ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
----------
ĐINH THỊ KIM NGÂN
ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở HỘI AN (QUẢNG NAM)
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
(1954 - 1975)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC
Huế, 2021
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
----------
ĐINH THỊ KIM NGÂN
ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở HỘI AN (QUẢNG NAM)
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
(1954 - 1975)
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM
MÃ SỐ: 9 22 90 13
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC
Người hướ
232 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 400 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đấu tranh chính trị ở Hội An (quảng nam) trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớng dẫn khoa học:
PGS. TS. Lê Cung
Huế, 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết
quả nghiên cứu trong luận án là trung thực, chưa từng công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận án
Đinh Thị Kim Ngân
ii
LỜI CẢM ƠN
Trân trọng cảm ơn quý thầy cô giáo Khoa Lịch sử, Phòng Đào tạo Sau Đại học
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế và Ban Đào tạo Sau Đại học - Đại học Huế
đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận án.
Trân trọng cảm ơn Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng, Trung tâm Lưu trữ
Quốc gia II, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV và các nhân chứng đã hỗ trợ về mặt tư
liệu để tôi hoàn thành luận án.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự kính trọng, lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS. TS. Lê
Cung người thầy đã tận tình hướng dẫn cho tôi cả về chuyên môn, phương pháp cũng
như thái độ nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học.
Cảm ơn gia đình, thầy cô, bạn bè và đồng nghiệp luôn động viên, giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Huế, ngày tháng năm 2021
Tác giả
Đinh Thị Kim Ngân
iii
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA ..........................................................................................................i
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................................................... ii
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................................. iii
MỤC LỤC .................................................................................................................................... iv
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT ....................................................................................... vii
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................. 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu .................................................................... 4
5. Đóng góp của luận án ...................................................................................................... 5
6. Bố cục luận án .................................................................................................................. 5
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ..................................................... 6
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài đấu tranh chính trị ở Hội An ................ 6
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về đấu tranh chính trị ở miền Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) ...................................................... 6
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng
Nam) trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) ................................ 13
1.2. Những vấn đề luận án kế thừa ................................................................................... 16
1.3. Những vấn đề luận án tiếp tục giải quyết.................................................................. 17
Chương 2. ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở HỘI AN (QUẢNG NAM) GIAI ĐOẠN
1954 - 1965 ................................................................................................................................... 18
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, truyền thống yêu nước và cách
mạng của nhân dân Hội An trước Hiệp định Genève (21-7-1954) ......................................... 18
2.1.1. Điều kiện tự nhiên ....................................................................................... 18
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ........................................................................... 19
2.1.3. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Hội An trước 1954 .. 23
2.2. Chính sách của Mỹ và chính quyền Việt Nam cộng hòa ở Hội An giai
đoạn 1954 - 1965 ....................................................................................................................... 26
iv
2.2.1. Về chính trị - quân sự ................................................................................. 27
2.2.2. Về kinh tế - xã hội....................................................................................... 32
2.2.3. Về văn hóa - giáo dục ................................................................................. 34
2.3. Chủ trương của Trung ương Đảng và Đảng bộ địa phương về đấu tranh chính trị
ở Hội An giai đoạn 1954 - 1965 ................................................................................................. 35
2.3.1. Chủ trương của Trung ương Đảng .............................................................. 35
2.3.2. Chủ trương của Liên Khu ủy V .................................................................. 37
2.3.3. Chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng ........................................ 38
2.3.4. Chủ trương của Thị ủy Hội An ................................................................... 39
2.4. Nội dung đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng Nam) giai đoạn 1954 - 1965 ...... 40
2.4.1. Đấu tranh đòi Mỹ và chính quyền Việt Nam cộng hòa thi hành Hiệp định
Genève (21-7-1954) ....................................................................................................... 40
2.4.2. Đấu tranh chống “tố Cộng” ........................................................................ 46
2.4.3. Đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ....................................................... 53
2.4.4. Đấu tranh chống phá ấp chiến lược ............................................................ 55
2.4.5. Đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo năm 1963 .................. 57
2.4.6. Đấu tranh chính trị ở Hội An sau cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm từ ngày
1-11-1963 đến ngày 8-3-1965 và đồng khởi ở nông thôn đồng bằng cuối năm 1964 đầu
năm 1965 ...................................................................................................................... 63
Chương 3. ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở HỘI AN (QUẢNG NAM) GIAI ĐOẠN
1965 – 1975 ................................................................................................................................... 70
3.1. Chính sách của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở Hội An giai đoạn
1965 - 1975 ................................................................................................................................... 70
3.1.1. Về chính trị - quân sự ................................................................................. 70
3.1.2. Về kinh tế - xã hội....................................................................................... 74
3.1.3. Về văn hóa - giáo dục ................................................................................. 76
3.2. Chủ trương của Trung ương Đảng và Đảng bộ địa phương về đấu tranh chính trị
ở Hội An giai đoạn 1965 - 1975 ................................................................................................. 78
3.2.1. Chủ trương của Trung ương Đảng .............................................................. 78
3.2.2. Chủ trương của Liên Khu ủy V .................................................................. 79
3.2.3. Chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Đà ............................................................ 80
v
3.2.4. Chủ trương của Thị ủy Hội An ................................................................... 82
3.3. Nội dung đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng Nam) giai đoạn 1965 - 1975 ...... 85
3.3.1. Đòi thành lập chính phủ dân sự .................................................................. 85
3.3.2. Đấu tranh chính trị trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) .... 91
3.3.3. Đòi dân sinh, dân chủ ................................................................................. 96
3.3.4. Đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Paris (27-1-1973) ............................... 101
3.3.5. Đấu tranh chính trị trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 ..... 105
Chương 4. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở HỘI AN
(QUẢNG NAM) TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954 - 1975)
...................................................................................................................................................... 110
4.1. Về tính chất ................................................................................................................ 110
4.1.1. Tính chất dân tộc....................................................................................... 110
4.1.2. Tính chất dân chủ, dân sinh ...................................................................... 113
4.2. Về đặc điểm ............................................................................................................... 115
4.2.1. Thu hút hầu hết các thành phần xã hội tham gia ...................................... 115
4.2.2. Hình thức, biện pháp đấu tranh phong phú, linh hoạt và quyết liệt .......... 117
4.2.3. Tích cực hưởng ứng và phối hợp với các địa phương khác trong đấu tranh ... 121
4.3. Về ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm............................................................. 127
4.3.1. Góp phần nâng cao giác ngộ chính trị đối với các tầng lớp nhân dân, phối
hợp đánh địch trên 3 mũi giáp công ............................................................................ 127
4.3.2. Làm rối loạn hậu phương và suy giảm thế lực của chính quyền Việt Nam
Cộng hòa, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng đi đến thắng lợi ......................... 130
4.3.3. Về bài học kinh nghiệm đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc ................ 132
KẾT LUẬN ............................................................................................................................... 142
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ................................................................................................ 146
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ .................................................................. 146
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................... 147
vi
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT
ACL : Ấp chiến lược
ATS : Ấp tân sinh
CTQG : Chính trị Quốc gia
CQNĐD : Chính quyền Ngô Đình Diệm
CQVNCH : Chính quyền Việt Nam Cộng hòa
ĐTCT : Đấu tranh chính trị
HĐ : Hiệp định
Nxb : Nhà xuất bản
PTTg : Phủ Thủ tướng
QN - ĐN : Quảng Nam - Đà Nẵng
QĐND : Quân đội Nhân dân
SV - HS : Sinh viên - học sinh
TLLT : Tài liệu Lưu trữ
Tp HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
TTLTQG II : Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II
TTLTQG IV : Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV
vii
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cục diện và diễn trình lịch sử chiến tranh cách mạng Việt Nam đã khẳng định
đấu tranh chính trị (ĐTCT) có ý nghĩa chiến lược xuyên suốt trong đường lối cách
mạng, vừa là sách lược và nghệ thuật trong thực tiễn lãnh đạo phong trào đấu tranh của
nhân dân, là một nhân tố quan trọng hợp thành với đấu tranh quân sự (ĐTQS) trong
thế trận chiến tranh nhân dân.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), ĐTCT đã khẳng định
vai trò và vị thế quan trọng của nhân dân trong cuộc đấu tranh trực diện với bộ máy
chiến tranh của Mỹ, hạ thấp uy thế chính trị của chính quyền Việt Nam Cộng hòa
(VNCH), góp phần đánh bại những âm mưu, thủ đoạn của chúng, hỗ trợ lực lượng vũ
trang tiêu diệt sinh lực của kẻ thù. ĐTCT trở thành một mặt trận hợp thành với ĐTQS,
tạo nên sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân đánh bại chiến tranh tổng lực của
đế quốc Mỹ và chính quyền VNCH.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Lê Duẩn - Bí thư thứ
nhất BCH Trung ương Đảng đã khẳng định, nếu “ĐTQS là một hình thức đấu tranh cơ
bản có tác dụng quyết định trực tiếp trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, và do
đó đập tan âm mưu quân sự và chính trị của chúng” thì “ĐTCT của quần chúng nhân
dân cũng là một hình thức cơ bản có tác dụng quyết định trong tất cả các thời kỳ phát
triển của cách mạng miền Nam và đối với sự thành công của cách mạng miền Nam”
[32, tr. 56-57]. Và do sự chi phối bởi điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của từng
địa phương ở miền Nam mà ĐTCT diễn ra phong phú, đa dạng với nhiều hình thức và
cấp độ khác nhau. ĐTCT ở Hội An cũng là một trong những trường hợp như vậy.
Hội An là thị xã có lợi thế về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, nơi tập trung các cơ
quan đầu não chính trị, quân sự của chính quyền tỉnh Quảng Nam và của quân Mỹ, quân
đội VNCH, đồng thời cũng là nơi tiếp giáp với địa bàn có phong trào cách mạng phát
triển mạnh mẽ nên là nơi diễn ra những cuộc đấu tranh quyết liệt cả về quân sự và
chính trị giữa lực lượng cách mạng và lực lượng đối lập.
Hội An là địa bàn không lớn nhưng dưới ách thống trị Mỹ và chính quyền VNCH
(1954-1975), ĐTCT diễn ra dưới nhiều hình thức, thu hút hầu hết các thành phần xã
1
hội tham gia và đạt được những kết quả đáng được lịch sử ghi nhận, nổi bật là
phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève; chống chính sách “tố Cộng”;
chống phá ấp chiến lược (ACL); đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo năm
1963; chống độc tài, quân phiệt, đòi tự do và dân chủ; đấu tranh chống dư đảng Cần
Lao, chống các chính quyền độc tài sau cuộc đảo chính 01-11-1963 và đồng khởi ở
đồng bằng cuối năm 1964 đầu năm 1965; đòi thành lập chính phủ dân sự năm
1966, đòi thi hành Hiệp định Paris năm 1973; phối hợp với LLVT tham gia Tổng
tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 và Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân
1975. ĐTCT của nhân dân Hội An đã góp phần làm thất bại các chiến lược chiến
tranh thực dân mới của Mỹ tiến hành ở địa phương cũng như ở miền Nam.
Tuy nhiên, ĐTCT trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) ở các
địa bàn như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Khánh Hòa,... đã được triển khai nghiên cứu ở
những mức độ khác nhau; trong khi đó, đối với Hội An, cho đến nay chủ đề ĐTCT chỉ
được đề cập vắn tắt trong các công trình lịch sử Đảng bộ, lịch sử các tổ chức chính trị -
xã hội của địa phương. Vì vậy, nghiên cứu ĐTCT ở Hội An trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) vừa có ý nghĩa khoa học vừa có ý nghĩa thực tiễn:
Về ý nghĩa khoa học, luận án làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến ĐTCT, chính
sách của Mỹ và chính quyền VNCH (1954-1975), chủ trương của Trung ương Đảng và
Đảng các cấp về ĐTCT ở Hội An (1954-1975), nội dung ĐTCT ở Hội An (1954-1975)
và đưa ra một số nhận xét về ĐTCT ở Hội An (1954-1975. Qua đó, giúp nhận thức rõ
hơn về truyền thống yêu nước, cách mạng của nhân dân Hội An; bản chất thực dân
mới của các chính sách, biện pháp do Mỹ và chính quyền VNCH triển khai tại Hội An;
sự nhạy bén trong chủ trương lãnh đạo ĐTCT của Đảng; sự đa dạng, linh hoạt, quyết
liệt về hình thức của ĐTCT ở Hội An; sự hưởng ứng, phối hợp của Hội An với địa
phương khác trong ĐTCT; kết quả của ĐTCT ở Hội An thời kỳ 1954-1975; không
những thế, luận án còn cung cấp những cứ liệu để nhận thức đầy đủ hơn về phương
châm “hai chân”,“ba mũi”, “ba vùng” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở
Hội An nói riêng và miền Nam nói chung.
Về ý nghĩa thực tiễn, luận án cung cấp một mô hình địa phương có tính đặc thù
về ĐTCT. Để từ đó là cơ sở cho việc xây dựng chổ đứng chân cho lực lượng cách
mạng trong các giai đoạn về sau. Đặc biệt là chổ đứng chân của lực lượng vũ trang.
2
Hơn nữa, luận án cung cấp thêm nguồn tư liệu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân Hội An phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy lịch sử địa
phương, góp phần nâng cao niềm tự hào về truyền thống của quê hương và giáo dục lý
tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Hội An, là tài liệu tham khảo cho ngành du lịch để du
khách biết rõ hơn về một Hội An không những đẹp mà còn mang nhiều ý nghĩa lịch
sử. Hơn nữa, những bài học kinh nghiệm được rút ra trong luận án góp phần phát huy
sức mạnh của quần chúng nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên
địa bàn Hội An hiện nay.
