công nghệ của ngành: công nghệ của công ty sản xuất đóng vai trò khá quan trọng vì nó là phương tiện trực tiếp tạo ra sản phẩm cung cấp ra thị trường giúp cho doanh nghiệp tồn tại.
+ Chiến lược phát triển của ngành : Nó cho biết sự phát triển trong tuơng lai của ngành như thế nào. Qua đó dự toán được tốc độ tăng trưởng của công ty trong ngành đấy. Qua đó phân tích được triển vọng của ngành để có thể dự đoán được tương lai.
+ Quy mô thị trường và thị phần của những đối tượng lớn.
+ Tính cạnh tranh trong ngành
+ Triển vọng phát triển của ngành. Điều này thể hiện thông qua chính sách vĩ mô của chính phủ trong việc phát triển ngành này như thế nào, và cơ hội của ngành này trong giai đoạn mở cửa và hội nhập.
*Phân tích chung về doanh nghiệp.
+ Lịch sử của doanh nghiệp
Đôi khi việc nghiên cứu quá khứ của một doanh nghiệp là điều rất có ích để có thể hiểu rõ được chiến lược phát triển của nó hiện nay và trong tương lai.Đem lại cho người phân tích có cái nhìn toàn diện hơn về doanh nghiệp
+ Nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực cũng quan trọng tương đương với khả năng tài chính của doanh nghiệp. Khả năng tài chính của doanh nghiệp có thể sẽ mất dần theo thời gian nhiều vụ đầu tư vào các hợp đồng tương lai đã làm biến mất hoàn toàn khả năng tài chính của nhiều công ty đa quốc gia, nhưng rất hiếm khi một doanh nghiệp bị mất hoàn toàn năng lực của nhân viên của nó. Mặt khác, tuy đào tạo được một nguồn nhân lực có khả năng vừa mất nhiều thời gian, vừa tốn kém hơn là thay đổi kỹ thuật sản xuất nhưng không phải khi nào máy móc cũng có thể thay thế con người. Một doanh nghiệp có hai dạng nhân lực.
+ HĐQT, Ban giám đốc, Ban kiểm soát
+Lĩnh vực kinh doanh
Doanh nghiệp đó đang sản xuất - kinh doanh sản phẩm nào là chủ yếu, thể hiện qua tỷ trọng doanh thu và lợi nhuận của sản phẩm đó trên doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp chỉ có một sản phẩm chính chiếm tỷ trọng cao trong doanh thu như VIC, TSC... nhưng một số khác lại có nhiều sản phẩm chính và tỷ trọng gần như đồng đều (ví dụ: HHC), thậm chí các sản phẩm hầu như không có mối liên quan (như vừa sản xuất, vừa đầu tư tài chính). Biết được lĩnh vực kinh doanh chính của công ty giúp chúng ta có cái nhìn rõ nét hơn về những ảnh hưởng có thể có tới doanh nghiệp như môi trường kinh tế vĩ mô, luật pháp, thiên tai, đối thủ cạnh tranh...
+Vốn và cơ cấu vốn
- Quá trình tăng vốn của doanh nghiệp: cần tìm hiểu vốn hiện tại cũng như nhu cầu tăng vốn trong thời gian tới
- Vốn chủ sở hữu, thặng dư vốn, lợi nhuận: nếu một doanh nghiệp có lợi nhuận lớn và tỷ lệ vay nợ hiện tại cao thì nhiều khả năng doanh nghiệp sẽ tăng vốn để giảm bớt chi phí vay. Hơn nữa, nếu doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu lớn hơn nhiều so với vốn điều lệ thì điều đó dễ dàng làm cho EPS của cổ phiếu đó tăng cao.
+Sản phẩm, thương hiệu và hệ thống phân phối - dịch vụ * Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp.
+›EPS : Thu nhập trên mỗi cổ phiếu .
Tổng thu nhập sau thuế - Tổng số cổ tức của cổ phiếu ưu đãi
EPS =
Tổng số cổ phiếu đang lưu hành
- EPS là chỉ số cho biết khả năng sinh lợi của công ty trên mỗi cổ phần của cổ đông đóng góp là bao nhiêu.
- Nếu chỉ số EPS càng cao thì nó càng cho thấy khả năng sinh lời của công ty càng lớn và ngược lại.
- So sánh chỉ số EPS qua các thời kỳ sẽ giúp chúng ta biết được tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp đang phân tích.
+ P/E : Price / EPS
Thị giá hiện tại của cổ phiếu
P/E =
Thu nhập của cổ phiếu (EPS)
P/E cho biết NĐT sẵn sàng trả giá cho mỗi cổ phiếu cao hơn mức thu nhập hiện tại bao nhiêu lần
›- P/E là chỉ số cho biết giá cổ phiếu đang ở mức được đánh giá cao hay thấp trên thị trường.
›- Nếu chỉ số P/E càng cao thì nó cho thấy cổ phiếu được thị trường đánh giá cao và ngược lại.
›- So sánh chỉ số P/E giữa các công ty cùng ngành để đánh giá giá trị của cổ phiếu mình quan tâm.
+ROE : Lợi nhuân trên Vốn chủ sở hữu
Lợi nhuận sau thuế
ROE =
Nguồn vốn chủ sở hữu
›- ROE được dùng để đo lường xem công ty tận dụng vốn của NĐT tốt đến mức nào. Hay hiểu một cách đơn giản ROE phản ánh mức độ sinh lời của một công ty , tính hiệu quả trong việc sử dụng vốn mà nhà đầu tư đã đóng góp.
›- Thông thường thì một công ty hoạt động tốt thì cần phải có ROE cao hơn mức trung bình của các công ty cùng ngành . Sở dĩ như vậy vì điều này cũng đồng nghĩa với việc công ty kiếm được nhiều tiền hơn trên đồng vốn bỏ ra để đầu tư ( so với cùng ngành ).
›- Chí số này cũng có thể so sánh với ROE trung bình toàn thị trường
›- Chỉ số này tăng cao hàng năm phản ánh tiềm năng tăng lợi nhuận và quản lý hiệu quả của công ty .
+ROA : Lợi nhuận trên Tổng tài sản
Lợi nhuận sau thuế
ROA =
Tổng tài sản
›- ROA cho ta biết công ty đã thu lợi nhuận là bao nhiêu từ tổng số tài sản công ty đã sử dụng
›- ROA là một chỉ tiêu đánh giá khả năng quản lý và tận dụng cơ hội của doanh nghiệp .
›- Nhìn chung , nên tìm các công ty có ROA cao hơn bình quân của ngành hay bình quân của toàn thị trường
+ Chỉ số Lợi nhuận / Doanh thu
Công ty hoạt động có lãi nhiều không ? Một đồng DT sẽ có bao nhiêu phần là lợi nhuận . Mức lợi nhuận của công ty phụ thuộc rất nhiều vào chiến lược phát triển thị trường, khả năng tiết kiệm chi phí và sức mạnh cạnh tranh của công ty . Nhìn chung thì một công ty tốt thường làm ăn có lãi nhiều hơn các công ty cùng ngành.
+Hoa lợi ( Yield )
Cổ tức là khoản tiền mà cổ đông được chia khi công ty làm ăn có lãi, cổ tức cao cũng có nghĩa là cổ đông bỏ túi đều đặn nhiều tiền . Tuy nhiên nhiều công ty trả cổ tức thấp và giữ lại phần lớn để tái đầu tư hiệu quả . Bởi vậy ta cũng không nên quá chú ý tới chỉ số này
2.1.3.2 Phân tích ._.kĩ thuật
Phân tích kĩ thuật là phương pháp dựa vào diễn biến giá và khối lượng giao dịch trong quá khứ và dự đoán xu thế giá trong tương lai.
* Đường MACD là gì?
MACD là 1 trong những chỉ số được người giao dịch tiền tệ sử dụng phổ biến nhất. Đây là chỉ số động lượng hỗ trợ trong việc xác định những xu hướng, cùng lúc đó có thể chỉ ra được sự đảo ngược hay những điều kiện vượt mua (mua quá mức chấp nhận - overbought)/ vượt bán (bán quá mức chấp nhận - oversold). MACD được tính bằng cách lấy sự khác biệt giữa 2 mức di chuyển trung bình theo luật số mũ. 2 mức di chuyển trung bình này thường được sử dụng là 26 ngày và 12 ngày.
MACD có thể được sử dụng cho giao dịch như thế nào?
Cách thông thường nhất để sử dụng MACD là để mua/bán 1 cặp tiền tệ khi nó vượt qua đường tín hiệu hay còn gọi là mức 0. Một tín hiệu bán xuất hiện khi MACD nằm dưới đường tín hiệu trong khi 1 tín hiệu mua xuất hiện khi MACD tập hợp trên đường tín hiệu.
Overbought/Oversold (Vượt mua/vượt bán)
MACD cũng có thể được sử dụng như là 1 chỉ số vượt mua/vượt bán. Khi di chuyển trung bình ngắn hạn di chuyển 1 cách đáng chú ý ra khỏi di chuyển trung bình dài hạn (ví dụ MACD tăng) thì nó giống như là những di chuyển giá tiền tệ đang bắt đầu kiệt quệ và sẽ sớm trở lại mức độ hiện thực.
Biểu đồ 1.1: Đường MACD
*Đường RSI là gì ?
RSI có lẽ là chỉ thị phổ biến nhất được nhóm người giao dịch FX sử dụng. Nó được phát triển bởi J. Welles Wilder Jr. để đo sức mạnh hay động lực của 1 cặp tiền tệ. Chỉ số này được tính bằng cách so sánh thành tích hiện tại của cặp tiền tệ với thành tích trong quá khứ của nó, hoặc so sánh những ngày ở trên của nó với những ngày ở dưới. Mức chia độ của RSI là 0-100, nếu điểm nào trên 70 thì được xem là vượt mua trong khi điểm nào dưới 30 thì được xem là vượt bán. Khung thời gian chuẩn của cách đo này là 14 periods mặc dù 9 và 25 periods cũng thường được sử dụng. Nói chung, càng nhiều periods thì có khuynh hướng đem lại dữ liệu càng chính xác hơn. RSI có thể được sử dụng cho giao dịch như thế nào?
RSI có thể được sử dụng để xác định những điều kiện vượt trội hay những sự đảo ngược của xu hướng thị trường.
RSI trên 70 được xem là vượt mua và chỉ ra tín hiệu bán. RSI dưới 30 được xem là vượt bán và sẽ ngụ ý 1 tín hiệu mua.
