Đấu thầu quốc tế trong xây lắp ở Việt Nam thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả

Mục Lục Lời nới đầu chương i: Vài nét về đấu thầu quốc tế trong xây lắp các công trình. I. Quá trình ra đời và phát triển của đấu thầu quốc tế II. Khái niệm và đặc điểm của đấu thầu quốc tế trong xây lắp công trình. III. Các hình thức đấu thầu quốc tế trong xây lắp công trình. IV. Vai trò của đấu thầu quốc tế trong xây lắp công trình V. Quy trình đấu thầu xây lắp. chương II: Thực trạng đấu thầu quốc tế trong lĩnh vực xây lắp ở Việt Nam I. Tình hình đấu thầu quốc tế trong lĩnh vực xây d

doc118 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1651 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Đấu thầu quốc tế trong xây lắp ở Việt Nam thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ựng ở Việt Nam thời gian qua. II. Cơ sở pháp lý liên quan tới hoạt động đấu thầu xây lắp. III. quy trình đấu thầu quốc tế trong lĩnh vực xây lắp ở Việt Nam. IV. Những kết quả đạt được và những tồn tại cần khắc phục trong lĩnh vực đấu thầu xây lắp ở Việt Nam. Chương III: Các biện pháp nâng cao hiệu quả đấu thầu xây lắp ở Việt Nam. 1. Triển vọng áp dụng đấu thầu quốc tế tại Việt Nam 2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả. Kết luận Trang Lời nói đầu Kể từ sau chính sách đổi mới của Đại Hội Đảng VI (1986), kinh tế Việt Nam đã có những cải cách rõ rệt. Thành công lớn nhất của Đảng ta là việc chuyển đổi cơ chế kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung dựa trên chế độ công hữu là chủ yếu sang kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước. Sự thành công này đã làm dấy lên làn sóng hưởng ứng mạnh mẽ ở cả trong lẫn ngoài nước và tạo đà cho những cải cách tiếp theo như: đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng và cùng có lợi; thực hiện chính sách ngoài giao linh hoạt mềm dẻo làm xoá đi những rào cản trước đây, đẩy nhanh quá trình hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới; Tích cực cải thiện môi trường đầu tư trong nước để thu hút vốn đầu tư nước ngoài; sửa đổi ban hành hệ thống luật kinh tế tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh doanh, đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam được tiến hành thuận lợi... Với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn vay hoặc tài trợ của các chế định tài chính quốc tế, hàng loạt các dự án đầu tư phát triển đã ra đời nhằm điều chỉnh cơ cấu và phát triển các ngành kinh tế, cải tạo và xây dựng cơ sở hạ tầng hướng tới mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Cho nên ngành xây dựng trong những năm gần đây rất sôi động trên khắp đất nước ta. Sự sôi động này cũng kéo theo sự phát triển của phương thức đấu thầu quốc tế. Đấu thầu quốc tế có một lịch sử phát triển lâu đời và đã được áp dụng rộng rãi trên thế giới vì đã khẳng định được những ưu điểm của mình. Đấu thầu quốc tế không chỉ là một cách thức thông thường, một thủ tục thuần tuý mà trên thực tế đây là một công nghệ hiện đại, một hệ thống đồng bộ các giải pháp có cơ sở khoa học, đảm bảo sư phối hợp chặt chẽ giữa các bên có liên quan đến quá trình xây dựng và cung ứng thiết bị. nhằm thực thi hợp đồng cung ứng dịch vụ và hàng hoá đem lại kết quả tối ưu, xét theo quan điểm tổng thể là tối ưu về chất lượng, kỹ thuật, tiến độ, tối ưu về tài chính đồng thời hạn chế những diễn biến gây căng thẳng hoặc gây phương hại về uy tín cho các bên liên quan. Đấu thầu quốc tế đã được kiểm nghiệm và phát triển trong nhiều năm qua tại các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới. Nhận thức được tính ưu việt và lợi ích của đấu thầu quốc tế trong những năm gần đây, Việt Nam đã bắt đầu áp dụng phương thức này trong các hoạt động mua sắm hàng hoá, xây lắp và tư vấn. Tuy nhiên, chúng ta chưa tận dụng được tính cạnh tranh thực sự của phương thức này do ảnh hưởng của các yếu tố xã hội, kinh tế, trình độ non kém trong quản lý... Trong điều kiện chuyển đổi cơ chế kinh tế, mở rộng các quan hệ đối ngoại, giao lưu của nước ta với các nước khác ngày càng phát triển làm cho nhu cầu về xây dựng cơ sở hạ tầng ngày càng tăng cho nên việc áp dụng đấu thầu quốc tế về khách quan là không thể thiếu được và ngày càng phát triển để hoà nhập với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ trên thế giới. Với mong muốn được thu nhận những kiếm thức tổng hợp về đấu thầu quốc tế trong lĩnh vực xây lắp nên tôi đã chọn đề tài: “ Đấu thầu quốc tế trong xây lắp ở Việt Nam thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả”. Bản luận văn này được chia thành 3 phần: Chương 1 Vài nét về đấu thầu quốc tế trong xây lắp công trình Chương 2 Thực trạng đấu thầu quốc tế trong xây lắp ở Việt Nam. Chương 3 Các biện pháp nâng cao hiệu quả đấu thầu quốc tế trong lĩnh vực xây lắp ở Việt Nam. Do trình độ và thời gian viết bài có nhiều hạn chế, em kính mong nhận được sự giúp đỡ và đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo đề bài viết của em được hoàn chỉnh hơn. Chương i Vài nét về đấu thầu cạnh tranh quốc tế trong xây lắp các công trình i. quá trình ra đời và phát triển của đấu thầu cạnh tranh quốc tế Đấu thầu là một hình thức được áp dụng hết sức phổ biến trong việc mua sắm thiết bị, xây lắp, tư vấn ở hầu hết các nước trên thế giới, nhất là các nước phát triển (như là các nước thuộc nhóm G7). Nhưng hiện nay, các nguồn vốn đầu tư dưới nhiều hình thức chảy vào các nước đang phát triển ngày càng tăng. Chính vì vậy mà đối với các nước đang phát triển, hình thức Đấu thầu quốc tế là tương đối mới nhưng nó lại được sử dụng rất nhiều trong các công trình xây dựng có sử dụng vốn vay của nước ngoài, đặc biệt là các nguồn vốn vay từ các tổ chức ADB, WB, OECF (nay đổi thành JBIC)... Phương thức Đấu thầu quốc tế được coi trọng và áp dụng phổ biến như vậy trên thế giới xuất phát từ nhiều lý do, nhưng trong đó phải kể tới hiệu quả của nó đem lại trong thực tiễn. áp dụng hình thức đấu thầu quốc tế sẽ tiết kiệm được tiền bạc, thời gian, công sức, đảm bảo được chất lượng công trình của dự án, tạo ra sân chơi công bằng, lành mạnh cho các nhà thầu, chống tệ nạn tham nhũng, cửa quyền, thông đồng giữa các nhà thầu với nhau và với chủ đầu tư, giữa nhà thầu với các cơ quan quản lý... Trong thực tiễn mua bán, xây dựng ngày nay, Đấu thầu được áp dụng rộng rãi trên phạm vi quốc tế và đặc biệt ở các nước phát triển vì nhiều nguyên nhân. Trong số đó có các nguyên nhân sau: ODA là một nguồn hỗ trợ vốn rất quan trọng và chủ yếu được dùng vào việc xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng. Theo báo cáo của WB thì Philippin dùng tới 60% nguồn vốn ODA trong lĩnh vực xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng. Miến Điện, ả Rập Xê-út, toàn bộ hợp đồng nhập khẩu đều thông qua phương thức đấu thầu. ở các nước đang phát triển con số này là 20-40%. Tuỳ từng tổ chức quốc tế mà có những quy chế đấu thầu riêng. Và mỗi nước cũng có quy chế đấu thầu riêng của mình. Khi tham gia đấu thầu ở nước nào thì chúng ta phải tuân thủ nghiêm ngặt quy chế đấu thầu ở nước đó. Hoặc nếu vay vốn ở tổ chức nào thì chúng ta cũng phải tuân thủ quy chế đấu thầu mà tổ chức đó quy định. Với một số nước, việc tổ chức đấu thầu được thực hiện theo kiểu tập trung (như ở Hàn Quốc), tức là thực hiện đấu thầu trên cơ sở yêu cầu các đơn vị, bộ ngành... mà chính những tổ chức này sẽ làm mọi thủ tục để đấu thầu cho họ. Hình thức này cũng tương tự hình thức một doanh nghiệp xuất khẩu uỷ thác để hưởng hoa hồng. Chúng ta có thể nhận thấy những ưu điểm của phương thức nàylà tính chuyên môn hoá cao, nhà nước dễ dàng kiểm soát được việc thực hiện công tác đấu thầu. Nhưng ngược lại, phương thức này cũng bộc lộ một số nhược điểm riêng của nó như: dễ gây ra tình trạng quan liêu do trên thị trường chỉ có một người bán nên người đó được độc quyền trong việc tổ chức đấu thầu và vì vậy nếu muốn một nhà thầu nào đó thắng thầu thì họ tìm cách đưa ra những chỉ tiêu thông số mà chỉ có nhà thầu đó có thể đáp ứng được; vấn đề sau đấu thầu như bảo hành bảo dưỡng các dịch vụ khác.... ở một số quốc gia khác như Indonêsia, Trung Quốc... việc tổ chức đấu thầu được thực hiện do một cơ quan bộ, ngành đảm đương. Mọi nhu cầu của các đơn vị thành viên trong bộ, ngành đều được đưa lên cơ quan đầu não của bộ, ngành xem xét và chuyển sang cho một tổ chức chuyên môn đấu thầu thực hiện. Hình thức này một mặt đem lại một số ưu điểm như: chuyên môn hoá cao, dễ kiểm soát, sát với sự biến động của thực tế... nhưng mặt khác nó cũng đem lại một số nhược điểm như đơn vị trực thuộc bộ, ngành thụ động, không được cọ xát với thực tế...dễ dẫn đến việc xử lý tình huống chậm. II. Khái niệm và đặc điểm của đấu thầu quốc tế 1.Khái niệm chung về đấu thầu Thuật ngữ “đấu thầu” đã xuất hiện trong thực tế xã hội từ xa xưa. Theo từ điển tiếng Việt ( do Viện ngôn ngữ học biên soạn, xuất bản năm 1998) thì đấu thầu được giải thích là việc “đọ công khai, ai nhận làm, nhận bán với điều kiện tốt nhất thì được giao cho làm hoặc được bán hàng (một phương thức giao làm công trình hoặc mua hàng)”. Như vậy bản chất của việc đấu thầu đã được xã hội thừa nhận như là một sự ganh đua (cạnh tranh) công khai để được thực hiện một công việc nào đó, một yêu cầu nào đó. Với sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, khi có thị trường đầu vào cũng như đầu ra thì vấn đề đấu thầu chẳng những được nhà nước, các nhà thầu mà ngay cả người dân cũng hết sức quan tâm và đấu thầu trở thành một công cụ trong quản lý chi tiêu các nguồn tiền của nhà nước, nó cũng là một sân chơi cho những ai muốn tham gia đáp ứng các nhu cầu mua sắm, xây dựng sử dụng tiền của Nhà nước. Thực tế đó đòi hỏi phải hình thành các quy định, hình thành một hệ thống pháp lý cho một công việc mới mẻ nhưng hết sức cần thiết đối với các hoạt động kinh tế hiện nay - đó là các hoạt động đấu thầu. ở một số trường đại học ở Việt Nam, bộ môn về đấu thầu đã bắt đầu hình thành. Trong giáo trình giảng dạy của trường đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, đã giải thích đấu thầu là một hành vi trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Có thể thấy rằng, đấu thầu trong xã hội hiện nay bao quát nhiều nội dung hơn, nó không chỉ là một quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng việc cung cấp hàng hoá, xây dựng công trình mà bao gồm cả các dịch vụ tư vấn. Xét về mặt kinh tế, đấu thầu thực chất là mua sắm, đó là quan hệ giữa một bên có tiền dành cho một kế hoạch, một nhu cầu nào đó và một bên muốn dành được quyền đáp ứng yêu cầu để có được hợp đồng gắn với lợi nhuận. Có nhiều hình thức để thực hiện quá trình mua sắm. Thông thường nhất và hiệu quả nhất là tiến hành việc mua sắm thông qua các cuộc đấu thầu (bidding). Những hình thức khác sẽ phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của việc mua sắm nhưng luôn đảm bảo tính cạnh tranh để mang lại hiệu quả kinh tế. Một hình thức mua sắm đơn giản thường xảy ra trong cuộc sống hàng ngày đó là việc mua sắm cho các nhu cầu trong gia đình và việc “đi chợ” hàng ngày cũng mang tính chất đấu thầu. Từ “procurement” trong tiếng Anh được quốc tế chấp nhận để biểu thị việc lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, xây lắp công trình và cung cấp hàng hoá. Theo ý nghĩa tu từ bằng tiếng Việt của nó, “procurement” được hiểu là mua sắm. Theo các bản dịch của Ngân Hàng Thế Giới – World Bank (mà dưới đây gọi tắt là WB) “procurement” được dịch là mua sắm. Do hiểu theo một khái niệm rộng, mua sắm xây lắp là tuyển chọn nhà thầu xây dựng công trình. Có nghĩa là chủ đầu tư mua công trình của nhà thầu. Tuyển chọn tư vấn là mua sản phẩm