BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
Huỳnh Thị Phượng Cầm
DẤU ẤN TIỂU THUYẾT DOSTOIEVSKI
TRONG BƯỚM TRẮNG CỦA NHẤT LINH
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số: 60 22 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM THỊ PHƯƠNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ từ: Trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Sở Giáo dục tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Trường
THPT
67 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2816 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Dấu ấn tiểu thuyết Dostoievski trong Bướm Trắng của Nhất Linh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hòa Bình, quý Thầy Cô, bạn bè và người thân. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với TS. Phạm Thị Phương, người đã
tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành đề tài này.
MỞ ĐẦU
0. 1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
Dostoievski là nhà văn vĩ đại của văn học Nga và văn học thế giới, chiều sâu tư tưởng và
giá trị nghệ thuật trong các tiểu thuyết của ông là nguồn mạch lớn cơ hồ khai thác mãi vẫn
không vơi cạn. Nghệ thuật tiểu thuyết Dostoievski ảnh hưởng sâu sắc đến các nhà văn Tây Âu từ
cuối thế kỉ XIX, qua đó ảnh hưởng đến các nhà văn Tây học của Việt Nam chúng ta ở đầu thế kỉ
XX, trong đó có Nhất Linh.
Từ đầu thế kỉ XX, tiểu thuyết Việt Nam đã có những bông hoa đầu mùa như Tố Tâm của
Hoàng Ngọc Phách và một số tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, nhưng những sáng tác ấy chỉ mới
so với thời trung đại. Nhìn chung, tiểu thuyết trước Tự lực văn đoàn đã có những đóng góp cho
bước đầu hiện đại hoá văn học Việt Nam, nhưng phải đến tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thì sự
hiện đại hóa, chín muồi về mặt thể loại mới thật sự được khẳng định.
Nhất Linh là người thành lập Tự lực văn đoàn sau thời gian ông ở Pháp về. Ông là cây
bút vững vàng, có nhiều tìm tòi sáng tạo về nghệ thuật, thể hiện rõ nhất trong tiểu thuyết Bướm
trắng (1941). Trước hết, về nội dung tư tưởng, nó không giống như phần nhiều tiểu thuyết của
ông, mà đã, theo Bùi Xuân Bào, “từ bỏ dứt khoát ở đấy công thức của tiểu thuyết có luận đề” [5;
346]. Đáng lưu ý hơn, Bướm trắng còn được coi là trường hợp thoát thai đặc biệt về kĩ thuật, vì
chẳng những trước, mà cả sau nó, Nhất Linh không bao giờ có lối viết như thế. Tác phẩm quả là
một dấu mốc lớn trên con đường học tập và thể nghiệm “những phương pháp Thái Tây” như lời
tuyên ngôn của Tự lực văn đoàn.
Tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam là mối quan tâm của chúng tôi. Tiểu thuyết Tự
lực văn đoàn có đóng góp lớn vào tiến trình ấy, các thành viên trong văn đoàn này có ý thức cao
trong việc học tập phương pháp sáng tác của văn học phương Tây để đổi mới văn học nước nhà.
Chúng tôi chọn đề tài này nhằm khẳng định chắc chắn hơn việc tìm tòi học hỏi và sáng tạo của
nhà văn Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam, cụ thể là ở tiểu thuyết
Bướm trắng.
Ảnh hưởng văn học là một hiện tượng hết sức phổ biến, thậm chí được coi là một trong
những khâu quan trọng của tiến trình văn học, nhưng xác định những nhân tố ảnh hưởng – chịu
ảnh hưởng không phải là đơn giản. Mặt khác, các nhà văn, nhà thơ giai đoạn 1930 – 1945
thường chịu ảnh hưởng cùng lúc nhiều nhà văn, nhà thơ nước ngoài, như Hoài Thanh trong Thi
nhân Việt Nam có viết: “Mỗi nhà thơ Việt Nam hình như mang nặng trên đầu năm bảy nhà thơ
Pháp”. Là thủ lĩnh của một văn đoàn chủ trương đổi mới văn học nước nhà theo hướng hiện đại,
nhà trí thức Tây học Nhất Linh không thể không “bắt chước” những đại diện lỗi lạc của dòng
văn học hiện đại phương Tây, trong đó có Dostoievski. Nhiều ý kiến có trọng lượng quả quyết
rằng Bướm trắng của Nhất Linh chịu ảnh hưởng Dostoievski khá rõ. Và bản thân Nhất Linh
không dưới một lần nhắc đến kĩ thuật viết của nhà văn Nga vĩ đại với một lòng ngưỡng vọng.
Đến với đề tài này, chúng tôi sẽ tìm hiểu Bướm trắng có những dấu ấn nào của tiểu thuyết
Dostoievski, mà chủ yếu là về mặt nghệ thuật.
Chúng tôi nhận thấy sự học tập Dostoievski của Nhất Linh không phải là một việc sao
chép lộ liễu. Nếu chỉ nhìn vào nội dung cốt truyện, sẽ khó tìm thấy sự tương đồng hoàn toàn nào
ở hai nhà văn, nhưng xét từ góc độ nghệ thuật trần thuật, xây dựng hình tượng,… thì thấy có
nhiều điều gặp gỡ thú vị. Nhưng ngay cả những điều gặp gỡ này cũng không phải dễ nhận diện.
Tiểu thuyết Bướm trắng sẽ không tồn tại trong lòng người đọc cho đến hôm nay, nếu tác giả của
nó bắt chước thô thiển lối văn người khác, dù người đó là một đại văn hào. Với một lối trình
diện mới lạ, nó vẫn mang đậm bản sắc dân tộc, cho thấy “thi văn Pháp không làm mất bản sắc
Việt Nam. Những sự mô phỏng ngu muội lập tức bị đào thải” [77, tr.33].