Biểu đồ 1.2: Đường RSI
* Bollinger Bands
Bollinger Bands rất giống với di chuyển trung bình. Những dãy được vẽ với 2 sự chênh lệch theo chuẩn trên và dưới của di chuyển trung bình. Điều này thường không dựa trên di chuyển trung bình đơn giản, mà di chuyển trung bình theo số mũ có thể được sử dụng để tăng mức nhạy cảm của chỉ số này. Một di chuyển trung bình đơn giản 20 ngày được xem là dãy trung tâm và 2 sự chênh lệch theo chuẩn cho những dãy bên ngoài. Chiều dài của di chuyển trung bình và số chênh lệch có thể được thay đổi luân phiên để thích hợp hơn với những người giao dịch và tính linh động của cặp tiền tệ. Thêm vào đó sự xác định mức giá và tính linh động có liên quan thì dãy Bollinger có thể kết hợp diễn biến giá và những chỉ số khác để phát ra những tín hiệu và là tín hiệu cho những di chuyển đáng chú ý.
Bollinger Bands thường được những người giao dịch sử dụng để tìm ra những di chuyển giá quá khích không thể chống cự lại được, bắt kịp những thay đổi trên thị trường, xác định những mức độ hỗ trợ/kháng cự và theo dõi sự co/nở trong tính linh động. Có rất nhiều cách để giải thích BollingerBands.
Chỉ số vượt mua / vượt bán
Biểu đồ 1.3: Dải Bollinger Bands
2.1.3.3 Định giá chứng khoán.
Hiện tại các nhà phân tích chứng khoán tại Việt Nam và trên thế giới dùng khá nhiều phương pháp để tính và dự đoán giá CP, sau đây là 2 phương pháp có thể áp dụng được trong điều kiện hiện tại của TTCK Việt Nam. Ngoài ra, để đơn giản hoá vấn đề, chúng ta sẽ lấy giá cao nhất trong các giá CP tính theo các phương pháp trên làm giá trị thực của CP được phân tích.
Định giá cổ phiếu phổ thông theo phương pháp chiết khấu luồng thu nhập (DCF)
Phương pháp định giá chiết khấu luồng thu nhập (DCF) được dựa trên một nguyên lý cơ bản là “tiền có giá trị theo thời gian, một đồng tiền của ngày hôm nay luôn có giá trị hơn một đồng tiền của ngày mai, một đồng đầu tư vào trong doanh nghiệp (DN) này có mức sinh lời khác với một đồng đầu tư trong DN khác, do đó, giá trị của ND được xác định bằng các luồng thu nhập dự kiến mà DN đó thu được trong tương lai được quy về giá trị hiện tại bằng cách chiết khấu chúng bằng một mức lãi suất chiết khấu phù hợp với mức độ rủi ro của DN đó.
Do vậy, trong phương pháp DCF có 3 thông số cơ bản nhất cần được xác định, đó là luồng thu nhập công ty sẽ thu về trong tương lai, mức lãi suất chiết khấu luồng thu nhập đó và thời hạn tồn tại dự tính của DN. Phương pháp này được áp dụng phổ biến ở những nước mà TTCK phát triển, nơi thường có đầy đủ thông tin về lịch sử cũng như thông tin hiện tại và dự báo hợp lý về tình hình tài chính và rủi ro của doanh nghiệp. Hiện nay, việc áp dụng công thức này ở Việt Nam cũng được nhiều người chấp nhận bởi giá CP tính theo phương pháp này phản ánh được tương đối đầy đủ mọi mặt bản chất hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty so với các phương pháp khác và đứng trên quan điểm của nhà đầu tư thì, ngoài việc tính toán theo phương pháp này rất đơn giản, nó còn đáp ứng đúng suy nghĩ, nguyện vọng của họ khi đầu tư vào một DN.
Công thức được điều chỉnh sẽ là:
P = Po + E1/(1+r) + E2/(1+r)2 + E3/(1+r)3 + E4/(1+r)4 + E5/(1+r)5
Định giá CP phổ thông theo phương pháp hệ số P/E
Đây là phương pháp cũng được áp dụng phổ biến ở các TTCK đã phát triển. Hệ số P/E là hệ số giữa giá CP (thị giá) và thu nhập hàng năm của một CP đem lại cho người nắm giữ. Thông thường, để dự tính giá của một loại CP, người ta thường dùng thu nhập trên mỗi CP của công ty nhân với hệ số P/E trung bình ngành hoặc của một công ty tương tự về qui mô, ngành nghề và đã được giao dịch trên thị trường. Việc áp dụng hệ số P/E để tính giá CP tại Việt nam còn gặp phải nhiều khó khăn do thiếu số liệu và TTCK chưa phát triển.
Tại các thị trường đã phát triển, theo số liệu thống kê về chỉ số P/E, hệ số này từ 8-15 là bình thường, nếu hệ số này lớn hơn 20 thì công ty đang được đánh giá rất tốt và người đầu tư trông đợi trong tương lai, mức thu nhập trên một CP của công ty sẽ tăng nhanh. Trường hợp công ty có hệ số P/E thấp có thể là do thị trường không đánh giá cao công ty đó hoặc chưa hiểu biết nhiều về công ty. Khi tất cả các CP trên thị trường đều có giá quá cao so với giá trị thực của của nó thì phần bong bóng sẽ vượt quá phần thực và nhất định có ngày nổ tung, gây khủng hoảng thị trường như đã từng thấy ở các nước phát triển.
2.1.4.THỰC HIỆN PHÂN BỐ TÀI SẢN VÀ XÂY DỰNG DANH MỤC ĐẦU TƯ.
Phân bổ tài sản có nghĩa là phân chia tiền của danh mục vào các rổ đầu tư. Phân bổ tài sản được thực hiện trong từng thời kỳ phù hợp với quan điểm và phán đoán đầu tư của người quản lý danh mục. Nó liên quan tới quyết định sẽ đầu tư bao nhiêu tiền vốn của công ty vào từng loại tài sản - cổ phiếu, trái phiếu, tiền mặt hoặc phân bổ vào từng lĩnh vực kinh doanh.
Khi chia số tiền vào từng loại tài sản khác nhau, người quản lý danh mục có thể tính toán cân đối giá trị của danh mục đầu tư và mức độ sinh lời của từng loại chứng khoán cấu thành. Sau khi đã đánh giá, phân tích các cơ hội đầu tư cũng như quá trình phân bổ tài sản đầu tư, bộ phận tự doanh sẽ triển khai hoạt động tự doanh động giao dịch mua, bán chứng khoán. Cơ chế giao dịch sẽ tuân theo các quy định của pháp luật và các chuẩn mực chung trong ngành.
2.1.5.QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƯ.
Danh mục đầu tư rủi ro là danh mục chứa đựng tất cả các loại chứng khoán rủi ro (kể cả cổ phiếu và trái phiếu). Tuy nhiên, để đơn giản hoá về mặt lý thuyết, khi đề cập đến danh mục rủi ro người ta thường nói đến danh mục cổ phiếu. Không giống như quản lý danh mục trái phiếu đơn thuần, ở đây chỉ có hai chiến lược quản lý chủ động và thụ động mà không có chiến lược kết hợp giữa thụ động và chủ động.
2.1.5.1 Chiến lược quản lý thụ động
Chiến lược mua cổ phiếu dựa theo một chỉ số chuẩn nào đó và nắm giữ lâu dài khoản đầu tư. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa chỉ đơn thuần mua và nắm giữ cổ phiếu lâu dài mà đôi khi danh mục cũng cần được cơ cấu lại khi phải tái đầu tư các khoản cổ tức nhận về và do có một số cổ phiếu bị hợp nhất hoặc trượt khỏi danh sách trong chỉ số chuẩn. Về mặt kỹ thuật, có 3 phương pháp chính xây dựng danh mục cổ phiếu thụ động như sau:
- Lặp lại hoàn toàn một chỉ số nào đó: theo phương pháp này, tất cả các loại cổ phiếu nằm trong chỉ số được mua vào theo một tỷ lệ bằng tỷ trọng vốn mà cổ phiếu đó chiếm giữ trong chỉ số này. Phương pháp này giúp nhà quản lý chắc chắn thu được kết quả đầu tư gần giống với kết quả của chỉ số, nhưng có hai nhược điểm:
+ Vì phải mua nhiều cổ phiếu nên phải chi nhiều phí giao dịch (trong trường hợp phí giao dịch tính theo món), dẫn đến lợi suất đầu tư có thể giảm vì chi phí quá nhiều;
-Phương pháp chọn nhóm mẫu: với phương pháp này, nhà quản lý chỉ cần chọn một nhóm các chứng khoán đại diện cho chỉ số chuẩn theo tỷ lệ tương ứng với tỷ trọng vốn của từng cổ phiếu đó trong chỉ số chuẩn. Phương pháp này có ưu điểm giảm chi phí giao dịch vì số lượng chứng khoán mua vào ít, nhưng không bảo đảm chắc chắn lợi suất đầu tư đạt được sẽ tương đương với lợi suất thu nhập của chỉ số chuẩn.
- Phương pháp lập trình bậc 2: phương pháp này khá phức tạp, thường chỉ có các nhà đầu tư chuyên nghiệp áp dụng. Trong phương pháp này, các thông tin quá khứ về tình hình biến động giá cổ phiếu và mối tương quan giữa các loại giá cổ phiếu khác nhau được đưa vào chương trình máy tính để chọn lọc và xác định thành phần của danh mục sao cho giảm thiểu chênh lệch lợi suất của danh mục so với chỉ số chuẩn. Tuy nhiên, phương pháp này cũng nảy sinh vấn đề là khi các dữ liệu đầu vào (thông tin quá khứ về giá cả và mối tương quan giữa chúng) có sự thay đổi thường xuyên thì lợi suất danh mục sẽ có chênh lệch lớn so với chỉ số.
2.1.5.2 Chiến lược quản lý chủ động
Mục tiêu của chiến lược này là nhằm thu được lợi suất đầu tư cao hơn lợi suất của danh mục thụ động chuẩn hoặc thu được mức lợi nhuận trên trung bình ứng với một mức rủi ro nhất định.
Quy trình quản lý danh mục đầu tư chủ động như sau:
· Xác định mục tiêu của khách hàng đặt ra: khách hàng đầu tư có thể đưa ra các yêu cầu cụ thể cho khoản đầu tư của mình, như đặt ra mục tiêu chỉ đầu tư vào loại cổ phiếu công ty nhỏ; với hệ số P/E thấp và ứng với một mức rủi ro nào đó, chẳng hạn cao hơn, bằng hoặc thấp hơn mức rủi ro của danh mục thị trường...