Từ những ý nghĩa trên, tôi chọn đề tài “Đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng
Nam) trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)” làm luận án Tiến sĩ
sử học chuyên nghành lịch sử Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là ĐTCT ở Hội An
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), trong đó, tập trung nghiên
cứu nguyên nhân, diễn biến, mục tiêu, lực lượng, hình thức, biện pháp đấu tranh và kết
quả các phong trào tiêu biểu đồng thời đưa ra một số nhận xét về đấu tranh chính trị ở
Hội An (Quảng Nam) trong khoảng thời gian nói trên.
Về phạm vi nghiên cứu: Về không gian: địa bàn Hội An theo phân chia địa giới
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp cụ thể luận án có thể mở rộng ở một số địa bàn trước đây vốn thuộc thị xã
Hội An mà hiện nay không còn thuộc Hội An.
Về thời gian: Luận án giới hạn thời gian nghiên cứu từ năm 1954 đến năm 1975,
cụ thể là từ khi HĐ Genève được ký kết (21-7-1954) đến ngày giải phóng hoàn toàn
Hội An (28-3-1975). Tuy nhiên, để làm rõ hơn nhân tố ảnh hưởng đến ĐTCT, khung
thời gian của luận án được lùi về trước thời điểm 21-7-1954 khi trình bày nội dung
truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Hội An.
Về nội dung: luận án nghiên cứu toàn diện quá trình ĐTCT ở Hội An (1954-1975).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Về mục đích nghiên cứu
Tái hiện có hệ thống quá trình ĐTCT ở Hội An, góp phần nhận thức đầy đủ hơn về
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) ở địa phương. Mặt khác, bổ sung tư
3
liệu cho công tác nghiên cứu, giảng dạy lịch sử địa phương; cung cấp luận cứ khoa học
nâng cao hiệu quả công tác giáo dục truyền thống cách mạng, phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân trên địa bàn Thành phố Hội An trong giai đoạn hiện nay.
Về nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Hội An, nhất là chính sách của
Mỹ và chính quyền VNCH đối với Hội An (1954-1975) có ảnh hưởng đến ĐTCT.
Làm rõ đường lối, chủ trương của Trung ương Đảng vá các cấp đảng bộ địa phương
trong chỉ đạo ĐTCT trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Trình bày diễn biến và nội dung ĐTCT ở Hội An trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) qua các phong trào tiêu biểu dựa theo mục tiêu
và đối tượng đấu tranh.
Đưa ra một số nhận xét về đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng Nam) trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Về phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh chính trị, để thực
hiện luận án, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp
logic. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như
phân tích, tổng hợp, thống kê, sưu tầm và xử lý tư liệu (thành văn, điền dã,
phỏng vấn nhân chứng),
Về nguồn tài liệu
Các nguồn tư liệu đã công bố như văn kiện, công trình tổng kết của Đảng, Nhà
nước, các tác phẩm viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) có đề cập đến ĐTCT
ở Hội An; công trình, bài viết của các nhà nghiên cứu về ĐTCT trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ (1954-1975); lịch sử Đảng bộ, lịch sử Hội Nông dân, lịch sử Hội Liên hiệp Phụ
nữ; một số công trình nước ngoài viết về “chiến tranh Việt Nam” liên quan đến luận án.
Nguồn tư liệu tại kho lưu trữ thuộc Ban Tuyên giáo Thành phố Hội An; Phòng Văn
hóa - Thông tin Thành phố Hội An, Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh Quảng Nam, Trung tâm
Lưu trữ của Ban Tuyên giáo và Lịch sử Đảng Thành phố Đà Nẵng; Trung tâm Lưu trữ
Quốc gia II (Thành phố Hồ Chí Minh); Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV (Đà Lạt).
4
Ngoài ra, một nguồn tư liệu quan trọng trong nghiên cứu lịch sử địa phương
được tác giả chú ý khai thác là di tích lịch sử, bảo tàng, đặc biệt là trao đổi, phỏng vấn
một số nhân chứng tại Hội An.
5. Đóng góp của luận án
Luận án có những đóng góp sau đây:
Một là, trên cơ sở trình bày, phân tích điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội; chính
sách của Mỹ và chính quyền VNCH đối với Hội An; làm rõ chủ trương, đường lối chỉ
đạo ĐTCT của Trung ương Đảng, Liên Khu ủy V và Tỉnh ủy Quảng Nam, Thị ủy Hội
An trong chỉ đạo ĐTCT tại Hội An, luận án làm rõ sự ảnh hưởng của những nhân tố
này đối với ĐTCT ở Hội An trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-
1975).
Hai là, luận án tái hiện khách quan và có hệ thống diễn biến ĐTCT ở Hội An từ
năm 1954 đến năm 1975, trong đó thể hiện rõ mục tiêu, lực lượng, thành phần, hình
thức, kết quả,... của từng phong trào.
Ba là, luận án đưa ra một số nhận xét về đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng
Nam) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975); đồng thời làm rõ những
bài học kinh nghiệm phục vụ quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ an ninh Tổ quốc
trên địa bàn Thành phố Hội An trong giai đoạn hiện nay.
Bốn là, trên cơ sở xử lý khối lượng lớn tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau, trong
đó có nhiều tài liệu lần đầu tiên được công bố, luận án góp phần giúp nhận thức đầy đủ
hơn về ĐTCT ở Hội An; cung cấp nguồn tư liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên
cứu, giảng dạy lịch sử địa phương.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần mở đầu (5 trang), kết luận (4 trang), tài liệu tham khảo (14 trang),
phụ lục (62 trang), nội dung luận án (136 trang) được cấu tạo bởi 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu (12 trang)
Chương 2. Đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng Nam) trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước giai đoạn 1954 -1965 (52 trang)
Chương 3. Đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng Nam) trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 - 1975 (40 trang)
Chương 4. Một số nhận xét về đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng Nam) trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) (32 trang)
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài đấu tranh chính trị ở Hội An
ĐTCT là một đề tài hấp dẫn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu cả
trong và ngoài nước khi tìm hiểu, nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954-1975) của nhân dân Việt Nam nói chung và Hội An nói riêng. Liên quan
đến nội dung luận án đã có khá nhiều công trình đề cập. Có thể chia các công trình
nghiên cứu về ĐTCT vào một số nhóm sau:
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về đấu tranh chính trị ở miền Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)
Về ĐTCT và vai trò của ĐTCT trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954-1975) nhiều công trình đã đề cập, phản ánh, trong đó có thể và cần phải kể
đến như:
Lê Duẩn (1976), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa
xã hội, tiến lên giành thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội. Công trình phân tích
những vấn đề lý luận cơ bản về chiến tranh nhân dân và tổng kết kinh nghiệm của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân về
chỉ đạo ĐTCT. Về phương pháp cách mạng, Tổng Bí thư Lê Duẩn khẳng định:
“Khái quát chung lại, có thể nói bạo lực cách mạng phải dựa vào hai lực lượng:
Lực lượng quân sự, lực lượng chính trị, và bao gồm hai hình thức đấu tranh:
ĐTQS, ĐTCT và sự kết hợp giữa hai hình thức ấy” [31, tr. 51].
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Lịch sử Đảng (1993), Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam (2 tập), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Công trình đã
đề cập đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ
(1954-1975); phân tích âm mưu, biện pháp của Mỹ và CQSG đối với cách mạng miền
Nam; điểm một số phong trào ĐTCT tiêu biểu như phong trào đòi thi hành Hiệp định
Genève (1954-1956); đồng khởi (1959-1960); phá ACL (1961-1963); đòi tự do tín
ngưỡng, bình đẳng tôn giáo (1963); chống “Hiến chương Vũng Tàu” (1964); chống
chính quyền quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ (1966),
Trong phần bài học kinh nghiệm, công trình đánh giá cao vai trò của ĐTCT đối
với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước: “Phong trào ĐTCT của
6
đông đảo quần chúng có sức tiến công và tạo ra thế uy hiếp địch rất to lớn; các đoàn
thể quần chúng cách mạng thực sự là những đội quân ĐTCT chống địch ở khắp nông
thôn và thành thị”; vì vậy“thường xuyên chú trọng việc xây dựng LLCT” là bài học
lớn đối với cách mạng miền Nam thời kỳ 1954-1975 [75, tr. 145].
Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết cuộc
kháng chiến chống Mỹ - Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, chủ
yếu đề cập những vấn đề lý luận về ĐTCT trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954-1975) như cơ sở, vai trò, hình thức, nghệ thuật tiến hành và mối quan hệ
với ĐTQS. Về vai trò của ĐTCT, công trình khẳng định: “ĐTCT của quần chúng cũng
là một hình thức đấu tranh cơ bản có tác dụng quyết định trong tất cả các giai đoạn
phát triển của cách mạng miền Nam và đối với thắng lợi của cuộc chống Mỹ, cứu
nước” [5, tr. 153]; về sự kết hợp giữa ĐTCT với ĐTQS, công trình khẳng định rằng:
“Kết hợp hai mặt ĐTQS và ĐTCT là vấn đề cơ bản có tính quy luật trong phương
pháp cách mạng miền Nam, đồng thời là đặc điểm nổi bật tạo nên sức mạnh vô địch
của chiến tranh nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế
quốc Mỹ” [5, tr. 154].
Bộ Tư lệnh Quân Khu V - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1999), Một số kinh
nghiệm chỉ đạo chiến tranh nhân dân địa phương ở Khu V trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước (1954-1975), NXB Quân đội Nhân dân (QĐND), Hà Nội. Công trình đề
cập điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến ĐTCT cùng một số phong
trào ĐTCT nổi bật như phong trào đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo năm 1963,
phong trào chống độc tài, quân phiệt Nguyễn Khánh - Trần Văn Hương những năm
1964-1965, phong trào chống chính quyền quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn
Cao Kỳ năm 1966 ở địa bàn Quảng Nam, Đà Nẵng, Đà Lạt;... cùng với đó, chủ trương
chỉ đạo ĐTCT của Liên Khu ủy V và kinh nghiệm ĐTCT của nhân dân Khu V cũng
được tổng kết khá rõ.
Võ Nguyên Giáp (2006), Tổng tập luận văn, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
Công trình tập hợp các bài viết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về chính trị, chiến
tranh nhân dân,... Qua đó, nhiều vấn đề lý luận về ĐTCT, mối quan hệ giữa ĐTCT
với ĐTQS đã được phân tích làm rõ. Cũng trong công trình này, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp đưa ra định nghĩa về ĐTCT: “ĐTCT ở đây nói theo nghĩa hẹp để
7
phân biệt với ĐTVT, nghĩa là các hình thức đấu tranh của đông đảo quần chúng
nhân dân không cầm vũ khí như bãi công, bãi chợ, bãi khóa, mít tinh, biểu tình, thị
uy,... Dựa vào sức mạnh của chính nghĩa và lực lượng đoàn kết, có tổ chức của
đông đảo quần chúng, các cuộc đấu tranh này thông thường được tiến hành trong
điều kiện hợp pháp, nửa hợp pháp hoặc biến thế bất hợp pháp thành thế hợp pháp
cách mạng, nhằm đạt mục đích nhất định về chính trị, kinh tế, văn hóa hoặc có khi
cả về quân sự” [64, tr. 1060].
Trần Văn Giàu (2006), Tổng tập, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội. Bộ sách
gồm hai phần. Trong đó phần thứ hai “Miền Nam giữ vững thành đồng” là bức tranh
về cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta từ năm 1954 đến năm 1970 trên mọi
mặt trận. Trong đó ĐTCT của nhân dân miền Nam gồm những phong trào tiêu biểu
như đòi thi hành HĐ Genève (1954); phong trào đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn
giáo năm 1963; phong trào chống Mỹ, chống Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ
những năm 1965-1968; phong trào đòi thi hành HĐ Paris (1973)... Bên cạnh đó, tác
giả phân tích đặc điểm đời sống kinh tế, xã hội ở đô thị miền Nam từ khi Mỹ thực hiện
chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965); coi chính sách thực dân mới của Mỹ là
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bùng phát các phong trào ĐTCT, bởi “sự có mặt quân
viễn chinh Mỹ ở miền Nam là một sự xâm phạm thô bạo chủ quyền độc lập của nhân
dân ta, nó kích động mạnh mẽ tinh thần dân tộc của mọi tầng lớp nhân dân, kể cả binh
sĩ và nhân viên ngụy quyền” [67, tr. 1733].
Lê Cung (2008), Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963, in lần
thứ 4, Nxb Thuận Hóa, Huế. Có thể nói “đây là tác phẩm đầu tiên nghiên cứu có
hệ thống và hoàn chỉnh về phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963”
[27, tr. 3]. Không những thế, những sử liệu và kiến giải của tác giả là cơ sở quan
trọng giúp việc tìm hiểu, nghiên cứu về phong trào Phật giáo năm 1963 trên từng
địa bàn cụ thể ở miền Nam thuận lợi hơn.
Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) (gồm 9 tập), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Công
trình phản ánh một cách toàn diện và sinh động về nguyên nhân, diễn biến cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) qua từng giai đoạn và các bước ngoặt quan
trọng. Về ĐTCT, công trình đề cập đến các phong trào tiêu biểu của nhân dân miền
Nam, từ phong trào đòi thi hành HĐ Genève, bảo vệ hòa bình (1954-1956), chống “tố
8
Cộng” (1955-1959), đòi thi HĐ Paris 1973. Ngoài ra, ở tập 9 “Tính chất, đặc điểm,
tầm vóc và bài học lịch sử”, công trình khẳng định vai trò to lớn của ĐTCT: “ĐTCT
đã được nâng lên thành một nghệ thuật trong việc chống chính sách xâm lược thực
dân mới của đế quốc Mỹ. Khi khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách
mạng, chiến tranh và khởi nghĩa gắn quyện vào nhau thì ĐTCT mà hình thức cao là sự
nổi dậy của quần chúng luôn ... trưởng đồng thời chịu trách
nhiệm với Chính phủ về mặt trật tự và an ninh trong thành phố, đồng
thời thay thế viên Bang tá củ chăm lo việc hành chính trực tiếp với tỉnh,
theo đơn vị một quận - hạt” [106, tr. 2].