dịch vụ của tư vấn. Còn mua sắm Hàng hoá là chọn nhà cung ứng để cung cấp hàng hoá. ở đây cũng cần hiểu từ “hàng hoá” theo nghĩa rộng. Hàng hoá bao gồm mọi vật tư, thiết bị, dụng cụ vv... Theo nghĩa đen của nó, từ “ procurement” được hiểu là “mua sắm”. Nhưng hiện hiện nay từ “đấu thầu” đã và đang được sử dụng rộng rãi trong các văn bản pháp quy của nhà nước ta. Ví dụ Quy chế đấu thầu được ban hành kèm theo Nghị định 88/ 1999/NĐ-CP của Chính Phủ. Bởi vậy, thuật ngữ “đấu thầu” được hiểu là đồng nghĩa với thuật ngữ “procurement” trong tiếng Anh. Vì vậy, Quy chế hoặc Hướng dẫn Đấu thầu của ta đồng nghĩa với Quy chế hoặc Hướng dẫn Mua sắm (Procurement Regulation hoặc Guidelines) trên thế giới. Khi tiến hành đấu thầu ở Việt Nam, phải tuân theo mọi quy định của Quy chế đấu thầu hiện hành của Chính Phủ và các quy định của các cơ quan tài trợ (nếu là vốn vay nước ngoài). Trường hợp có sự khác biệt hoặc thậm trí trái ngược thì phải áp dụng các quy định trong các Hiệp định Chính Phủ đã kí với nhà tài trợ. Vì vậy chúng ta có thể đưa ra một khái niệm chung sau đây: Đấu thầu quốc tế là một phương thức giao dịch đặc biệt, trong đó bên mời thầu (chủ dự án, chủ công trình) công bố trước các điều kiện mua hàng để cho các nhà thầu (người cung ứng hàng hoá, dịch vụ, xây dựng công trình) báo giá và các điều kiện giao dịch, sau đó bên mời thầu sẽ chọn mua của ai đáp ứng tốt nhất các điều kiện đã nêu ra. Các bên tham gia đấu thầu quốc tế là những người có quốc tịch khác nhau. 1.2. Khái niệm về đấu thầu cạnh tranh quốc tế (International Competetive Bidding - ICB) Theo Quy chế đấu thầu được ban hành kèm theo Nghị định số 88/ 1999 /NĐ-CP ngày 01-9-1999 có định nghĩa về đấu thầu như sau: “Đấu thầu” là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của Bên mời thầu. “Đấu thầu cạnh tranh quốc tế” là cuộc đấu thầu có các nhà thầu trong và ngoài nước tham dự, thông qua cạnh tranh lành mạnh. “Xây lắp” là những công việc thuộc quá trình xây dựng và lắp đặt thiết bị các công trình, hạng mục công trình. Theo Quy chế đấu thầu được ban hành kèm theo Nghị định 43/CP ngày 16/07/1996 có định nghĩa về đấu thầu như sau: “Đấu thầu” là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu của bên mời thầu trên cơ sở cạnh tranh công bằng và lành mạnh giữa các nhà thầu. Như vậy, định nghĩa mới nhất về đấu thầu của Quy chế đấu thầu hiện hành của nhà nước thì không còn đề cập tới vấn đề cạnh tranh giữa các nhà thầu nhưng chúng ta vẫn cảm nhận được tính cạnh tranh lành mạnh trong định nghĩa đó. Cũng theo các định nghĩa trên, đấu thầu quốc tế là quá trình lựa chọn nhà thầu trong nước và ngoài nước đáp ứng các yêu cầu của Bên mời thầu. Mà mỗi lần đấu thầu, sự cạnh tranh lành mạnh càng diễn ra khốc liệt thì việc đấu thầu mới thực sự mang lại ý nghĩa cuả nó. Ngược lại, nếu đấu thầu không thể hiện sự cạnh tranh lành mạnh thực sự thì việc đấu thầu không còn ý nghĩa của nó. Xã hội ngày càng phát triển đồng thời kéo theo sự phát triển của nền kinh tế. Sự phát triển của nền kinh tế cũng cho ra đời rất nhiều loại hình kinh doanh như công ty tư nhân, công ty hợp doanh, công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước... Với mỗi hình thức đó cũng có vô số các tổ chức được thành lập nhằm kinh doanh thu lợi nhuận. Như vậy, thì số lượng nhà thầu cũng rất lớn và ngày càng gia tăng. Trong mỗi cuộc đấu thầu, cần lựa chọn ra một nhà thầu trong số nhiều nhà thầu đó. Nhà thầu được chọn phải là có hồ sơ dự thầu đáp ứng căn bản hồ sơ mời thầu, có đủ năng lực về tài chính, về kỹ thuật và kinh nghiệm thực hiện thành công gói thầu đó. Vì vậy, đấu thầu phải đảm bảo được tính chất cạnh tranh lành mạnh, công bằng, rõ ràng, minh bạch đảm bảo quyền lợi chính đáng của bên mời thầu và các đơn vị dự thầu. 2. Đặc điểm của đấu thầu cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực xây lắp: Đấu thầu cạnh tranh quốc tế là một hình thức lựa chọn nhà thầu trong nước và quốc tế tham gia đấu thầu xây dựng công trình. Trong mỗi lần tổ chức đấu thầu, nhiều người muốn bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ nhưng chỉ có 1 người mua và một người trúng thầu. Đặc điểm này bắt buộc các nhà thầu phải đưa ra được những phương án tối ưu vể mặt kỹ thuật cũng như chất lượng và giá cả để hy vọng trúng thầu. Đồng thời, nó cũng tạo cơ hội cho người mời thầu lựa chọn được những hàng hoá và dịch vụ tốt nhất từ phía nhà cung cấp, giá hợp lý nhất để có thể đạt mức lợi nhuận tối đa cho mình. Ngoài ra, đấu thầu luôn được thực hiện trong sự cạnh tranh công bằng và khách quan thông qua việc nhận các đơn thầu và đảm bảo tính bí mật trong suốt quá trình đấu thầu. Nhìn chung, đấu thầu cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực xây lắp mang những đặc điểm chính sau: 2.1. Đấu thầu quốc tế là một phương thức giao dịch đặc biệt. Tính đặc biệt của phương thức này thể hiện ở các mặt chủ yếu sau: 2.1.1. Trên thị trường chỉ có một người mua và nhiều người bán. Trên thị trường này, người mua phần lớn thường là những tổ chức, cơ quan, chủ đầu tư được Chính phủ cấp tài chính để xây dựng, nâng cấp, cải tạo, sửa chữa công trình. Hoặc có những trường hợp người mua thiếu vốn nên phải đi vay mà trong những hiệp định cho vay đó đòi hỏi họ phải thực hiện việc mở thầu. Những người mua do có khó khăn về mặt nghiệp vụ, kinh nghiệp trong lĩnh vực xây lắp nên thông qua đấu thầu để có thể lựa chọn được các nhà thầu thích hợp nhất và có các điều kiện giao dịch tối ưu nhất. Ngược lại với người mua đó, những người bán thường là những công ty xây dựng muốn giành được quyền thi công công trình để đem về lợi nhuận cho công ty, công ăn việc làm cho công nhân của họ. Các nhà thầu này tự do cạnh tranh với nhau để giành quyền thi công và kết quả của cuộc cạnh tranh đó là giá cả của công trình sẽ tiến gần lại với giá thị trường, điều này làm thoả mãn các chủ công trình. 2.1.2. Đấu thầu quốc tế tiến hành theo những điều kiện quy định trước. Mặc dù bản chất của đấu thầu quốc tế là tự do cạnh tranh, nhưng sự tự do đó đều được giới hạn. Các nhà thầu dù muốn giành ưu thế như thế nào thì cũng phải thực hiện theo những điều kiện mà bên mời thầu đã quy định trong hồ sơ mời thầu. Trong hồ sơ mời thầu đó, người chủ công trình nêu ra các điều kiện (điều kiện về kỹ thuật, điều kiện về tài chính...) ràng buộc rất chặt chẽ, buộc các nhà thầu phải tuân theo. Vì vậy, các nhà thầu muốn có hy vọng trúng thầu thì phải tuân thủ nghiêm ngặt các điều kiện đó, có khả năng thoả mãn tốt nhất các điều kiện đó. Tuy nhiên cũng có một số trường hợp nhà thầu có khả năng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trong hồ sơ mời thầu nhưng lại không tìm được đối tác liên doanh liên kết của nước sở tại theo quy định của nước sở tại nên đã không thắng thầu. Chính vì những lý do trên người ta nói trong đấu thầu, thị trường thuộc về phía mời thầu, họ vừa là “người chủ động” vừa là “người bị động” là như vậy. 2.1.3. Tính đặc biệt của đấu thầu quốc tế còn thể hiện trong việc xác định thời gian và địa điểm mở thầu và những vấn đề khác có liên quan. Thời gian mở thầu phải được quy định trước, thông thường nó được thực hiện sau khi thông báo mời thầu một số ngày nhất định. Khoảng thời gian này tuy được tính nhưng người ta phải tính toán sao cho hợp lý. Ngày giờ, địa điểm sẽ được xác định cụ thể trong hồ sơ mời thầu. Trên thực tế địa điểm mở thầu của phương thức đấu thầu quốc tế có thể không đặt tại nước có công trình được thi công mà đặt ở nước chủ đầu tư. Đây là đặc điểm đặc biệt của phương thức này. Khi mở thầu các nhà thầu thường phải có mặt nghe công bố tính hợp lệ của đơn chào và ký vào một biên bản đã được chuẩn bị trước. Bên mời thầu sẽ công bố công khai một số chỉ tiêu cơ bản của các bộ hồ sơ dự thầu. 2.1.4. Trong đấu thầu ngoài bên mời thầu, nhà thầu còn có sự hiện diện của bên thứ 3, nhà tư vấn. FIDIC, WB, ADB đều cho rằng “kỹ sư tư vấn” là người đảm bảo hạn chế tới mức tối đa các tiêu cực phát sinh, những thông đồng thoả hiệp làm cho chủ dự án bị thiệt hại, vì vậy, người kỹ sư tư vấn phải có trình độ, năng lực chuyên môn vững vàng để giúp chủ dự án giải quyết các vấn đề kỹ thuật với các nhà thầu. Dịch vụ tư vấn có thể xuất hiện trong các giai đoạn như: làm báo cáo trước khi đầu tư; chuẩn bị để xác định và thực hiện dự án; giám sát và quản lý dự án;... Tuỳ theo hạng mục công việc mà bên mời thầu thuê một hoặc một số loại hình dịch vụ thích hợp. Muốn thuê đúng loại hình dịch vụ bên mời thầu thường tìm đến các công ty tư vấn. Các thông tin về các công ty tư vấn các bên mời thầu có thể tìm được ở các tài liệu của ngân hàng về công ty tư vấn hoăc các nguồn khác có liên quan. 2.2. Hàng hoá trong đấu thầu quốc tế là hàng hoá hữu hình và vô hình, các mặt hàng có khối lượng lớn, quy cách phẩm chất phức tạp, giá trị cao. Những công trình được đem ra đấu thầu quốc tế thường là những công trình có giá trị rất lớn, như công trình nhà máy thuỷ điện Cao Ngạn (Thái Nguyên) với giá trị đầu tư là 400 tỷ đồng do Tổng công ty than Việt Nam quản lý, hay công trình thuỷ điện Na Dương (Lạng Sơn) với giá trị đầu tư là 705 tỷ đồng cũng do Tổng công ty than quản lý...Khi thực hiện những công trình lớn thì cả bên mời thầu và nhà thầu đều được lợi. Bên mời thầu được hưởng giảm giá, giảm các chi phí, tăng lợi nhuận do giá trị công trình cao, nhiều hạng mục, còn về phía các nhà thầu, sẽ giải quyết công ăn việc làm, thay đôỉ công nghệ, mở mang sản xuất,... Hàng hoá trong đấu thầu quốc tế không chỉ là những mặt hàng hữu hình mà còn bao gồm cả những mặt hàng vô hình như các bí quyết kỹ thuật, các dịch vụ tư vấn...Việc đánh giá phẩm chất những mặt hàng hữu hình người ta có thể căn cứ theo tiêu chuẩn, theo tài liệu kỹ thuật, nhưng để đánh giá các mặt hàng là điều vô cùng khó khăn. Ví dụ giá trị và chất lượng của các bí quyết kỹ thuật được đánh giá tuỳ thuộc vào những lợi ích mà các bí quyết đó đem lại. 2.3. Đấu thầu quốc tế được tiến hành trên cơ sở tự do cạnh tranh theo các quy định đã được nêu trong hồ sơ mời thầu. Các nhà thầu khi tham gia đấu thầu quốc tế sẽ tự do dùng hết khả năng của mình để có thể thoả mãn tối đa các điều kiện của hồ sơ mời thầu. Họ phải dùng chính những khả năng đó của họ để cạnh tranh với các nhà thầu khác, và người chiến thắng trong cuộc cạnh tranh đó là người mạnh nhất. Người có tiềm lực kinh tế, kỹ thuật, có uy tín sẽ là những người có lợi thế. Trong cuộc cạnh tranh đó, họ lợi dụng triệt để yếu tố cạnh tranh, nhưng cạnh tranh của các nhà thầu phải tuân thủ theo các điều kiện mà bên mời thầu quy định trước. Để ràng buộc các nhà thầu, bên mời thầu còn quy định số tiền đặt cọc dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng, số tiền này không phải là nhỏ đối với một số công ty ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Những quy định có tính hình thức về giấy tờ, văn bản, các nhà thầu cũng phải hết sức lưu ý. Đây cũng có thể là cơ sở để giảm bớt các công việc trong quy trình xét thầu, tiết kiệm được các chi phí không cần thiết. 