Đi sâu phân tích tìm hiểu một tác phẩm văn học còn chưa có nhiều người đào xới là cách
để giáo viên dạy văn có thể rèn luyện khả năng phân tích và cảm thụ tác phẩm văn học một cách
độc lập. Chúng tôi hi vọng có thể đạt được điều ấy khi chọn đề tài này.
0.2. Lịch sử vấn đề
Chúng tôi nhìn lịch sử vấn đề ở hai cấp độ. Nếu xét trên phạm vi rộng, tức là những
nghiên cứu về tiểu thuyết của Dostoievski và của Nhất Linh nói chung, thì chúng tôi nhận thấy
có một khối lượng tài liệu phong phú và bề bộn. Sau đây chỉ xin nêu một vài công trình nổi bật.
Về Dostoievski, chúng tôi chú ý tới những công trình như: Những vấn đề thi pháp của
Dostoievski – Bakhtin (bản dịch của Trần Đình Sử và bản dịch của Phạm Vĩnh Cư); Ba bậc thầy
Dostoievski, Balzac, Dikens – Stefan Zweig; Dostoievski – cuộc đời và sự nghiệp – L.
Grossman,… Ngoài ra còn có những bài viết của M. Khrapchenko, I. Volgin, V. Bogdanov, T.
Mizanishkova, Irving Howe, I. Volodina, J. Simons, D. Granin, André Gide, Nguyễn Tuân,…
được sưu tầm trong quyển Dostoievski, những tiếp cận từ nhiều phía do Lê Sơn chủ biên.
Về tiểu thuyết Nhất Linh, chúng tôi đặc biệt lưu tâm tới những bài nghiên cứu, ý kiến
phát biểu có trọng lượng của Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Bùi Xuân Bào, Phạm Thế Ngũ,
Huy Cận, Tô Hoài, Tế Hanh, Bùi Hiển, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Ngọc, Vũ Tú Nam, Phan
Cự Đệ, Hà Minh Đức, Bạch Năng Thi, Đỗ Đức Hiểu, Đỗ Đức Dục,… trong công trình Tự lực
văn đoàn, trào lưu – tác giả do Hà Minh Đức khảo luận và tuyển chọn. Ngoài ra còn một số
công trình của các tác giả trong và ngoài nước khác cũng rất đáng lưu ý, như Vu Gia với công
trình Nhất Linh trong tiến trình hiện đại văn học, Huỳnh Phan Anh, Vũ Hoàng Chương, Trần
Văn Bang, Vũ Bằng với Hoài niệm về Nhất Linh, Võ Phiến với Đọc lại Nhất Linh, Thụy Khê
với Nỗi đau hiện sinh trong Bướm trắng,… Giới làm luận văn, luận án gần đây cũng quan tâm
nhiều hơn đến đề tài về Nhất Linh: Luận án TS Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn (2001) của Dương Thị Hương, luận văn Thạc sĩ Nho phong – Đoạn tuyệt
– Bướm trắng trong hành trình tiểu thuyết Nhất Linh (2006) của Phạm Thị Phận, luận văn Thạc
sĩ Tiểu thuyết Nhất Linh trong và sau Tự lực văn đoàn (2008) của Nguyễn Thị Hoàng Mai,…
Khối lượng tài liệu trên cung cấp khá nhiều thông tin để chúng tôi tiếp cận đối tượng
nghiên cứu của mình, tuy nhiên, không có công trình nào trong số đó đặt vấn đề chính thức khảo
sát sự ảnh hưởng của Dostoievski đối với Nhất Linh.
Nếu xét trong phạm vi hẹp, liên quan trực tiếp đến đề tài chúng tôi nghiên cứu (Dấu ấn
Dostoievski trong tiểu thuyết Bướm trắng của Nhất Linh), thì các tư liệu tìm được rất ít. Trong
đó, chủ yếu là những lời đánh giá, so sánh tạt ngang, ít đi sâu vào chứng minh cụ thể. Chúng tôi
chú ý đến những bài nghiên cứu, những ý kiến sau đây:
Trong bài viết Nhất Linh hay khuynh hướng lãng mạn phản kháng (tủ sách Nhân văn xã
hội, Sài Gòn, 1972), Bùi Xuân Bào dừng lại phân tích khá sâu tác phẩm Bướm trắng và đánh
giá: “Chưa bao giờ những người đi trước hoặc đồng thời với Nhất Linh lại đẩy xa đến thế việc
phân tích một tấn bi kịch lương tâm” [5, tr. 347], “Nhất Linh đi rất xa chẳng những ở tâm lí yêu
đương, mà cả trong việc miêu tả tâm hồn con người nói chung” [5, tr. 349]. Tiếp đó, ông khẳng
định có mối liên hệ về nghệ thuật của Bướm trắng với tiểu thuyết của Dostoievski, khi cho rằng
Nhất Linh đã:
chạm đến những xu hướng, những sự vận động tiềm thức của tâm hồn, hình thức trần
thuật, mà ông sử dụng ưu tiên và tài giỏi, độc thoại nội tâm, không phải lối độc thoại
được sử dụng bởi các bậc thầy hiện đại của nội quan, như Proust và Joyce, những người
thích phân tích chi ly thông lượng bên trong, mà đúng hơn là thứ độc thoại mà
Dostoievski đã sử dụng [5, tr. 350].