CQNĐD vẫn giữ nguyên tên gọi Hội An là Khu Hành chính Cẩm Phô có từ thời
Pháp, thuộc quận Điện Bàn và được phân chia lại thành 9 xã mới gồm: Cẩm Hải, Cẩm
Hà, Cẩm Châu, Cẩm An, Cẩm Thanh, Cẩm Nam, Cẩm Kim, Hội An và Xuyên
Long. Phiếu trình của Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Nam, gửi Đại biểu Chính phủ tại
21
Trung Việt ở Huế cho biết: “Trung tâm thành phố nằm ở hai dãy phố trong hai dãy
phố Nguyễn Thái Học (Quảng Đông cũ) và Cường Đề (Chùa Cầu cũ) bề dài không
quá nửa cây số, Các phường Sơn Phong, Cẩm Phô, các xóm Xuân Lâm, Đế Võng
đều thuộc ngoại ô” [107, tr. 3].
Tháng 7-1962, CQNĐD chia Quảng Nam thành 2 tỉnh: Quảng Nam và Quảng
Tín2, Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam [112, tr. 69]. CQNĐD đổi tên Khu Hành chính
Cẩm Phô thành quận Hiếu Nhơn (tức Hội An - TG chú thích) gồm các xã cũ: Cẩm
Hải, Cẩm Hà, Cẩm An, Cẩm Châu, Cẩm Thanh, Cẩm Nam, Cẩm Kim, Hội An (nội ô)
và Xuyên Long. Các cơ quan của tỉnh bao gồm: Tòa Hành chính Quảng Nam, Tiểu
Khu Quân sự Quảng Nam và các ty, sở đóng trên địa bàn thị xã Hội An. Riêng cơ
quan quận lỵ và Chi Khu quân sự Hiếu Nhơn đóng tại ấp Sơn Phô, xã Cẩm Châu, án
ngữ trên con đường Hội An - Phước Trạch.
Đối với chính quyền cách mạng, để phù hợp với yêu cầu chỉ đạo kháng chiến,
trong thời kỳ 1954-1975, các đơn vị hành chính có sự điều chỉnh. Năm 1952, tỉnh
Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng hợp thành một đơn vị hành chính là QN - ĐN, Hội An
thuộc QN - ĐN trong đó có các xã: Cẩm Hải, Cẩm Hà, Cẩm Châu, Cẩm An, Cẩm
Thanh, Cẩm Nam, Cẩm Kim, Hội An và Xuyên Long. Tháng 11-1962, QN - ĐN được
tách thành hai tỉnh Quảng Nam3 và Quảng Đà4, thị xã Hội An thuộc tỉnh Quảng Đà;
năm 1964, theo chỉ đạo của Khu ủy V, thành phố Đà Nẵng tách ra khỏi tỉnh Quảng Đà,
trực thuộc Khu ủy V. Tháng 11-1967, Khu ủy V quyết định sát nhập tỉnh Quảng Đà và
thành phố Đà Nẵng thành Đặc khu Quảng Đà [111, tr. 505].
Sau khi đất nước thống nhất, hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Đà được sáp
nhập thành tỉnh QN - ĐN (10-1975), Hội An thuộc tỉnh QN - ĐN. Đến tháng 10-
1996, kì họp thứ X, Quốc hội khóa IX quyết định tách tỉnh QN - ĐN thành hai
đơn vị hành chính là thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Thị xã Hội An
thuộc tỉnh Quảng Nam.
2 Tỉnh Quảng Nam gồm 9 quận: Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc, Đức Dục, Hiếu Đức, Hiếu Nhơn, Hòa Vang, Quế
Sơn, Thượng Đức; 2 thị xã là Đà Nẵng và Hội An. Thị xã Hội An được chọn làm tỉnh lỵ. Tỉnh Quảng Tín gồm 6
quận: Hậu Đức, Hiệp Đức, Lý Tín, Tam Kỳ, Tiên Phước, Thăng Bình. Thị xã Tam Kỳ được chọn làm tỉnh lỵ
3 Tỉnh Quảng Nam (CQSG gọi là tỉnh Quảng Tín) gồm các huyện Quế Sơn, Thăng Bình, Tam Kỳ, Tiên Phước,
Phước Sơn, Trà My.
4 Tỉnh Quảng Đà (CQSG gọi là tỉnh Quảng Nam) gồm các huyện Hòa Vang, Điện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên,
Thống Nhất, thị xã Hội An và thành phố Đà Nẵng.
22
Từ tháng 1-1997 đến tháng 1-2008, Hội An là thị xã của tỉnh Quảng Nam, được
công nhận là thành phố loại III trực thuộc tỉnh Quảng Nam ngày 29-1- 2008. Hiện nay
(2020), thành phố Hội An gồm 7 phường: Minh An, Cẩm Phô, Sơn Phong, Tân An,
Thanh Hà, Cẩm Châu, Cẩm An, Cửa Đại và 5 xã gồm Cẩm Thanh, Cẩm Hà, Cẩm
Nam, Cẩm Kim và Tân Hiệp.
Như vậy, Hội An là trung tâm của tỉnh Quảng Nam, Hội An trở thành “thị xã đặc
biệt” kể từ sau năm 1954 cho đến tháng 9-1975. Tuy dân số không đông so với một số
thị xã ở miền Nam, nhưng vẫn được gọi là thị xã do sự quan trọng về vị trí địa lý như
đã nói ở trên. Về mặt hành chính hiện nay so với thời kỳ (1954-1975) có sự thay đổi.
Có hai phường mới là phường Tân An, Minh An là một phần vùng đất của Cẩm Phô,
Thanh Hà và Thanh Châu (trước đây thuộc huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam) và
một xã mới là xã Tân Hiệp (tức địa bàn hành chính của đảo Cù Lao Chàm). Riêng xã
Cẩm Hải không còn thuộc thành phố Hội An5.
2.1.3. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Hội An trước 1954
Ngày 1-9-1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta tại Đà Nẵng. Phong
trào chống giặc cứu nước của nhân dân Hội An diễn ra mạnh mẽ nhất là sau “Vụ biến
kinh thành Huế” (đêm ngày 4, rạng ngày 5-7-1885, tức đêm 22, rạng ngày 23-5 năm
Ất Dậu), vua Hàm Nghi xuất bôn và ban Dụ Cần Vương kêu gọi nhân dân đứng lên
đánh Pháp. Khắp Bắc, Trung, Nam hưởng ứng Dụ Cần Vương, các văn thân, sĩ phu
yêu nước Hội An đã đứng lên chống Pháp. Tháng 9-1885, Nghĩa hội Quảng Nam tấn
công các cơ quan đầu não của tỉnh Quảng Nam, trong đó Nguyễn Duy Hiệu được giao
nhiệm vụ chỉ huy cánh quân Hội An, Điện Bàn. Quan lại tỉnh Quảng Nam bỏ chạy, Nghĩa
hội Quảng Nam lập chính quyền trong toàn tỉnh, bộ chỉ huy đóng ở Dương Yên (Quảng
Nam) [1, tr. 22].
Tháng 12-1885, Pháp tấn công Dương Yên, Trần Văn Dư bị bắt và bị giết,
Nguyễn Duy Hiệu được cử làm Hội chủ Nghĩa hội Quảng Nam. Đầu năm 1886,
Nguyễn Duy Hiệu xây dựng căn cứ ở thung lũng Trung Lộc cạnh bờ Bắc sông Thu
Bồn, về sau được gọi là Tân Tỉnh. Tháng 10-1886, Pháp huy động lực lượng lớn
tấn công vào Trung Lộc, Nguyễn Duy Hiệu phân tán nghĩa quân khắp các địa bàn
trong tỉnh và phản công dồn dập làm cho quân Pháp bị nhiều tổn thất [1, tr. 22]. Sau
đợt tiến công của quân Pháp vào Phước Sơn (tháng 7-1887) nghĩa quân thất bại, Nguyễn
5 Tháng 10-1964 xã Cẩm Hải tách thành 2 xã là Điện Dương và Điện Hải thuộc Điện Bàn, Quảng Nam.
23
Duy Hiệu bị đưa ra Huế xử chém tại pháp trường An Hòa vào ngày 1-10-1887.
Điểm nổi bật trong truyền thống yêu nước của nhân dân Hội An còn được thể
hiện qua phong trào chống thuế năm 1908, do Châu Thượng Văn đứng đầu. Phong
trào chống thuế nổ ra tại Đại Lộc (13-3-1908), hàng vạn người từ Đại Lộc kéo đến vây
quanh tòa sứ Hội An. Công sứ ra lệnh nổ súng vào đoàn người biểu tình nhưng nhân
dân vẫn kiên cường đấu tranh. Hưởng ứng phong trào chống thuế, nhân dân Hội An
vừa là lực lượng trực tiếp tham gia đấu tranh, vừa tự cung tự cấp quần áo, thuốc men,
lương thực, thực phẩm, sắp xếp nơi ăn ở cho cả vạn người đấu tranh chống thuế trong
gần một tháng
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930). Ngày 28-3-1930, tại Hội An, Đảng
bộ tỉnh Quảng Nam được thành lập tại Xóm Da, ấp Xuân Lâm, xã Cẩm Phô, đánh dấu
mốc lịch sử của nhân dân Quảng Nam bước vào thời kỳ mới - thời kỳ đấu tranh dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Sau khi thành lập, Đảng bộ nhanh chóng phát triển tổ chức cơ
sở Đảng và các tổ chức quần chúng.
Hưởng ứng cao trào (1930-1931) đỉnh cao là phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh,
mở đầu bằng đợt đấu tranh tại Hội An nhân ngày kỷ niệm Quốc tế Lao động 1-5-1930.
Khắp nơi tại thị xã Hội An, cờ Đảng được treo ở ngã tư các đường, trên “giếng máy”6,
đầu chợ Hội An. Truyền đơn được rải trên các đường Quảng Nam7, đường cầu Nhật
Bản8 và đường Quảng Đông9. Ở Kim Bồng, bờ Nam sông Thu Bồn, cờ búa liềm được
treo trên cây đa ấp Vĩnh Hưng và truyền đơn được rãi từ ấp Vĩnh Hưng đến “Bến đò
Phố”10 [1, tr. 40].
Trong phong trào 1936-1939, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về
thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương, nhằm đấu tranh chống chế độ phản động
thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, hòa bình,Thị ủy Hội An
lập ra nhiều tổ chức quần chúng và các hội biến tướng theo ngành nghề, hướng dẫn
quần chúng đấu tranh với nhiều hình thức sôi nổi, phong phú như lấy chữ ký, đưa
nguyện vọng, mitting, biểu tình.
6 Giếng máy là giếng có sợi dây quay, nay loại giếng máy này không còn được sử dụng.
7 Nay là đường Phan Đình Phùng và Trần Hưng Đạo (Hội An).
8 Nay là đường Trần Phú và Nguyễn Duy Hiệu (Hội An).
9 Nay là đường Nguyễn Thái Học (Hội An).
10 Bến đò từ Kim Bồng sang chợ Hội An.
24
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) đi vào giai đoạn kết thúc, tạo những
thời cơ vô cùng thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ngày 15-8-1945, Tỉnh ủy Quảng
Nam nhận được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, mặc dù chưa nhận được lệnh khởi
nghĩa của Trung ương, nhưng qua phân tích tình hình thực tế, Tỉnh ủy quyết định phát
động quần chúng khởi nghĩa. Hội An là nơi giành chính quyền sớm nhất trong tỉnh
(chiều 17-8-1945).
Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 23-9-1945, thực
dân Pháp đánh chiếm Sài Gòn mở đầu quá trình xâm lược nước ta lần thứ hai. Cùng
với nhân dân cả nước, nhân dân Hội An vừa khẩn trương củng cố chính quyền cách
mạng và ổn định đời sống nhân dân. Chỉ trong một thời gian ngắn, đội tự vệ của thị
xã đã có đến 300 đội viên. Ngay sau khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Nam Bộ,
Thị ủy, Ủy ban nhân dân và các đoàn thể Việt Minh phát động phong trào ủng hộ Nam
Bộ kháng chiến. Nhiều cuộc mít tinh, biểu tình được tổ chức phản đối thực dân Pháp.
Cùng với những đơn vị của tỉnh và cả nước chi viện cho miền Nam, tuổi trẻ Hội An
gia nhập các đội quân lên đường “Nam Tiến”. Nhiều chiến sĩ đã dũng cảm hy sinh trên
mặt trận cực Nam Trung bộ và Tây Nguyên.
Đầu năm 1946, với tư cách của những người làm chủ vận mệnh của mình, nhân
dân Hội An lại sôi nổi bước vào cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội. trong thời gian vận
động bầu cử, ta tổ chức các hoạt động tuyên truyền dự thảo hiến pháp, hướng dẫn thể
thức bầu cử [1, tr. 123].
Trước tình hình thực dân Pháp ngày càng lấn tới, đêm ngày 19-12-1946, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, nhân dân Hội An đã phối hợp với
LLVT thị xã thành lập trung đội tự vệ chiến đấu tập trung. Đại đội Ngô Quyền của tỉnh
cũng về đóng quân từ Phước Trạch lên Tân Thành. Tháng 1-1947, Tỉnh ủy họp mở rộng
tại Ái Nghĩa chủ trương củng cố tuyến phòng thủ ở phía Nam, thực hiện “tiêu thổ kháng
chiến” và tản cư. Với tinh thần “thà chết không chịu làm nô lệ”, dân quân tự vệ và nhân
dân ở các khu phố được huy động vào nội ô đào phá các đường giao thông, đập phá
công sở, trường học,... để chúng không thể dùng làm nơi đồn trú [1, tr. 129].