2.4. Đấu thầu quốc tế bị ràng buộc về mặt pháp lý liên quan tới việc vay và sử dụng vốn. Các công trình trong đấu thầu quốc tế thường là những công trình lớn và được tài trợ bởi nhiều nguồn vốn trong đó lớn nhất là ODA. ODA là nguồn vốn mà các nước tư bản phát triển giành để tài trợ cho các nước nghèo trong việc phát triển kinh tế, dưới hình thức hoàn lại hay không hoàn lại. Mặc dù đó là khoản tiền viện trợ nhưng các nước được tài trợ cũng sẽ phải chịu nhiều điều kiện ràng buộc chặt chẽ. Ví dụ như nguồn vốn ODA của Nhật Bản cho các nước vay, trong đó có Việt Nam, phải trải qua một quá trình đàm phán ký kết hiệp định và thực thi rất phức tạp, có khi mất thời gian cả năm trời. Mặt khác sử dung các khoản tiền trên chúng ta phải thực hiện đấu thầu quốc tế theo các Hướng dẫn đấu thầu của OECF ban hành tháng 12/1997. III. Các hình thức đấu thầu cạnh tranh quốc tế trong xây lắp công trình. Xây dựng công trình là một công việc rất khó khăn và phức tạp. Vấn đề vay và sử dụng vốn đầu tư đều được ràng buộc bởi nhiều văn bản pháp lý có liên quan, đặc biệt là các Hiệp định đã ký kết. Chúng ta có thể phân loại đấu thầu cạnh tranh quốc tế trong xây lắp công trình theo các tiêu chuẩn sau: 1. Phân loại theo hình thức lựa chọn nhà thầu: 1.1. Đấu thầu rộng rãi (Open tender) Đây là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng các đơn vị dự thầu tham gia. Khi vay và sử dụng vốn của các ngân hàng, các nhà tài trợ, bên vay phải tạo cơ hội cạnh tranh công bằng cho các nhà thầu tiềm năng của các nước thành viên hợp lệ tham dự đấu thầu. Muốn vậy, các chủ đầu tư phải thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng và ghi rõ các điều kiện, thời gian dự thầu. Đồng thời các ngân hàng và các nhà tài trợ sẽ yêu cầu bên vay phải tuân thủ các quy định cuả họ khi quảng cáo, tiếp nhận, mở, đánh giá hồ sơ dự thầu và khuyến cáo trao hợp đồng... Thậm chí đôi khi họ còn kiểm soát việc thực hiện này của người đi vay. Ưu điểm của hình thức đấu thầu rộng rãi: có nhiều cơ hội lựa chọn các đơn vị dự thầu để có thể tìm được nhà thầu phù hợp nhất, đảm bảo sự cạnh tranh công bằng giữa các nhà thầu. Nhưng phương thức này cũng tồn tại một số hạn chế nhất định. Thông tin mời thầu có thể không đến được những nhà thầu tiềm năng nào đó trong khi phương thức chỉ định thầu sẽ đảm bảo được yếu tố này. Việc không hạn chế số lượng nhà thầu sẽ thu hút rất nhiều nhà thầu tham gia và mất nhiều thời gian xét thầu. Trong một số trường hợp nếu gắp nhà thầu mới, chỉ đánh giá qua hồ sơ dự thầu thì chưa khẳng định được năng lực và kinh nghiệm thực sự của nhà thầu và chủ đầu tư có thể gặp rủi ro. Để khắc phục các nhược điểm trên, bên mời thầu sẽ tiến hành sơ tuyển. Vì vậy, xuất hiện 2 loại hình đấu thầu: 1.1.1. Đấu thầu rộng rãi không sơ tuyển: chủ đầu tư sẽ tiến hành hình thức đấu thầu này khi những gói thầu không phức tạp về công nghệ và kỹ thuật. Đấu thầu rộng rãi không sơ tuyển sẽ có cả những nhà thầu có tiềm lực kinh tế nhưng lại không có khả năng kỹ thuật, hoặc ngược lại, hoặc không có cả hai, nếu chọn nhầm chủ đầu tư có thể gặp rủi ro do một số nhà thầu hạ giá quá mức. Trước khi trao hợp đồng phải hậu tuyển (post-qualification). 1.1.2.Đấu thầu rộng rãi có sơ tuyển: Hình thức này sẽ được sử dụng khi dự án phức tạp về công nghệ và về kỹ thuật. Việc áp dụng hình thức này sẽ giúp chủ đầu tư tiết kiệm được cả về tài chính và thời gian. Nó cũng giúp chủ đầu tư loại bỏ ngay hồ sơ của các nhà thầu không đủ năng lực. 1.2. Đấu thầu quốc tế hạn chế (Limited International Bidding) Bên mời thầu chỉ mời một số tối thiểu các đơn vị dự thầu có đủ năng lực dự thầu. Theo ADB đấu thầu hạn chế chỉ được sử dụng khi đấu thầu cạnh tranh quốc tế không có lợi. Hình thức này có một số ưu điểm sau: - Đảm bảo thông tin đến nhà thầu tiềm năng; - Tiết kiệm chi phí trong việc xét chọn các đơn dự thầu; - Tiết kiệm thời gian xét thầu. Tuy nhiên phương thức này cũng có một số hạn chế: Bỏ lỡ cơ hội tham gia của nhiều nhà thầu có năng lực mà bên mời thầu chưa biết đến hoặc chưa đánh giá chính xác về nhà thầu đó. Phương thức đấu thầu hạn chế thường được sử dụng rộng rãi và có thể được tiến hành qua các cách sau: + Đấu thầu hạn chế có sơ tuyển (Limited International Bidding with prequalification): Hình thức này được tiến hành bằng cách chọn một số nhà thầu vào danh sách thông qua sơ tuyển. Bên mời thầu sử dụng phương tiện quảng cáo, mời tất cả những nhà thầu có quan tâm tới đăng ký bằng thư quan tâm. Các nhà thầu tiềm năng nộp thư quan tâm kèm theo năng lực của công ty hoặc liên danh. Liên danh phải có cam kết liên danh. Chủ đầu tư lựa chọn các nhà thầu vào danh sách sơ tuyển bao gồm các nhà thầu đủ năng lực trong số tất cả các nhà thầu tham dự sơ tuyển. Để sơ tuyển, cần các thông tin sau: Tên các nhà thầu hoặc liên danh; Kinh nghiệm và các hoạt động trước đây của nhà thầu; Năng lực cán bộ, trang thiết bị thi công; Năng lực tài chính của các nhà thầu; Các cam kết về nhân sự và trang bị sẵn sàng cho việc thực hiện hợp đồng được đề nghị. Sau khi thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, Chủ đầu tư phát hành hồ sơ sơ tuyển đến tất cả các nhà thầu quan tâm. Sau khi nhân được các hồ sơ sơ tuyển, Chủ đầu tư đánh giá các hồ sơ của các đơn vị dự thầu để chọn vào danh sách sơ tuyển theo một bảng điểm đánh giá chi tiết được cấp có thẩm quyền phê duyệt (gọi là “danh sách các nhà thầu trúng sơ tuyển”). Bên mời thầu sẽ mời thầu các nhà thầu nằm trong danh các nhà thầu trúng sơ tuyển tham gia đấu thầu. + Đấu thầu hạn chế không không sơ tuyển (Limited International Bidding without prequalification): Phương thức này được tiến hành trên cơ sở bên mời thầu lập ra bản danh sách các đơn vị dự thầu không qua thủ tục sơ tuyển mà dựa vào sự hiểu biết về năng lực của các nhà thầu, dựa vào những kết quả thu được trong hợp đồng trước, dựa vào kết quả thăm dò những chủ đầu tư đã thực hiện các hợp đồng tương tự trước đó, dựa vào tổng kết từ các tạp chí chuyên môn, hoặc dựa vào sự chỉ dẫn của các cơ quan dịch vụ chuyên môn trong lĩnh vực này. 1.3. Chỉ định thầu: Đây là hình thức đặc biệt của phương thức đấu thầu. Chỉ định thầu là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu để thương thảo hợp đồng. Tức là bên mời thầu chỉ thương thảo hợp đồng với một nhà thầu do người có thẩm quyền quyết định, nếu không đạt được yêu cầu mới thương thảo với nhà thầu khác. Theo Liên hợp quốc hình thức chỉ định thầu được áp dụng trong các trường hợp sau: - Chỉ có một nhà thầu duy nhất. - Có nhu cầu cấp bách về hàng hóa. - Do thiên tai địch hoạ. - Mua hàng hoá thiết bị cho các dự án, công trình xây dựng cũ nếu mua của nhà thầu mới sẽ không có lợi. - Vì mục đích nghiên cứu, thử nghiệm... - Có liên quan đến quốc phòng an ninh. 2. Phương thức đấu thầu: 2.1. Đấu thầu cạnh tranh quốc tế một túi hồ sơ (one envelope): Khi sử dụng phương thức đấu thầu cạnh tranh quốc tế một túi hồ sơ, nhà thầu cần nộp hồ sơ dự thầu (bao gồm đề xuất về kỹ thuật, đề xuất về tài chính, giá bỏ thầu và những điều kiện khác) vào một túi hồ sơ chung dán kín và niêm phong. Khi mở thầu và đánh giá đơn chào, bên mời thầu sẽ xem xét cùng một lúc. Cách thức này đơn giản, không rườm rà, dễ thực hiện. Hầu hết các đấu thầu xây lắp và mua hàng hoá ở Việt Nam đều được tiến hành theo phương thức này. 2.2. Đấu thầu cạnh tranh quốc tế hai túi hồ sơ (two envelopes): Chỉ sử dụng cho đấu thầu tuyển chọn tư vấn. Khi dự thầu theo hình thức này, nhà thầu cần phải nộp đề xuất tài chính, đề xuất kỹ thuật trong hai túi hồ sơ khác nhau. Túi hồ sơ kỹ thuật sẽ được xem xét trước, và xếp hạng nhà thầu, nhà thầu nào có số điểm kỹ thuật cao nhất sẽ được bóc túi hồ sơ về tài chính. Nếu nhà thầu đó không đáp ứng được yêu cầu về tài chính và các điều kiện hợp đồng thì bên mời thầu sẽ bóc tiếp túi hồ sơ cuả nhà thầu tiếp theo sau. Cách làm như trên sẽ giúp bên mời thầu tiết kiệm được chi phí đánh giá so sánh các đơn chào. 2.3. Đấu thầu quốc tế hai giai đoạn (Two stage bidding): + Giai đoạn 1: Bên mời thầu sẽ mời những người có nhu cầu dự thầu nộp đề xuất kỹ thuật sơ bộ. Sau đó những nhà thầu này sẽ cùng với bên mời thầu thảo luận về vấn đề kỹ thuật nhằm thống nhất các yêu cầu và tiêu chuẩn kỹ thuật để các nhà thầu chính thức lập đề xuất kỹ thuật chi tiết của mình. + Giai đoạn 2: Dựa vào các yêu cầu và tiêu chuẩn kỹ thuật đã thống nhất trong giai đoạn 1, các nhà thầu mới chính thức nộp đề xuất kỹ thuật hoàn chỉnh và đề xuất tài chính. Phương thức này được sử dụng khi bên mời thầu không hiểu thấu đáo các yêu cầu kỹ thuật và công nghệ phức tạp của gói thầu. Giai đoạn 1 là để bên mời thầu có cơ hội những vấn đề kỹ thuật phức tạp thông qua các đề suất của các nhà thầu để hoàn chỉnh hồ sơ mời thầu. Phương thức này được sử dụng cho đấu thầu xây lắp và mua sắm hàng hoá. 2.4. Chào hàng cạnh tranh: Phươ._.ng thức này chỉ được áp dụng cho những gói thầu mua sắm hàng hoá có quy mô nhỏ, các yêu cầu về công nghệ, kỹ thuật đơn giản. Mỗi gói thầu phải có ít nhất 3 nhà thầu tham gia với 3 bản chào giá khác nhau trên cơ sở yêu cầu của bên mời thầu. Nhà thầu nào đáp ứng được yêu cầu và có giá bỏ thầu được đánh giá thấp nhất sẽ được xem xét trao hợp đồng. 2.5. Mua sắm trực tiếp: Phương thức này được áp dụng trong trường hợp người có thẩm quyền quyết định đầu tư cho phép đối với các loại vật tư thiết bị có nhu cầu gấp để hoàn thành dự án mà trước đó các loại vật tư thiết bị này đã được tiến hành đấu thầu và được người có thẩm quyền quyết định đầu tư cho phép thực hiện. 3. Loại hợp đồng: Có 3 loại hợp đồng: chìa khoá trao tay, trọn gói và có điều chỉnh giá. 3.1. Hợp đồng chìa khoá trao tay (turn key ): Hợp đồng bao gồm toàn bộ các công việc thiết kế, cung cấp thiết bị và xây lắp do một nhà thầu thực hiện. Chủ đầu tư có trách nhiệm giám sát, nghiệm thu và nhận bàn giao toàn bộ công trình theo hợp đồng đã kỹ. Ưu điểm của loại hợp đồng này là thuận tiện cho quản lý vì chỉ có một nhà thầu chịu trách nhiệm toàn bộ các khâu công việc. Nhược điểm của hợp đồng này là giá thành của công trình thường có thể cao hơn mức cần thiết. 3.2. Hợp đồng trọn gói (lumpsump): Là hợp đồng theo giá khoán gọn, được áp dụng cho những gói thầu xác định rõ khối lượng, yêu cầu kỹ thuật và thời gian thực hiện. Nhà thầu chỉ được thanh toán các khối lượng phát sinh nằm ngoài hợp đồng. Nếu khối lượng ước tính không chính xác, rủi ro có thể thuộc về chủ đầu tư hoặc nhà thầu. 3.3. Hợp đồng có điều chỉnh giá (unit price). Loại hợp đồng này được áp dụng đối với các gói thầu mà tại thời điểm mời thầu không thể xác định chính xác khối lượng và số lượng. Nhà thầu được thanh toán dựa vào khối luợng được nghiệm thu nhân với đơn giá chào thầu. Chỉ được tính trượt giá sau 12 tháng (theo ADB và Việt nam), sau 18 tháng (WB) kể từ ngày ký hợp đồng. Hình thức này thường được áp dụng phổ biến nhất trong các hợp đồng xây lắp công trình lớn. Theo đúng ý nghĩa của nó và gốc từ tiếng Anh (unit price) hợp đồng này là hợp đồng theo đơn giá. Trên đây là một số hình thức đấu thầu quốc tế thường được áp dụng. Ngoài ra, trên thực tế còn tồn tại rất nhiều hình thức đấu thầu khác như: đấu thầu quốc tế tuyển chọn nhà thầu trên cơ sở chất lượng, đấu thầu quốc tế tuyển chọn nhà thầu trên cơ sở một ngân sách cố định,... Tuỳ vào khối lượng công việc, tính chất công việc, tình hình thực tế, thị trường... mà chúng ta lựa chọn hình thức đấu thầu quốc tế phù hợp nhất. IV. Vai trò của đấu thầu cạnh tranh quốc tế trong xây lắp công trình: Đấu thầu cạnh tranh quốc tế ngày càng được áp dụng rộng rãi trong mua sắm, xây lắp và tư vấn. Đấu thầu sẽ đem lại hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cao, nên nó trở thành điều kiện thiết yếu để đảm bảo sự thành công cho các nhà đầu tư khi muốn mua sắm thiết bị, xây lắp công trình cho dù chủ đầu tư đó có thuộc thành phần kinh tế nào đi chăng nữa. Trên thị trường đấu thầu, nhà thầu thường tìm cách đạt được hợp đồng với giá cao, nhằm thu về khoản lợi nhuận tối đa có thể được. Ngược lại, chủ đầu tư với số tiền có hạn lại mong muốn thu được sản phẩm có chất lượng tốt nhất với giá cả hợp lý. Vì vậy, các bên tham gia thị trường đấu thầu đều tìm mọi cách để tối đa hoá lợi ích kinh tế của mình. đấu thầu đóng vai trò rất quan trọng trong mối quan