Ở công trình Văn học lãng mạn Việt Nam (1997), Phan Cự Đệ cũng chỉ ra sự chịu ảnh
hưởng của Nhất Linh từ Dostoievski: “Vào thời kì cuối của văn học lãng mạn, ngoài ảnh hưởng
của Gide, trong tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng, ta còn nhận ra ảnh hưởng của Anatole
France, Dostoievski, Nietzsche” [28, tr. 277] . Và ông tìm thấy được “một ít dấu vết của Tội ác
và hình phạt của Dostoievski trong Bướm trắng của Nhất Linh” [ 28, tr.277].
Trong một bài viết về tiểu thuyết Nhất Linh (1999) ông Đỗ Đức Hiểu đã phân tích sâu
hơn tiểu thuyết Bướm trắng, khẳng định đây là một bước ngoặt trong sáng tác của Nhất Linh. Về
kĩ thuật, ông cho rằng Bướm trắng chứa đựng những yếu tố phương Tây, như trong nghệ thuật
tiểu thuyết của Stendhal, Flaubert, Dostoievski, đồng thời chứa đựng màu sắc, tâm hồn phương
Đông. Về hình tượng nhân vật, ông cho rằng Trương là kiểu nhân vật trong Tội ác và trừng
phạt của Dostoievski, không có tính cách định hình sẵn, nhà văn để ngòi bút “phiêu lưu” vào
“thế giới bên trong” của nhân vật. Tác giả viết: “Nhất Linh đi tới vùng ẩn giấu của tâm linh con
người” [39, tr. 559], “nhà văn sử dụng cả phân tích tâm lí, cả bản năng, cả linh cảm, tiềm thức,
vô thức, nhà văn pha trộn quá khứ, hiện tại, tương lai trong một phút giây” [39, tr. 558].
Phạm Thị Phương, trong luận án tiến sĩ Vấn đề tiếp nhận Dostoievski tại Việt Nam
(2002), cũng nhận xét: “Chịu ảnh hưởng Dostoievski một cách rõ rệt nhất trong văn học Việt
Nam thuộc về nhà văn Nhất Linh” [71, tr. 47], và khẳng định điều đó bằng việc đối chiếu Bướm
trắng với tác phẩm của Dostoievski. Tác giả luận án cho rằng nhân vật Trương là sự pha trộn
giữa nhân vật Raskolnikov trong Tội ác và hình phạt với nhân vật Dmit’ri Karamazov trong Anh
em nhà Karamazov, là “kiểu nhân vật đặc trưng của Dostoievski đang bị đẩy đến cái lằn rạch
mong manh giữa cái ác tiềm ẩn muốn bùng nổ và hoài niệm muôn đời về cái thiện” [71, tr. 49].
Phát triển quan điểm trên, chúng tôi cũng cho rằng Nhất Linh còn ảnh hưởng Dostoievski trong
việc xây dựng nhân vật: ông không định sẵn tính cách cho nhân vật, đẩy nhân vật vào ngay tình
huống kịch tính để nhân vật bộc lộ tính cách; tâm lí nhân vật có sự chuyển biến phức tạp, hòa
trộn giữa ý thức và vô thức, cái có lí và cái phi lí, hiện thực và giấc mơ. Và đó cũng chính là
những luận điểm chúng tôi sẽ triển khai trong luận văn này.
Tóm lại, tuy chưa có công trình chuyên sâu nào so sánh cụ thể Bướm trắng với tác phẩm
của Dostoievski, nhưng dấu ấn của tiểu thuyết Dostoievski trong Bướm trắng đã được nhiều nhà
nghiên cứu khẳng định. Những ý kiến khẳng định mang tính định hướng ấy là một lối mở để
chúng tôi có cơ sở nghiên cứu chuyên sâu vấn đề hơn.
0. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng mà chúng tôi tập trung nghiên cứu là tiểu thuyết Bướm trắng của Nhất Linh
trong sự đối chiếu với một số tác phẩm tiêu biểu của Dostoevski, mà chủ yếu là hai tác phẩm Tội
ác và hình phạt và Anh em nhà Karamazov. Đề tài được chúng tôi khuôn vào một phạm vi
nghiên cứu cụ thể: Dấu ấn Dostoievski trong tiểu thuyết Bướm trắng của Nhất Linh. Mục tiêu
chủ yếu của công trình sẽ là đi sâu phân tích tiểu thuyết Bướm trắng để thấy sự chịu ảnh hưởng
tích cực của Nhất Linh từ Dostoievski. Để đạt được mục tiêu đó, chúng tôi đặc biệt quan tâm
đến nghệ thuật xây dựng nhân vật và những đặc điểm về kết cấu - cốt truyện của tác phẩm.
0. 4. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu để tìm ra những nét tương đồng,
những ảnh hưởng của Nhất Linh từ Dostoievski về nghệ thuật viết tiểu thuyết; đồng thời thấy
được những nét khác biệt, những sáng tạo của ông trong tiểu thuyết Bướm trắng về kết cấu – cốt
truyện cũng như về xây dựng nhân vật.
Phương pháp nghiên cứu tiểu sử tác giả và thực chứng được chúng tôi sử dụng để lí giải
tính xã hội trong tâm lí, tâm trạng nhân vật Trương, cũng là tâm trạng chung của một thế hệ
thanh niên lạc lõng những năm trước Cách mạng tháng Tám, trong đó có Nhất Linh. Bên cạnh
đó, tìm hiểu quan niệm tiếp thu văn học phương Tây để đổi mới văn học nước nhà của ông cũng
có ý nghĩa lớn trong việc đi tìm dấu ấn nghệ thuật tiểu thuyết Dostoievsk trong Bướm trắng.