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, quân và dân Hội An đã đập tan nhiều
cuộc hành quân càn quét của Pháp ra các vùng tự do, giữ vững vùng giải phóng. Trong
chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954. Để thực hiện những nhiệm vụ của chiến dịch, Thị
ủy chủ trương phải tích cực xây dựng lực lượng vũ trang nhất là dân quân du kích theo
25
tinh thần “tinh binh, tinh cán, tăng thành phần chiến đấu, giảm thành phần cư quan”.
Hòa chung khí thế của chiến dịch, những tháng đầu năm 1953, bộ đội và du kích các
khu phố Hội An phối hợp đánh Pháp nhiều nơi. Quân cách mạng tập kích đánh đồn
Cẩm Phô, diệt 3 tháp canh ở Xuyên Trung, Hà Trung, Gành, bức rút lô cốt Tư Quờn,
quấy rối đồn Lai Nghi, tiêu diệt lực lượng quân Pháp tại Khu Hành chính Cẩm Phô.
Được hoạt động quân sự hỗ trợ, ĐTCT của quần chúng ngày càng phát triển mạnh mẽ,
đặc biệt là phong trào chống bắt lính diễn ra hết sức quyết liệt. Thị ủy xây dựng kế
hoạch tổ chức cho thanh niên học tập làm theo khẩu hiệu “dứt khoát đấu tranh không
chịu đi lính cho giặc”[1, tr. 200]. Ngày 19-7-1954, quân cách mạng đập tan cuộc hành
quân quy mô của Pháp hòng tái chiếm cứ điểm Bồ Bồ11. Cố gắng cuối cùng của Pháp
đã thất bại trên chiến trường QN - ĐN. Ngày 21-7-1954, Hiệp định Genève được ký kết,
chấp hành chỉ thị của Trung ương, hoạt động quân sự ở Hội An tạm thời chấm dứt, phong
trào cách mạng Hội An bước sang thời kỳ mới.
Tóm lại, trong suốt thời kỳ từ khi Pháp nổ súng xâm lược nước ta ở Đà Nẵng (1-9-
1858) đến HĐ Genève (1954), nhân dân Hội An đã cùng nhân dân cả nước tổ chức đánh
giặc giữ nước, nhất là từ khi có Đảng lãnh đạo. Chính truyền thống yêu nước và cách
mạng đã giúp nhân dân Hội An vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tôi luyện cho nhân dân
Hội An về sự kiên trung cách mạng để cùng với nhân dân miền Nam cũng như nhân dân
cả nước đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954-1975).
2.2. Chính sách của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở Hội An giai
đoạn 1954 - 1965
Như đã đề cập ở trên, ngày 21-7-1954, HĐ Genève ký kết chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, phân chia Việt Nam là hai miền lấy vĩ tuyến 17
- sông Bến Hải, làm giới tuyến tạm thời; hai năm sau đó, cụ thể là tháng 7-1956, hai
miền Nam - Bắc sẽ tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước.
Tháng 8-1954, Hội đồng An ninh Mỹ ra kế hoạch viện trợ trực tiếp cho CQNĐD,
trực tiếp huấn luyện quân đội Sài Gòn (QĐSG). Tiếp theo, tháng 11-1954, Mỹ cử
tướng Lawton Collins, Quyền Tham mưu trưởng lục quân Mỹ và là Đại diện của Mỹ ở
Ủy ban quân sự khối NATO (North Atlantic of Treaty Organization), sang miền Nam
Việt Nam làm đại sứ. Ngày 17-11-1954, Collins đến Sài Gòn, mang theo một kế hoạch
chiến lược gồm 6 biện pháp khẩn cấp: 1. Chỉ ủng hộ Ngô Đình Diệm và viện trợ thẳng
11 Nay thuộc xã Điện Tiến, huyện Hòa Vang.
26
cho Diệm, không qua Pháp; 2. Thành lập quân đội “quốc gia” cho CQNĐD (15 vạn)
do Mỹ huấn luyện và cung cấp vũ khí; 3. Lập “quốc hội”, thực hiện “độc lập”; 4. Tiến
hành “cải cách điền địa”, đẩy mạnh chính sách di cư từ miền Bắc vào miền Nam và
thực hiện định cư cho số người miền Bắc di cư vào miền Nam; 5. Thay đổi các thứ
thuế, dành ưu tiên cho hàng hóa và tư bản Mỹ vào miền Nam; 6. Đào tạo cán bộ hành
chính cho CQNĐD [62, tr. 48].
Với kế hoạch 6 điểm trên đây thực chất là Mỹ mượn tay Ngô Đình Diệm biến
miền Nam Việt Nam đang trong vòng kiểm soát của Pháp, lệ thuộc hoàn toàn vào Mỹ.
Từ đây, chính quyền Ngô Đình Diệm thi hành những chính sách phản động trên các
lĩnh vực chính trị - quân sự, kinh tế - xã hội và văn hóa - giáo dục tại Hội An.
2.2.1. Về chính trị - quân sự
Sau HĐ Genève (21-7-1954), Hội An vẫn giữ nguyên tên gọi là Khu Hành Chính
Cẩm Phô thuộc Quận Điện Bàn, ở mỗi xã CQNĐD lập ra một “Hội đồng hương
chính”. Mỗi Hội đồng có một ủy viên cảnh sát có quyền lực lớn nhất là trong việc bắt
bớ, đàn áp nhân dân [1, tr. 217].
Hệ thống chính trị của CQNĐD được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa “nhân
vị” mà Ngô Đình Nhu là người chủ xướng. Chủ nghĩa nhân vị chủ trương: “Nhân vị ở
trên gia đình, ở trên các đoàn thể, ở trên quốc gia và trên cả chủ quyền quốc gia,
những việc ấy trước hết phải nhằm vào sự nảy nở nhân vị chứ không để đè bẹp nó”
[153, tr. 24]. Theo Ngô Đình Nhu, chỉ có chủ nghĩa nhân vị mới bài trừ được lạc hậu
và đẩy lùi được chủ nghĩa mác - xít. Ngô Đình Diệm khẳng định: “Chủ nghĩa nhân vị
là linh hồn của chính thể Cộng hòa” [27, tr. 45].
Từ năm 1957, Đảng Cần lao nhân vị (1954) biến thành Đảng Cần lao Thiên Chúa
giáo, đảng viên hầu hết là người Thiên Chúa giáo. Ngoài Đảng Cần lao nhân vị, các tổ
chức quần chúng vươn dài của Đảng như “Phong trào cách mạng quốc gia”, “Thanh
niên Cộng hòa”, “Phụ nữ Liên đới” có cơ sở xuống tận xã, thôn. Nhân dân bị bắt phải
vào các tổ chức này, khi vào phải đóng phí 10 đồng, hàng năm phải đóng phí 20 đồng,
nhưng nhân dân thấy rõ những tổ chức này không đem lại lợi ích gì cho họ mà chỉ có
đóng góp liên miên [115, tr. 8].
Ngoài thủ đoạn trên, CQNĐD còn thực hiện biện pháp dã man hơn thông qua
“phong trào xuất thú”. Theo tờ trình trích yếu “Kế hoạch bình định (án ngự hoạt động
của đối phương) tỉnh Quảng Nam” của Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Nam viết:“Trong thời
27
gian gần đây các khóa huấn chỉnh tố Cộng đã kéo dài một cách nặng nề, đã không
đem lại kết quả gì cụ thể, do đó, cần phải đình chỉ và thay thế bằng một phong trào
xuất thú rộng rãi” [123, tr. 11-12]. Tại Hội An, phong trào xuất thú được thực hiện
bằng cách lập danh sách và bắt đảng viên ra trình diện xuất thú, ai chưa ra trình diện
chúng dùng loa truyền thanh kêu gọi và cho đến từng nhà bắt đi.
Để triển khai các chiến dịch “tố Cộng” (đầu năm 1955), CQNĐD gấp rút kiện
toàn bộ máy đàn áp. Tại Hội An, chúng cấu kết với những người phản động tại địa
phương liên tiếp gây ra các vụ tàn sát đẫm máu. Dã man nhất là đêm 21 rạng sáng 22-
1-1955, Quốc dân đảng ở Duy Xuyên cấu kết với tay chân Ngô Đình Diệm bắt 38 cán
bộ tại nhà lao Hội An dùng khăn bịt mặt, lấy đá đập vỡ đầu, rồi xẻo tai, khoét mắt, xâu
từng chùm ba bốn người, bỏ vào bao tải rồi buộc đá và ném xuống đập Vĩnh Trinh
(Duy Xuyên). Chưa đầy 3 tháng tiếp quản (từ tháng 10-1954), CQNĐD đã bắt tra tấn,
giết hại trên 300 cán bộ trong tỉnh Quảng Nam trong đó có Hội An [112, tr. 369].
Từ giữa năm 1955, CQNĐD lần lượt mở các chiến dịch “tố Cộng” trên toàn
miền Nam, nhiều lần khẳng định đây là “quốc sách”. Trong các lớp “tố Cộng”,
CQNĐD bắt đảng viên phải ly khai Đảng, “ở Quảng Nam chúng (tức CQNĐD - TG chú
thích) tổ chức lễ ly khai toàn tỉnh ở Hội An, ngày 23-7-1955 tập trung 3.000 đảng viên
xuất thú từ trước và người tình nghi bắt qui dự lễ có nhà báo và quay phim ngoại quốc từ
Sài Gòn đến” [114, tr. 2]. Tay chân Ngô Đình Diệm quay phim rồi đem chiếu khắp nơi để
lung lạc tinh thần nhân dân, cùng với việc sử dụng một số đảng viên qui hàng, viết bài đả
kích chống lại cách mạng.
Ở Hội An tỉnh lỵ Quảng Nam, CQNĐD còn tổ chức các chiến dịch ngắn hạn
như: Chiến dịch quét vi trùng Cộng sản với nội dung là: “Quét vệ sinh, giữ gìn sạch sẽ
đường sá, nhà cửa, nhân dân vừa làm vừa hô hào quét cho sạch vi trùng Cộng sản”.
Chính tài liệu của đối phương viết: “Chỉ tính riêng trong Chiến dịch Phan Châu Trinh (7-
1955), đã có 700 cuộc biểu tình tại Quảng Nam đã được phát động trong ngày 25-1-1955.
Tỉnh lỵ Hội An đầy chật người, cờ, biểu ngữ và vang dậy những tiếng hô hoan hỷ: Mừng
Tết độc lập, ủng hộ Ngô Thủ tướng” [118, tr. 6]; chiến dịch “chống phong trào lấy vợ”
của Việt Cộng làm cho một số phụ nữ có chồng vốn đi theo cách mạng lâm vào tình
trạng “vọng phu bất đắc dĩ” (tức chờ chồng vô thời hạn), đoạn tuyệt dứt khoát mọi
tình cảm với cách mạng.
Tay chân Ngô Đình Diệm tuyên truyền những khẩu hiệu, phục vụ cho mục tiêu
28
đánh bật lực lượng cách mạng ra khỏi quần chúng nhân dân, như “dung Cộng là phản
quốc”, “tố Cộng là yêu nước”, “diệt Cộng là an dân” [4, tr. 179]; hay “thành khẩn là
tự cứu, ngoan cố là tự sát” [103]; dã man nhất là thủ đoạn “tống tà Cộng sản”, chúng
thay phiên nhau đánh để tống “tà ma Cộng sản” ra khỏi nạn nhân, “ai đánh nhẹ bị cho
là đồng lõa với Cộng sản. Nhiều người chết đi sống lại nhiều lần, có người mang
thương tật suốt đời” [112, tr. 383].
Tiếp tục cho chính sách “tố Cộng”, tháng 7-1959, CQNĐD tiếp tục mở lớp “tố
Cộng” tại Cù Lao Chàm thuộc xã Cẩm An để khai thác các cơ sở Việt Cộng, lớp này
kéo dài hàng tháng. Cụ thể, ngày 10-8-1959, CQNĐD mở 2 lớp tố Cộng ở Vĩnh Hà xã
Cẩm Hà, sau đó dời lớp đến Thanh Thủy xã Cẩm Hải nhằm quản thúc những người
kháng chiến cũ [69, tr. 2].
Để giam giữ và tra tấn cán bộ, đảng viên và những người yêu nước bị bắt trong các
chiến dịch “tố Cộng”, CQNĐD xây dựng hệ thống nhà tù. Nhà lao Thông Đăng12 ở Hội
An được chúng mở rộng nhưng vẫn chật ních tù chính trị “phòng số 1 có diện tích 80m2
nhưng địch giam hơn 160 tù nhân, các phòng giam số 3,4,5,6,7 và 8, mỗi phòng có diện
tích 40m2 địch giam hơn 70 tù nhân. Riêng phòng giam số 2 có diện tích 120m2 nhưng có
lúc địch giam trên 350 người, mỗi tù nhân ở không được 0,4m2” [117, tr. 51]. Tại nhà lao,
tay chân Ngô Đình Diệm mở các khóa “cải tạo tư tưởng” cho đảng viên Cộng sản,
CQNĐD “đã tổ chức một khóa đầu tiên cho các can nhân tại Lao xá thị xã Hội An13 vào
ngày 5-1-1957, mỗi khóa chỉ có 200 người vì địa điểm học tập chật hẹp” [104].