hệ kinh tế quốc tế. 1. Vai trò của đấu thầu cạnh tranh quốc tế đối với bên mời thầu: Bên mời thầu thường là những đơn vị, cơ quan hành chính chưa am hiểu về thị trường, chưa có nhiều kinh nghiệm trong đấu thầu. Họ chưa nắm vững luật lệ, các tập quán buôn bán quốc tế điều chỉnh mối quan hệ mà họ tham gia, họ không nắm được những quy luật, những xu hướng biến động của quan hệ cung cầu và giá cả. Do vậy, họ sẽ phải lựa chọn hình thức đấu thầu để lựa chọn ra đối tác am hiểu những vấn đề đó, cung cấp cho họ mặt hàng họ có nhu cầu. Với họ thì phương thức đấu thầu là phương thức mua bán giao dịch có hiệu quả nhất. Vì thị trường đấu thầu là thị trường thuộc về phía họ, trên thị trường này chỉ có một người mua nhưng lại có nhiều người bán. Cho nên bên mời thầu nẵm chắc được nhu cầu. Điều đó cũng có nghĩa là họ nắm chắc được các vấn đề về chất lượng và giá cả. Và bằng phương thức này họ có thể thu hút được những hãng mạnh nhất đắp ứng nhu cầu của họ. Bên mời thầu cũng có thể sử dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn vốn vay theo cách của mình, bằng cách đưa vào hồ sơ mời thầu các quy định ràng buộc các bên tham gia. Ví dụ quy định về bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, cung cấp vốn, bao tiêu sản phẩm vv... Việc sử dụng đồng vốn có hiệu quả sẽ là một yếu tố thu hút các nguồn vốn đầu tư trong tương lai. Bởi vì đây chính là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư khi quyết định bỏ vốn đầu tư.Trong số các nhà tài trợ của Việt Nam hiện nay thì JBIC, WB, ADB chiếm tới 80% tổng số vốn ODA. Vì vậy Việt Nam cũng phải hết sức quan tâm tới lợi ích của các tổ chức này, tạo điều kiện thuận lợi cho họ để họ có thể đâu tư vào Việt Nam một cách có hiệu quả nhất đồng thời đem lại lợi ích lớn nhất cho Việt Nam. Mặc dù bên mời thầu muốn tối ưu hoá lợi ích kinh tế của mình nhưng giá chào thầu thấp nhất chưa chắc đã trúng thầu. Ngoài chỉ tiêu giá cả, người tổ chức đấu thầu còn phải xem xét đến rất nhiều chỉ tiêu khác (về kinh nghiệm, chất lượng, tiến độ, độ tin cậy theo thời gian, thời hạn sử dụng, thị trường và uy tín, năng lực tài chính của nhà thầu). Tuy nhiên phương thức đấu thầu đem lại không ít rủi ro cho người bên mời thầu như: + Do không am hiểu về thị trường, về lĩnh vực họ mời thầu mà các chủ đầu tư dễ bị các nhà thầu bắt chẹt, đưa ra nhiều yêu sách về tài chính, gây thiệt hại không nhỏ. Các nhà thầu có thể chào giá cao hơn giá thị trường, hoặc cung cấp những thiết bị hoặc vật liệu xây dựng kém phẩm chất... + Chất lượng của hồ sơ mời thầu cũng quyết định rất nhiều đến hiệu quả của việc sử dụng nguồn vốn đầu tư. vì vậy các chủ đầu tư cũng phải tốn không ít công sức và tiền của trong việc biên soạn hồ sơ mời thầu. + Việc đầu tư vào công trình lớn thường dựa vào vốn của một số tổ chức tài chính nên các chủ đầu tư cũng bị những ràng buộc nhất định trong quá trình lựa chọn nhà thầu. Dự án xây dựng đường 18 của Việt Nam được Đài Loan tài trợ. Việc chọn đơn vị trúng thầu không đúng theo ý của Đài Loan nên công trình không được xây dựng và cũng mất cả nguồn vốn đầu tư đó. Trong các công trình xây dựng được tài trợ bởi nguồn vốn của Nhật Bản thì các công ty thắng thầu thường là các công ty xây dựng của Nhật Bản. 2. Vai trò của đấu thầu cạnh tranh quốc tế đối với các nhà thầu: Đấu thầu cạnh tranh quốc tế đóng vai trò hết sức to lớn và quan trọng đối với các nhà thầu. Thứ nhất, khi thắng thầu trong một dự án tức là họ giành được cho mình một hợp đồng lớn do một gói thầu đấu thầu cạnh tranh quốc tế có giá trị cao, khối lượng lớn. Những hợp đồng này có khi lên tới hàng triệu, hàng trăm triệu USD. Điều này cũng có nghĩa là họ sẽ nâng cao doanh số và lợi nhuận cho công ty. Có được những hợp đồng cho mình uy tín của họ cũng tăng lên trong thị trường xây dựng, điều đó sẽ củng cố chỗ đứng của công ty đó. Một yếu tố không ít phần quan trọng trong quá trình xét thầu là danh tiếng của công ty và những dự án tương tự họ đã thực hiện. Cho nên khi nhận được công trình, uy tín của họ cũng tăng lên và tạo điều kiện thuận lợi cho những cuộc đấu thầu, những dự án sau này. Việc thắng thầu sẽ đẩy cổ phiếu của công ty lên giá, cũng làm tăng lợi nhuận cho công ty. Thứ hai, đấu thầu sẽ giải quyết một vấn đề hết sức nan giải của xã hội hiện nay, đó là công ăn việc làm cho công nhân. Hợp đồng lớn sẽ đem lại nhiều công ăn việc làm cho công nhân của họ. Có công ăn việc làm ổn định đời sống của công nhân cũng sẽ được cải thiện, trình độ tay nghề của người công nhân cũng tăng lên và đồng thời cũng làm tăng niềm tin của ban lãnh đạo công ty trong lòng công nhân của họ. Khi nhận được một hợp đồng lớn, nhà thầu cũng phải đáp ứng rất nhiều yêu cầu của chủ đầu tư trong đó bao gồm cả các yếu tố về công nghệ, kỹ thuật. Cho nên đây là một cơ hội lớn cho các nhà thầu tiếp cận với nền công nghệ hiện đại của thế giới. Chính những công ty đó phải đầu tư vào việc mua sẵm các thiết bị hiện đại, nhập về các công nghê tiên tiến của thế giới để đổi mới công nghệ đáp ứng yêu cầu của các chủ đầu tư. Điều này cũng nâng cao năng lực cạnh tranh của họ trên thị trường. Mặt khác, họ lại có cơ hội để cung cấp các dịch vụ kèm theo. Việt Nam quy định khi một công ty nước ngoài tham gia đấu thầu ở trong nước phải liên danh với một công ty của Việt Nam . Cho nên đấu thầu cũng đem lại cho các công ty trong nước cơ hội được học hỏi trình độ quản lý, trình độ kỹ thuật tiên tiến của thế giới, mở rộng sự hợp tác quốc tế. Thứ ba, dấu thầu cũng là cơ hội cho các nhà thầu mở rộng sản xuất, mở mang ngành nghề mới. Trong thực tế để đảm bảo thắng lợi trong đấu thầu quốc tế, các nhà thầu phải tìm kiếm tới sự trợ giúp từ phía bên ngoài, như tìm tổ chức tài chính để bảo lãnh việc thực hiện hợp đồng, tìm kiếm sự đảm bảo nguồn cung cấp vốn để xây dựng công trình, liên danh liên kết với đơn vị bạn... Trái lại, đấu thầu cũng gây rất nhiều hạn chế cho các nhà thầu. Điều đầu tiên các nhà thầu phải chịu những rắc rối phức tạp trong các khâu thủ tục. Việt Nam luôn bị các nhà thầu, các nhà đầu tư phản ánh vì thủ tục để xin giấy phép hoạt động rất mất thời gian, phức tạp. Hơn nữa, các nhà thầu cũng phải tập trung đủ điều kiện để dự thầu (điều kiện về tài chính, điều kiện về công nghệ kỹ thuật, dự án tương tự đã tham gia...). Hạn chế thứ hai là một số nước yêu cầu các nhà thầu phải có một tổ chức tài chính đứng ra bảo lãnh việc đảm bảo thực hiện dự án. Tổ chức tài chính đó cũng phải được chủ đầu tư đồng ý, nếu không cũng không đủ điều kiện thắng thầu.. Các công ty nước ngoài muốn tham gia dự thầu phải tìm một công ty trong nước để liên danh cùng thực hiện dự án. Việc tìm nhà thầu nước sở tại để hợp tác thực hiện dự án cũng gây không ít khó khăn cho các công ty nước ngoài. Họ phải tìm kiếm thông tin về các công ty của nước sở tại, tìm hiểu về tình hình hoạt động, năng lực kỹ thuật - tài chính, công nghệ của công ty đó. Nhiều lúc do không có đầy đủ thông tin, do đánh giá sai về các công ty đó mà trong quá trình thi công gây ra không ít khó khăn cho các nhà thầu, làm thất thoát về tài chính, chậm tiến độ thi công. Việc nhận được các công trình ở các nước khác cũng đem lại không ít khó khăn cho các nhà thầu do không am hiểu về luật pháp, về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế của nước đó. 3. Tác dụng của đấu thầu quốc tế đối với bên cho vay: Phần lớn các dự án xây dựng được thực hiện bằng vốn vay cho nên đấu thầu quốc tế cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đối với bên cho vay - cụ thể ở đây là các tổ chức tài chính, các ngân hàng. Đối với các ngân hàng, cho vay là một trong các hoạt động chính đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Lợi nhuận từ hoạt động cho vay thường chiếm tỷ lệ lớn trong các ngân hàng. Cho nên thông qua hoạt động đấu thầu quốc tế họ muốn nguồn vốn họ đầu tư phải được sử dụng có hiệu quả, không bị thất thu, không bị lãng phí và đem về cho họ lợi nhuận lớn. Việc tài trợ đầu tư cho các dự án xây dựng công trình lớn cũng làm tăng uy tín kinh doanh của họ trên thương trường. Nhờ đó họ sẽ thu hút được nhiều tiền gửi hơn, có nhiều vốn để đầu tư hơn và thu nhiều lợi nhuận hơn. Đối với Việt Nam, nguồn tài trợ của các tổ chức tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu á (ADB) cũng đóng góp một phần lớn trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mặt khác, bên cho vay cũng phải nắm rõ tiềm lực của bên vay, khả năng thanh toán, khả năng trả nợ để quyết định có nên cho vay hay không. Cho nên trong quá trình đấu thầu các tổ chức tài chính quốc tế, các ngân hàng cũng được tham gia giám sát một khâu nào đó (ví dụ như kiểm tra hồ sơ mời sơ tuyển, hồ sơ mời thầug và kết quả đánh giá sơ tuyển và đấu thầu ) và nhiều khi còn có quyền quyết định người thắng thầu thông qua việc đưa ra những điều kiện hóc búa cho các nhà thầu khác. Cho nên các tổ chức tài chính như Ngân hàng phát triển châu á, Ngân hàng Thế giới,... cũng đưa ra những tài liệu Hướng dẫn đấu thầu quốc tế, những quy định, quy chế tham gia đấu thầu để bên cho bên vay thực hiện. Ngoài ra, thông qua việc cho vay, các nước, các tổ chức tài chính quốc tế coi đó như là công cụ để khống chế các nước đi vay, hướng nước đó phát triển theo hướng của mình. 4. Tác dụng của đấu thầu cạnh tranh quốc tế đối với việc phát triển kinh tế, đặc biệt là công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam: Đấu thầu cạnh tranh quốc tế đóng vai trò rất to lớn trong việc phát triển kinh tế của hầu hết các nước. Với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá của Việt Nam, chúng ta càng không thể phủ nhận vai trò quan trọng của phương pháp đấu thầu đặc biệt này. Việt Nam thuộc nhóm các nước đang phát triển của thế giới. Chúng ta đi theo con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước từ điểm xuất phát rất thấp về kinh tế. Hậu quả nặng nề mà cuộc chiến tranh kéo dài để lại làm cho chúng ta gặp không ít khó khăn, trở ngại trong việc khôi phục kinh tế đất nước. Thiếu vốn luôn là yếu tố quan trọng và gây không ít đau đầu cho các nhà lãnh đạo của đất nước. Muốn sửa chữa, xây dựng bất kỳ dự án nào chúng ta cũng phải cần đến vốn. Mà vốn của ngân sách nhà nước chỉ đáp ứng phần nào cho các dự án. Cho nên phần lớn chúng ta phải dựa vào vốn vay của các tổ chức tài chính quốc tế, nguồn tài trợ của các nước phát triển mà chủ yếu là từ Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng phát triển châu á và Nhật Bản. Thông qua hoạt động đấu thầu quốc tế, chúng ta tận dụng được nguồn tài trợ từ các tổ chức tài chính quốc tế và đôi khi là từ chính các nhà thầu. Cũng chính nhờ phương thức đấu thầu cạnh tranh quốc tế mà chúng ta có thể sử dụng hiệu quả các nguồn vốn vay đó, kể cả việc sử dụng các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Nguồn vốn ảnh hưởng rất lớn tới tiến độ thi công công trình. Nếu có trục trặc gì trong việc cấp vốn thì ngay lập tức nó có thể làm chậm tiến độ thi công công trình. Vì vậy, thông qua đấu thầu cạnh tranh quốc tế, chúng ta có thể giảm được các rủi ro về tài chính, nhờ sự đảm bảo tài chính của các tổ chức tài chính quốc tế có uy tín. Tác dụng thứ hai phải kể đến của đấu thầu cạnh tranh quốc tế đối với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam là việc tiếp thu những công nghệ hiện đại và những kỹ thuật tiến tiến của thế giới thông qua công tác đấu thầu. Các nhà thầu nước ngoài đem đến cho các công ty Việt Nam cơ hội tiếp cận với nhiều kỹ thuật hiện đại thay thế các thiết bị máy móc cũ kỹ. Trong đó phải kể tới việc xây dựng các công trình thuỷ điện. Thiết bị máy móc phục vụ cho các công trinh thuỷ điện do phía nước