Chúng tôi sử dụng phương pháp hệ thống để có một cái nhìn tổng quan và xác định vị trí
của tác phẩm Bướm trắng trong lịch sử văn học Việt Nam, những đóng góp của Nhất Linh trong
việc hiện đại hóa tiểu thuyết nước nhà trên tinh thần học tập văn học phương Tây, mà cụ thể là
tiểu thuyết Dostoievski.
Sử dụng các thao tác phân tích - tổng hợp, thống kê, chứng minh,… chúng tôi có thể đi
sâu vào các tác phẩm để có những cơ sở thuyết phục cho đề tài của mình.
0.5. Đóng góp của luận văn
Khi chọn đề tài với phạm vi nghiên cứu hẹp này, chúng tôi hi vọng sẽ góp phần chứng
minh cụ thể hơn sự chịu ảnh hưởng tích cực của Nhất Linh từ tiểu thuyết Dostoievski. Khảo sát
vấn đề này, chúng tôi đã phân tích khá sâu một số bình diện quan trọng của tiểu thuyết Bướm
trắng theo hướng tiếp cận một tiểu thuyết hiện đại. Mặc dù Bướm trắng được nhiều nhà phê
bình văn học đánh giá là một đỉnh cao trong nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại Việt Nam giai đoạn
1930-1945, nhưng theo chúng tôi được biết thì chưa có công trình nào đi sâu phân tích nghiên
cứu riêng tác phẩm này. Với luận văn của mình, chúng tôi muốn góp tiếng nói khiêm nhường
một lần nữa khẳng định vị trí tiên phong của Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hoá văn học
Việt Nam, đồng thời khẳng định vai trò quyết định của văn học phương Tây đối với những nhà
cách tân ưu tú thời kì gia tốc 1930 – 1945.
0.6. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm 80 trang chính văn. Ngoài phần Mở đầu (8 trang), Kết luận (2 trang), nội
dung luận văn được triển khai trong ba chương:
- Chương 1 – Một cách nhìn chung về Dostoievski và Nhất Linh (21 trang): là chương
Tổng quan, nhằm giới thuyết về những đối tượng trực tiếp của đề tài: Dostoievski với nghệ thuật
tiểu thuyết hiện đại, Nhất Linh và tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam. Chương này khẳng
định có sự tiếp nhận và ảnh hưởng tiểu thuyết Dostoievski trong sáng tác của Nhất Linh, giúp
chúng tôi có căn cứ để triển khai tiếp các chương sau.
- Trong chương 2 – Dấu ấn tiểu thuyết Dostoievski trong Bướm trắng – Kết cấu và cốt
truyện (24 ttrang) – trên cơ sở của chương Tổng quan, chúng tôi đi vào vấn đề chính thứ nhất
của luận văn: Xác định dấu ấn tiểu thuyết Dostoievski trong Bướm trắng, về mặt kết cấu và cốt
truyện. Đây là một trong những yếu tố dễ nhận biết nhất khi đi xem xét ảnh hưởng văn học. Làm
rõ điều này sẽ tạo điều kiện để chúng tôi tiếp tục tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật – một
phương diện quan trọng khác của thi pháp tiểu thuyết hiện đại.
- Ở chương 3 – Dấu ấn tiểu thuyết Dostoievski trong Bướm trắng – Nghệ thuật xây
dựng nhân vật (23 trang) – cùng với chương 2, chương này giải quyết vấn đề trọng tâm của
luận văn: Xác định dấu ấn tiểu thuyết Dostoievski trong Bướm trắng, về phương diện nghệ thuật
xây dựng nhân vật. Hai chương này nhằm khẳng định những cơ sở của chương Tổng quan là
hợp lí để mở ra hướng nghiên cứu của chúng tôi.
Chương 1
TỔNG QUAN: MỘT CÁCH NHÌN CHUNG
VỀ DOSTOIEVSKI VÀ NHẤT LINH
1.1. Từ tiểu thuyết Dostoievski đến tiểu thuyết hiện đại Việt Nam
1.1.1. Dostoievski và tiểu thuyết thế kỉ XIX
Dostoievski (1821 – 1881) là nhà văn lớn của nước Nga thế kỉ XIX, được M. Gorki đánh
giá: “là một thiên tài không thể phủ nhận được; với sức biểu hiện như vậy, chỉ có Shakespeare
mới có thể đặt ngang hàng được". Ông là một đỉnh cao của văn học thế giới, nói như Nguyễn
Tuân, là đỉnh núi cao khuất lấp trong sương mù, nhưng càng đến gần thì người ta càng sửng sốt
và ngưỡng mộ bởi sự hùng vĩ và kì bí của nó. Lời nhận định của nhà văn Việt Nam Nguyễn
Tuân cũng chính là ý tưởng của văn hào Pháp André Gide khi đặt Dostoievski cao hơn ngọn núi
L. Tolstoi, coi Dostoievski như “đỉnh cao còn bị che khuuất một nửa, cái khuyên bí ẩn của sợi
dây xích; một vài dòng sông rộng lượng bắt nguồn từ nơi đó, nơi mà những khát vọng mới của
châu Âu ngày nay có thể giải khát” [34]. André Gide là nhà văn đương thời với Nguyễn Tuân và
Nhất Linh, có tầm ảnh hưởng lớn đối với thế hệ trí thức tiền chiến Việt Nam. Ý kiến của ông
không ít khi trở thành định hướng cho giới cầm bút lúc bấy giờ. Vậy Dostoievski đã có gì cuốn
hút họ? – chính là chủ nghĩa hiện thực, một chủ nghĩa hiện thực mới.