Đối với công nhân, để đánh lừa họ về một chế độ dân chủ và chính sách quan
tâm đối với đời sống của công nhân, CQNĐD đã đưa ra khẩu hiệu “hữu sản hóa vô
sản”. Ở Hội An, Liên hiệp Nghiệp đoàn Lao động Quảng Nam đóng tại Hội An được
thành lập (1957), số lượng công nhân chiếm tỉ lệ nhỏ trong dân số, tuy nhiên các cuộc
đấu tranh của công nhân có nhiều đóng góp trong các cuộc ĐTCT của nhân dân Hội
An trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Nhằm bắt lính cung cấp cho chiến trường, CQNĐD đã tiến hành “chế độ quân
dịch” bắt đầu từ năm 1956, bằng cách bắt lẻ tẻ theo từng đợt. CQNĐD quy định ban
12 Nhà lao Hội An là một trong những nhà lao lớn nhất trong hệ thống nhà lao ở miền Trung - Tây Nguyên do thực
dân Pháp lập ra từ đầu thế kỷ XX. Đến đầu năm 1947, thực hiện chủ trương “tiêu thổ kháng chiến”, quân và dân Hội
An đã phá hủy nhà lao này. Sau khi trở lại xâm lược, tại Quảng Nam, Pháp cho thiết lập lại nhà lao tại Hội An từ nhà
thờ Thiên Chúa của một người làm thông phán tên Đăng nên gọi là nhà lao Thông Đăng. Đến năm 1958, CQNĐD xây
dựng thêm một nhà lao gọi là nhà lao Xóm Mới nay thuộc phường Sơn Phong, Tp Hội An.
13 CQNĐD còn gọi nhà lao Thông Đăng là lao xá Hội An.
29
đầu độ tuổi quân dịch là 21, 20 tuổi. Sau đó, trong những năm 1972-1975, tuổi quân
dịch là 18 tuổi:
“Năm nay (tức năm 1959 - TG chú thích) tiếp tục bắt số quân dịch
sinh năm 1938 (tức 21 tuổi - TG chú thích), ở Cẩm Thanh có hết thảy 65
người, đến nay còn 7 người chưa đi. Đồng thời đã bắt trình diện lãnh thẻ
trưng binh số quân dịch sinh năm 1939 và năm 1940, ở Cẩm Thanh số quân
dịch sinh năm 1939 là 63 người và sinh năm 1940 là 85 người” [69, tr. 6].
Cuối năm 1959, CQNĐD bắt đầu triển khai chương trình lập “Khu trù mật” tại
Hội An. Chính sách dồn dân vào các “Khu trù mật” làm cho việc sản xuất ngưng trệ và
xáo trộn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống nhân dân. CQNĐD bắt nông dân các xã
Cẩm Hà, Cẩm Châu, Cẩm An, Cẩm Thanh, Cẩm Nam đi học tập hai ngày rồi ra lệnh
trong một tuần lễ, các xóm lẻ tẻ phải dời đi, nếu ai trì hoãn bị quy là có liên lạc với cộng
sản. Tuy vậy, do sự phản kháng của nông dân nên trong năm 1959 việc lập “Khu trù
mật” chưa được tiến hành một cách phổ biến [69, tr. 15-16].
Để đánh bại cách mạng bằng cả quân sự và chính trị, từ năm 1961 CQNĐD thực
thi kế hoạch lập ACL được CQNĐD đưa ra rất sớm “tháng 8-1961, chương trình được
triển khai rộng rãi trên quy mô toàn miền Nam với tên gọi chiến dịch xây dựng nông
thôn. Đến ngày 17-4-1962, Quốc hội Sài Gòn thông qua Nghị quyết nâng chương trình
ACL lên hàng quốc sách và tập trung mọi nỗ lực cho các mục tiêu đã đặt ra” [62, tr.
125]. Tại Quảng Nam trong giai đoạn đầu được chia thành 2 đợt: “Đợt 1 từ 20-10-
1961 đến 31-3-1962: 131 ấp; đợt 2 từ 1-04-1962 đến 31-12-1962: 59 ấp” [124, tr. 1].
Số lượng ACL càng ngày càng tăng thêm trong những năm tiếp theo, chính tài liệu của
VNCH ghi nhận:
“Ngày 10-6-1962, Ủy Ban xây dựng ACL kiểu mẫu đã họp phiên đầu
tiên để ấn định Chương trình Công tác của toàn ban. Tiếp đến ngày 20-6-
1962, một phái đoàn gồm đại diện các Ty, Sở tại Hội An, đã đi quan sát Ấp
Thanh Nam, xã Cẩm Hà. Tại đây, từ ngày 21 đến 30 tháng 6 năm 1962 các
tiểu ban của ủy ban lần lượt tiếp xúc với chính quyền xã, ấp hoạch định một
kế hoạch và chương trình công tác tỉ mỉ [126, tr. 2]. Cuối năm 1962,
CQNĐD đã lập được 26 ACL tại Hội An với số dân là 31.486 người” [129].
ACL là “một kiểu trại tập trung khổng lồ để chống phá phong trào cách mạng
của nhân dân, chống chiến tranh du kích bằng cách tách lực lượng vũ trang ra khỏi
30
quần chúng” [32, tr. 32]. Tại Hội An, ACL được lập ở các xã: Cẩm Châu, Cẩm Nam,
Cẩm Kim và các thôn phía Tây xã Cẩm Hà. CQNĐD bắt nhân dân nộp tre làm rào, sau
đổi thành cọc sắt và dây thép gai để xây dựng ACL.
Để bảo vệ ACL, CQNĐD “thường xuyên lo giữ gìn an ninh, trật tự tại thị xã Hội
An. Thành lập và điều hành một ban tuần tiểu hỗn hợp để tăng cường bảo vệ an ninh
cho thị xã Hội An, phối hợp giúp đỡ Hội Đồng thị xã Hội An tiến hành thiết lập 1 ACL
kiểu mẫu tại thôn An Hội” [125, tr. 7-8]
Song song với công tác thực hiện ACL, ngày 19-10-1961, CQNĐD ban Sắc luật
13/61, ban hành “tình trạng khẩn cấp”, bắt cán bộ các cấp cùng với thanh niên học
tập, quán triệt về “nhiệm vụ của người thanh niên trong tình trạng khẩn cấp,...”,
“thân thế và sự nghiệp của Ngô Tổng thống” [6]; ngày 16-5-1962, CQNĐD ban hành
Sắc luật 10/62, bắt buộc các cuộc họp đều phải được phép hoặc khai báo trước nếu
quá 20 người, dù là quan hôn tang tế [97, tr. 321].
Đồng thời, CQNĐD cho thành lập tổ chức Phụ nữ Liên đới nhằm tuyên truyền,
lôi kéo nhân dân về phía mình. Hồ sơ về hoạt động của Phong trào Phụ nữ Liên đới
tỉnh Quảng Nam năm 1961-1963 viết: “Tại thị xã Hội An, Ủy Ban bán quân sự đã tổ
chức lễ khai giảng khóa huấn luyện bán quân sự khóa III cho chị em phụ nữ, thành phần
gồm có: Nữ công chức giáo sư, giáo viên, học sinh và thanh nữ cộng hòa. Tổng số khóa
sinh được: 150 người chia làm 4 trung đội” [165, tr. 1].
Bước vào năm 1963, phong trào Phật giáo diễn ra mạnh mẽ khắp miền Nam
trong đó có Hội An. Nguyên nhân sâu ra của phong trào này chính là do chính sách
phản dân tộc, chính sách kỳ thị Phật giáo hết sức nặng nề của CQNĐD trong suốt 9
năm thống trị (1954-1963). Bị kẹp giữa hai gọng kìm quân sự và chính trị, mâu thuẫn
nội bộ CQNĐD, nhất là mâu thuẫn Mỹ - Diệm phát triển đến đỉnh cao, không thể nào
khắc phục được. Nhà Trắng buộc phải thực hiện chính sách “thay ngựa giữa dòng”
ủng hộ nhóm tướng lĩnh trong QĐVNCH do Dương Văn Minh cầm đầu, tiến hành đảo
chính lật đổ chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm (1-11-1963).
Sau “cuộc chỉnh lý” ngày 30-1-1964, lật đổ “Hội đồng Quân nhân Cách mạng”,
Nguyễn Khánh vừa lên nắm quyền đã bộc lộ tính chất độc tài. Nhằm thâu tóm quyền
bính vào tay mình, ngày 16-8-1964, Nguyễn Khánh cho ra đời “Hiến chương Vũng
Tàu”, trong đó Nguyễn Khánh giữ chức Chủ tịch Việt Nam Cộng hòa và Chủ tịch Hội
31
đồng Quân đội, Thủ tướng Chính phủ. Trước sự đấu tranh chống “Hiến chương Vũng
Tàu” ngày 23-10-1964, Phan Khắc Sửu cử Trần Văn Hương lên làm Thủ tướng.
Ngày 31-10-1964, Trần Văn Hương giữ chức Thủ tướng, vừa lên cầm quyền, Trần
Văn Hương đề ra đường lối: “Chiến tranh toàn diện phải được thực hiện không những
trên mặt trận quân sự, mà còn về phương diện chính trị, kinh tế và xã hội nữa để chống
lại Cộng sản và mưu toan của họ nhằm trung lập hoá xứ sở” [67, tr. 134].
Tóm lại, về quân sự - chính trị, Mỹ và CQNĐD đều dồn sức cho mục tiêu
“chống Cộng”, cố tạo được một vỏ bọc giả hiệu cho chế độ của mình, như “Cộng
hòa”, “lý tưởng quốc gia”, “độc lập”, “quốc hội”, “hiến pháp”, “tự do nghiệp
đoàn”,... nhằm đánh lạc hướng mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp, lũng đoạn và
khống chế nhân dân Hội An, loại trừ ảnh hưởng cách mạng, triệt tiêu ý chí đấu tranh
thống nhất đất nước theo HĐ Genève (21-7-1954).
2.2.2. Về kinh tế - xã hội
Với âm mưu “Thiên Chúa giáo hóa” miền Nam, CQNĐD đã dụ dỗ, cưỡng bức
tín đồ Thiên Chúa giáo di cư vào Nam. Bùi Văn Lương, Tổng ủy trưởng tị nạn của
CQNĐD đã từng khẳng định:“Cuộc di cư của dân tộc Việt Nam là một cuộc di cư vĩ
đại chưa từng có trong lịch sử nước nhà, nó đã làm cho thế giới kinh ngạc về chí
cương quyết chống Cộng của đồng bào và đã làm sáng tỏ chủ nghĩa quốc gia” [27,
tr. 73]. Số người di cư đến Hội An năm 1954 là 890 người [121, tr. 12].
CQNĐD còn đặt ra đủ thứ thuế để khai thác cạn kiệt nguồn kinh tế trong nhân dân,
các loại thuế nhân dân phải đóng góp trong 1 năm như: Thuế lợi tức, thuế điền, thuế thổ,
thuế môn bài, thuế sản xuất, thuế tiêu thụ [170]. Thuế điền thổ tăng qua các năm, ví dụ
năm 1958: Điền II 3 sào, thuế trong vòng 11 tháng đóng 9 đồng 30 năm nay (tức năm
1959 - TG chú thích) đóng 9 đồng 37. Thổ II 1 sào, thuế trong vòng 11 tháng đóng 9 đồng
50, năm nay đóng 9 đồng 57. Phụ thu thuế điền thổ cũng cao hơn, năm 1958, phụ thu
41%, năm nay 60% và 1 phần 1.000 [69, tr. 3]. Mức thuế điền thổ năm 1958 so với năm
1957 tăng lên 100% tại Quảng Nam trong đó có Hội An “ở Quảng Nam trung bình mỗi
gia đình phải góp từ 200 đến 500 đồng” [11, tr. 23].
Công nghiệp Hội An nhìn chung chậm phát triển, chỉ có vài cơ sở công nghiệp
qui mô nhỏ, chủ yếu là các cơ sở đóng ghe, thuyền, các ngành thương mại, dịch vụ với
nhiều tiệm buôn lớn nhỏ ở trung tâm thị xã Hội An, cơ sở sữa chữa, nhà hàng, khách
sạn, công nghiệp chế biến, các nghề thủ công. Các ngành công nghiệp then chốt hầu
32
như vắng bóng.
Về thương nghiệp, CQNĐD chỉ cho phát triển thương nghiệp vừa và nhỏ làm cho
nền kinh tế Hội An phát triển què quặt, không đồng bộ. Việc kinh doanh gặp rất nhiều
khó khăn do chính sách khống chế của CQNĐD về vốn liếng và việc đi lại. “Nếu vốn
30.000 đồng là bị tịch thu, việc đi lại và vốn liếng bị hạn chế, những người buôn gánh
bán bưng không được đi ra ngoài phạm vi xã mình, buôn bán phải xin giấy tờ, thuế má
rất phiền phức, Do đó, việc sinh sống, làm ăn của nhân dân đang gặp khó khăn và
hạn chế rất nhiều” [113, tr. 14].
Về xã hội, do CQNĐD dùng biện pháp phong tỏa và hủy hoại kinh tế của cách
mạng đã dẫn đến tình trạng thiếu thốn lương thực. Chính tài liệu VNCH ghi lại:
“Phong tỏa và hủy hoại kinh tế địch (tức cách mạng - TG chú thích) do ta (tức
CQNĐD - TG chú thích) tiếp tục được áp dụng hữu hiệu đã đặt địch (tức cách mạng -
TG chú thích) trong tình trạng thiếu thốn quân lương” [124, tr. 1] cho nên chính sách
này đã làm cho đời sống các tầng lớp nhân dân Hội An gặp nhiều khó khăn vì không
thể buôn bán lớn cũng như luân chuyển hàng hóa các nơi đến Hội An, nhất là từ Sài
Gòn.
Về công nhân, theo tài liệu của VNCH ghi nhận: “Công nhân khuân vác ở Hội
An 210 người; thợ thuyền: thợ máy Hội An 100 người, công nhân xe hơi 87 người;
công nhân kim khí 60 người, công nhân vận tải thuyền 30 người” [163, tr. 6]. Nạn thất
nghiệp luôn là mối đe dọa thường xuyên của công nhân. Thêm vào đó, sự suy sụp của
nền kinh tế kéo theo sự mất giá của đồng tiền khiến đời sống công nhân Hội An càng
thêm khốn đốn:
“Tại Hội An năm 1957, công nhân vệ sinh bị bắt buộc phải làm tờ
cam đoan không lãnh lương theo quy định của Bộ Lao động ngụy (tức
CQNĐD - TG chú thích). Họ cũng không được quyền đòi tiền phụ cấp.