ngoài cung cấp cho Việt Nam đều là mới và rất hiện đại. Các nhà lãnh đạo của các công ty bên phía Việt Nam nhờ công tác đấu thầu còn học hỏi được kinh nghiệm quản lý của các công ty nước ngoài. Khi thắng thầu một dự án, chúng ta có cơ hội vươn lên bằng cách thay đổi cải tiến kỹ thuật để đáp ứng các yêu cầu của chủ đầu tư đồng thời đó cũng là cơ hội cho các nhà thầu Việt Nam so sánh mình với thế giới. Khi tổ chức đấu thầu cạnh tranh quốc tế, thì quyền lựa chọn đơn vị thắng thầu cũng thuộc về chúng ta cho nên các công ty, các nhà kinh doanh trong nước có nhiều cơ hội thắng thầu hơn. Khi nhà thầu trong nước thắng thầu tức là chúng ta đã tiết kiệm được một lượng lớn ngoại tệ đáng ra phải trả cho nhà thầu nước ngoài thì chúng ta dùng nội tệ để trả cho các nhà thầu trong nước. Tương tự như vậy khi công ty trong nước trúng thầu ở nước ngoài thì chúng ta lại thu về một lượng ngoại tệ lớn. Chúng ta có thể thấy được phương thức đấu thầu cạnh tranh quốc tế đem lại rất nhiều tác dụng cho cả nhà đầu tư, cho các nhà thầu, cho các tổ chức tài chính quốc tế. Phương thức đấu thầu cạnh tranh quốc tế cũng mang lại rất nhiều tác dụng cho Việt Nam. Cho nên phương thức này ngày càng được áp dụng rộng rãi và phổ biến. V. quy trình đấu thầu quốc tế trong lĩnh vực xây lắp Hiện nay có rất nhiều các tài liệu hướng dẫn quy trình đấu thầu cạnh tranh quốc tế trong xây lắp. Thông qua các tài liệu đó các chủ đầu tư, các nhà thầu có thể nghiên cứu sâu về vấn đề này. Trong số đó thì ba bản tài liệu hướng dẫn đấu thầu quốc tế của FIDIC (Hiệp hội quốc tế các kỹ sư tư vấn), của Ngân hàng Thế giới (WB), của Ngân hàng phát triển châu á (ADB) là được đánh giá cao và được tham khảo, áp dụng nhiều nhất. Tuỳ vào loại hình đấu thầu, đối tượng đấu thầu và tổ chức tài chính cho vốn, luật pháp của nước sở tại mà quy trình đấu thầu quốc tế khác nhau. 1. Quy trình đấu thầu quốc tế trong lĩnh vực xây lắp của FIDIC-Hiệp hội quốc tế các kỹ sư tư vấn: Quy trình đấu thầu quốc tế trong xây lắp cuả Hiệp hội các kỹ sư tư vấn được xây dựng dựa vào sự tham khảo kinh nghiệm của các tổ chức quốc tế, cũng như kinh nghiệm của chính bản thân hiệp hội. Vì vậy nó được đánh gía là tương đối đầy đủ chính xác, và dễ sử dụng. Tuy nhiên, nó cũng chỉ coi là tài liệu tham khảo vì quá trình của hoạt động đấu thầu nhiều khi còn phụ thuộc vào pháp luật của nước sở tại, vào các quy định của các hiệp định vay vốn ký với nhà tài trợ... Theo phương pháp này chủ đầu tư hoặc chủ công trình thuê một đơn vị tư vấn chịu trách nhiệm lập dự án, thiết kế và soạn thảo các văn kiện đấu thầu giúp cho chủ đầu tư tổ chức việc đấu thầu và giám sát công thi công trình. Quy trình đấu thầu quốc tế trong lĩnh vực xâylắp của FIDIC gồm 12 bước được chia làm 3 giai đoạn: A- Giai đoạn sơ tuyển: Mục đích của giai đoạn sơ tuyển là lựa chọn các nhà thầu có đủ năng lực dự thầu. Danh sách các đơn vị trúng sơ tuyển chỉ nên hạn chế ở phạm vi 7 đơn vị trở xuống. Trong một số trường hợp, khi chủ công trình nắm vững được thông tin về các nhà thầu khả dĩ tham gia đấu thầu thì có thể đi tắt, bỏ qua giai đoạn sơ tuyển bước ngay sang giai đoạn 2, giai đoạn nhận đơn thầu. Trong giai đoạn sơ tuyển, có 3 bước. Bước 1: Mời các nhà thầu dự sơ tuyển: Bên mời thầu đưa các quảng cáo về việc dự sơ tuyển lên các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, ti vi, các đại sứ quán...) trong đó công bố các vấn đề sau: Bên mời thầu: nêu rõ chủ công trình và kỹ sư. Khái quát về dự án: Bên tài trợ; Tổng vốn tài trợ ; Quy mô dự án; Địa điểm triển khai dự án; Mục đích, yêu cầu của dự án. Ngày phát hành hồ sơ mời sơ tuyển và thời hạn nộp hồ sơ sơ tuyển. Chỉ dẫn lập hồ sơ năng lực dự sơ tuyển Ngày nhà thầu nộp hồ sơ năng lực dự sơ tuyển. Bước 2: Phát hành hồ sơ mời sơ tuyển và nộp hồ sơ dự sơ tuyển: Bên mời thầu phát hành hồ sơ mời sơ tuyển cho các đơn vị dự sơ tuyển. Nội dung hồ sơ sơ tuyển gồm: Sơ đồ tổ chức và cơ cấu cấu của nhà thầu. Kinh nghiệm đối với công trình tương tự đã thi công trong một số năm gần đây và hiểu biết của nhà thầu về đất nước nơi đặt công trình cần xây dựng. Nguồn lực về quản lý, kỹ thuật, lao động, nhà máy của nhà thầu. Tính trạng tài chính của nhà thầu. Sau khi xem các quảng cáo về dự sơ tuyển, các nhà thầu có quan tâm sẽ nhận hồ sơ mời sơ tuyển, lập hồ sơ sơ tuyển rồi nộp cho bên mời thầu. Sau khi nhận được các hồ sơ, bên mời thầu sẽ báo lại cho bên gửi biết là đã nhận được văn kiện.. Bước 3: phân tích các số liệu của các hồ sơ dự sơ tuyển, lựa chọn và thông báo danh sách các nhà thầu trúng sơ tuyển. Sau khi nhận được hồ sơ dự sơ tuyển bên mời thầu sẽ tiến hành phân tích các yếu tố sau: + Tổ chức và cơ cấu của chủ thầu + Kinh nghiệm đối với công trình tương tự về quy mô và tính chất. + Năng lực đội ngũ cán bộ và thiết bị thi công. + Năng lực tài chính + Kinh nghiệm ở vùng địa lý tương tự. Sau khi đánh giá, so sánh các hồ sơ dự sơ tuyển của tất cả các nhà thầu gửi tới, bên mời thầu sẽ lựa chọn và lên một danh sách các nhà thầu được chọn. Danh sách này được gửi tới từng nhà thầu đã được chọn. Sau khi nhận được thông báo danh sách sơ tuyển, các nhà thầu sẽ khẳng định là đã nhận được và khẳng định ý muốn nộp hồ sơ dự thầu cho bên mời thầu. Khi đó bên mời thầu được chọn tất cả các nhà thầu trúng sơ tuyển tham gia giai đoạn sau và kết thúc giai đoạn sơ tuyển. B- Giai đoạn nhận đơn thầu: Trong giai đoạn này, các đơn vị dự thầu nhận được hồ sơ mời thầu với các thông tin chi tiết, rõ ràng, có hệ thống về quy mô, khối lượng quy cách yêu cầu chất lượng, tiến độ, điều kiện thực hiện của công trình. Hồ sơ mời thầu này phải được bên mời thầu soạn thảo, trên cơ sở nghiên cứu tính toán cân nhắc thấu đáo để tiên liệu rất kỹ càng và chắc chắn mọi yếu tố có liên quan. Hồ sơ mời thầu này được gửi tới cho từng đơn vị dự thầu với hình thức và nội dung giống hệt nhau, tạo ra các điều kiện ngang bằng cho cạnh tranh giữa các đơn vị dự thầu. Giai đoạn nhận đơn thầu gồm 6 bước: Bước 4: Lập hồ sơ mời thầu: Bên mời thầu sẽ tiến hành soạn thảo bộ hồ sơ mời thầu gồm 3 phần chính sau: a. Phần thương mại (commercial part): + Thư mời thầu (letter of invitation). + Chỉ dẫn cho các đơn vị dự thầu (introduction to bidders). + Dữ liệu đấu thầu (bid data). + Mẫu đơn thầu và phụ lục. + Các điều kiện chung của hợp đồng (General conditions of contract). + Các điều kiện riêng của hợp đồng (Special conditions of contract). + Bản kê khối lượng (bill of quantity). + Lịch biểu các thông tin bổ sung. b. Các yêu cầu kỹ thuật (specifications): Do tư vấn lập. c. Các bản vẽ (drawings): Do tư vấn lập. Bước 5: Phát hành hồ sơ mời thầu Sau khi soạn thảo xong hồ sơ mời thầu, bên mời thầu phát hành hồ sơ mời thầu cho các đơn vị dự thầu có tên trong danh sách sơ tuyển, với điều kiện các đơn vị dự thầu phải nộp đơn xin mua hồ sơ mời thầu và thanh toán một khoản lệ phí không hoàn lại trị giá từ 50 đến 100 USD/1 bộ tuỳ theo Bên mời thầu ấn định (lệ phí này chỉ có tính chất biểu kiến để trang trải chi phí in ấn, thư tín và đảm bảo rằng chỉ có những nhà thầu quan tâm mới cần đến). Sau khi đã nhận được hồ sơ mời thầu, các đơn vị dự thầu báo lại đã nhận được cho bên mời thầu và bắt đầu tiến hành lập hồ sơ dự thầu. Bước 6: Các đơn vị dự thầu đi thực địa Nếu thấy cần biết rõ về địa điểm nơi đặt công trình, các đơn vị dự thầu có thể đề nghị bên mời thầu tổ chức đi thực địa. Bên mời thầu có trách nhiệm bố trí thời gian và cử người hướng dẫn các đơn vị dự thầu đi thực địa. Bước 7: Sửa đổi tài liệu đấu thầu Bên mời thầu có thể sửa đổi, bổ sung hồ sơ mời thầu. Sau khi chuẩn bị xong các sửa đổi, bổ sung, bên mời thầu gửi tới cho các đơn vị dự thầu tạo thành bộ hồ sơ mời thầu kèm theo sửa đổi, bổ sung. Khi nhận được thông báo này, các đơn vị dự thầu phải báo lại cho bên mời thầu biết. Bước 8: Giải quyết thắc mắc cho các đơn vị dự thầu Khi có thắc mắc về bộ hồ sơ mời thầu, các đơn vị dự thầu có thể nêu ra theo hai phương pháp sau: + Phương pháp 1: Gửi thư nêu các thắc mắc cho bên mời thầu trả lời. Bên nời thầu phải gửi văn bản giải đáp đó tới mọi đơn vị dự thầu (chứ không riêng đơn vị dự thầu có thắc mắc). + Phương pháp 2: tổ chức cuộc họp cho tất cả đơn vị dự thầu tham gia (được gọi là cuộc họp trước mở thầu), trong cuộc họp các đơn vị dự thầu sẽ đưa ra thắc mắc của mình dưới dạng văn bản. Sau khi nhận được thắc mắc bằng văn bản, bên mời thầu trả lời các thắc mắc đó và tiến hành một số lần họp với sự tham gia của tất cả các đơn vị dự thầu, cụ thể như sau: + Lần 1: Bên mời thầu thông báo cho các đơn vị dự thầu về các thắc mắc và trả lời bằng miệng. + Lần 2: Các đơn vị dự thầu nêu các thắc mắc bổ sung bằng văn bản. + Lần 3: Bên mời thầu trả lời các thắc mắc bổ sung bằng miệng. Sau đó, bên mời thầu tập hợp toàn bộ các thắc mắc, thắc mắc bổ sung và các câu trả lời thành văn bản gửi cho các đơn vị dự thầu. Sau khi nhận được văn bản này, các đơn vị dự thầu phải báo lại đã nhận được cho bên mời thầu. Bước 9: Nộp và nhận đơn thầu: Trước khi hết hạn nộp đơn thầu 3 ngày, bên mời thầu sẽ thông báo cho các đơn vị dự thầu chưa nộp hồ sơ dự thầu. Các đơn vị dự thầu nộp hồ sơ dự thầu kèm theo bảo lãnh đấu thầu do ngân hàng cấp (có giá trị từ 1-3% giá chào của đơn vị dự thầu - do bên mời thầu ấn định trong hồ sơ mời thầu). Bên mời thầu nhận và ghi rõ ngày giờ nhận hồ sơ dự thầu, sau đó tiến hành báo lại cho các đơn vị dự thầu nộp đơn đúng hạn và có trách nhiệm bảo quản các hồ sơ dự thầu đó cho tới khi mở thầu. Đối với các hồ sơ dự thầu nộp chậm, bên mời thầu sẽ gửi trả lại trong trạng thái nguyên dấu niêm phong. Sau khi nhận được hồ sơ dự thầu nộp chậm, đơn vị dự thầu phải báo cho bên mời thầu biết. C- Giai đoạn mở và đánh giá các hồ sơ dự thầu thầu. Trong giai đoạn này, bên mời thầu sẽ chọn ra đơn vị trúng thầu trên cơ sở đánh giá tất cả các hồ sơ dự thầu một cách không thiên vị theo cùng một chuẩn mực, được tiến hành bởi một tổ chuyên gia bên mời thầu quyết định. Giai đoạn này gồm 3 bước sau: Bước 10: Mở thầu Vào ngày giờ, địa điểm đã được xác định trước, bên mời thầu sẽ tiến hành lễ mở thầu. Lễ mở thầu thường được tiến hành công khai. Lễ mở thầu sẽ có sự tham dự của các đơn vị dự thầu hoặc đại diện của họ, đại diện các tổ chức quốc tế, chính phủ tài trợ dự án hoặc bảo trợ cho dự án. Tại mở thầu này, các hồ sơ dự thầu còn nguyên dấu niêm phong, bảo mật sẽ được công khai mở ra, tên công ty và giá thầu, bảo lãnh đấu thầu được đọc to lên cho mọi người nghe và ghi lại, còn các điểm khác trong hồ sơ dự thầu được giữ kín. Bước 11: Đánh giá đơn thầu: khi đánh giá từng hồ sơ dự thầu bên mời thầu tiến hành theo các tiêu chuẩn sau: + Kỹ thuật. + Điều kiện hợp đồng. + Năng lực tài chính. Trong quá trình đánh giá, nếu thấy có điểm chưa rõ, bên mời thầu sẽ đề nghị đơn vị dự thầu thuyết minh và làm rõ. Mọi trao đổi về việc làm rõ hồ sơ dự thầu giữa bên mời thầu và các đơn vị dự thầu đều phải thưc hiện bằng văn bản. Việc làm rõ chỉ thuyết minh thêm cho bên mời thầu hiểu đúng vấn đề bên mời thầu quan tâm, mà không được làm thay đổi nội dung của hồ sơ dự thầu. Sau đó, bên mời thầu đưa ra quyết định về đơn vị trúng thầu. Bước 12: Đàm phán và ký hợp đồng: Ngay sau khi chọn được người trúng thầu, bên mời thầu sẽ thông báo bằng văn bản cho đơn vị trúng thầu và yêu cầu họ nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng (thường có giá trị từ 10-30% giá trị hợp đồng - đã được xác định trong hồ sơ mời thầu - do một ngân hàng - được bên gọi thầu chấp nhận – cấp. Sau khi nhận được bảo lãnh thực hiện hợp đồng, hai bên tiến hành đàm phán và ký hợp đồng. Sau khi kí hợp đồng với đơn vị trúng thầu, bên mời thầu báo cho các nhà thầu không trúng thầu và gửi trả giấy bảo lãnh đấu thầu và bộ hồ sơ dự thầu (nếu có yêu cầu). Khi nhận được, các đơn vị dự thầu không trúng thầu phải báo lại cho bên mời thầu. 2. Quy trình đấu thầu cạnh tranh quốc tế trong xây lắp của WB: Khi một dự án được xây dựng bằng vốn vay của WB thì nó thường được thực hiện theo quy trình đấu thầu quốc tế mà tổ chức WB đã soạn thảo. Thông thường ngân hàng sẽ kiểm soát hồ sơ mời sơ tuyển, kết quả chọn sơ tuyển, hồ sơ mời thầu và kết quả xét thầu. Quy trình tổ chức đấu thầu cạnh tranh quốc tế trong xây lắp của WB rất cụ thể chặt chẽ. Quy trình đấu thầu quốc tế trong xây lắp của WB thường được thực hiện tương tự như của FIDIC. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức đấu thầu cạnh tranh quốc tế, WB thường kiểm soát (có nghĩa là WB có văn bản đồng tình ở khâu trước thì bên vay mới được tiến hành các khâu tiếp theo) các khâu sau: 1. Kế hoạch đấu thầu; 2. Hồ sơ mời sơ tuyển; 3. Kết quả đánh giá sơ tuyển.; 4. Hồ sơ mời thầu; 5. Kết quả đánh giá thầu; 6. Hợp đồng đã kỹ giữa bên mời thầu và đơn vị trúng thầu. 3. Quy trình đấu thầu cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực xây lắp của ADB: Giống như WB, ngân hàng ADB đưa ra hướng dẫn về đấu thầu cạnh tranh quốc tế cho các dự án sử dụng vốn vay của mình. Quy trình đấu thầu quốc tế trong xây lắp của ADB cũng rất ngắn gọn, cụ thể và chặt chẽ. Quy chế này giúp cho bên mời thầu lựa chọn chính xác nhà thầu có đủ năng lực và các điều kiện khác thực hiện hợp đồng. Vì vậy, quy trình đấu thầu này cũng giúp cho nguồn vốn vay được sử dụng có hiệu quả nhất. Quy trình đấu thầu quốc tế trong lĩnh vực xây lắp của ADB cũng tương tự của FIDIC và WB. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức đấu thầu cạnh tranh quốc tế, ADB thường kiểm soát (có nghĩa là ADB có văn bản đồng tình ở khâu trước thì bên vay mới được tiến hành các khâu tiếp theo) các khâu như của WB nêu ở mục trên. Đấu thầu quốc tế đã xuất hiện khá lâu trên thế giới. Cùng với thời gian, nó đã tự khẳng định những ưu việt của nó trong các phương thức giao dịch và ngày càng đóng vai trò quan trọng. Chính những ưu việt đó giúp cho đấu thầu quốc tế được áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực đặc biệt là xây lắp. Chính vì vậy phương thức này ngày càng cho ra đời nhiều hình thức khác nhau để phù hợp với tình hình thực tế hơn. Khi quyết định áp dụng hình thức đấu thầu quốc tế vào xây dựng công trình nào đó, chúng ta phải xem xét tới nguồn vốn tài trợ cho việc xây dựng công trình là của tổ chức, của nước nào để tuân thủ những quy định của họ và khai thác tối đa tác dụng của hình thức đấu thầu quốc tế. chương II Thực trạng đấu thầu quốc tế trong lĩnh vực xây lắp ở Việt Nam I. Tình hình đấu thầu quốc tế trong lĩnh vực xây dựng ở Việt Nam thời gian qua. Đối với các nước phát triển, phương thức đấu thầu đã xuất hiện từ rất lâu và được áp dụng rất phổ biến trong công việc kinh doanh. ở Việt Nam và các nước đang phát triển, phương thức đấu thầu mới được hình thành và phát triển mạnh trong một số năm gần đây. Năm 1994, WB và ADB bắt đầu ký các hiệp định cho nhà nước ta vay vốn để đầu tư xây dựng, khôi phục và nâng cấp các công trình cơ sở hạ tầng. Các hiệp định vay vốn đều bắt buộc việc lựa chọn nhà thầu phải thông qua đấu thầu bằng quy chế của bên cho vay. Kể đó, Quy chế đấu thầu của nhà nước mới được ban hành và phát triển theo sự hình thành và phát triển của công tác đấu thầu. Kể từ đó tới nay, đấu thầu đã trở thành bắt buộc thực hiện trong mọi lĩnh vực trên địa bàn cả nước, không phân biệt nguồn vốn. Nó đã trở thành công cũ gần gũi và hữu ích đối với bất kể đơn vị nào có tiền mà muốn mua hàng hoá, tư vấn hoặc xây lắp. 1. Tình hình đấu thầu quốc tế trong lĩnh vực xây dựng ở Việt Nam trước năm 1986: Trước năm 1986, Việt Nam luôn ở trong tình trang hết sức khó khăn về mọi mặt. Chiến tranh đi qua để lại sự tàn phá nặng n._.iệc phải liên doanh liên kết với nhà thầu Việt Nam và các điều kiện khác, thì cũng cần phải có chính sách khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà thầu nước ngoài có uy tín trên thế giới (thường xuyên trúng thầu các công trình có yêu cầu kỹ thuật cao, công nghệ mới) nếu các hãng thầu này có ý định hoặt động lâu dài và có giấy phép thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam. 2.1.6. Nhà nước nên xác định giá trần, giá sàn để chống tình trạng bỏ giá thầu thấp trong đấu thầu. Trong thời gian qua, ở Việt Nam rất hạn chế về biện pháp đấu thầu toàn bộ, nhưng lại phổ biến hình thức đấu thầu chia lẻ theo giai đoạn, hay theo hạng mục công trình. Trong đó đấu thầu thi công xây lắp được áp dụng rộng rãi hơn. Tuy nhiên với cách đang làm trong đấu thầu thi công xây lắp từ nội dung đến hình thức mang tính đấu giá hơn là đấu thầu. Bởi vì chủ đầu tư tổ chức đấu thầu xây lắp khi đã có sẵn về vị trí xây dựng, đã có thiết kế kỹ thuật và đặc biệt là đã có tổng dự toán hay dự toán được duyệt, giá gói thầu cũng đã được duyệt là tài liệu bí mật khi đưa ra đấu thầu. Công việc của nhà thầu chỉ còn là xác định giá bỏ thầu thấp hơn giá gói thầu được duyệt là có cơ hội được xem xét trúng thầu. Nhà thầu bỏ giá bằng 34,3% so với giá gói thầu được duyệt của gói thầu 2A Hầm Hải Vân đã trúng thầu... Bỏ giá thầu thấp để trúng thầu đang bị lên án là sự phá giá, làm giảm chất lượng công trình. Nhiều ý kiến cho rằng cần xác định giá trần, giá sàn để xét thầu. Nhiều nhà thầu đã chấp nhận thua lỗ trong việc bỏ giá thầu thấp nhằm có công ăn việc làm cho công nhân mà không nhìn hậu quả sau khi thực hiện xong dự án: phá sản. Tuy nhiên có những nhà thầu không bao giờ bị thua lỗ. Một số nhà thầu hiện nay đã khai thác được một số yếu tố có lợi từ trong quy chế đấu thầu: như Hợp đồng điều chỉnh giá. Cho nên trên thực tế giá quyết toán đầu tư xây dựng tăng lên nhiều lần so với giá trúng thầu ban đầu là chuyện ngày càng phổ biến. Điều này làm biến dạng tính tích cực của đấu thầu và trở nên hình thức vì hiệu quả thấp vì không có sự công bằng và cạnh tranh 2.1.7. Nhà nước hỗ trợ công tác đấu thầu quốc tế. Trong tình hình hiện nay, khi phải đương đầu với các nhà thầu nước ngoài trong cuộc cạnh tranh bình đẳng- đấu thầu quốc tế thì với nội lực của mình, các doanh nghiệp Việt Nam luôn thua kém và không thể nào dành phần thắng về mình. Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam rất cần tới sự hỗ trợ rất lớn của nhà nước để có thể thắng thầu trong những cuộc đấu thầu quốc tế. Nhà nước nên thực hiện các biện pháp sau để phần nào hỗ trợ các doanh nghiệp của mình: + Hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước có đủ khả năng tham gia đấu thầu quốc tế. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay hầu hết quy mô đều rất nhỏ, nguồn tài chính hạn hẹp, nguồn nhân lực không được dồi dào và đặc biệt là trình độ kỹ thuật, công nghệ trong các doanh nghiệp Việt Nam rất lạc hậu. Vì thế nhà nước nên thành lập các tổng công ty mạnh cả về tài chính, nhân lực và kỹ thuật thì mới có được nhiều cơ hội hơn để tham gia và thắng trong các cuộc đấu thầu quốc tế. Trên thực tế các doanh nghiệp Việt Nam rất khó khăn trong việc xin bảo lãnh dự thầu, một điều kiện không thể thiếu khi tham gia vào đấu thầu quốc tế vì số vốn pháp định của doanh nghiệp quá nhỏ. Hơn nữa với nhiều doanh nghiệp Việt Nam thì việc lo khoản tiền đặt cọc dự thầu (từ 1 đến 5% giá trị công trình) không phải là điều dễ dàng. Cho nên chúng ta khó có thể tham gia và thắng thầu trong các công trình, dự án lớn, lợi nhuận vì thế cũng mất đi rất nhiều. Vì vậy, muốn tăng khả năng dự thầu của các doanh nghiệp Việt Nam trong các cuộc đấu thầu quốc tế quy mô lớn, chúng ta cần cải tổ lại hệ thống ngân hàng và các doanh nghiệp. Nhà nước cũng nên hỗ trợ họ có thể đứng vững trên thị trường xây dựng canh tranh khốc liệt hiện nay. Thực tế hiện nay cũng đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải sát nhập thành những tập đoàn lớn mạnh. Họ dựa vào nhau. Doanh nghiệp này có lợi thế về vốn trong khi đó doanh nghiệp khác lại có lợi thế về nhân công hay kỹ thuật công nghệ hiện đại. + Các chế độ ưu đãi. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay rất cần tới các chế độ ưu đãi của nhà nước cho mình trong việc nhập các thiết bị máy móc hiện đại. Do công nghệ kỹ thuật trong các doanh nghiệp Việt Nam đã quá cũ kỹ lạc hậu cho nên việc thay đổi trang thiết bị là điều vô cùng cần thiết để có thể thắng thầu. Nhà nước nên có chế độ ưu đãi cho các doanh nghiệp khi nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại đồng thời cho ra đời các công ty cho thuê tài chính. Trong quy chế đấu thầu hiện nay nhà nước cũng đã có những quy định ưu đãi cho các doanh nghiệp trong nước tham gia đấu thầu quốc tế cũng như ưu đãi về liên doanh liên kết với nhà thầu trong nước khi một nhà thầu nước ngoài trúng thầu. Thế nhưng để quy định này không mang tính hình thức nhà nước nên kiểm tra chặt chẽ hơn hợp đồng liên doanhliên kết và xử lý thích đáng khi các nhà thầu vi phạm các điều kiện này, để ra mức phạt cao đối với các vi phạm Tuy nhiên với bất kỳ một chế độ ưu đãi nào mà nhà nước muốn dành cho các doanh nghiệp của mình thì nhà nước cũng phải đảm bảo được tính cạnh tranh công bằng. Nếu không chúng ta sẽ không thu được kết quả mong muồn từ phương thức đấu thầu quốc tế. + Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp. Có thể rút ra sau 8 năm thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp của ngành Xây dựng Việt Nam là rất chậm. Sau 8 năm đó chỉ có 16 doanh nghiệp Việt Nam được cổ phần hoá với tổng giá trị là 369,6 tỷ đồng (một con số quá khiêm tốn) trong đó vốn nhà nước là 75,87 tỷ đồng. Như vậy trung bình mỗi năm bộ Xây dựng chỉ cổ phần hoá được 2 doanh nghiệp con số quá nhỏ so với những ngành khác. Lý do của việc cổ phần hoá các doanh nghiệp trong ngành xây dựng quá chậm này là do có nhiều rào cản khó vượt qua trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp; do sự thiếu đôn đốc, thiếu kiên quyết, thiếu sự nhiệt tình của ban lãnh đạo doanh nghiệp; do chính sách cổ phần hóa còn nhiều bất cập; chưa phối hợp chặt chẽ giữa các vụ thuộc Bộ và các Tổng công ty để giải quyết khó khăn về tài chính, lao động; lao động chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của cổ phần hoá... Vì vậy, quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp muốn được thực hiện nhanh cần phải có sự quan tâm của các quan chức nhà nước. Bộ xây dựng nên giao chỉ tiêu và tiến độ cổ phần hóa cho từng tổng công ty trực thuộc Bộ, coi cổ phần hóa như là một trong cách chỉ tiêu xét thưởng thi đua hàng năm của các doanh nghiệp. Bộ cũng nên chỉ đạo các giám đốc doanh nghiệp thường xuyên tự định giá giá trị doanh nghiệp vì đây là một nguyên nhân quan trọng gây ra sự trì trệ trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp. Đồng thời nhà nước cũng nên hoàn thiện hệ thống thể chế khắc phục khó khăn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia vào quá trình cổ phần hóa. Nhà nước cũng không nên không chế mua cổ phần ưu đãi của người lao động trong doanh nghiệp. 