Tiểu thuyết thế kỉ XIX phát triển mạnh mẽ, sôi động, đạt được nhiều thành tựu lớn, trong
đó trào lưu hiện thực chủ nghĩa phát triển ở quy mô toàn thế giới, nổi bật nhất là tiểu thuyết của
Pháp, Anh, Nga. Các nhà tiểu thuyết lớn đầu và giữa thế kỉ XIX như Dickens, Balzac,… chú ý
vào việc nhận thức, phân tích, cắt nghĩa, lí giải về con người và xã hội, đi tìm tính quy luật xã
hội, tâm lí, sinh lí. Tiểu thuyết hiện thực phê phán của Balzac đã khắc họa sinh động những tính
cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình, bức tranh xã hội tư sản được soi chiếu ở những vùng
tăm tối, dơ bẩn nhất từ những bi kịch cá nhân. Sau Balzac, chủ nghĩa hiện thực ở châu Âu đi vào
thoái trào, may thay, văn học Nga lúc này bắt kịp văn học châu Âu và tiến xa hơn nữa vào chiều
sâu của hiện thực cuộc sống. L. Tolstoi là nhà văn đầu tiên tái hiện được biện chứng của tâm
hồn, miêu tả đời sống bên trong nhân vật như một quá trình tự vận động. Độc thoại nội tâm
được ông sử dụng như là một phương thức hữu hiệu để khám phá những suy tư, trăn trở, day
dứt, những đắn đo, mưu tính,… đầy phức tạp bên trong con người. Mức độ trần thuật của L.
Tolstoi có tính bao quát, rộng lớn đạt đến tầm vóc sử thi.
So với một số bậc vĩ nhân của thế kỉ XIX như A. Puskin, N. Gogol, L. Tolstoi,…
Dostoievski đến với văn học ít nhiều muộn hơn vì thế sinh mệnh nghệ thuật của ông ngặt nghèo
hơn, bởi ông không thể nào lặp lại những thành tựu sáng chói phía trước cũng như không thể
tiếp tục con đường đã bắt đầu mòn của chủ nghĩa hiện thực Nga lúc ấy. Tái hiện hiện thực như
nó vốn có, như có thể quan sát được bằng mắt thường đã bắt đầu không còn thuyết phục được
người đọc. Khơi sâu mạch nguồn Gogol, chủ nghĩa hiện thực của Dostoievski đi vào chiều sâu
tâm hồn con người, hiện thực chạm đến lằn ranh của hư ảo, hiện thực gắn với trực giác, đi đến
tiềm thức, vô thức, giấc mơ, mê sảng, điên loạn. Ông đưa con người, cuộc sống đến những hoàn
cảnh bất thường, nâng những cảnh nhỏ hẹp của đời sống riêng tư đến những cảnh khái quát
mang tính nhân thế, sự khủng hoảng tinh thần của cá nhân thành sự khủng hoảng tinh thần nhân
loại để đưa con người đến câu hỏi lớn về vấn đề tồn tại và ý thức. Để tái dựng hiện thực nội tâm
ấy, nhà văn cần những phương thức khác, một tiếng nói cất lên kiểu khác, được thể nghiệm bằng
một kiểu tiểu thuyết mới – tiểu thuyết phức điệu.
Theo Bakhtin, nhà Dostoievski học lỗi lạc, Dostoievski là người sáng tạo ra tiểu thuyết đa
thanh, phức điệu, còn trước ông chỉ là những tiểu thuyết đơn thanh. Trong tiểu thuyết đơn thanh,
nhà văn là người biết hết mọi sự về nhân vật dựa vào những dấu hiệu như hoàn cảnh, tính cách,
khí chất, tâm lí,…Nhân vật chỉ như một hình nộm ngoan ngoãn vâng lời tác giả, nhà văn vẫn nói
giọng nói của mình chứ không nói bằng giọng của nhân vật. Đến Dostoievski, nhân vật được tự
do và có một vị trí độc lập tương đối, nó tự ý thức về chính mình và thế giới xung quanh, và cư
xử với thế giới ấy bằng suy nghĩ và cá tính của mình. Để đạt được điều ấy, nhà văn đã nói bằng
giọng của nhân vật, và giữ một khoảng cách nhất định với nó, nghĩa là tuy được nhà văn sản
sinh ra, nhưng ngay khi chào đời, nhân vật đã được cắt bỏ cuống rốn và sống cuộc đời tự lập của
nó. Người ta nghe trong tiểu thuyết của Dostoievski không phải tiếng nói duy nhất và buồn tẻ
của một nhà tư tưởng, ấy là tác giả, mà là cả một hợp xướng nhiều bè vô cùng sinh động của
nhiều giọng nói từ các nhân vật. Xuất phát từ quan niệm xem mỗi con người là một cá thể độc
đáo, không trùng lặp, Dostoievski không chấp nhận sự áp đặt, phán quyết nhân vật, mà để cho
nó tự ý thức về chính mình. Lập trường của tác giả với nhân vật là lập trường đối thoại,
nhà văn đối thoại với nhân vật trên tinh thần dân chủ, theo Bakhtin, “tác giả không phải nói về
nhân vật mà nói với nhân vật”, lời nói của nhà văn về nhân vật “như lời nói về người có mặt,
người ấy nghe thấy và có thể trả lời tác giả” [3, tr.268]. Chính nhờ ý thức tôn trọng lời nói của
người khác nên Dostoievski đã tạo nên tính khách quan trong việc miêu tả nhân vật.