Hơn thế nữa khi xảy ra tai nạn lao động, chủ thầu không chịu trách
nhiệm bồi thường” [79, tr. 14].
Bên cạnh đó, giá sinh hoạt cao trong khi đó lương công nhân trên thực tế lại
giảm 50%, công nhân phải làm việc nhiều giờ hơn so với mức quy định là 8 tiếng một
ngày, “Ở Hội An, công... Chí Trung (2005), Cư dân Faifo Hội An trong lịch sử, Trung tâm quản
lý bảo tồn di tích Hội An.
153. Bùi Tuân (1956), Xây dựng trên nhân vị, Nxb Nhận thức, Huế.
154. Quốc Tuệ (1964), Công cuộc đấu tranh của Phật giáo Việt Nam, tác giả xuất bản
Sài Gòn.
155. Ủy ban Liên bộ đặc trách ACL (1963), Công văn số 0671/LB/ACL/TTK/TV, ngày
26-2-1963, gửi Tỉnh trưởng các tỉnh, V/v Việt Cộng chủ trương đánh phá ACL,
Ký hiệu: Tòa hành chính, H12, HS10.
156. Uỷ ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng (1963), Lời kêu gọi, TTLTQG IV, Kí hiệu
hồ sơ: TNTP 4240.
157. Văn thư số 83, ngày 14-7-1963 của Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng
hội Phật giáo Việt Nam, Kính đệ Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, Tài liệu lưu tại
chùa Từ Đàm, Huế.
158. Văn phòng Dân vụ/ Bộ Tư lệnh VICT (1964), Bảng kê các sự việc xảy ra tại tỉnh
Quảng Nam ngày 25, 27 và 28-8-1964, TTLTQG II, Ký hiệu hồ sơ: PTT 15050.
159. Hoàng Thị Bích Vân (2006), Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lãnh đạo phong trào
ĐTCT ở nông thôn từ 1961-1968, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
160. Viện Mác - Lênin - Viện Lịch sử Đảng (1985), Những sự kiện lịch sử Đảng, tập
3, Nxb Thông tin Lý luận, Hà Nội.
158
161. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1995), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu
nước 1954-1975, tập 2, chuyển chiến lược, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
162. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1997), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước (1954 - 1975), tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
163. Việt Nam Cộng Hòa, Bản khảo sát tình hình tỉnh Quảng Nam (Thi hành Công
văn số 1210SV/HC/8, ngày 15-2-56 của Đại biểu Chính phủ tại Trung Việt),
TTLTQG IV, Ký hiệu hồ sơ: DICH 58.
164. Việt Nam Cộng hòa, Phủ Chủ tịch - Ủy ban Hành pháp Trung ương, Phiếu trình
Trung tá Trần Quang Lâm, số 125/UBHP/QV/2, ngày 23-7-1957, đề mục: Bản
phúc trình vấn đề trại giam ở Trung Phần, TTLTQG II, Ký hiệu hồ sơ: TNTP,
HS 300.
165. Việt Nam Cộng Hòa, Phúc trình tháng 9-1963 của Ủy Ban Bán Quân sự Phụ nữ
thị xã Hội An tỉnh Quảng Nam, Hồ sơ về hoạt động của Phong trào Phụ nữ Liên
đới tỉnh Quảng Nam năm 1961-1963, TTLTQG IV, Ký hiệu hồ sơ: 2658.
166. Việt Nam Cộng hòa (1963), Sắc lệnh số 11/TTP, ngày 3-2-1963 của Tổng thống
Ngô Đình Diệm, TTLTQG II, Kí hiệu hồ sơ: Đệ I CH 7621.
167. Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Nội Vụ, Nha Tổng Giám đốc cảnh sát quốc gia, ngày
8-1-1965, số 00637/TCSQG/CSĐB/KH/1K, gửi Tổng trưởng Bộ Nội vụ Sài
Gòn, trích yếu: V/v Hoạt động của sinh viên, học sinh miền Trung chống Chính
phủ Trần Văn Hương, TTLTQG II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg 29546.
168. Việt Nam Cộng hòa, Phủ Thủ tướng, Phiếu trình Thủ tướng, Đề mục V/v tố giác
sĩ quan cấp cao tại tỉnh Quảng Nam, ngày 4-5-1968, cơ quan trình tỉnh Quảng
Nam, TTLTQG II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg 18732/26.
169. Việt Nam Cộng hòa, Phủ Chủ tịch - Ủy ban Hành pháp Trung ương, Phiếu trình Trung
tá Chánh Võ Phòng số 125/UBHP/QV/2 đề mục: Tình hình Chính trị tại Vùng I - CT từ
ngày 10 đến ngày 13-3-1966, TTLTQG II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg 15702.
170. Việt Nam Cộng hòa, Bộ Thông tin Tâm lý chiến, Ty Thông tin Tâm lý chiến Tỉnh
Quảng Nam, Trích yếu: V/v thành lập các đoàn Võ trang Tuyên truyền, số 126
TT/TLC/QN/KH/M, ngày 21-5-1965, TTLTQG II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg 2729.
171. Việt Nam Cộng Hòa, Tòa Hành chính Quảng Nam, trích yếu về thực trạng của
các đảng phái chính trị và Tôn giáo tại Tỉnh Quảng Nam, ngày 2-3-1968, Ký
159
hiệu HS: PTTg 18732, TTLTQG II.
172. Việt Nam Cộng Hòa, Niên Giám Thống kê năm (1956- 1957), (quyển thứ 6),
Viện Quốc gia thống kê, Ký hiệu HA 1780.5 A34.
173. Việt Nam Cộng Hòa, Niên Giám Thống kê năm (1961- 1962), (quyển thứ 10),
Viện Quốc gia thống kê, Ký hiệu HA 1780.5 A34.
174. Việt Nam Cộng Hòa, Niên Giám Thống kê năm (1963 -1964), (quyển thứ 11),
Viện Quốc gia thống kê, Ký hiệu HA 1780.5 A34.
175. Việt Nam Cộng Hòa, Niên Giám Thống kê năm 1967-1968, (quyển thứ 13), Viện
Quốc gia thống kê, Ký hiệu HA 1780.5 A34.
176. Việt Nam Cộng Hòa, Niên Giám Thống kê năm 1971-1972, (quyển thứ 15), Viện
Quốc gia thống kê, Ký hiệu HA 1780.5 A34.
177. Sở Cảnh sát và Công an Cộng hòa Việt Nam, Ty Công an Quảng Nam. trích yếu
về bọn lưu manh rải truyền đơn ngày 31-12-1955 tại thị xã, TTLTQG II.
178. Westmoreland C.William (1988), Tường trình của một quân nhân, Nxb Trẻ
thành phố Hồ Chí Minh.
Tiếng Anh
179. Jerrold Schecter (1967), The new face of Buddha, John Weatherhill, Tokyo.
180. Avro Manhattan (1984),“Viet Nam why did we go?”, Chick publications, CA..
181. Stanley Karnow (1983), Vietnam, A History - The First Complete Account of
Vietnam at War, Viking Press, New York.
182. The Pentagon Papers, Bantan Books Publisher, New York, 1971.
183. F.M. Kali: What Washington Said, Harper and Row Publisher, New York, 1973.
Nhân chứng:
184. Ông: Lê Công Cơ (bí danh Lê Phương Thảo) sinh năm 1941 tại Điện Bàn,
Quảng Nam. Chủ tịch Hội Liên hiệp SV-HS Giải phóng khu trung Trung bộ
(1963-1966), Bí thư Thành đoàn Đà Nẵng (1964-1965), Email:
lecongco@yahoo.com
185. Bà: Võ Thị Hóa, sinh ngày 20-10-1954, sống tại thôn 2, Cẩm Thanh, nguyên
Chủ tịch xã Cẩm Thanh, thành viên đội ĐTCT Thiếu nhi thị xã Hội An (1968-1975).
186. Ông: Quảng Bá Hùng, sinh năm 1934, số nhà 460, đường Cửa Đại, TP.
Hội An, nguyên là cán bộ lãnh đạo ĐTCT tại xã Cẩm Thanh (1954-1975).
160
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bản đồ Thành phố Hội An năm 1954............................................. PL 1
Phụ lục 2: Bản đồ Hành chính Thành phố Hội An năm 2020 ......................... PL 2
Phụ lục 3: Tỉnh trưởng Tỉnh Quảng Nam, Kính gửi ông Tổng Trưởng Thông tin
và chiến tranh tâm lý - Sài Gòn, về lễ “tố Cộng” ngày 24-7-1955 tại Hội An ........ PL 3
Phụ lục 4: Báo Quyết Tiến, cơ quan Ngôn luận của Đảng bộ Quảng Nam ngày
1-10-1955, Nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng tiếp tục đấu tranh đòi hiệp thương .... PL 4
Phụ lục 5: Tỉnh trưởng Tỉnh Quảng Nam, gửi Đại biểu Chính phủ tại Trung Việt
ở Huế, trích yếu: Thành lập Thị xã Hội An, 18-11-1955 ................................................. PL 5
Phụ lục 6: Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Nam gửi Đại biểu Chính phủ tại Trung Việt ở
Huế, trích yếu: Ấn định lại sự quản trị các thị xã, thôn xã, ngày 22-11-1955 .......... PL 6-7
Phụ lục 7: Tổng trưởng Bộ Thông Tin và chiến tranh tâm lý, gửi Tổng Trưởng
tất cả các Bộ, Đại biểu các tòa đại diện Nam Việt, Trung Việt, Cao Nguyên, trích yếu:
Lập kiến nghị tố Cộng để đánh qua Giơ neo ............................................................. PL 8
Phụ lục 8: Chỉ thị chống cuộc bầu cử Quốc hội giả hiệu của địch (tức CQNĐD -
TG chú thích) ........................................................................................................ PL 9-12
Phụ lục 9: Tỉnh trưởng Tỉnh Quảng Nam gửi quận trưởng Điện Bàn, tiếp theo số
1576 -VP-CT/M ngày 18-4-1956 của tỉnh Quảng Nam ..................................... PL 13-14
Phụ lục 10: Tỉnh Quảng Nam, Kế hoạch đối phó với âm mưu phá hoại của Việt
Cộng và phiến loạn bản số 21, không ghi rõ ngày tháng ................................... PL 15-16
Phụ lục 11: Quốc gia Việt Nam - Kế hoạch chống âm mưu xúi giục dân chúng
bạo hành (cho những vùng chưa phát khởi bạo hành) ............................................ PL 17
Phụ lục 12: Trích yếu về việc học sinh Phạm Dự bị bắn chết tại Quế Sơn (Quảng
Nam), Tham chiếu phiếu trình số 0259 - BNV/ CT16M ngày 18-1-1964 của Bộ Nội vụ
và công văn số 50 -TTP/ĐL/M ngày 17-1-1964 của VP Phủ Thủ tướng ........... PL18-19
Phụ lục 13: Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Nội Vụ, Tổng Giám đốc cảnh sát Quốc gia gửi Tổng
trưởng Nội Vụ Sài Gòn, trích yếu: V/v Hoạt động của Sinh viên, học sinh miền Trung chống Chính
phủ Trần Văn Hương, số 00637/ TCSQG/CSĐB/KH/K ngày 8-1-1965. ............................... PL 20-26
Phụ lục 14: Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Thông tin tâm lý chiến, Trưởng Ty Thông
tin tâm lý chiến Quảng Nam gửi Thiếu tướng Tổng trưởng Bộ Thông tin tâm lý chiến
tại Sài Gòn, trích yếu: V/v thành lập các đoàn Võ trang Tuyên truyền, số
126TT/TLC/QN/KH/M, ngày 21-5-1965 ................................................................ PL 27
Phụ lục 15: Công điện số 1066/BTCM của Trưởng Ban tổ chức mít tính Nhân
dân tại Hội An gửi Thiếu tướng CT/UBHP/TƯ, về việc tổ chức mít tinh toàn dân tại
Hội An, ngày phát hành 1-6-1966 ....................................................................... PL 28-29
Phụ lục 16: Công điện số 935-CT/1/K, Tỉnh trưởng Quảng Nam gửi Bộ Nội Vụ,
thông báo Tư lệnh vùng I- CT, về việc một số binh sĩ và thanh niên chiếm đài phát
thanh Quảng Nam, ngày 17-3-1966 ................................................................... PL 30-31
Phụ lục 17: Công điện số I08/DV/DV/T/M giới chức gửi: Văn phòng dân
vụ/VCTI, giới chức nhận: Đổng Lý VP/PCTUBHP/TU, về tình hình chính trị tại miền
Trung, ngày 18-3-1966, ngày phát hành 19-3-1966 ........................................... PL 32-33
Phụ lục 18: Công điện (chuyển tay) số 2989/Y6/E, diễn tiến tình hình tại các
tỉnh miền Trung trong ngày 19 và 20-3-66, ngày phát hành 23-3-1966 ........... PL 34-35
Phụ lục 19: Công điện (chuyển tay) số 3063/Y6/E, diễn tiến tình hình tại Đà
Nẵng và Quảng Nam ngày 22 và 23-3-66, ngày ra công điện 25-3-1966 .......... PL 36-37
Phụ lục 20: Công điện (chuyển tay) số 3094/Y6/E, diễn tiến tình hình tại các tỉnh
miền Trung trong ngày 22, 23, 24 và 25-3-66, ngày phát hành 26-3-1966 ............... PL 38-42
Phụ lục 21: Công điện (chuyển tay) số 3379/Y6/E, diễn tiến tình hình tại các
tỉnh miền Trung ngày 2-4-1966, ngày phát hành 4-4-1966 ..................................... PL 43
Phụ lục 22: Đặc Khu Quảng Đà, Chỉ thị về “đợt nhập thị số 66 VK.25” ngày 25-
1-1968, Kí hiệu TL I-II-249 ............................................................................... PL 44-47
Phụ lục 23: Làng dừa Cẩm Thanh - Hội An một trong những căn cứ nuôi dấu
cán bộ cách mạng trong những năm “tố Cộng” ...................................................... PL 48
Phụ lục 24: Bảng Thống kê các cuộc đấu tranh chính trị tiêu biểu tại Hội An
(Quảng Nam) (1954-1975) ................................................................................. PL 49-62
Phụ lục 1: Bản đồ Thành phố Hội An năm 1954.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV, Ký hiệu hồ sơ: Tòa ĐBCP tại TNTP 208.