· Lập ra một danh mục chuẩn (hay còn gọi danh mục "thông thường") để làm căn cứ so sánh cho danh mục chủ động trên đây. Chẳng hạn, ứng với các yêu cầu trên đây thì danh mục chuẩn bao gồm tất cả các loại cổ phiếu của công ty nhỏ (như trên thị trường Mỹ thì đó là những công ty có vốn tính theo giá thị trường dưới $500 triệu), với hệ số P/E thấp (dưới 80% hệ số P/E của các công ty thuộc chỉ số S&P), với tỷ trọng vốn đều nhau.
· Xây dựng một chiến lược và kết cấu danh mục đầu tư tối ưu thoả mãn nhu cầu người đầu tư theo quy trình sau:
*/ Thực hiện phân tích những ngành và công ty riêng lẻ thoả mãn mục tiêu đặt ra, (ví dụ những công ty nhỏ thuộc ngành viễn thông), để tìm ra những cơ hội đầu tư tốt nhất.
*/Tính toán xác định số lượng cổ phiếu trong danh mục sao cho đạt mức đa dạng hoá cao nhất trong phạm vi giới hạn của khoản tiền đầu tư.
*/ Sau khi xác định số lượng và chủng loại cổ phiếu cần mua, bước tiếp theo là phân bổ khoản đầu tư. Số tiền đầu tư được phân bổ theo nguyên tắc: những ngành nghề có xu hướng phát triển tốt thì được phân bổ một tỷ trọng lớn hơn, trong đó cần tập trung vào những cổ phiếu có tiềm năng hoặc cổ phiếu tạm thời bị định giá thấp.
· Theo dõi, đánh giá các biến động của cổ phiếu trong danh mục và tái cấu trúc danh mục:
2.1.6.ĐÁNH GIÁ VÀ ĐIỀU CHỈNH DANH MỤC ĐẦU TƯ.
Đánh giá danh mục đầu tư được tiến hành hàng tuần, hàng tháng, hàng năm để nhằm mục đích kiểm tra, theo dõi danh mục đầu tư có hiệu quả hay không. Và qua đó đưa ra các giải pháp như điều chỉnh danh mục đầu tư, thay đổi cách thức đầu tư…. Sao cho danh mục đầu tư đạt hiệu quả cao nhất.
2.2.MÔ HÌNH TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ DOANH CỔ PHIẾU.
Hoạt động tự doanh cổ phiếu của CTCK được thực hiện dưới hai mô hình tổ chức sau:
Mô hình hai cấp:
Là mô hình mà trong đó, trưởng phòng đầu tư hay trưởng phòng tự doanh là người trực tiếp điều hành mọi hoạt động đầu tư và quyết định danh mục đầu tư, chính sách của toàn công ty. Hoạt động tự doanh được phân chia thành hoạt động tự doanh cổ phiếu niêm yết và trên thị trường chưa niêm yết. Mỗi thị trường do một nhóm các cán bộ tự doanh phụ trách dưới sự quản lý chung của trưởng phòng đầu tư. Các phương án sẽ được trưởng phòng xem xét và đưa ra ý kiến đóng góp. Phương án cuối cùng được thực hiện khi có sự đồng ý của trưởng phòng. Hàng tuần, tháng, quý trưởng phòng tự doanh có trách nhiệm báo cáo tình hình hoạt động đầu tư tới Giám đốc công ty. Giám đốc Công ty sẽ là người quản lý chung và thẩm định các kết quả đầu tư của phòng tự doanh. Ngoài ra, mọi hoạt động đầu tư của công ty sẽ được thực hiện dưới sự giám sát của Ban kiểm soát công ty nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động tự doanh.
Sơ đồ 1.1: Mô hình tự doanh 2 cấp
Phòng đầu tư (tự doanh)
TD cổ phiếu chưa niêm yết
TD cổ phiếu niêm yết
Ban kiểm soát
Đặc điểm của mô hình hai cấp là gọn nhẹ, nâng cao tính độc lập và trách nhiệm của cán bộ tự doanh trong hoạt động tự đầu tư và kinh doanh cổ phiếu của công ty. Tuy nhiên, với mô hình này, tính chủ quan của trưởng phòng đầu tư sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả đầu tư của Công ty, do vậy cơ chế giám sát đầu tư phải rất chặt chẽ.
Mô hình ba cấp:Trong mô hình này, hoạt động tự doanh của CTCK cũng được phân chia thành tự doanh cổ phiếu niêm yết và chưa niêm yết. Tuy nhiên, trưởng phòng tự doanh không phải là người quyết định hoàn toàn chiến lược cũng như danh mục đầu tư của công ty. Trưởng phòng chỉ quản lý hoạt động đầu tư của các nhóm cán bộ tự doanh cấp dưới và đóng góp ý kiến giúp Hội đồng đầu tư đưa ra các chiến lược đầu tư và chính sách quản lý danh mục của toàn công ty. Hội đồng đầu tư bao gồm Giám đốc công ty và các thành viên khác theo quy định, trong đó bao gồm cả trưởng phòng đầu tư. Hội đồng đầu tư sẽ là người cuối cùng quyết định xem một phương án đầu tư có hay không được rhực hiện thay vì quyết định của cá nhân trưởng phòng đầu tư như mô hình hai cấp. Ban kiểm soát vẫn có vai trò giám sát mọi hoạt động đầu tư mà phòng tự doanh thực hiện mô hình hai cấp.
Sơ đồ 1.2. Mô hình tự doanh 3 cấp
Phòng đầu tư (tự doanh)
TD cổ phiếu chưa niêm yết
TD cổ phiếu niêm yết
Ban kiểm soát
Hội đồng đầu tư
*Tự doanh trái phiếu
Khác với thị trường cổ phiếu, ở thị trường trái phiếu, hầu hết các giao dịch mua, bán đều mang lại lợi nhuận cho cả người mua lẫn người bán, do đó tính ổn định của nó rất cao. Quy luật cung - cầu trên thị trường trái phiếu cũng không giống như thị trường cổ phiếu vì nó phụ thuộc vào nguồn vốn nhàn rỗi nhiều hay ít của các tổ chức tài chính, ngân hàng trong từng thời điểm. Vì tính riêng biệt này mà nhiều người dễ lầm lẫn khi đánh giá về sự phát triển của thị trường trái phiếu khi thị trường này có khối lượng giao dịch ít.
3.CÁC PHUƠNG PHÁP ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
* Phương pháp đầu tư theo WARREN BUFFETT
Thực hiện theo các nguyên tắc :
›- Đầu tư vào công ty chứ không đầu tư vào cổ phiếu ( tờ giấy ) .
›- Đầu tư theo giá trị thực : Những câu hỏi Warren Buffett đặt ra trước khi quyết định chọn công ty ( cổ phiếu ) để đầu tư
›- Chọn thời điểm mua , bán
* Phương pháp đầu tư theo BENJAMIN GRAHAM
Đầu tư theo ba chỉ tiêu chính của Benjamin Graham :
- Chỉ tiêu lợi nhuận
› - Doanh thu ( or Lượng hàng bán ).
› - Chỉ tiêu lợi nhuận / Doanh thu
* Phương pháp đầu tư theo William J. ONeil
Đầu tư theo bảy tiêu chuẩn ( CANSLIM ) :
› C : Current Quaterly Earnings Per Share ( lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu của quý gần nhất )
› A : Annual Earnings Increases ( sự gia tăng lợi nhuận hàng năm)
› N : New Products, New Management, New Highs ( sản phẩm mới, sự quản lý mới, giá CP đạt mức giá cao mới )
›S : Supply and Demand ( tình hình cung và cầu )
›L : Leader and Laggard ( cổ phiếu dẫn đầu và cổ phiếu tụt hậu )
›I : Institutional Sponsorship( sự ủng hộ của các định chế tài chính và đầu tư)
›M : Market Direction ( định hướng thị trường )
4.CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ QUA NGHIỆP VỤ TỰ DOANH TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN.
Thông thường để đánh giá hiệu quả hoạt động của CTCK người ta đánh giá chất lượng các nghiệp vụ của công ty. Hiệu quả hoạt động tự doanh được đánh giá thông qua các chỉ tiêu định lượng. Việc tính toán và lựa chọn các chỉ tiêu thì việc phân tích trong từng thời kỳ là rất cần thiết. Có rất nhiều chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả hoạt động tự doanh của CTCK, bởi chỉ tiêu này có thể ảnh hưởng đến các chỉ tiêu khác. Có thể dựa trên các chỉ tiêu cơ bản sau:
Các chỉ tiêu kết quả:
Vốn đầu tư thực hiện: Đó chính là khoản vốn ban đầu mà công ty chứng khoán bỏ ra để kinh doanh chứng khoán. Khoản vốn này có thể được điều chỉnh, thay đổi tăng giảm tuỳ thuộc vào mục tiêu của công ty, cũng như tuỳ vào sự thay đổi của thị trường chứng khoán.
Tốc độ tăng trưởng của danh mục đầu tư: Phản ánh tỷ suất lợi nhuận của danh mục đầu tư hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, hàng năm. Nó cho phép xem xét một cách rõ ràng là danh mục đầu tư này có hiệu quả hay không. Bằng cách so sánh tỷ suất lợi nhuận của danh mục với lãi suất của ngân hàng, lãi suất của trái phiếu, với tỷ suất của danh mục khác. Từ đó đưa ra quyết định cho danh mục của công ty.
Chỉ tiêu hiệu quả
Lợi nhuận/Vốn đầu tư: là một chỉ tiêu quan trọng dùng để phản ánh hiệu quả hoạt động tự doanh của CTCK. Hoạt động tự doanh của công ty được đánh giá là hiệu quả nếu lợi nhuận sau thuế/ Vốn đầu tư của nó năm sau cao hơn năm trước, tức là hoạt động đầu tư có lãi. Hay cụ thể là Lợi nhuận/Vốn đầu tư càng cao càng tốt. Nó phản ánh chỉ cần bỏ ra một đồng vốn đầu tư sẽ cho tỷ suất lợi nhuận cao hơn mức trung bình
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỎNG TỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN QUA HOẠT ĐÔNG TỰ DOANH TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN.