Tiểu thuyết của Dostoievski là tiểu thuyết đối thoại, các nhân vật đối thoại cuồng nhiệt
với nhau mà vẫn chưa đi đến điểm chung, nhà văn đối thoại với người đọc và tất nhiên lời nói
cuối cùng vẫn còn để ngõ. Theo Bakhtin, đối thoại của các nhà văn trước Dostoievski chỉ là giả
vờ, bởi người ta vẫn thấy lấp ló sau tấm bình phong sợi dây điều khiển của tác giả, và ẩn nấp
đâu đó để đưa ra chính kiến của mình. Dostoievski không hề làm trọng tài phân xử cho những
cuộc tranh cãi, ông đứng ở bên này để tranh luận đến sùi bọt mép, rồi lại quay sang đứng bên kia
để tranh luận đến kiệt quệ cả trí tuệ lẫn sức lực. Trong cuộc đối thoại lớn giữa Raskolnikov với
Sonia, ta thấy dường như Dostoievski cũng là kẻ ngoại đạo ngông cuồng như Raskolnikov, rồi
thấy ông cũng sùng tín khiêm nhường như Sonia. Trong cuộc đối thoại giữa hai anh em nhà
Karamazov, ta đồng thời thấy ở Dostoievski trí tuệ lạnh lùng của Ivan, và cả trái tim ấm nóng
của Aliosa. Dostoievski không bao giờ đưa ra những lời bình luận, những mệnh đề hoặc khẳng
định hoặc phủ định, nhưng khép trang sách cuối cùng lại, ta thấy vang lên lời nói thiết tha của
ông về một thế giới đại đồng, ở đó không có ai đúng ai sai, kẻ xấu người tốt, mà chỉ có tình
thương, lòng bao dung làm giải hòa tất cả. Tiểu thuyết Dostoievski có sức mạnh lay động, thanh
lọc tâm hồn con người nhờ vào tính chất đối thoại ngang quyền và ngang giá trị giữa những
giọng nói trong tác phẩm, khiến người đọc như tự mình vỡ ra chân lí mà không có cảm giác nhà
văn chỉ bảo cho.
Để đi vào đời sống tâm hồn nhân vật, các nhà văn thường sử dụng độc thoại, độc thoại
nội tâm và dòng ý thức. Độc thoại nội tâm mà Dostoievski sử dụng cũng là lối độc thoại phức
điệu, chúng ta nghe trong đó cả giọng tự bạch của nhân vật, giọng của người khác đánh giá về
nó, giọng giễu nhại của nhân vật về chính mình.
Kết cấu trong tiểu thuyết Dostoievski hết sức phức tạp, nó không theo một chiều của sự
phát triển một cốt truyện, mà là sự kết hợp của nhiều câu chuyện, kết hợp nhiều hình thức khác
loại vừa văn chương, vừa ngoài văn chương. Tiểu thuyết của ông có kết cấu lắp ghép, xâu chuỗi
nhiều câu chuyện trên một trục cốt truyện chính, kết hợp với những màn đối thoại mang kích
thước quá khổ, những sự kiện diễn ra quá dồn dập, khiến thời gian như bị kéo dài ra, ngưng
đọng lại. Kết cấu truyện lồng trong truyện này làm ta liên tưởng đến kết cấu lồng khung, xâu
chuỗi trong bộ sử thi vĩ đại Mahabharata của Ấn Độ. Câu chuyện trung tâm trong bộ sử thi vĩ
đại này là cuộc chiến tranh “nồi da xáo thịt” giữa hai nhánh trong một hoàng tộc, chỉ diễn ra
trong vòng 18 ngày, nhưng xoay chung quanh nó là nhiều câu chuyện để truy tìm gia phả, giải
thích nguyên nhân xảy ra cuộc chiến, lồng vào đó là những truyện ngụ ngôn, những trang thuyết
giáo, những cuộc đối thoại lớn mang tính hùng biện,…
Kết cấu truyện lồng trong truyện cho phép nhà văn có thể mở rộng chiều kích của tác
phẩm, soi chiếu, bổ sung cho chủ đề từ những góc nhìn, những cảnh đời khác nhau. Chẳng hạn
như trong Tội ác và hình phạt, bên cạnh tuyến chính là “tội ác và hình phạt” của Raskolnikov,
còn có những tuyến khác như là tuyến gia đình Marmelanov, trong đó có chuyện về bà Katerina
Ivanovna, đặc biệt là câu chuyện về Sonia; còn có tuyến Dunia với Lugin, với Svidrigailov,…
Những thủ pháp và nguyên tắc kết cấu mới mà Dostoievski cùng với L. Tolstoi mang lại
là sự tổng kết nhiều thế kỉ phát triển của tiểu thuyết châu Âu, đồng thời mở ra những khả năng
phát triển của tiểu thuyết trong thế kỉ sau. Tiếp cận “văn chương Thái Tây”, các nhà văn Tự lực
văn đoàn không thể không lưu ý đến các hình thức và thủ pháp hiện đại ấy.