2.1.7. Cải tiến kỹ thuật đấu thầu quốc tế Đấu thầu quốc tế đã xuất hiện và được áp dùng ở Việt Nam trong mấy năm vừa qua. Tuy nhiên vẫn còn nhiều chỗ chưa được hoàn chỉnh. Nhà nước nên cải tiến kỹ thuật đấu thầu quốc tế, một mặt sẽ thu hút được nhiều hơn nữa các cuộc đấu thầu quốc tế được tổ chức ở Việt Nam, mặt khác nó cũng làm tăng thêm tính cạnh tranh công bằng vốn có của phương thức này. Mặt hạn chế lớn nhất về kỹ thuật đấu thầu ở Việt Nam hiện nay là tình trạng sử dụng phổ biến đấu thầu một phong bì. Phương án kỹ thuật và phương án tài chính đều được đặt trong cùng một túi hồ sơ dự thầu vì vậy buộc chủ đầu tư khi mở thầu phải đánh giá lần lượt từng túi hồ sơ. Điều này đỏi hỏi nhiều thời gian và công sức, chi phí. Trong khi đó đấu thầu hai túi hồ sơ được phổ biến rộng rãi trên thế giới đặc biệt là ở những nước phát triển. Tuỳ từng điều kiện cụ thể của từng cuộc đấu thầu quốc tế (điều kiện về quy mô dự án, tính chất phức tạp về mặt kỹ thuật và công nghệ...) mà chúng ta nên chọn lựa hình thức đấu thầu một túi hồ sơ hay đấu thầu hai túi hồ sơ cho phù hợp, tiết kiệm được chi phí, công sức và thời gian của cuộc đấu thầu nhưng cũng phải đảm bảo được sự lựa chọn đúng đắn nhà cung cấp thích hợp. Đối với những dự án lớn, những hạng mục công trình quy mô, chúng ta nên chia nhỏ dự án ra thành nhiều hạng mục nhỏ hơn để tiến hành đấu thầu quốc tế. Sự chia nhỏ dự án này một phần giúp cho chủ đầu tư bóc tách công việc chính xác từ đó dẫn đến việc tính toán, lập dự toán sát với thực tế hơn, tiết kiệm được một lượng chi phí lớn so với việc “xây dựng trọn gói” một loạt giá gộp. Ngoài ra, với điều kiện các doanh nghiệp của chúng ta rất bị hạn chế về vốn nên sự chia nhỏ dự án cũng làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam có đủ lực để tham gia vào đấu thầu quốc tế. 2.1.8. Hoàn thiện quy trình đấu thầu quốc tế. Quá trình đầu tư gồm rất nhiều công đoạn như khảo sát, thiết kế, đấu thầu, thi công nghiệm thu. Đấu thầu là một khâu trong cả một quá trình đầu tư. Vì vậy quy trình thực hiện đấu thầu quốc tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch đầu tư của chủ đầu tư. Muốn kết quả đầu tư tốt, nhà nước cũng nên cải tiến hoàn thiện những khâu công việc cụ thể sao cho sát với thực tế, không trì trệ tốn thời gian. Nhà nước nên xây dựng cho mỗi đối tượng đấu thầu một quy trình đấu thầu quốc tế riêng biệt, đấu thầu quốc tế trong lĩnh vực xây lắp cũng cần có một quy trình đấu thầu riêng. Trong tương lai, các nhà tài trợ quốc tế lớn như WB, ADB... vẫn có xu hướng đầu tư lớn trong lĩnh vực xây lắp của Việt Nam. Cho nên việc hoàn thiện quy trình đấu thầu quốc tế trong lĩnh vực xây lắp ở Việt Nam ngoài điều kiện là phải sát với tình hình thực tế còn phải phù hợp với quy trình của các tổ chức này. Chủ đầu tư nên xây dựng đơn dự thầu, tài liệu đấu thầu quốc tế dựa trên sự tham khảo của nhiều nguồn thông tin trong và ngoài nước, khảo sát thực tế một cách kỹ lưỡng. Từ đó mới đề ra phương án thi công và quyết định giá mời thầu của công trình. Việc xây dựng giá cũng phải tham khảo từ nhiều nguồn thông tin trong và ngoài nước. Việc nắm chắc các quy định về các loại thuế, các chi phí liên quan tới qua trình tổ chức đấu thầu cũng là rất cần thiết trong việc tính toán chính xác giá cả. Để công khai trong đấu thầu, rất cần thiết có công báo đấu thầu; tiêu chuẩn đánh giá thầu và mẫu hợp đồng chi tiết phải có trong hồ sơ mời thầu; xác định vị trí các nhà tư vấn giám sát trong đấu thầu và thực hiện hợp đồng đấu thầu và chủ đầu tư phải có bảo lãnh thanh toán. Những điều này sẽ khắc phục được tính hành chính của quá trình lập dự án, đấu thầu và triển khai dự án như hiện nay. Tính hành chính đó đã làm cho đấu thầu vẫn chạy thầu, và nhà thầu bị rơi vào tình thế “vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm”, đến mức trúng thầu mà cũng không vui vẻ gì. 2.1.9. Xây dựng trung tâm đào tạo cán bộ làm công tác đấu thầu Trước sự gia tăng của hình thức đấu thầu quốc tế, trước những đỏi hỏi của tình hình thực tế, thời gian vừa qua các Bộ, Ngành và địa phương đã tổ chức nhiều cuộc tập huấn về đấu thầu, trong đó phải kể đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Trong năm 1999 Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức khoảng 30 lớp tập huấn đấu thầu cho 3000 lượt người với nguồn tài trợ của nhà nước và các tổ chức tài chính quốc tế. Gần đây nhất, tháng 5 năm 2001 Bộ Kế hoạch và Đầu tư dưới sự giúp đỡ của ngân hàng thế giới đã tổ chức một cuộc tập huấn đào tạo giảng viên về đấu thầu. Cuộc tập huấn đã đào tạo được nhiều chuyên viên có kiến thức vững vàng về đấu thầu, để có thể đào tạo thêm các kỹ sư đấu thầu khác. Tuy nhiên chỉ những cuộc tập huấn về đấu thầu thôi thì không đủ. Chúng ta nên có sự đào tạo chính quy về đấu thầu, có các kỹ sư đấu thầu chuyên nghiệp. Vì thế nhà nước nên thành lập một trung tâm đào tạo đủ mạnh để trang bị thêm kiến thức về đấu thầu. Nhà nước nên tổng kết hoạt động đấu thầu trong thời gian vừa qua để có thể đưa ra những mặt đã làm được và những mặt hạn chế cần rút kinh nghiệm. Đồng thời cũng nên tham khảo một số mô hình đấu thầu của các nước khác, những gì hay, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam thì chúng ta nên áp dụng. 2.1.10.Xây dựng hệ thống cung cấp thông tin Thông tin chưa đầy đủ là một nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện chưa tốt công tác đấu thầu quốc tế ở Việt Nam. Do chưa am hiểu kỹ về các nhà cung cấp nên chúng ta chưa chọn đượcnhà cung cấp phù hợp nhất cho dự án của mình thường gây lãng phí. Hơn nữa, nếu am hiểu rõ về các nhà thầu tham gia dự thầu thì chủ đầu tư có thể bỏ bớt thủ tục sơ tuyển, làm nhẹ bớt quy trình đấu thầu quốc tế. Khi có đầy đủ thông tin về thị trường giá cả, chúng ta có thể đưa ra giá trong hồ sơ mời thầu chính xác hơn, tránh được sự lãng phí nguồn vốn đầu tư cũng như chất lượng công trình kém. Vì vậy nhà nước nên xây dựng một viên nghiên cứu và thu thập thông tin bởi những chuyên gia giỏi. Viện nghiên cứu thông tin này sẽ cung cấp cho các công ty, các tổ chức những thông tin trước khi quyết định đầu tư, tham gia đấu thầu quốc tế hoặc mở cuộc đấu thầu quốc tế. Để thực hiện tốt mục tiêu cạnh tranh công khai và bình đẳng trong hoạt động đấu thầu, nhà nước cũng cần thiết lập một trang chủ trên mạng Internet hoặc một tờ báo công khai dành riêng cho hoạt động đấu thầu. Tại đó thông tin về các gói thầu, thời gian tổ chưc, số lượng nhà thầu tham gia... cùng những nhà thầu đã bị phạt vì vi phạm hợp đồng sẽ được công khai. Như vậy môi trường của hoạt động đấu thầu sẽ được lành mạnh hoá. Hiện nay, sở xây dựng thành phố Hồ Chí Minh đang cho xây dựng một Website của sở trong đó có đầy đủ thông tin liên quan đến xây dựng ( về lĩnh vực quản lý kinh tế xây dựng, quản lý chất lượng công trình, xây dựng chương trình kết nối thông tin với các Quận huyện, về vần đề đấu thầu quốc tế trong lĩnh vực xây dựng,...).Chi phí xây dựng Website này lên tới 260 triệu đồng trong đó chi phí xây dựng trang Website và các chương trình hỗ trợ là 125 triệu, chi phí nâng cấp và mua mới trang thiết bị cho mạng nội bộ là 95 triệu đồng, chi phí mua Server đặt trên mạng City Web là 40 triệu đồng. 2.2. Trên phương diện nhà thầu 2.2.1. Nghiên cứu kỹ HSMT Hồ sơ mời thầu là tài liệu quan trọng cho các nhà thầu xây dựng hồ sơ dự thầu của họ. Cho nên việc nghiên cứu hồ sơ mời thầu là cần thiết. Hồ sơ mời thầu là cơ sở đưa ra các tiêu chuẩn mà họ cần đánh giá lại qua tình hình thị trường giá cả, tình hình thực tế sau khi thăm mặt bằng công trình, các thông tin về đối thủ cạnh tranh... Hồ sơ mời thầu còn giúp nhà thầu xây dựng được các phương án thi công, thời gian thi công, phương án về giá... Trên thực tế các nhà thầu nên xây dựng, chuẩn bị nhiều phương án dự thầu với các mức lợi nhuận khác nhau. Tuy theo tình hình thực tế sau này để quyết định chọn phương án nào tham gia. Trong khi nghiên cứu hồ sơ mời thầu, nhà thầu cũng cần nghiên cứu kỹ những hạng mục có thể gây thêm các chi phí phát sinh và tính thêm các chi phí đó vào giá dự thầu. Không có công trình xây dựng nào lại không có chi phí phát sinh. Nhưng nghiên cứu kỹ nó nhà thầu sẽ hạn chế được, và tránh cho thua lỗ sau khi thực hiện công trình. 2.2.2. Xây dựng giá dự thầu hợp lý, hấp dẫn. Doanh nghiệp muốn nâng cao tố chất doanh nghiệp, một mặt phải tăng cường hạch toán giá thành, hiểu thật rõ giá thành của mình. Chỉ có như vậy, doanh nghiệp mới có thể cân nhắc kỹ lưỡng khi báo giá thầu, không báo giá bừa bãi tuỳ tiện. Mặt khác, phải cải thiện mặt quản lý và kỹ thuật, nâng cao hiệu quả, hạ thấp giá thành, mở rộng không gian giảm giá của doanh nghiệp nhằm thích ứng với tình hình cạnh tranh giá cả khốc liệt. Cũng chỉ như vậy doanh nghiệp mới có đông cơ phát triển, Nhà thầu cần tính toán chi phí hợp lý sát với thực tế. Nhà thầu có chiến lược nhằm mục tiêu nào đó. Nhà thầu tính toán rất chặt chẽ nếu đặt ra mục tiêu lợi nhuận xác định. Có nhà thầu chỉ cần đến giải quyết công ăn việc làm mà không tính lãi, có nhà thầu lại đặt mục tiêu là danh tiếng và chỗ đứng trên thị trường mà chấp nhận lỗ, tuy nhiên chất lượng gói thầu vẫn phải được đảm bảo. Tuy nhiên xây dựng một mức giá hợp lý là việc các nhà thâu phải đảm bảo được các yếu tố sau khi xây dựng giá: Tính hấp dẫn (giá bỏ thầu phải thấp hơn đối thủ cạnh tranh). Bù đắp được các chi phí có liên quan. Phải có mức lãi thoả đáng. 2.2.3. Cần chọn hợp đồng điều chỉnh giá khi chất lượng hồ sơ mời thầu chưa đảm bảo tin cậy. Giá gói thầu và sự lựa chọn hình thức đấu thầu rất quan trọng. Nó liên quan chặt chẽ đến chất lượng hồ sơ mời thầu, cũng như phương thức thanh quyết toán giữa chủ đầu tư và nhà thầu trong dự án đầu tư. Thực tế trong những năm qua cho thấy, do nhận thức và vận dụng chưa đúng vấn đề nên đã gây ra nhiều hậu quả như hiện tượng bỏ giá thầu khác biệt quá nhiều với giá gói thầu, quá trình thanh quyết toán bị ách tắc vì thường xảy ra tranh chấp giữa các bên ký hợp đồng, giữa các bên với kết luận thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước. Chất lượng hồ sơ mời thầu chưa đảm bảo độ tin cậy, lỗi này chủ yếu là do tổ chức tư vấn giúp chủ đầu tư khảo sát, thiết kế và lập hồ sơ mời thầu. Vì là bước thiết kế cuối cùng, nhưng vẫn chưa đảm bảo độ tin cậy về tiên lượng, dự toán, thì cần lựa chọn hình thức ‘Hợp đồng điều chỉnh giá”. 2.2.5. Liên doanh, liên kết. Khi nhà thầu nhận được một gói thầu có giá trị lớn, yêu cầu về kỹ thuật công nghệ hiện đại vượt quá khả năng của họ. Lúc này là lúc thích hợp họ nên tìm kiếm sự liên doanh liên kết với nhà thầu khác có thể đáp ứng được những vấn đề mà họ không đảm đương được. Các nhà thầu nên xây dựng một mối liên danh, liên kết trong đấu thầu vì cách này không làm phát sinh một pháp nhân mới, các bên vẫn giữ được tính độc lập của mình. Sau khi dự án hoàn thành họ có thể giải thể một cách đơn giản chứ không phức tạp như hình thức liên doanh. Hình thức liên danh, liên kết này cũng có thể thực hiện đối với các thành viên trong cùng một tổng công ty hoặc một hãng. Khi liên kết các nhà thầu cần chú ý trong việc ký kết một hợp đồng liên danh liên kết với đầy đủ nội dung về quyền hạn và nghĩa vụ của các bên. Đây cũng chính là cơ sở để xác định tư cách nhà thầu. Việc tìm đối tác để liên danh, liên kết không phải là công việc đơn giản. Thực tế nhà thầu đó phải tìm hiểu kỹ về đối tác của mình, về trình độ công nghệ , về tình hình tài chính, nguồn nhân lực... Có như vậy mới đảm bảo sự thành công của quá trình liên danh liên kết và hoàn thành dự án đúng tiến độ và chất lượng. 