1. CÁC NHÂN TỐ CHỦ QUAN.
Chính sách phát triển của công ty
Hoạt động tự doanh có thể mang lại cho CTCK những khoản lợi nhuận lớn nhưng cũng có thể gây ra những tổn thất không nhỏ. Để thực hiện nghiệp vụ này thành công, ngoài đội ngũ nhân viên phân tích thị trường có nghiệp vụ giỏi và nhanh nhậy với những biến động của thị trường, CTCK còn phải có một chế độ phân cấp quản lý và đưa ra những quyết định đầu tư hợp lý, trong đó việc xây dựng chế độ phân cấp quản lý và ra quyết định đầu tư...là một trong những vấn đề then chốt, quyết định sự sống còn của CTCK. Ở các nước phát triển có TTCK phát triển thì nghiệp vụ tự doanh là một nghiệp vụ đã và đang đem lại cho các công ty chứng khoán những khoản lợi nhuận kếch xù và luôn luôn đuợc các công ty chứng khoán rất chú trọng trong việc xây dựng và phát triển.
Chính sách phát triển của CTCK thay đổi trong từng giai đoạn hoạt động, từ đó sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động tự doanh của công ty. Chính sách phat triển của công ty sẽ đưa ra các chỉ tiêu cần đạt được trong giai đoạn tiếp theo với những chiến lược đầu tư khác nhau (nới lỏng hoặc thắt chặt), đồng thời cũng đưa ra những thay đổi về tổng lượng vốn cho hoạt động động đầu tư của toàn công ty. Bên cạnh đó, với những mục tiêu phấn đấu khác nhau sẽ quyết định đến loại hình đầu tư của công ty và chính sách quản lý danh mục. Do vậy, chính sách phát triển sẽ là yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến hoạt động tự doanh của CTCK.
Quy mô nguồn vốn đầu tư của CTCK
Quy mô nguồn vốn đầu tư của công ty là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động đầu tư của CTCK. Mặc dù quy mô vốn không tỷ lệ thuận với tỷ suất lợi nhuận đầu tư nhưng rõ ràng khi lượng vốn đầu tư càng lớn thì công ty càng có nhiều co hội để lựa chọn các phương án đầu tư. Ngoài ra, với nguồn vốn lớn cũng sẽ giúp công ty chiếm được ưu thế hơn so với các đối thủ khác. Ví dụ như với cùng một loại chứng khoán nhà đầu tư nào nắm giữ với tỷ lệ lớn hơn sẽ nhận có tác động chi phối tới giá chứng khoán đó nhiều hơn, tránh rơi vào thế bị động khi có các nhà đầu tư khác muốn làm biến đọng giá để hưởng lợi.
Quy trình tự doanh
Quy trình tự doanh là một quy trình trong đó phân bổ công việc, trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của từng nhân viên thực hiện kinh doanh, đầu tư chứng khoán và nhiều đối tượng khác có liên quan cũng đồng thời quy định chính sách giám sát kiểm tra hoạt động đầu tư của công ty. Chỉ khi công ty xây dựng được một quy trình chặt chẽ và khoa học thì từng cán bộ tự doanh cũng như các cấp ra quyết định ở trên mới nhận thức rõ trách nhiệm của mình, từ đó hiệu quả của hoạt động tự doanh mới có thể nâng cao. Quả vậy, nếu như quy trình tự doanh không logic, không chặt chẽ, bị trùng lắp thì rất dễ dẫn đến sự lãng phí về nhân lực, thời gian cũng như tiền bạc của công ty. Ví dụ như trong quy trình tự doanh không quy định rõ những loại chứng khoán nào thuộc quyền giao dịch của cán bộ tự doanh nào thì rất có thể các quyết định của họ sẽ là xung đột nhau, một người thực hiện mua và người kia lại thực hiện bán cùng loại chứng khoán đó.
Tổ chức hoạt động tự doanh
Tổ chức hoạt động tự doanh cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động tự doanh của CTCK. Đó là các bước thực hiện được sắp xếp một cách logic giúp cho các cán bộ tự doanh đưa ra quyết định đầu tư mua hay bán loại chứng khoán khoán nào đó một cách thích hợp nhất. Mặc dù nhiệm vụ chính của các cán bộ tự doanh là theo dõi thị trường, thu thập thông tin để phân tích, đưa ra và thực hiện các phương án kinh doanh nhằm thu lợi nhuận về cho công ty chứ không phải là tập trung hoàn toàn vào công tác phân tích. Song thực tế cho thấy, dù như vậy nhưng vai trò của một quy trình phân tích bài bản là không thể bỏ qua. Nếu không có quy trình phân tích cụ thể mà chỉ dựa vào ý chủ quan của các nhân viên tự doanh thì hoạt động tự doanh sẽ không đạt hiệu quả, và có thể gây tổn thất cho công ty.
Nguồn nhân lực
CTCK là một định chế tài chính hoạt động trên TTCK, do đó con người chính là tâm điểm của mọi hoạt động. Đối với hoạt động tự doanh của CTCK, yếu tố nhân lực được nói đến bao gồm khả năng, trình độ chuyên môn của các cán bộ tự doanh và cơ cấu tổ chức, phân bổ công việc tại phòng tự doanh (hay phòng đầu tư) của CTCK. Năng lực của người cán bộ thực hiện tự doanh không chỉ thể hiện người đó có kiến thức về tài chính, có khả năng phân tích và có kinh nghiệm thực tế trên thị trường mà còn đòi hỏi đó là những con người có khả năng làm việc trong áp lực và có đạo đức nghề nghiệp. Nếu một người cán bộ tự doanh không có khả năng tìm kiếm các cơ hội đầu tư, không quyết định thời điểm đầu tư hợp lý thì khó có thể đem lại lợi nhuận cho công ty mà trái lại có thể gây ra thua lỗ. Tuy nhiên nếu có khả năng song họ lại không chịu đựng được một công việc áp lực thì sẽ rất khó khăn để người cán bộ tự doanh đó hoàn thành tốt được công việc. Một đặc điểm quan trọng nữa của người cán bộ tự doanh là đạo đức trong nghề nghiệp.
Hệ thống thông tin
Có thể nói hệ thống thông tin gây ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động động của Công ty nói chung và tất nhiên là hoạt động tự doanh cũng không nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng đó.
Không chỉ tại những thị trường phát triển mà ngay tại thị trường trường Việt Nam cũng đã có một số công ty áp dụng các phần mềm quản trị tiên tiến, cho phép người sử dụng kiểm tra giao dịch, kiểm tra số dư vtài khoản, tính toán lỗ, lãi từng ngày hay từng tháng qua mạng, qua điện thoại di động. Có như vậy việc giám sát của Công ty đối với giao dịch của các cán bộ tự doanh cũng bớt rườm rà.
Cơ chế kiểm soát
Để đảm bảo các quy chế, quy trình đầu tư được tuân thủ đúng đắn và đầy đủ, công ty chứng khoán phải có kế hoạch tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với nghiệp vụ tự doanh. Cơ chế kiểm soát phải được thực hiện thông qua kiểm soát các khâu và phát hiện ra những hiện tượng bất thường trước, trong và sau quá trình thực hiện nghiệp vụ: kiểm tra các chứng khoán từ, hồ sơ, rà soát tính hợp pháp, hợp lệ của nghiệp vụ…
Sự phát triển của các hoạt động khác:
Các hoạt động của một CTCK có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Một CTCK với nghiệp vụ môi giới chuyên nghiệp được sự tín nhiệm của khách hàng sẽ dễ dàng cho các cán bộ tự doanh thu thập thông tin và phân tích, đánh giá thị trường. Hay mộy thống kê ở TTCK Việt Nam cho thấy, các CTCK đạt tỷ suầt lợi nhuận tự doanh doanh chứng khoán cao trên thị trường là những công ty có hoạt động tư vấn cổ phần hóa phát triển. Điều này là hoàn toàn đúng đắn bởi lẽ khi thực hiện tư vấn cổ phần hóa cho các doanh nghiệp thì chính CTCK là những người đầu tiên đánh giá được tiềm năng phát triển cũng như những thách thức mà doanh nghiệp đó sẽ phải đối mặt, từ đó công ty sẽ tiến hành đầu tư vào các doanh nghiệp mà họ thấy có tiềm năng và có triển vọng.
2. CÁC NHÂN TỐ KHÁCH QUAN.
Môi trường chính trị - xã hội và pháp luật
Đối với bất kỳ một quốc gia nào, môi trường xã hội và chính trị luôn có những tác động nhất định đến TTCK của chính quốc gia đó, thậm chí có thể gây ảnh hưởng đến cả TTCK của các quốc gia khác hoặc tác động đến TTCK toàn cầu. Những sự kiện như chiến tranh, biến động chính trị hay hệ thống pháp luật và ngoài nước có thể tạo ra những thay đổi về môi trường kinh doanh, làm tăng thêm sự bất ổn định về thu nhập mong đợi và làm cho người đầu tư quan tâm hơn đến khoản tiền bù đắp rủi ro.
Môi trường pháp lý là yếu tố quan trọng gây tác động tới TTCK, nó có thể tạo ra những tác động tích cực tới thị trường nhưng ngược lại nó cũng có thể đem lại những tác động tiêu cực cho thị trường. Thật vậy, một môi trường đầu tư với khung pháp lý hoàn chỉnh, chặt chẽ sẽ thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, tạo điều kiện thuận lợi để thị trường phát triển. Khi xem xét đến yếu tố pháp lý của TTCK, các nhà phân tích thường đánh giá theo các góc độ sau:
Hệ thống hành lang pháp lý của TTCK dược xây dựng như thế nào? Liệu có đủ để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các nhà đầu tư hay không?
Hệ thống luật pháp có bị trùng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau hay không?
Khả năng thực thi pháp luật được tiến hành như thế nào?
Những mặt khuyến khích, ưu đãi và hạn chế được quy định trong hệ thống pháp luật?
Sự ốn định của hệ thống luật pháp, khả năng sửa đổi và ảnh hưởng của chúng đến TTCK?
Sự phát triển của thị trường
Sự phát triển của thị trường là một nhân tố rất quan trọng có tác động đên không chỉ hoạt động tự doanh chứng khoán mà còn tác động đến hầu hết các hoạt động của CTCK. Sự tác động đó được thể hiện bao gồm:
Số lượng và chất lượng của các loại hàng hóa trên thị trường
Một TTCK phát triển với một lượng hàng hóa dồi dào sẽ tạo ra rất nhiều cơ hội đầu tư cho các CTCK. Thực tế cho thấy khi thị trường xuất hiện nhiều loại chứng khoán của các công ty khác nhau thuộc nhiều ngành, nhiều lĩnh vực thì đó là cơ hội để các công ty lựa chọn và đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình, tránh được tình trạng dư cầu, thiếu cung trên thị trường. Ngược lại, tại một thị trường với lượng hàng hóa ít ỏi sẽ dễ dàng dẫn đến tình trạng cung không đáp ứng đủ cầu sẽ gây sự khó khăn cho các nhà đầu tư chứng khoán. Khi lượng tiền đổ vào thị trường dồi dào và liên tục, cán cân cung cầu chênh lệch sẽ gây ra những “cơn sốt” chứng khoán , “hiệu quả ứng phong trào” có điều kiện phát triển, tức là xảy ra hiện tượng tăng giá cổ phiếu đồng loạt, không có sự phân biệt giữa cổ phiếu tốt và xấu. Và như vậy các CTCK cũng không tránh khỏi các tổn thất nhất định khi tham gia thị trường nếu như không có chính sách đầu tư hợp lý.