1.1.2. Dostoievski với nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại
Tiểu thuyết hiện đại chỉ là một khái niệm tương đối, tác phẩm này có thể hiện đại trong
thời đại này, nhưng sang thời đại khác nó đã không còn hiện đại. Với thời chúng ta đang sống, ở
những năm đầu thế kỉ XXI, tiểu thuyết hiện đại được hiểu là tiểu thuyết thế kỉ XX, do đó tiểu
thuyết từ thế kỉ XIX trở về trước được ngầm hiểu là tiểu thuyết truyền thống. Một số đặc điểm
của tiểu thuyết hiện đại (trong sự so sánh với tiểu thuyết truyền thống) là:
Thứ nhất, về nhân vật: Nếu như trong tiểu thuyết truyền thống, nhân vật được nhà văn
đặc biệt quan tâm đến lịch sử đời tư, thì nhân vật trong tiểu thuyết hiện đại hầu như không có lai
lịch. Nhân vật trong tiểu thuyết hiện đại xuất hiện chỉ trong một “lát cắt”, một khoảng thời gian
ngắn của cuộc đời mình. Các nhà văn của tiểu thuyết hiện đại ít chú trọng miêu tả tâm lí, không
xây dựng tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình, mà chủ yếu hướng tới một tâm trạng,
một tư tưởng triết lí nào đó của con người hiện đại. Nhân vật không có tính cách định hình sẵn,
mà phiêu lưu, biến chuyển đầy phức tạp trên trang sách. Nhà văn không ý thức, phán quyết cho
nhân vật mà để cho nhân vật tự ý thức về chính mình và thế giới xung quanh. Dòng ý thức và
độc thoại nội tâm được quan tâm sử dụng khi nhà văn hiện đại đi sâu vào thế giới tinh thần của
nhân vật.
Thứ hai, về kết cấu – cốt truyện: Cốt truyện chính là xương sống của tiểu thuyết truyền
thống, nó mang tính chất kịch, có quá trình diễn biến: giới thiệu, phát triển, đỉnh điểm và kết
thúc. Theo đó, kết cấu của tiểu thuyết truyền thống cũng rất chặt chẽ. Cốt truyện trong tiểu
thuyết hiện đại có sự giảm nhẹ chất kịch, giảm nhẹ hành động và xung đột, nới lỏng độ căng,
nhiều khi dẫn đến việc hủy diệt cốt truyện do tính chất đơn giản của hành động, hay do kết cấu
lắp ghép – một trong những đặc trưng của nhiều tiểu thuyết hiện đại.
Thứ ba, về thời gian: Thời gian trong tiểu thuyết truyền thống có tính quá trình: Quá khứ
– hiện tại – tương lai, nhà văn đặt vận mệnh của nhân vật theo chiều dài thời gian từ khi nó ra
đời cho đến khi về già hoặc chết. Tiểu thuyết hiện đại quan tâm đến thời gian hiện tại, dòng thời
gian như bị cắt khúc, xén mất phần quá khứ và tương lai, chỉ có thời gian hiện tại mới là điều
đáng quan tâm. Dồn nén nhiều sự kiện, nhiều tâm tư trong một khoảng thời gian ngắn là cách
thức thường thấy trong tiểu thuyết hiện đại.
Chúng ta có thể tìm thấy hầu hết những đặc điểm trên của nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại
trong sáng tác Dostoievski, mặc dù ông là nhà văn kinh điển của thế kỉ XIX. Chỉ xét mỗi tiểu
thuyết Tội ác và hình phạt, ta cũng thấy rõ điều đó: Câu chuyện diễn ra chỉ trong mười bốn ngày
(Thời gian ở Xibiri chỉ là phần vĩ thanh, không trọng tâm), dồn nén biết bao sự kiện, biến cố,
giằng xé nội tâm của nhân vật Rascolnikov. Cốt truyện tuy có tính chất kịch tính, li kì nhưng giá
trị của tác phẩm không phải ở chỗ ấy, mà ở diễn biến nội tâm của nhân vật, ở tính chất đa thanh,
phức điệu, ở sự đối chọi của những tư tưởng, triết lí, ở giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc,… Nhân
vật Raskolnikov là kiểu nhân vật hoàn toàn hiện đại: xuất hiện chỉ trong một khoảng thời gian
ngắn của cuộc đời anh ta, đó là kiểu nhân vật tâm trạng – tâm lí chứ không phải kiểu nhân vật
hành động cũng không phải nhân vật tính cách. Raskolnikov mang trong mình một tư tưởng lớn
của thời đại, với biết bao suy tư, vật vã trên con đường thử nghiệm, tìm kiếm chính bản thân
mình. Độc thoại nội tâm và dòng tâm tư được Dostoievski sử dụng tối đa nhằm lột tả tận cùng
sâu thẳm thế giới bên trong của nhân vật.
Như vậy, từ một số dấu hiệu trên, có thể khẳng định rằng Dostoievski là nhà văn khởi đầu
cho nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại của thế kỉ XX.
1.1.3. Những bước tiến của nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại Việt Nam từ đầu thế kỉ
XX đến tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
Riêng đối với văn học Việt Nam, có lẽ không có khái niệm “tiểu thuyết hiện đại” theo
đúng với nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại thế giới, mà chỉ có khái niệm “tiểu thuyết hiện đại”
trong sự đối sánh với tiểu thuyết trung đại về mốc thời gian cũng như về mặt thi pháp. Tiểu
thuyết Việt Nam từ đầu thế kỉ XX trở đi được xem là tiểu thuyết hiện đại, chúng chỉ “hiện đại”
so với thời trung đại chứ chưa bắt kịp với nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại trên thế giới. Ngay
chính thể loại tiểu thuyết cũng là thể loại mới, nở rộ ở đầu thế kỉ XX nhờ việc học tập tiểu
thuyết Tây phương thế kỉ XIX. Trong văn học trung đại, từ “tiểu thuyết” không có mặt như là
một thể loại văn học, mà thay vào đó là từ “truyện” để chỉ hình thức tự sự có dung lượng lớn.