PL 1
Phụ lục 2: Bản đồ Hành chính Thành phố Hội An năm 2020.
Nguồn: Trung tâm Hành chính, Thành phố Hội An.
PL 2
Phụ lục 3: Tỉnh trưởng Tỉnh Quảng Nam, Kính gửi ông Tổng Trưởng Thông tin và
chiến tranh tâm lý - Sài Gòn, về lễ tố C ộng ngày 24-7-1955 tại Hội An.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
PL 3
Phụ lục 4: Báo Quyết Tiến, cơ quan Ngôn luận của Đảng bộ Quảng Nam ngày 1-10-
1955, Nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng tiếp tục đấu tranh đòi hiệp thương.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
PL 4
Phụ lục 5: Tỉnh trưởng Tỉnh Quảng Nam, gửi Đại biểu chính phủ tại Trung Việt ở Huế, trích
yếu: Thành lập Thị xã Hội An, ngày 18-11-1955.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV, tên phông HS 208, ký hiệu hồ sơ Tòa ĐBCP
tại TNTP.
PL 5
Phụ lục 6: Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Nam, gửi Đại biểu chính phủ tại Trung Việt ở Huế,
trích yếu: Ấn định lại sự quản trị các thị xã, thôn xã, ngày 22-11-1955.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV, Ký hiệu hồ sơ: Tòa ĐBCP tại TNTP 208.
PL 6
PL 7
Phụ lục 7: Tổng trưởng Bộ Thông Tin và chiến tranh tâm lý, gửi Tổng trưởng tất cả
các Bộ, Đại biểu các tòa đại diện Nam Việt, Trung Việt, Cao Nguyên, trích yếu: Lập
kiến nghị tố Cộng để đánh qua Giơ neo.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
PL 8
Phụ lục 8: Chỉ thị chống cuộc bầu cử Quốc hội giả hiệu của địch (tức CQNĐD - TG
chú thích).
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
PL 9
PL 10
PL 11
PL 12
Phụ lục 9: Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Nam gửi quận trưởng Điện Bàn, tiếp theo số 1576
-VP-CT/M ngày 18-4-1956 của tỉnh Quảng Nam.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, ký hiệu hồ sơ: 8538.
PL 13
PL 14
Phụ lục 10: Tỉnh Quảng Nam, Kế hoạch đối phó với âm mưu phá hoại của Việt Cộng
và phiến loạn bản số 21, không ghi rõ ngày tháng.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, hồ sơ 2763, Ký hiệu hồ sơ Tòa ĐBCP tại TNTP.
PL 15
PL 16
Phụ lục 11: Quốc gia Việt Nam - Kế hoạch chống âm mưu xúi giục dân chúng bạo
hành (cho những vùng chưa phát khởi bạo hành).
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV, hồ sơ 2763, ký hiệu Hồ sơ Tòa ĐBCP tại TNTP.
PL 17
Phụ lục 12: Trích yếu về việc học sinh Phạm Dự bị bắn chết tại Quế Sơn (Quảng
Nam), Tham chiếu phiếu trình số 0259 - BNV/ CT16M ngày 18-1-1964 của Bộ Nội vụ
và công văn số 50 - TTP/ĐL/M ngày 17-1-1964 của Văn phòng Phủ Thủ tướng.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Kí hiệu tài liệu: PTTg 15957.
PL 18
PL 19
Phụ lục 13: Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Nội Vụ, Tổng Giám đốc cảnh sát Quốc gia gửi Tổng
trưởng Nội Vụ Sài Gòn, trích yếu: V/v Hoạt động của Sinh viên, học sinh miền Trung chống
Chính phủ Trần Văn Hương, số 00637/ TCSQG/CSĐB/KH/K, ngày 8-1-1965.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Kí hiệu tài liệu: PTTg 29546.
PL 20
PL 21
PL 22
PL 23
PL 24
PL 25
PL 26
Phụ lục 14: Công điện số 1066/BTCM của Trưởng Ban tổ chức mít tính Nhân dân tại
Hội An gửi Thiếu tướng CT/UBHP/TƯ, về việc tổ chức mít tinh toàn dân tại Hội An,
ngày phát hành 1-6-1966.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg 889 số 2155.
PL 27
Phụ lục 15: Công điện số 935-CT/1/K, Tỉnh trưởng Quảng Nam gửi Bộ Nội Vụ, thông
báo Tư lệnh vùng I - CT, về việc một số binh sĩ và thanh niên chiếm đài phát thanh
Quảng Nam, ngày 17-3-1966.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg 159577/83.
PL 28
PL 29
Phụ lục 16: Công điện số I08/DV/DV/T/M, giới chức gửi: Văn phòng dân vụ/VCTI,
giới chức nhận: Đổng Lý VP/PCTUBHP/TU về tình hình chính trị tại miền Trung,
ngày 18-3-1966, ngày phát hành 19-3-1966.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg 889.
PL 30
PL 31
Phụ lục 17: Công điện (chuyển tay) số 2989/Y6/E, diễn tiến tình hình tại các tỉnh
miền Trung trong ngày 19 và 20-3-66, ngày phát hành 23-3-1966.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg 15701.
PL 32
PL 33
Phụ lục 18: Công điện (chuyển tay) số 3063/Y6/E, diễn tiến tình hình tại Đà Nẵng và
Quảng Nam ngày 22 và 23-3-66, ngày phát hành 25-3-1966.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg 15701.
PL 34
PL 35
Phụ lục 19: Công điện (chuyển tay) số 3094/Y6/E, diễn tiến tình hình tại các tỉnh
miền Trung trong ngày 22, 23, 24 và 25-3-66, ngày phát hành 26-3-1966.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg 15701.
PL 36
PL 37
Phụ lục 20: Công điện (chuyển tay) số 3379/Y6/E, diễn tiến tình hình tại các tỉnh
miền Trung ngày 2-4-1966, ngày phát hành 4-4-1966.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg.
PL 38
PL39
PL 40
PL 41
PL 42
Phụ lục 21: Đặc Khu Quảng Đà, Chỉ thị về “đợt nhập thị số 66 VK.25” ngày 25-1-
1968, Kí hiệu TL I-II-249.
Nguồn: Tài liệu lưu trữ tại Ban tuyên giáo - Lịch sử Đảng, Thành ủy Đà Nẵng.
PL 43
Phụ lục 22: Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Thông tin tâm lý chiến, Trưởng Ty Thông tin tâm lý
chiến Quảng Nam gửi Thiếu tướng Tổng trưởng Bộ Thông tin tâm lý chiến tại Sài Gòn,
trích yếu: V/v thành lập các đoàn Võ trang Tuyên truyền, số 126TT/TLC/QN/KH/M, ngày
21-5-1965.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV, Ký hiệu hồ sơ: Tòa ĐBCP tại TNTP 208.
PL 44
PL 45
PL 46
PL 47
Phụ lục 23: Làng dừa Cẩm Thanh - Hội An, một tròn những căn cứ nuôi dấu cán bộ cách
mạng trong những năm “tố Cộng”; Đội đấu tranh chính trị Thiếu nhi thị xã Hội An .
Nguồn: Tác giả
PL 48
Phụ lục 24: Bảng Thống kê các cuộc đấu tranh chính trị tiêu biểu tại Hội An (Quảng Nam) giai đoạn
1954-1965 và 1965-1975.
Các cuộc đấu tranh Lực lượng tham Địa bàn
Giai đoạn Nội dung đấu tranh Kết quả
tiêu biểu gia và lãnh đạo diễn ra
1954-1965 1. Đấu tranh đòi Đòi thi hành Hiệp định Các tầng lớp nhân Nội ô thị xã Có thể nói rằng, tuy không
Mỹ và chính quyền Genève (21-7-1954), dân Hội An do Hội Hội An (đặc đòi Mỹ và chính quyền Ngô
Ngô Đình Diệm thi chống tổ chức trưng cầu Nông dân, Hội Phụ biệt là chợ Hội Đình Diệm thi hành Hiệp định
hành Hiệp định dân ý (23-10-1955), nữ, Thị ủy Hội An An), các xã Genève (21-7-1954) và ngăn
Genève (21-7- chống bầu cử Quốc hội lãnh đạo giáp ranh thị xã chặn được cuộc “trưng cầu
1954) (4-3-1956) như Cẩm Kim, dân ý” (23-10-1955) hay “bầu
Cẩm Châu cử Quốc hội” (4-3-1956) của
CQNĐD nhưng các cuộc đấu
tranh của nhân dân Hội An đã
cho thấy bộ mặt lừa bịp, dân
chủ giả hiệu, phủ nhận hòa
bình, thống nhất đất nước của
Mỹ và CQNĐD. Những cuộc
đấu tranh này đã nâng cao uy
thế của quần chúng, thể hiện
khát vọng cháy bỏng của các
tầng lớp nhân dân Hội An
hướng đến một nền hòa bình,
độc lập, tự do và thống nhất đất
nước. Góp phần kéo dài thời
gian để cách mạng chuẩn bị lực
lượng cho những cuộc đấu
tranh mới
PL 49
2. Đấu tranh chống Đấu tranh chống Huấn Thị ủy Hội An, chi Nội ô Hội A, Trong những năm “tố Cộng”,
“tố Cộng” chính “tố Cộng”, chống bộ Đảng tại nhà xã Cẩm Thanh, hàng nghìn quần chúng và cơ sở
đấu tố. lao Thông Đăng. Cẩm Nam, cách mạng trong toàn thị xã bị
Cẩm Châu và quản thúc, bắt bớ, giam cầm, tra
Cẩm Hà, nhà tấn. Những cán bộ thoát ly cuối
lao Thông cùng của Thị ủy Hội An bị
Đăng. CQNĐD bắt, hệ thống tổ chức
Đảng ở Hội An không còn
nhưng với tinh thần đấu tranh
bất khuất của nhân dân, tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng
đã làm ngòi nổ cho các cuộc đấu
tranh tiếp theo.
3. Đấu tranh đòi Đối với công nhân, đấu Liên hiệp Nghiệp Xã Cẩm Hà, Phong trài đã đạt được nhiều kết
quyền dân sinh, tranh đòi như tăng lương, đoàn Lao động Cẩm Thanh, quả, công nhân được tăng
dân chủ giảm giờ làm, khi có việc Quảng Nam, Cẩm Kim, Cẩm lương, giảm giờ làm
chính đáng xin nghỉ phép Thị ủy Hội An. Hà, Cẩm Châu,
phải có lương, lên thanh và Cẩm An, nội
tra lao động yêu cầu can ô thị xã Hội
thiệp. Ngoài ra, những An.
cuộc đấu tranh của công
nhân các nhà máy khác ở
Hội An chống chủ sa thải,
đòi tiền phụ cấp gia đình,
đòi thanh toán tiền công.
Đối các tầng lớp nhân
dân đấu tranh chống
cướp đoạt ruộng đất,
chính sách bóc lột nặng
PL 50
nề, chống CQNĐD dồn
dân lập “khu trù mật”.
Nhân dân đấu tranh
chống bắn phá làng mạc
hủy hoại hoa màu, đấu
tranh đòi trở vê quê cũ
làm ăn, đòi chính quyền
VNCH trả lại chồng, con
bị bắt đi lính, chống âm
mưu bắt lính trong
những năm 1961-1962,
có phong trào khai sụt
tuổi trong thanh niên,
học sinh, khai ốm đau.
4. Đấu tranh Tổ chức các cuộc mít Thị ủy Hội An Tại ấp Thanh Năm 1963, toàn tỉnh có 310
chống phá ấp chiến tinh để tuyên truyền cho Hậu xã Cẩm cuộc ĐTCT với 16.000 quần
lược nhân dân hiểu rõ âm Hải, xã Cẩm chúng tham gia, phá trên 100
mưu, thủ đoạn của Mỹ Thanh, xã Cẩm ACL, trong đó Hội An phá
và CQNĐD trong việc Châu, Cẩm banh trên 10 ấp.
gom dân, lập ACL, kêu Nam và Cẩm
gọi nhân dân đấu tranh An.
chống phá ACL, rải một
số truyền đơn
Hoặc nhân dân tìm mọi
cách để chống phá ACL
như dây dưa không chịu
triển khai; viện lý do khó
khăn, ốm đau, mùa
màng, nhà nọ chờ nhà
PL 51
kia, đủ cây thì thiếu dây,
có dây thì cây sắp mục
hoặc tự giấu rựa rồi đổ
lỗi cho cách mạng cấm
rừng, thu rựa không cho
chặt cây; khi buộc phải
rào thì cắm cây nông
hoặc rào nhưng không
buộc dây, hoặc đốt rào
tre, kẽm gai,
5. Đấu tranh đòi tự Phong trào đấu tranh cho Tỉnh hội Phật giáo Nội ô thị xã Các cuộc đấu tranh của Phật
do tín ngưỡng, 5 nguyện vọng của Phật Quảng Nam Hội An giáo tại Hội An nói riêng và
bình đẳng tôn giáo giáo, đấu tranh đòi thi miền Nam nói chung đã làm
năm 1963 hành Thông Cáo chung, cho mâu thuẫn giữa Mỹ và
tổ chức lễ cầu siêu Tuần CQNĐD ngày càng gay gắt
Chung thất của Hòa và cuối cùng buộc Mỹ “bật
thượng Thích Quảng đèn xanh” cho nhóm tướng
Đức. lĩnh do Dương Văn Minh cầm
đầu làm cuộc đảo chính vào
ngày 1-11-1963, giết chết anh
em Diệm - Nhu, chấm dứt 9
năm thống trị của chế độ độc
tài gia đình trị Ngô Đình
Diệm. Sự sụp đổ của chế độ
Ngô Đình Diệm (1-11-1963),
là một tất yếu lịch sử. Khách
quan mà thừa nhận rằng,
phong trào Phật giáo Hội An
năm 1963 là một bộ phận của
PL 52
phong trào đô thị, của phong
trào cách mạng miền Nam
chống Mỹ và CQNĐD.