Tâm lý của các nhà đầu tư
Tâm lý của các nhà đầu tư trên thị trường phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí của người dân tham gia đầu tư. TTCKại một số thị trường mới phát triển như ở Việt Nam nhìn chung sự hiểu biết của dân chúng về TTCK Việt Nam vẫn còn chưa thực sự phổ biến. Khi các nhà đầu tư nhỏ lẻ chiếm tỷ lệ lớn, cùng với sự hiểu biết chưa đầy đủ như vậy thì tâm lý đầu tư theo số đông sẽ rất phổ biến.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN THÔNG QUA NGHIỆP VỤ TỰ DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
CHỨNG KHOÁN SHS
1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN SÀI GÒN – HÀ NỘI (SHS)
1.1. GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY SHS.
Tên gọi: CÔNG TY CHỨNG KHOÁN SÀI GÒN – HÀ NỘI
Tên giao dịch quốc tế: SAIGON-HANOI SECURITIES JOINT STOCK COMPANY
Tên viết tắt: SHS
Trụ sở chính: Tầng 1&5 Tòa Nhà Đào Duy Anh,Số 9 Đào Duy Anh, Hà Nội
Điện thoại: (043)5378010
Fax: (043)5378005
Website: www.shs.com.vn
Giấy Phép hoạt động: số 66/UBCK-GP cấp ngày 15 tháng 11 năm 2007
Vốn điều lệ: 350 Tỷ đồng
1.2.QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN.
Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn-Hà Nội(SHS) được thành lập trên cơ sở hợp tác toàn diện và chiến lược của các đối tác là Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội, Tập đoàn công nghiệp Than- Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam , Công ty TNHH T&T,….Với vốn điều lệ là 350 tỷ đồng, SHS là một trong những công ty chứng khoán có vốn điều lệ ban đầu lớn nhất trong số các công ty chứng khoán mới thành lập. Sản phẩm SHS cung cấp cho khách hàng bao gồm: Môi giới chứng khoán, Bảo lãnh phát hành chứng khoán, Lưu ký chứng khoán, Tư vấn đầu tư chứng khoán, Tư vấn tài chính và các dịch vụ tài chính khác.
SHS được xây dựng dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại và đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, mục đích đưa đến cho khách hàng những dịch vụ tiện ích nhất, an toàn nhất và hiệu quả nhất đồng thời tạo môi trường làm việc chuyên nghiệp, tạo điều kiện phát huy năng lực tối đa của từng nhân viên đảm bảo mang tới cho SHS sức mạnh vượt trội.
Bắt đầu hoạt động từ cuối năm 2007 với sự ủng hộ của các cổ đông sáng lập thì có thể nói SHS đã và đang hoạt động hiệu quả theo đúng chiến lược phát triển đề ra:”Lấy tiêu chí an toàn làm cơ sở cho mọi hoạt động phát triển vững chắc tạo tiền đề cho tương lai”. Thể hiện rõ nét nhất kết quả mà SHS đạt được trong thời gian qua chính là việc SHS luôn đảm bảo mức sinh lời ổn định qua các quý, đảm bảo khả năng thanh khoản cao và sự tăng trưởng của vốn chủ sở hữu. Do vậy mà SHS nằm trong số ít CTCK làm ăn có lãi._.ng năm 2007 và cuối năm 2008 chứng kiến sự rủi ro và sự bất ổn định nghiêm trọng, do đó hoạt động tự doanh của SHS cũng bị ảnh hưởng và không tránh khỏi những sai xót trong quá trình đầu tư.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN THÔNG QUA NGHIỆP VỤ TỰ DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN SÀI GÒN HÀ NỘI
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
II. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRUỜNG CHỨNG KHOÁN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN SHS.
1. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN TTCK VIỆT NAM .
Mục tiêu phát triển của TTCK Việt Nam trong thời gian tới là:
- Tập trung đẩy mạnh phát triển thị trường cả về quy mô và chất lượng hoạt động để TTCK thật sự đóng vai trò là kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, phấn đấu đưa tổng giá trị vốn hoá thị trường cổ phiếu niêm yết đạt khoảng 40-50% GDP vào cuối năm 2015.
- Gắn việc phát triển TTCK với thúc đẩy chuyển đổi, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước và chuyển doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần.
- Mở rộng phạm vi hoạt động của TTCK có tổ chức, từng bước thu hẹp TTCK tự do nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư.
Để thực hiện được các mục tiêu trên, các giải pháp trước mắt cũng như lâu dài cần tập trung vào một số nội dung sau:
Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý, thể chế và chính sách: Đẩy mạnh triển khai thực thi Luật Chứng khoán thông qua việc ban hành các văn bản hướng dẫn; xây dựng các văn bản về quản lý phát hành riêng lẻ của công ty đại chúng. Nghiên cứu hoàn chỉnh các chính sách về thuế, phí và lệ phí áp dụng đối với các đối tượng tham gia TTCK. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Bộ Tài chính và NHNN trong việc trao đổi, cung cấp thông tin và giám sát, kiểm soát các rủi ro trên thị trường tiền tệ và TTCK.
Thứ hai, tăng cường số lượng và chất lượng cung- cầu trên TTCK
Về cung chứng khoán: Đẩy nhanh việc thực hiện kế hoạch cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 2006-2010 theo Quyết định 1729/QĐ-TTg ngày 29/12/2006 của Thủ tướng Chính phủ, gắn chào bán cổ phiếu lần đầu của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa với niêm yết trên TTCK theo lộ trình thích hợp. Đẩy mạnh việc huy động vốn thông qua đấu thầu, bảo lãnh phát hành trái phiếu (đặc biệt là trái phiếu đô thị, trái phiếu đầu tư, trái phiếu công trình) và đưa vào giao dịch trên TTCK. Thực hiện bán giảm bớt phần vốn nhà nước trong các doanh nghiệp đã cổ phần hoá mà Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối.
Về cầu chứng khoán: Xây dựng cơ sở nhà đầu tư, trong đó có nhà đầu tư tổ chức làm nòng cốt đảm bảo tính ổn định cho TTCK; khuyến khích tham gia của các định chế đầu tư chuyên nghiệp (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, quỹ đầu tư...) vào TTCK. Xây dựng và công bố lộ trình hội nhập để nhà đầu tư nước ngoài chủ động tham gia TTCK phù hợp với luật pháp Việt Nam và các cam kết WTO.
Thứ ba, tái cấu trúc TTCK: Xây dựng Đề án chuyển đổi các TTGDCK Hà Nội, TTLKCK sang mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn theo quy định của Luật Chứng khoán. Đẩy nhanh tiến độ nâng cấp hệ thống giao dịch để có thể tổ chức giao dịch từ xa đối với Sở GDCK và TTGDCK. Triển khai xây dựng thị trường trái phiếu chuyên biệt tại TTGDCK Hà Nội. Triển khai xây dựng hệ thống giao dịch cổ phiếu của công ty đại chúng chưa niêm yết theo hướng thị trường OTC tại TTGDCK Hà Nội.
Thứ tư, nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức trung gian: Nâng cao năng lực của các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ theo tiêu chí mới (quy mô vốn; quản trị công ty; nhân lực; công nghệ; mạng lưới dịch vụ) để đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn phát triển mới.
Thứ năm, nâng cao năng lực giám sát thị trường: Hoàn thiện bộ máy tổ chức, hoạt động của UBCKNN theo qui định của Luật Chứng khoán, Quyết định 63/2007/QĐ-TTg ngày 10/5/2007 về tổ chức bộ máy của UBCKNN và đặc biệt là năng lực giám sát, thanh tra và cưỡng chế thực thi. Tăng cường giám sát hoạt động của các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán; hoạt động giao dịch chứng khoán; thực hiện chế độ công bố thông tin trên TTCK; nâng cao tính minh bạch của thị truờng chứng khoán.
Thứ sáu, công tác công bố thông tin và tuyên truyền: Tiếp tục thực hiện công tác tuyên truyền, phổ cập kiến thức về TTCK đặc biệt là các doanh nghiệp, công chúng đầu tư. Thực hiện cải cách toàn diện hệ thống đào tạo về nội dung giáo trình, giảng viên, chế độ thi cử, sát hạch.
Thứ bảy, chuẩn bị tốt cho quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán: Phối hợp với các thị trường trong khu vực và quốc tế thúc đẩy việc chào bán và niêm yết cổ phiếu của các doanh nghiệp Việt Nam trên TTCK nước ngoài. Thực hiện các giải pháp tăng cường hiệu quả của các tổ chức kinh doanh chứng khoán đảm bảo thực hiện cam kết WTO.
(Nguồn : Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 10/2007)
2. MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRONG THỜI GIAN TỚI.
Năm 2009 thực sự vẫn là một năm đầy thách thức cho các Doanh Nghiệp nói chung và các Công Ty Chứng Khoán nói riêng.SHS đã xây dựng những bước đi cụ thể nhằm vượt qua giai đoạn đầy thách thức này.trong năm 2009,SHS vẫn tiếp tục chính sách đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực,tìm kiếm và tuyển dụng người tài cho mảng kinh doanh chủ lực như mô giới,phân tích và đầu tư.Thực hiện chiến lược đầu tư dài hạn,với nguồn vốn tiền mặt hiện có,SHS có thể giải ngân khoảng 100 tỷ đồng cho cổ phiếu,50 tỷ đồng cho đầu tư góp vốn cho các dự án,150 tỷ đồng cho các công cụ nợ.Tiếp tục triển khai hệ thống mạng lưới theo hệ thống mạng lưới của SHB,của hai tập đoàn TKV và VRG…
SHS duy trì mục tiêu phát triển thành tập đoàn tài chính hàng đầu Việt nam, hoạt động theo mô hình Ngân hàng đầu tư . Để thực hiện được mục tiêu này, SHS đã xây dựng và đang thực hiện các chiến lược phát triển cụ thể bao gồm:
Định hướng hoạt động tự doanh.