2.2.6. Trang bị công nghệ, thiết bị hiện đại Việc trang bị công nghệ thiết bị hiện đại là vô cùng cần thiết đối với các doanh nghiệp Việt Nam vì hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều có thiết bị lạc hậu, không đủ khả năng tham gia và thắng thầu đặc biệt trong các cuộc đấu thầu quốc tế. Có nhiều công trình có quy mô lớn mà Việt Nam đã để tuột mất do không có đủ điều kiện kỹ thuật hiện đại công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên nếu bỏ tiền ra mua máy móc thiết bị mà lại sử dụng được trong một vài công trình thì lại là lãng phí, trong khi các nhà thầu Việt Nam lại rất bị hạn chế về vốn. Vì vậy cách tốt nhất để giải quyết trước mắt vấn đề công nghệ ở Việt Nam hiện nay là các doanh nghiệp nên sử dụng hình thức thuê mua. 2.2.7. Đào tạo đội ngũ cán bộ có liên quan đến công tác đấu thầu. Cần thiết lập và đào tạo một đội ngũ kỹ sư chuyên nghiệp, đội ngũ này ngoài việc chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, còn phải có đạo đức trong sáng trung thực. Việc đào tạo này là vô cùng cần thiết đối với nhà thầu. nếu có những kỹ sư giỏi họ không cần phải thuê chuyên gia, tư vấn nước ngoài. Nhiều khi, doanh nghiệp nhập khẩu các thiết bị hiện đại về để thực hiện cho thi công dự án nhưng lại không biết sử dụng và vì thế họ phải thêu thêm chuyên gia nước ngoài về hướng dẫn vận hành. Lệ phí để thuê chuyên gia nước ngoài thường là rất lớn nên doanh nghiệp phải thêm một khoản chi phí lớn. 2.3. Trên phương diện chủ đầu tư- bên mời thầu 2.3.1. Lập kế hoạch đấu thầu làm dự toán chính xác Trong việc lập kế hoạch đấu thầu mà trong quy chế đấu thầu có quy định, có một số cơ sở phụ thuộc hoàn toàn vào chủ công trình- bên mời thầu. Đó là việc xây dựng báo cáo tiền khả thi, lập dự toán, khả năng huy động vốn cho công trình. Bước lập báo cáo khả thi này ảnh hưởng rất lớn trong việc xin tài trợ của các tổ chức các tài trợ nước ngoài. Trong tất cả các hiệp định vay vốn nhận tài trợ, các nhà tài trợ thường đỏi hỏi bên mời thầu phải có dự án có tính khả thi để họ kiểm soát xem việc đầu tư của họ có hiệu quả không. Các dự án khả thi thường được lập trước khi ký Hiệp định và cũng thường do các chuyên gia nước ngoài, những người có kinh nghiệm thực hiện, kể cả các chuyên gia của nhà tài trợ. Cho nên bên mời thầu phải thu thập các số liệu chính xác và xử lý hết sức thận trọng. Để sát thực với tình hình thực tế, bên mời thầu nên sử dụng các chuyên gia nước sở tại, trong những trường hợp thật đặc biệt mới mời chuyên gia nước ngoài. Khi lựa chọn chuyên gia nước ngoài cũng cần lưu ý phải lựa chọn những chuyên gia có uy tín trên thế giới. Nên xem xét tư cách đơn vị giao thầu và tư cách của công trình đấu thầu trước khi quyết định đầu tư để tránh tình trạng nhiều chủ đầu tư giao cho nhà thầu “chạy dự án”. Một vấn đề rất quan trọng khác có liên quan đến bên mời thầu, đó là xác định được nguồn vốn và cách thức giải ngân. Trong nhữgn năm qua, nguồn vốn ODA cho Việt Nam là rất lớn nhưng tốc độ giải ngân những nguồn vốn nàylà rất chậm. Từ năm 1993 đến nay, tổng số vốn ODA đã cam kết dành cho Việt Nam lên đến 17 tỷ USD. Bảng 9: Tình hình vốn ODA cam kết và giải ngân. (Đơn vị: tỷ USD) Năm Vốn ODA cam kết Vốn ODA giải ngân 1993 1,819 0,413 1994 1,914 0,725 1995 2,261 0,737 1996 2,430 0,9 1997 2,420 1 1998 2,186 1,2 1999 2,1 1,12 2000 2,1 1,289 2001 2,356 1,7 Tổng 19,613 9,093 Nguồn: Bộ tài chính-tăng cường năng lực quản lý tài chính các dự án ODA Thời báo kinh tế xây dựng-Kinh tế Việt Nam -Thế giới 2001-2002 Bảng trên cho ta thấy rằng nguồn vốn ODA dành cho Việt Nam là rất lớn, tốc độ giải ngân tăng qua các năm nhưng tăng chậm và chỉ đạt 43 % trên tổng vốn đầu tư. Các nhà thầu nên xác định tất cả các nguồn vốn có liên quan tới dự án thật chính xác và cụ thể cũng như phải lường hết các vướng mắc phát sinh, không được để cho công trình dự án chậm đưa vào sử dụng hoặc có nguy cơ dừng vì thiết vốn. 2.3.2. Lựa chọn hình thức đấu thầu, phân chia gói thầu hợp lý. Tuỳ thuộc vào chủ đầu tư, vào quy mô công trình, chủ đầu tư có thể lựa chọn biện pháp đấu thầu từng giai đoạn hay đấu thầu toàn bộ dự án công trình. Khi dự án có quy mô lớn, có nhiều hạng mục phức tạp chủ đầu tư nên chia nhỏ thành nhiều gói thầu để việc tính toán giá cả được chính xác hơn. Chủ đầu tư ai cũng mong muốn nguồn vốn mình bỏ ra được sử dụng có hiệu quả nhất, cho nên các chủ đầu tư nên mời thầu rộng rãi, thu hút càng nhiều nhà thầu càng tốt để từ đó có thể chọn ra một nhà thầu thích hợp nhất. đấu thầu rộng rãi là phương thức tiết kiệm vốn đầu tư tốt nhất. Thực tế ở Việt Nam trong thời gian qua phổ biến là phương thức đấu thầu hạn chế nên không tạn dụng được hết tính cạnh tranh trong đấu thầu. Chủ đầu tư trong trường hợp này cũng nên chọn hình thức đấu thầu hai giai đoạn để đỡ tốn công sức và thời gian trong việc đánh giá hồ sơ dự thầu. 2.3.3. Lập hồ sơ mời thầu Đây là một khâu cực kỳ quan trọng đối với chủ đầu tư - bên mời thầu vì nó sẽ ảnh hưởng rất lớn tới việc lựa chọn nhà thầu và tới việc thi công công trình, tới chất lượng công trình. Chủ đầu tư lập hồ sơ mời thầu phải theo sát báo cáo khả thi, kế hoạch đấu thầu,... Để có được nội dung của hồ sơ mời thầu, chủ đầu tư phải nghiên cứu thực tế, nghiên cứu các quy định... Giá trong hồ sơ mời thầu cũng phải là giá chính xác, được lấy từ thực tế công trình, từ giá trên thị trường. Hồ sơ mời thầu này phải được các chủ đầu tư gửi đến những nhà thầu cung cấp. Muốn tìm hiểu rõ và chính xác về nhà thầu cung cấp, chủ đầu tư phải mở rộng thị trường và tiếp cận sát với thị trường. Chủ đầu tư phải khuyến khích và tìm kiếm chào hàng của nhà cung cấp. Không nên cố định lượng người chào hàng. Lượng người chào hàng này tuỳ thuộc vào quy mô dự án, mức độ cạnh tranh giữa các nhà cung cấp, chất lượng công trình mong muốn, khả năng của đối tác,.... 2.3.4. Đánh giá HSDT Căn cứ vào hồ sơ dự thầu, để chọn nhà thầu; kiểm tra thực tế nhà thầu được chọn; ký hợp đồng xây lắp và khẳng định rằng chỉ 10-15 ngày là có thể chấm được nhà thầu xứng đáng. Điều quan trọng là các nhà thầu đều cùng có mặt và trình bày bản tóm tắt của mình trước chủ đầu tư, Như vậy mặt mạnh, mặt yếu của các nhà thầu cũng như sự chấm điểm của chủ đầu tư đều minh bạch, hạn chế mọi sự cài độ, khuynh hướng chọn thầu, áp lực đối với chủ đầu tư cũng như giải toả mọi ấm ức của nhà thầu. Nên nâng điểm kỹ hthuật từ 70 lên 80 điểm và coi giá hợp lý là điều cần thiết để lựa chọn nhà thầu thay vì việc chọn nhà thầu có giá thấp nhất như hiện nay. 2.3.5. Đàm phán ký hợp đồng. Trước khi đàm phán ký hợp đồng, các chủ đầu tư phải biết chắc nhà thầu mình sắp đàm phán đã nộp tiền bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho ngân hàng đúng như quy định. Điều này mới đảm bảo việc đàm phán đi đến kết quả. Thêm vào đó chủ đầu tư cũng phải kiểm tra kiểm soát chặt chẽ tiền bảo lãnh vì thông thường nó rất lớn và có nhiều loại. Vấn đề đàm phán ký hợp đồng phải được tiến hành khẩn trương ngay sau khi thông báo trúng thầu của bên mời thầu tới nhà thầu để không đảm bảo tiến độ công trình. Chủ đầu tư phải tăng cường quản lý hợp đồng. Người gọi thầu phải thực hiện nghiêm ngặt các điều khoản về giá công trình trong hợp đồng, bảo vệ tính pháp luật của kết quả gọi thầu, đảm bảo tính nghiêm túc trong công trình xây dựng, cố gắng giảm bớt các loại di chứng do trúng thầu với giá thấp. Đồng thời dù giá thầu cao hay thấp. Người gọi thầu cũng không thể nới lỏng giám sát, quản lý chất lượng hoặc hạ thấp yêu cầu, cần làm việc theo pháp luật cần phải giải quyết các tranh chấp thông qua các biện pháp pháp luật. Kiên quyết gạt bỏ các doanh nghiệp trúng thầu với giá thấp và bị thua lỗ vì giá thấp. Phải tuân thủ luật chơi khi bước vào cạnh tranh thị trường. Không tạo cơ hội cho doanh nghiệp đầu cơ trục lợi làm rối loạn thị trường xây dựng. Kết luận Đấu thầu quốc tế là một phương thực mua sắm hàng hoá được áp dụng rộng rãi trên thế giới và đem lại hiệu quả cao. Đấu thầu quốc tế ngày càng được nhìn nhận như một điều kiện không thể thiếu được để đảm bảo thành công cho các nhà đầu tư (chủ dự án) dù cho họ có thuộc khu vực kinh tế nhà nước hay khu vực kinh tế tư nhân, dù họ đầu tư ở trong nước hay nước ngoài. Đương nhiên, trong bối cảnh đó các nhà thầu xây dựng càng không thể không áp dụng phương pháp đấu thầu nếu họ muốn giành được các hợp đồng đáng kể từ các dự án tầm cỡ. Qua thực tế phương thức đấu thầu quốc tế đã thể hiện được rõ những ưu điểm vượt trội của mình: kích thích sự nỗ lực, nghiêm túc của mỗi bên, thúc đẩy sự hợp tác giữa các bên nhằm vào mục tiêu đáp ứng tốt nhất các yêu cầu về chất lượng, tiến độ, tài chính của dự án và do đó đảm bảo lợi ích chính đáng của các chủ công trình lẫn nhà thầu, góp phần tiết kiệm các nguồn lực xã hội. Ngoài ra, riêng với các nhà thầu việc làm quen với phương thức này là phưong pháp hữu hiệu để nhanh chóng tích luỹ kinh nghiệm, tăng cường nguồn lực cạnh tranh của mình. Điều dễ thấy là để làm quen với một phương pháp hình thành từ sự kết hợp nhuần nhuyễn, tinh tế, giữa các yếu tố pháp lý, kỹ thuật và tài chính với các nguyên lý của kế hoạch tổ chức như phương pháp đấu thầu thì cần phải có những nguồn tài liệu đầy đủ, chính xác. Trong các văn bản về tài liệu đấu thầu quốc tế thì các bản tài liệu về đấu thầu quốc tế của hiệp hội kỹ sư tư vấn quốc tế (FIDIC) được chuyên gia và nhiều tổ chức quốc tế đánh giá cao, sát với thực tế và được áp dụng phổ biến trên thế giới. ở Việt Nam trong những năm gần đây đấu thầu quốc tế đã phát triển và trở nên gần gũi với các tổ chức, doanh nghiệp, công ty.... Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, chúng ta cũng có thể dự đoán được sự phát triển của phương thức này trong tương lai. Tuy vậy, để có thể phát huy được hết tính cạnh tranh của đấu thầu quốc tế chúng ta cũng cần nỗ lực khắc phục, giải quyết những vấn đề còn tồn đọng trong thời gian qua như: vấn đề về luật lệ, chính sách của nhà nước, tình trạng tiêu cực trong hoạt động đấu thầu quốc tế, sự non kém về mặt nghiệp vụ của các cán bộ làm công tác đấu thầu. Hy vọng rằng trong một ngày không xa công nghệ đấu thầu quốc tế sẽ thực sự phổ biến và áp dụng rộng rãi ở Việt Nam để có thể hạn chế được những thiệt hại, lãng phí trong xây dựng cơ bản đồng thời tăng sức cạnh tranh của các công ty xây dựng Việt Nam. Tài liệu tham khảo 1. Báo Đầu tư Phát triển Số tháng 3/2002. Số tháng 4/2002. 2. Báo Kinh tế và dự báo Số tháng 9/2002. Số tháng 10/2002 3. Báo Nhà thầu và Thị trường Xây dựng số tháng 5/2002. 4. Báo Thông tin XDCB và KHCNXD số tháng 8/2002. 5. Tài liệu “Hệ thống hoá văn bản pháp luật về XDCB” - Nhà xuất bản pháp lý. 6. Tài liệu “Tìm hiểu các quy định về đấu thầu và đầu tư trong XDCB” tác giả Nguyễn Văn Hiệp & Nguyễn Văn Hà. 7. Tài liệu Hướng dẫn đấu thầu quốc tế mua thiết bị vật tư và xây dựng công trình - CONCETTI. 8. Tài liệu “Công tác đấu thầu” - Bộ KH &ĐT, Ngân hàng Thế giới 5/2002. 9. Tài liệu “Hướng dẫn đấu thầu xây lắp” - Ngân hàng Thế giới 3/2002. 10. Tài liệu “Hướng dẫn mua sắm” - Ngân hàng Thế giới 10/1995. 11. Tài liệu “Hướng dẫn đấu thầu quốc tế mua thiết bị vật tư và xây dựng công trình” 5/1993. 12. Hồ sơ mời thầu xây lắp - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn 2002. 13. Hồ sơ mời thầu Gia công chế tạo lắp đặt hệ thống phụ và kết cấu thép đầu mối trạm bơm Linh Cảm tập 1,2 - Ban quản lý bộ Thuỷ Lợi. 14. Nghị định 43/NĐ-CP 16/7/1996 của Chính phủ về việc ban hành quy chế đấu thầu. 15. Tài liệu tập huấn về công tác đấu thầu - Bộ KH &ĐT tháng 3/2002. 16. Thông tư hướng dẫn về quản lý xây dựng các công trình có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài và nhà thầu nước ngoài nhận thầu xây dựng tại Việt Nam. - Bộ Xây dựng - Số 01/BXD - CSXD. 17. Văn bản hướng dẫn thực hiện Quy chế đấu thầu- Nhà xuất bản Xây dựng 2001. 18.Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 3/2002. 19. Tạp chí Tài chính Tín dụng Số 9 tháng 5/2002. Số 12 tháng 6/2002 20. Tạp chí Xây dựng Số tháng 4/2002. Số tháng 5/2002 21. Báo Kinh tế - Kế hoạch số tháng 3/2002. 22. Báo Đầu tư số tháng 6/2002. 23. Báo Người xây dựng Số tháng 8/2002. Số tháng 9/2002 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluanvan.doc
  • docluanvan1.doc
Tài liệu liên quan