6. Đấu tranh chống Biểu tình để phản đối Thị ủy Hội An Nội ô thị xã Nguyễn Khánh làm “đảo
dư đảng Cần Lao, hành động của cảnh sát Hội An, xã chính toàn bộ”, giải tán
chống các chính viên Võ Đức Hưng giết Cẩm Hà, xã chính phủ Trần Văn Hương.
quyền độc tài sau chết học sinh Phạm Dự; Cẩm An, xã Tới ngày 16-2-1965, Nguyễn
cuộc đảo chính 01- biểu tình tuần hành qua Cẩm Châu, xã Khánh chỉ định nội các mới
11-1963 (từ ngày các đường phố trong thị Cẩm Thanh, xã do Phan Huy Quát làm Thủ
1-11-1963 đến xã phản đối “Hiến Cẩm Nam, xã tướng, ba ngày sau đó,
ngày 8-3-1965)và chương Vũng Tàu”; toàn Cẩm Kim. Nguyễn Khánh bị lật đổ và
đồng khởi đồng thể học sinh các trường phải lưu vong ra nước ngoài.
bằng cuối năm Trung, Tiểu học công, tư Nhằm tháo gỡ bế tắc, Mỹ
1964 đầu năm nhất loạt bãi khóa để thay thế chiến lược “Chiến
1965 phản đối chính phủ Trần tranh đặc biệt” bằng “Chiến
Văn Hương. tranh cục bộ”, trực tiếp đưa
“Đồng khởi” ở đồng quân tham chiến ở miền
bằng Nam (8-3-1965).
Chính quyền cách mạng
được thành lập ở 6 xã:
Xã Cẩm Hà, xã Cẩm An, xã
Cẩm Châu, xã Cẩm Thanh, xã
Cẩm Nam, xã Cẩm Kim
1965-1975 1. Đòi thành lập lực lượng học sinh đã Thị ủy Hội An, Nội ô thị xã Cao trào đấu tranh đòi thành
chính phủ dân sự dùng xe Jeep của Ty Tỉnh hội Phật giáo Hội An lập chính phủ dân sự năm
điền địa Quảng Nam, có Quảng Nam 1966 diễn ra rất mãnh liệt trên
biểu ngữ và máy phóng địa bàn thị xã Hội An. Tuy
thanh, chạy khắp các ngã không giành được thắng lợi
đường thị xã Hội An rãi nhưng có một ý nghĩa hết sức
PL 53
truyền đơn và hô hào to lớn, người chiến thắng về
đấu tranh đòi các tướng mặt chính trị và tinh thần
lãnh Sài Gòn phải trả không phải Mỹ, Thiệu - Kỳ có
trung tướng Nguyễn nhiều súng đạn mà là Tăng
Chánh Thi về lại Vùng I Ni, Phật tử, sinh viên, học
– CT; một số thanh sinh và các tầng lớp nhân dân
niên, sĩ quan và binh yêu nước, trong đó có nhân
lính QĐVNCH chiếm dân Hội An.
Đài phát thanh Quảng
Nam để loan truyền lời
kêu gọi của Ủy ban
Quân dân đấu tranh
Quảng Nam;tại giảng
đường tỉnh Quảng Nam,
Giáo hội Phật giáo Việt
Nam thống nhất có buổi
học tập về bức thông cáo
2177 của Viện Hóa Đạo,
số người tham dự trên
1.000 người bao gồm
đoàn thể chuyên nghiệp
thanh niên và đồng bào
Phật tử thị xã Hội An;
học sinh, thanh niên lập
ra “Lực lượng thanh
niên tranh thủ cách
mạng” liên kết với công
77 Đòi các tướng lĩnh bị cách chức phải được phục hồi chức vụ, tướng lĩnh phải trở về vị trí quân sự thuần túy, gấp rút bầu Quốc hội để thành lập Chính phủ dân sự, cải thiện đời
sống nhân dân.
PL 54
nhân, thợ thủ công, phu
khuân vác, xích lô, tài
xế, tiểu thương, công
chức và Tăng Ni, Phật tử
xuống đường biểu tình
phản đối Thiệu - Kỳ.
2. Đấu tranh chính Quần chúng ở các vùng Thị ủy Hội An. Nội ô thị xã Cuộc Tổng tiến công và nổi
trị trong Xuân Mậu nông thôn biên chế Hội An và các dậy Tết Mậu Thân (1968) là
Thân (1968) thành các tổ, tiểu đội, xã thuộc thị xã một đòn sấm sét, bất ngờ làm
trung đội, đại đội, tiểu Hội An cũng cho Mỹ và chính quyền
đoàn, từng cánh, từng như có sự phối VNCH choáng váng. Nhưng
mũi do cán bộ có kinh hợp của các xã do lực lượng của chúng còn
nghiệm lãnh đạo và chỉ thuộc Duy đông và mạnh, nên chúng đã
huy; Ở các nơi công Xuyên và Điện nhanh chóng tổ chức lại lực
cộng trong thành phố Bàn. lượng phản công lực lượng
như bến xe, bến đò, chợ, cách mạng ở cả thị xã và vùng
nhà thương, trường học nông thôn đồng bằng Hội An.
đều thành lập các tổ huy Vì vậy, cuộc Tổng tiến công
động quần chúng. trong và nổi dậy Tết Mậu Thân
nhân dân đã hoàn thành (1968), lực lượng cách mạng
cụ thể: Ở nội ô, nhân dân gặp không ít khó khăn và tổn
rất nhiệt tình hướng dẫn, thất.
giúp đỡ, dẫn đường cho
lực lượng biệt động của
ta vào nắm tình hình ở
vùng trung tâm thị xã.
Thị ủy Hội An tổ chức 3
lần đấu tranh “nhập thị”
quy mô lớn huy động
PL 55
nhân dân toàn thị xã.
Lực lượng ĐTCT phía
Bắc thị xã Hội An chia
làm 3 mũi: Mũi ĐTCT
thứ nhất, từ Cẩm An và
thôn Trà Quế (xã Cẩm
Hà) tiến vào hồ Bà
Thiên, Xóm Mới, Mũi
ĐTCT thứ hai gồm:
2.500 người của các xã:
Điện Dương, Điện Hải
cùng với nhân dân xã
Cẩm Hà tiến vào nội ô
theo hướng chùa Thanh
Minh, Mũi ĐTCT thứ
ba, từ Cẩm Châu tiến lên
đến Sơn Phô. Lực lượng
ĐTCT phía Nam thị xã
Hội An tổ chức “nhập
thị” bao gồm các xã:
Bình Giang, Bình Đào,
Bình Triều, Bình Dương
(Thăng Bình), Xuyên
Thái, Xuyên Thọ, Xuyên
Tân, Xuyên Long,
Xuyên Phước, Xuyên
An (Duy Xuyên), Cẩm
Kim và Cẩm Nam.
Lực lượng ĐTCT phía
Đông thị xã Hội An tổ
PL 56
chức “nhập thị” có xã
Cẩm Thanh tiến theo
đường Cồn Chài để vào
nội ô thị xã. Lực lượng
ĐTCT phía Tây thị xã
Hội An tổ chức “nhập
thị” có xã Điện Thành
và nhân dân một số thôn
phía Tây xã Cẩm Hà tiến
vào nội ô.
3. Đòi dân sinh, Đấu tranh chống chính Thị ủy Hội An. Nội ô thị xã Một số mục tiêu đấu tranh đạt
dân chủ quyền VNCH thực hiện Hội An và các được như chống dồn dân, đòi
lập ấp kèm dân, chống xã thuộc thị xã chồng con trở về, cải thiện
cày ủi, bắn phá ruộng Hội An như xã chế độ lao tù cho tù nhân,...
vườn, thôn xóm. Khi bị Cẩm Thanh, xã
chính quyền VNCH Cẩm Hà,
cưỡng bức, xúc tác vào Trường Lệ xã
các khu dồn dân, nhân Cẩm Châu, thôn
dân lại tiếp tục đấu tranh 1 xã Cẩm Kim,
đòi các quyền dân sinh thôn 4 xã Cẩm
như đòi trở về quê cũ Nam, nhà lao
làm ăn như khu dồn dân Xóm Mới.
Xóm Mới (Cẩm Châu),
Nam Diêu (Cẩm Hà).
Đồng thời các thôn
Trường Lệ, Cồn Chài,
Nam Diêu, Bộc Thủy nổ
ra nhiều cuộc đấu tranh
không cho lính của
PL 57
VNCH và quân Đồng
minh của Mỹ đóng tại
nhà dân;đấu tranh tại
quận Hiếu Nhơn chống
xúc tác dồn dân, 9 lần tổ
chức hình thức đi “chợ
nhồi - đưa người từ vùng
ngoại ô, ven thị xã Hội
An vào giả vờ đi chợ để
đấu tranh”, xuống
đường biểu tình tố cáo
tội ác Mỹ, chống
QĐVNCH càn quét,
gom dân, cướp phá hoa
màu; Trong thanh niên,
học sinh dấy lên phong
trào chống quân dịch,
chống quân sự hoá học
đường; Các nhóm thanh
niên, học sinh đi vào các
xóm lao động phân phát
những tờ báo tiến bộ, tổ
chức những đêm văn
nghệ lành mạnh, chống
văn hóa đồi trụy, chống
lối sống lai căng của
Mỹ. Gia đình thương
phế binh và gia đình
binh lính của QĐVNCH
cũng tham gia đấu tranh
PL 58
đòi giải quyết nhà ở, cải
thiện đời sống; đấu
tranh cải thiện chế độ lao
tù, tố cáo chế độ hà khắc
của nhà lao Xóm Mới
(Hội An), cử các đoàn
đến thăm hỏi tù nhân.
4. Đấu tranh đòi thi Ở vùng đồng bằng do Thị ủy Hội An. Nội ô thị xã Hội Có 99 gia đình với 339 nhân
hành Hiệp định cách mạng làm chủ, An, nhà lao khẩu tiếp tục trở về sống ở
Paris nhân dân hăng hái may Xóm Mới, xã các vùng ven nội ô thị xã. Tại
cờ, vót chông hỗ trợ lực Cẩm An, xã xã Cẩm Thanh, có 15 gia đình
lượng vũ trang “giành Trường Lệ, xã với 43 nhân khẩu trở về vùng
đất cắm cờ”, chuẩn bị Cẩm Hà và xã cách mạng làm chủ. Cải thiện
nhân công sẵn sàng tiếp Cẩm Châu. chế độ lao tù cho tù nhân,
tế lương thực và vũ khí
cho lực lượng vũ trang.
Nhân dân ở vùng chính
quyền VNCH kiểm soát
và trong nội ô thị xã Hội
An mua vải, chỉ về may
hàng ngàn lá cờ Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam gởi ra
vùng cách mạng làm chủ
để thực hiện “giành đất
cắm cờ”. . Khẩu hiệu đưa
ra là: “Xanh đồng đông
chợ - tức tập trung tăng
gia sản xuất và họp chợ
PL 59
thường xuyên”; đòi hòa
bình, ngừng bắn, đòi tự
do dân chủ, cải thiện đời
sống, giải quyết công ăn
việc làm, đi lại bình
thường giữa các vùng, đòi
trở về quê cũ làm ăn. tù
nhân đấu tranh đòi cải
thiện chế độ giam cầm
như đòi chính quyền
VNCH, mà cụ thể là
những người quản lý nhà
lao phải thực hiện đúng
chế độ như: 1.Tù nhân
được ăn no, không được
bớt cơm, bớt nước và
được tắm giặt, được ra
ngoài hít thở không khí,
được tắm nắng mỗi ngày
một lần; 2. Được quyền
hưởng tự do khi hết hạn
tù, không được gia tăng
hạn tù tái xét,
5. Đấu tranh chính Vào 12 giờ trưa ngày 27- Đặc khu ủy Quảng Toàn bộ thị xã 5 giờ sáng ngày 28-3-1975,
trị trong Xuân 3-1975, Ủy ban khởi Đà, Thị ủy Hội An. Hội An Hội An hoàn toàn giải phóng.
1975 nghĩa thị xã phát lệnh
tổng tiến công và nổi
dậy giải phóng Hội An.
Hàng chục thuyền máy
PL 60
của cơ sở được huy động
lên Xuyên Tân, Xuyên
Thái đón cán bộ và bộ
đội về Cẩm Thanh và
Cẩm Kim. Ngay trong
chiều và đêm 27-3-1975
nhân dân ở 12 khu dồn
và trại tập trung đã nổi
dậy truy đuổi ác ôn tay
sai, làm chủ hoàn toàn
các xã ngoại ô thị xã Hội
An; 5 giờ sáng ngày 28-
3-1975 sau khi chiếm
lĩnh các vị trí của địch,
các cánh quân tiến về tòa
hành chính Quảng Nam.
Cờ Mặt trận dân tộc giải
phóng phất phới tung
bay trên dinh lũy kẻ thù.
Toàn bộ hệ thống ngụy
quyền, ngụy quân ở Hội
An bị tan rã. Trong cuộc
Tổng tiến công và nổi
dậy giải phóng Hội An,
lực lượng chính trị nội ô
phân công thành từng
đội, nhóm đón đã dẫn
đường cho LLVT tiến
quân vào những hang ổ
trọng điểm của chính
PL 61
quyền VNCH. Công
nhân nhà đèn, nước giữ
cho điện nước được đảm
bảo để nội ô thị xã
không bị mất điện, nước
khi quân giải phóng tiến
vào nội ô.
PL 62