Trong thời gian tới SHS tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tự doanh thông qua các kế hoạch cụ thể như sau:
Vốn đầu tư thực hiện: Bằng 45% đến 65% vốn điều lệ của Công ty.
Phân chia vốn đầu tư:
* Giai đoạn: 2008 – 2009:
45% Vốn đầu tư vào cổ phiếu niêm yết trên thị trường.
65% vốn đầu tư vào cổ phiếu chưa niêm yết thông qua phương thức đấu giá do CPH hoặc phát hành thêm; hoặc mua qua các đợt phân phối riêng lẻ.
* Giai đoạn: 2009 – 2010:
Tỷ lệ phân bổ vốn sẽ là 50 – 50
Lý do trong giai đoạn này công ty quyết định phân bổ vốn theo tỷ lệ 50% vào thị trường niêm yết, 50% vào thị trường chưa niêm yết là vì các công ty trên thị trường chưa niêm yết thực hiện lộ trình niêm yết trong giai đoạn này. Do đó khi SHS đã đạt được mức lợi nhuận kỳ vọng trên thị trường thì bán bớt số cổ phần đó đi để hiện thực hóa lợi nhuận và tập trung vốn cho thị trường chưa niêm yết.
* Quan điểm và định hướng đầu tư
- Chỉ đầu tư vào các doanh nghiệp có tỷ lệ ROE cao hơn so với trung bình ngành và thị trường;
- Chỉ đầu tư ở mức giá hợp lý, dù đó là doanh nghiệp rất hấp dẫn;
- Không quá đa dạng hóa danh mục;
- Chỉ chấp nhận mức độ rủi ro ở mức độ trung bình.
- Ưu tiên hoạt động đầu tư thông qua đấu giá khi CPH doanh nghiệp hoặc phát hành thêm;
- Ưu tiên cho danh mục đầu tư dài hạn;
- Chỉ đầu tư vào các doanh nghiệp tốt thuộc nhóm ngành đang tăng trưởng hoặc có lợi thế;
Trong thời gian tới khi SHS lớn mạnh và đủ tiềm lực tài chính thì thực hiện mua bán lại các công ty nhỏ, làm ăn tốt, có tiềm năng phát triển lớn trong tương lai.
* Yêu cầu về hiệu quả đối với hoạt động đầu tư cổ phiếu
Xây dựng được một danh mục đầu tư chuẩn và hợp lý tương ứng với mức vốn đầu tư và tình hình thị trường
Mức lợi nhuận trên vốn đầu tư đạt mức 22% trở lên
* Yêu cầu về nhân sự cho bộ phận đầu tư cổ phiếu
Có kế hoạch đào tạo cho đội ngũ tự doanh hàng năm để nâng cao trình độ, cập nhật những kiến thức, phần mềm mới nhất để phục vụ cho hoạt động tự doanh.
Số lượng nhân viên tự doanh sẽ được điều chỉnh cho phù hợp trong từng thời kỳ nhưng nhất thiết phải xây dựng được bộ máy ổn định bao gồm Trưởng phòng và các chuyên viên chính cho từng mảng công việc và bộ máy này được xây dựng cho chiến lược dài hạn và có kế hoạch tuyển dụng và đào tạo chuyên sâu theo yêu cầu công việc được giao.
Có đội ngũ nhân viên tự doanh có trình độ và kinh nghiệm, được đào tạo bài bản và chuyên sâu về kiến thức đầu tư chứng khoán đặc biệt là kiến thức về Tài chính và Quản trị Tài chính doanh nghiệp, kiến thức và kinh nghiệm về xác định giá trị tài sản.
Chiến lược tổ chức: xây dựng các bộ phận tư vấn doanh nghiệp, tư vấn đầu tư, môi giới chứng khoán mạnh và độc lập trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc “bức tường lửa” giữa các bộ phận. Ngoài ra SHS tiếp tục mở rộng thêm mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch nhằm cung cấp thêm nhiều địa điểm giao dịch tiện lợi cho khách hàng.
Chiến lược phát triển sản phẩm, dịch vụ: Các dịch vụ thu xếp vốn, bảo lãnh phát hành cho doanh nghiệp, quản lý tài sản và tư vấn đầu tư cho các tổ chức và cá nhân là các dịch vụ đang và sẽ được tập trung nguồn lực phát triển trong giai đoạn sắp tới bên cạnh các dịch vụ truyền thống như Môi giới chứng khoán.
Chiến lược khách hàng: SHS phát triển khách hàng theo hướng chọn lựa và giới hạn số lượng khách hàng nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ tốt nhất cho cả doanh nghiệp và nhà đầu tư. SHS sẽ tập trung cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp trong một số lĩnh vực giới hạn bao gồm năng lượng, giao thông vận tải, viễn thông và vật liệu xây dựng, chế biến xuất khẩu thủy sản, bất động sản.... SHS chủ trương xây dựng mạng lưới khách hàng ổn định là các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân SHS tiêu chí đầu tư rõ ràng, dài hạn
Chiến lược đầu tư: SHS chủ trương lựa chọn các doanh nghiệp ổn định, phát triển bền vững, không đầu tư chạy theo các xu thế ngắn hạn của thị trường. Cùng với các đối tác và khách hàng, SHS sẽ tập trung nguồn lực để có thể đầu tư đủ lớn, trực tiếp tham gia giám sát và hỗ trợ doanh nghiệp nhằm tạo dựng giá trị gia tăng và tối đa hóa lợi nhuận cho công ty cũng như nhà đầu tư.
Chiến lược nhân sự: SHS xác định việc phát triển nguồn lực là yếu tố cơ bản đảm bảo sự thành công cho công ty trong tương lai. SHS phát triển chiến lược nhân sự năng động nhằm thu hút được những cá nhân xuất sắc tham gia và gắn bó lâu dài với công ty. Nội dung cơ bản của chiến lược nhân sự bao gồm việc tuyển dụng đa kênh nhằm tìm kiếm những cá nhân có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt, trọng dụng và mạnh dạn phân quyền cho các cá nhân được tuyển dụng và duy trì chính sách đãi ngộ thích hợp nhằm khuyến khích và giữ chân các cán bộ có năng lực. SHS luôn đánh giá cao khả năng hợp tác của các thành viên trong công ty tạo sức mạnh cho toàn công ty.. Đây là một trong các chiến lược nhân sự căn bản để giữ cho SHS luôn là một khối đoàn kết, hiệu quả.
Chiến lược công nghệ: SHS hiện đã chọn nhà thầu có kinh nghiệm để phát triển hệ thống công nghệ thông tin đồng bộ theo chuẩn quốc tế, đảm bảo cung cấp các công cụ hữu hiệu cho các hoạt động giao dịch – bao gồm giao dịch trực tuyến, phần mềm quản lý tài sản, quản lý rủi ro, v.v…
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN THÔNG QUA NGHIỆP VỤ TỰ DOANH TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN SHS.
1. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỰ DOANH TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN SHS.
1.1 HOÀN THIỆN QUY TRÌNH TỰ DOANH.
Hoạt động tự doanh đã đóng góp rất lớn vào doanh thu của SHS trong mấy năm gần đây. Do đó việc hoàn thiện quy trình tự doanh sẽ giúp cho hoạt động này trở nên tối ưu và chuyên nghiệp hơn do đó cần chú ý những điểm sau:
- Quy định rõ công việc của từng cán bộ tự doanh trong đó có sự phân công cán bộ tự doanh chuyên phụ trách về thị trường niêm yết, đăng ký giao dịch và cán bộ chuyên phụ trách về thị trường chưa niêm yết. Khi đó sẽ tiến hành phân công cán bộ tự doanh quản lý danh mục đầu tư theo ngành trên cả 2 loại thị trường. Mối cán bộ tự doanh sẽ chịu trách nhiệm tập trung quản lý đầu tư trên một số ngành nhất định thay vì đầu tư dàn trải như hiện nay.
- Mặt khác, hàng tháng, quý Hội đồng đầu tư cần thẩm định các kết quả phân tích ngành của bộ phận phân tích, sau đó kết hợp với chiến lược phát triển của Công ty để tham mưu cho Ban lãnh đạo công ty những phương án đầu tư trung và dài hạn thích hợp. Bên cạnh đó, Hội đồng đầu tư cũng nên thường xuyên kết hợp với Giám đốc công ty thẩm định các kết quả đầu tư của phòng tự doanh nói chung và của từng cán bộ tự doanh. Như thế sẽ giảm bớy được gánh nặng cho Giám đốc công ty và Hội đồng đầu tư sẽ nâng cao được vai trò của mình.
Bước 1: Phân tích thị trường và các yếu tố vĩ mô.
Bước này là bước phân tích tình hình kinh tế, môi trường chính trị, luật pháp, quan điểm của chính phủ về thị trường chứng khoán như việc chính phủ khuyến khích hay hạn chế sự phát triển của thị trường chứng khoán. Để qua đó giúp công ty kết hợp xác định mục tiêu đầu tư.
Bước 2: Xác định mục tiêu đầu tư.
Trong bước này ngoài xác định mục tiêu đầu tư theo quan điểm chủ quan của công ty thì cần kết hợp xem xét mục tiêu này có phù hợp với chính sách của chính phủ về sự phát triển của thị trường chứng khoán hay không, có phù hợp với xu thế của thị trường hay không.
Bước 3: Phân tích ngành và từ đó lựa chọn ngành tiềm năng.
Sau khi xác định mục tiêu đầu tư. Bước 3 là bước xem xét ngành nào mà có khả năng đầu tư mà thỏa mãn được mục tiêu đầu tư. Thường thì mục tiêu đầu tư là tối đa hóa lợi nhuận. Do đó công ty phải phân tích được ngành có tốc độ tăng trưởng tốt ( trên 30%/ năm), có khả năng sinh lời cao. Sau đó là lựa chọn cổ phiếu trong ngành này.
Bước 4: Phân bổ hạn mức ngành cho cán bộ tự doanh.
Trong bước này thì việc phân bổ theo mục tiêu chung mà công ty đề ra, đó là phân bổ tỷ trọng lớn vốn đầu tư có tốc độ tăng trưởng cao.
Bước 5 : Cán bộ tự doanh thực hiện giao dịch.
Đây là bước cán bộ tự doanh trực tiếp giao dịch (trading) mua, bán chứng khoán trên thị trường niêm yết. Và cán bộ tự doanh phải sử dụng tài khoản của công ty chứng khoán và khách hàng ở đây lấy tên là tên công ty chứng khoán.
Bước 6 : Báo cáo kết quả định kỳ.
Thông thường thì hết một ngày, một tuần, một tháng, một quý… thì cán bộ tự doanh phải báo cáo tình hình danh mục đầu tư và kết quả đầu tư cho trưởng phòng tự doanh.
Bước 7: Trưởng phòng tự doanh đánh giá kết quả đầu tư của cán bộ tự doanh. Sau đó nhận xét, đề xuất phương án tốt cho cán bộ tự doanh. Sau đó trưởng phòng tự doanh phải gửi kết quả về tình hình đầu tư cho giám đốc.
1.2 NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ TỰ DOANH.
Hoạt động tự doanh có thành công hay không là phụ thuộc phần lớn vào yếu tố con người. Do vậy việc thu hút nhân tài đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển hoạt động tự doanh của công ty SHS. Vì vậy một số nội dung cấn thiết trong hoạt động nâng cao số lượng cũng như chất lượng của cán bộ tự doanh như sau:
Phối hợp với các trung tâm đào tạo như UBCKNN mở lớp huấn luyện nâng cao trình độ cho nhân viên công ty.
Cử cán bộ đi học các khóa đào tạo nâng cao nghiệp vụ chuyên môn ở trong và ngoài nước.
Tăng cường chính sách khuyến khích lao động và phong trào nghiên cứu khoa học, khuyến khích ý tưởng sáng tạo của mỗi nhân viên để phục vụ cho hoạt động tự doanh và hoạt động của công ty nói chung.
Tuyển dụng thêm các cán bộ có khả năng trình độ và kinh nghiệm phù hợp với công việc của hoạt động tự doanh.
Tạo không khí làm việc chuyên nghiệp, thân thiện và thoải mái để các nhân viên cảm thấy công ty như một gia đình thứ hai của mình, có như vậy họ mới làm việc hết mình vì lợi ích và sự phát triển của công ty.
Linh hoạt động trong việc thuyên chuyển, điều động nhân viên phù hợp với khả năng của từng người để họ phát huy được thế mạnh của mình.
1.3 HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ PHÂN TÍCH.
Hoạt động nghiên cứu và phân tích chứng khoán là một hoạt động quan trọng trong công ty chứng khoán. Thông qua việc phân tích sẽ giúp tìm hiểu rõ được các doanh nghiệp mà SHS đã, đang và sẽ tiến hành đầu tư trong tương lai.
Vì vậy rất cần thiết phải thành lập một tiểu ban phân tích trực thuộc phòng tự doanh hoặc và có thể thành lập phong phân tích riêng của công ty. Nhiệm vụ chính của bộ phận phân tích là đưa ra các phân tích, dự báo nhằm tham mưu cho Ban lãnh đạo và tạo ra các cơ sở tham chiếu cho những phòng ban khác của công ty. Nội dung phân tích chính thường gồm những nội dung phân tích thị trường, phân tích ngành và phân tích công ty. Đây chính là phân tích cơ bản.
Phân tích thị trường: TTCK cũng chịu tác động của các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế thị trường như tổng sản phẩm quốc dân, tỷ giá, lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, lãi suất thị trường, hệ thống pháp luật…Khi đã có được những phân tích tổng quan về thị trường, Hội đồng đầu tư sẽ xem xét lại để nhằm xác định được quy mô vốn đầu tư thích hợp vào cổ phiếu, trái phiếu. Công việc này đòi hỏi bộ phận phân tích phải thường xuyên theo dõi và cập nhật tình hình phát triển kinh tế của đất nước, các chính sách về tài chính tiền tệ, đặc biệt là các chính sách liên quan đến thị trường chứng khoán để tù đó đưa ra các nhận xét và dự đoán chính xác nhất.
Phân tích ngành: Phân tích ngành tác động rất lớn không chỉ đối với hoạt động tự doanh chứng khoán mà với hầu hết các hoạt động đầu tư tài chính. Thông qua đó để những người đầu tư xác định được tỷ suất lợi nhuận ngành, theo dõi sự tăng trưởng cũng như rủi ro mà các ngành gặp phải để từ đó đưa ra các phương án đầu tư vào ngành nào để thu được lợi nhuận cao hơn. Hiện nay các nhà đầu tư hay các CTCK chỉ có thể đưa ra các dự báo chung nhất về những khó khăn thách thức, những cơ hội và sự tăng trưởng của các ngành do số liệu còn chưa đầy đủ và thiếu chính xác. Kết quả phân tích ngành sẽ là cơ sở để Hội đồng đầu tư lựa chọn những ngành ưu tiên đầu tư phù hợp với chiến lược phát triển và mục tiêu hoạt động của công ty.
Phân tích công ty: Đây là bước cuối cùng sau khi đã tiến hành phân tích thị trường và phân tích ngành để lựa chọn danh mục đầu tư trong tự doanh chứng khoán. Phân tích công ty giúp ta tìm ra những công ty tốt nhất trong các ngành có tiềm năng và tìm được những cổ phiếu của công ty đang bị đánh giá dưới giá trị. Việc phân tích công ty có thể rất khó bởi khả năng tiếp cận thông tin từ bên trong là rất khó. Do vậy công việc này đòi hỏi phòng phân tích phải tích cực, chủ động liên hệ trực tiếp với công ty phát hành chứng khóan, thông qua các mối quan hệ…làm sao có thể tiếp cận được nguồn thông tin từ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp để có cái nhìn chính xác nhật về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Định giá chứng khoán: Nhóm phân tích cơ bản này cũng làm thêm nhiệm vụ định giá cổ phiếu, để tính xem giá trị thực của cổ phiếu là bao nhiêu, cũng là một căn cứ quan trọng để tiến hành đầu tư. Vì phương pháp đầu tư của SHS ở đây vừa mang tính ngắn hạn và vừa mang tính dài hạn. Do đó việc định giá chứng khoán là rất quan trọng.
Đối với phân tích kĩ thuật cũng cần phải có một nhóm cán bộ nằm ngay trong phòng tự doanh bởi vì phân tích kĩ thuật cho biết mua chứng khoán thời điểm nào và bán chứng khoán thời điểm nào. Và đối với phân tích kĩ thuật cần chú ý các điểm sau:
+ Không nên chỉ sử dụng một đường giá chứng khoán để phân tích xu hướng giá. Vì nó không thể phản ánh được chính xác.
+ Nên kết hợp sử dụng các đường giá chứng khoán với các đường MACD, đường RSI, dải Bollinger. Bởi gì mỗi đường sẽ cho ta những kết quả khác nhau về xu hướng thị trường, mức độ biến động nhanh hay chậm của thị trường. Do đó nếu kết hợp được tất cả các đường này tốt thì sẽ nâng cao được hiệu quả đầu tư và thực hiện được đúng chiến lược mua đáy và bán đỉnh.
+ Trong phân tích kĩ thuật nên chú ý đến yếu tố tâm lý, hành vi của nhà đầu tư. Bởi vì thực tế đã chứng minh về tâm lý đầu tư của thị trường chứng khoán Việt Nam là hành vi đầu tư bầy đàn, cùng mua, cùng bán.
Như vậy kết hợp hai nhóm làm công tác phân tích cơ bản cổ phiếu, định giá cổ phiếu và phân tích kĩ thuật sẽ phục vụ trực tiếp cho cán bộ tự doanh. Các kết quả phân tích sẽ hỗ trợ cho các cán bộ tự doanh trong việc đưa ra quyết định đầu tư. Do vậy, khi có một quy trình phân tích chặt chẽ kết hợp với sự phân bổ dân sự một cách hợp lý sẽ tạo điều kiện để các cán bộ tự doanh hoàn thành tốt trách nhiệm của mình.
1.4.XÂY DỰNG DANH MỤC ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN PHÙ HỢP.
Danh mục đầu tư chứng khoán rất đa dạng. Tuy nhiên để một danh mục đầu tư cho tỷ suất lợi nhuận cao nhất thì phải xây dựng danh mục đầu tư phù hợp với diễn biến và xu thế thị trường. Các bước cụ thể như sau:
Bước 1: Xác định quan điểm đầu tư là chủ động hay thụ động. Khi bắt tay vào xây dựng danh mục đầu tư, điều quan trọng trước tiên là phải xác định là thuộc loại nào, chủ động hay thụ động. Đây là việc làm quan trọng quyết định đến cách thức đầu tư. Nếu là chủ động thì phải luôn luôn bỏ thời gian và công sức để quản lý danh mục đầu tư và ngược lại.
Bước 2: Quyết định cơ cấu danh mục đầu tư. Có những quan điểm rất khác nhau, có công ty thì thích đầu tư nhiều vào cổ phiếu, cũng có công ty thích đầu tư nhiều vào trái phiếu, có công ty thì đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu theo một tỷ lệ nhất định.
Bước 3: Đa dạng hóa danh mục đầu tư. Đa dạng hóa tổ chức phát hành.Nêu danh mục toàn trái phiếu chính phủ thì không phai đa dạng hóa để giảm rủi ro vì trái phiếu chính phủ rất it khi có rủi ro. Còn nếu mua trái phiếu công ty, trái phiếu địa phương, cổ phiêu thì phải đa dạng hóa chủ thể phát hành vì loại chứng khoán này luôn luôn tiềm tàng rủi ro nhất định.
1.5. ĐA DẠNG HOÁ DANH MỤC ĐẦU TƯ VÀ PHƯƠNG ÁN ĐẦU TƯ
Hoạt động đầu tư tự doanh chứng khoán là một hoạt động khá rủi ro do đó đòi hỏi cán bộ tự doanh phải biết đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình để hạn chế rủi ro chứng khoán.
Ví dụ như ngoài đầu tư vào cổ phiếu thì tích cực đầu tư vào trái phiếu, trái phiếu là một loại chứng khoán có mức rủi ro khá thấp, đặc biệt là trái phiếu chính phủ. Hiện nay thì mức lãi suất của trái phiếu chính phủ khá hấp dẫn.
Ngoài ra trong tương lai khi luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn đã hoàn thiện thì có thể đầu tư vào các công cụ phái sinh. Danh mục đầu tư vế sau: có thể còn bao gồm :
+ Phát hành quyền chọn mua
+ Mua quyền chọn bán trên cùng một chứng khoán trong danh mục.
+ Sử dụng quyền chọn chỉ số.
+ Sử dụng hợp đồng tương lai chỉ số.
Chiến lược tự doanh mang tính chủ động: Danh mục đầu tư có liên quan đến nhiều yếu tố tạo lập thị trường. Việc áp dụng chiến lược này, các nhà quản lý kỳ vọng vào sự phát triển về giá trị tương lai hoặc sự phát triển đột biến để lựa chọn ngành, lĩnh vực và các chứng khoán cụ thể. Điều này đòi hỏi phải sử dụng các công cụ phân tích để có thể phát huy tính chủ động, không ngừng chuyển hóa cơ cấu tài sản và đổi mới chứng khoán.
Ngược lại chiến lược tự doanh mang tính thụ động. Đó là thiết lập danh mục đầu tư theo kết cấu chỉ số mà thực chất là sao chép lại một cách thụ động mức lợi nhuận của toàn thị trường mà không kỳ vọng vào loại hình chứng khoán và lĩnh vực kinh tế cụ thể nào. Kết quả phụ thuộc vào diễn biến khách quan của thị trường.
Áp dụng chiến lược tự doanh mang tính hỗn hợp trên cơ sở phối hợp cả 2 chiến lược trên là việc phát huy mang tính chủ động trong việc phân bổ tài sản. Thường xuyên thay đổi cơ cấu chứng khoán trong danh mục tự doanh sao cho đạt hiệu quả nhất. Việc phân bổ tài sản phải dựa trên mục tiêu và chiến lược xác định. Quản lý danh mục đầu tư phải linh hoạt và chủ động.
1.6 TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC KIỂM TRA KIỂM SOÁT
Để đảm bảo các quy chế, quy trình đầu tư được tuân thủ đúng đắn và đầy đủ, Công ty cần có kế hoạch tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với nghiệp vụ này. Việc kiểm tra tập chung vào các công việc sau:
- Kiểm soát các khâu và phát hiện ra những hiện tượng bất thường trước, trong và sau quá trình thực hiện nghiệp vụ: kiểm tra các chứng khoán từ, hồ sơ, rà soát tính hợp pháp, hợp lệ của nghiệp vụ…
- Thành viên ban kiểm tra, kiểm soát phải Là người có kinh nghiệm, nắm rõ tường tận quy chế, quy trình đầu tư, có óc quan sát tinh tế…
1.7.MỞ RỘNG NGUỒN VỐN CHO HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ THEO NGHIỆP VỤ TỰ DOANH
Hiện tại nguồn vốn SHS dành cho hoạt động động đầu tư còn nhỏ so với quy mô vốn hoá của thị trường do vậy trước mắt để mở rộng nguồn vốn đầu tư cho hoạt động động này SHS có thể kết chuyển một phần nguồn vốn đầu tư trái phiếu.
Vì khi thị trường tăng trưởng thì việc đầu tư vào trái phiếu sẽ không hiệu quả bằng việc đầu tư vào cổ phiếu. Đầu tư vào cổ phiếu cho một tỷ suất lợi nhuận cao hơn rất nhiều.
Ngoài những nguồn vốn hiện tại, SHS có thể mở rộng nguồn vốn đầu tư qua các kênh khác trên thị trường tài chính, đặc biệt phương án niêm yết cổ phiếu ở thị trường chứng khoán của nước ngoài như thị trường chứng khoán LonDon, thị trường chứng khoán của Mỹ…
1.8 HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TỰ DOANH.
Xây dựng quy trình quản lý rủi ro như sau:
Bước 1: Nhận dạng rủi ro.
Đây là bước đầu tiên nhằm tìm hiểu cặn kẽ về bản chất của rủi ro. Cách đơn giản và trực tiếp nhất là liệt kê từng nhân tố và các biến cố có thể gây ra rủi ro.
Cách làm rõ bản chất của rủi ro là:
- Thứ nhất: Nhận dạng những tác nhân kinh tế có thể gây ra rủi ro, ví dụ yếu tố lãi suất, lạm phát, tỷ giá hối đoái, tăng trưởng kinh tế…
- Thứ hai: Tìm hiểu xem chiều hướng có thể gây ra rủi ro, ví dụ như Ngân hàng Trung ương tăng lãi suất sẽ tác động đến giá chứng khoán.
- Thứ ba: Kiểm tra lại xem biểu hiện rủi ro đang phân tích có phụ thuộc vào biến cố nào khác hay không, như công ty có biểu hiện rủi ro trong trường hợp không được tín nhiệm của khách hàng…
Bước 2: Ước tính, định lượng rủi ro.
Bước này sẽ đo lường mức độ phản ứng của công ty đối với các nguồn gốc rủi ro đã xác định ở trên. Cụ thể, dùng một phương pháp giả định nếu có nhân tố rủi ro thì công ty được và mất gì.
Bước 3: Đánh giá tác động của rủi ro.
Để đánh giá rủi ro người ta thường làm bài toán chi phí và lợi tức. Đôi khi, việc quản lý rủi ro tiêu tốn nhiều nguồn lực của công ty như tiền bạc và thời gian, do đó cần phải cân nhắc xem liệu việc quản lý rủi ro như vậy có thực sự đem lại lợi ích lớn hơn chi phí bỏ ra để thực hiện nó hay không.
Bước 4: Đánh giá năng lực của người thực hiện chương trình bảo hiểm rủi ro.
Bước 5: Lựa chọn công cụ và quản lý rủi ro thích hợp.
Đây là bước mấu chốt cuối cùng trong việc xây dựng chiến lược quản lý rủi ro. Trong bước này nhà quản lý phải chọn một giải pháp cụ thể. Chẳng hạn, đối với các công cụ trên thị trường hối đoái, người ta có thể sử dụng hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn…làm công cụ chống rủi ro.Cụ thể quản lý rủi ro của công ty SHS cần phải thực hiện đối với danh mục đầu tư của mình như sau:
Các tín hiệu bán chứng khoán nhằm quản lý rủi ro:
+ Bán chứng khoán ngay khi có tín hiệu không tốt về tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính xấu đi của tổ chức phát hành.
+ Nghiên cứu bán cổ phiếu khi có tốc độ tăng lợi nhuận của công ty đó chậm lại.
+ Thị phần của công ty đó giảm 2 năm liên tiếp.
+ Công ty đó không nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới.
+ Bán khi có dấu hiệu của thị trường giảm giá.
+ Bán chứng khoán khi thị trường thay đổi xu hướng với khối lượng giao dịch tăng và các cổ phiếu hàng đầu giảm giá vơi khối lượng giao dịch lớn.
2.KIẾN NGHỊ VỚI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN SHS VỀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN THÔNG QUA NGHIỆP VỤ TỰ DOANH.
Thứ nhất: Nên kết hợp chặt chẽ giữa bộ phận tư vấn đầu tư ( chuyên nghiên cứu phân tích cơ bản về công ty niêm yết, công ty chưa niêm yết ) với phòng tự doanh để đưa ra danh mục đầu tư tối ưu để đạt được hiệu quả cao nhất.
Thứ hai: Hoạt động phân tích chứng khoán cần được đẩy mạnh nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa. Do thị trường chứng khoán phát triển nên rất nhiều tổ chức chuyên nghiệp nên cạnh tranh đối với công ty chứng khoán. Do đó công ty phải chuẩn bị vững chắc cho sự cạnh tranh trong tương lai.
Thứ ba : Công ty nên đầu tư cho hoạt động tự doanh hơn nữa, bổ sung vốn, tăng cường cán bộ giỏi và đặc biệt tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh có thể phát triển nhanh và vững chắc nhất
KẾT LUẬN
Sau 8 năm hoạt động TTCK Việt Nam đã có những bước tăng trưởng mạnh cả về quy mô và chất lượng tính tới năm 2007 có 202 công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán (GDCK) TP Hồ Chí Minh và trên trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội, với tổng mức vốn hóa thị trường đạt trên 310.000 tỷ đồng chiếm khoảng 30%GDP . TTCK Việt Nam hình thành trên cơ sở mô hình đã được Đảng và chính phủ thông qua .Đồng thời chính phủ đã ban hành chiến lược phát triển TTCK Việt Nam tới năm 2010.
Hoạt động tự doanh của SHS diễn ra cùng với sự hình thành và phát triển của công ty.Trải qua một năm thăng trầm của thị trường thì hoạt động của tự doanh của SHS vẫn đạt được những thành công nhất định như SHS là một trong những công ty công bố có mức lợi nhuận trước thuế là hơn 37 tỷ đồng trong đó hoạt động tự doanh đóng góp trên 60 %.
Để đạt được những thành quả trên thì bộ phận tự doanh của công ty đã không ngừng nỗ lực trong công tác đầu tư chứng khoán.Mặc dù vậy do còn là một công ty còn non trẻ các quy trình chưa có sự đồng bộ nhất định,số lượng cán bộ tự doanh còn khá ít mà khối lượng công việc thì rất nhiều nên mỗi cán bộ phải chịu một trách nhiệm khá lớn về quản lý danh mục đầu tư của mình và haotj động đầu tư lại phải tiến hành một cách liên tục,do vậy mà hiệu quả đầu tư không cao nên hiệu suất sinh lời tù danh mục đầu tư mới chỉ đạt từ 12%- 17%.trong khi đó nếu đầu tư theo danh mục từ 2 -4 chứng khoán thì có thể cho tỷ suất lợi nhuận từ 35% - 40% trong vòng một năm.
Để nâng cao hiệu quả đầu tư thì trong thời gian tới SHS cần chú trọng hơn việc đầu tư vào số lượng cũng như chất lượng cán bộ tự doanh. Nhanh chóng xây dựng quy trình tự doanh hoàn chỉnh hơn,nâng cao chất lượng phân tích chứng khoán.
Đề tài này đưa ra những cách nhìn bao quát hơn về thị trường chứng khoán.Ngoài ra qua việc phân tích thực trạng của SHS đề tài đã đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ những vấn đề bất cập ở công ty để công ty ngày càng phát triển hơn uy tín hơn và có thể cạnh tranh với các công ty chứng khoán khác ở Việt Nam cũng như trên thế giới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TS Đào Lê Minh(2002),Giáo trình Những vấn đề cơ bản về Chứng khoán và thị trường chứng khoán, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
ThS Lê Thị Mai Linh(2003),Giáo trình Phân tích và đầu tư chứng khoán, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Luật chứng khoán 2006
Báo cáo kết quả kinh doanh của SHS
Tài liệu phòng tự doanh SHS
Lê Văn Thủy, Cẩm nang người tư vấn kinh doanh và đầu tư chứng khoán ở Việt Nam, NXB Tài chính
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2163.doc