Tuy nhiên, thể loại tiểu thuyết không phải là đứa con ngoại lai trong nền văn học Việt Nam, mà
nó vốn có gốc rễ từ các thể loại tự sự của văn học trung đại, đặc biệt là truyện thơ Nôm và tiểu
thuyết chương hồi.
Truyện thơ Nôm được xem là tiểu thuyết được làm bằng văn vần, có lẽ là cội nguồn dân
tộc của tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XX. Về kết cấu – cốt truyện, truyện thơ Nôm đề tài tài
tử – giai nhân có cốt truyện hấp dẫn, giàu kịch tính, kết cấu theo kiểu: gặp gỡ – chia li – đoàn tụ.
Về nhân vật, tính cách nhân vật được bộc lộ rõ từ đầu, theo kiểu “nhìn mặt mà bắt hình dong”,
và giữ vững tính cách ấy đến cuối tác phẩm. Vì sáng tác bằng văn vần nên truyện thơ Nôm còn
rất hạn chế trong việc diễn tả cuộc sống cũng như nội tâm nhân vật. Về thời gian, truyện thơ
Nôm quan tâm đến tính toàn vẹn của thời gian một nhân vật tồn tại, nhà văn cần giới thiệu rõ lai
lịch nhân vật, quá trình từ sống cho đến khi chết.
Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thời kì trung đại mang tính chất văn sử bất phân do lấy
đề tài từ lịch sử. Tính cách nhân vật tuy có được các tác giả khắc họa nhưng vẫn chú trọng vào
những biểu hiện bên ngoài hơn là diễn tả nội tâm. Thời gian mang tính lịch sử biên niên, ._.tuân
thủ theo quy tắc kể lại đầy đủ đầu đuôi ngọn ngành các sự kiện cũng như các nhân vật.
Đến đầu thế kỉ XX, tiểu thuyết Việt Nam mới thật sự hình thành với đúng thể loại tiểu
thuyết: sáng tác bằng văn xuôi với dung lượng lớn, dùng lối văn giản dị từ cuộc sống hằng ngày,
viết về đời tư nhân vật. Thật ra, từ cuối thế kỉ XIX, văn học nước ta đã có quyển tiểu thuyết
bằng chữ quốc ngữ đầu tiên, bước đầu mang tính hiện đại, đó là quyển Thầy Lazaro Phiền của
Nguyễn Trọng Quản (sáng tác năm 1887). Tác phẩm thoát khỏi lối văn biền ngẫu, không tuân
theo kiểu kết cấu truyền thống của truyện thơ Nôm, vào truyện trực tiếp chứ không cần phải kể
đủ lai lịch nhân vật, không tuân theo thời gian tuyến tính mà đảo ngược thời gian trần thuật: mở
đầu truyện là thời gian thực tại với hình ảnh ngôi mộ thầy Lazaro Phiền, tiếp đến là thời gian
quá khứ qua lời hồi tưởng của người kể về câu chuyện bi thảm của thầy Phiền, kết thúc lại trở về
thời gian thực tại. Điều nhà văn quan tâm không phải là những tình tiết éo le của truyện, mà là
thế giới nội tâm, là nỗi buồn đau hối hận day dứt của nhân vật.
Tiểu thuyết Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc Phách đánh dấu sự ra đời của tiểu thuyết
Việt Nam thời kì hiện đại. Tác giả đã cố gắng diễn tả đời sống tình cảm của lứa đôi, nhưng vẫn
chưa chạm đến bề sâu tâm tư con người, một phần cũng do sự hạn chế của lối văn bóng bẩy, trau
chuốt như truyện thơ. Cốt truyện hấp dẫn với những tình tiết lâm li, những nghịch cảnh trái
ngang là điều nhà văn quan tâm hơn là khám phá tính cách, tâm trạng nhân vật.
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh ban đầu chỉ mới phóng tác một số tiểu thuyết Pháp, về sau
ông mới thật sự sáng tác những tác phẩm mang đậm phong vị cuộc sống, con người nông thôn
Nam Bộ. Văn xuôi của ông nôm na, bình dị như lời ăn tiếng nói hằng ngày. Tuy nhiên, nhân vật
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh vẫn được phân rành rẽ theo hai tuyến nhân nghĩa và bất nhân nghĩa;
cốt truyện phát triển theo sự xung đột giữa hai tuyến thiện – ác ấy. Các nhân vật được xây dựng
theo một kiểu, ít đi sâu vào đời sống nội tâm, đơn giản và đơn điệu về tính cách.
Hai mươi năm sau khi Tố Tâm ra đời, các tác phẩm của Tự lực văn đoàn có mặt đã thật sự
khẳng định sự chín muồi về mặt thể loại tiểu thuyết ở Việt Nam. Nhận định về điều này, nhà văn
Nguyên Ngọc viết:
Tôi nghĩ đóng góp quan trọng của Tự lực văn đoàn là định hình cho tiểu thuyết Việt Nam
hiện đại. Từ đầu thế kỉ, văn xuôi của ta phát triển theo một hướng mới. Đầu tiên là các
nhà nho ảnh hưởng Tây học như Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học. Rồi đến Tố Tâm của
Hoàng Ngọc Phách là một bước phát triển quan trọng. Phải đến Tự lực văn đoàn, tiểu
thuyết mới thật sự có hình thức hiện đại của nó [61, 463].
Nghệ thuật tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn đã bứt phá khỏi những bước chập
chững của tiểu thuyết buổi đầu, ngày càng trở nên vững vàng và trưởng thành. Cách trần thuật
trở nên linh hoạt: vào thẳng ngay giữa câu chuyện chứ không kể lể lòng vòng như nhiều tiểu
thuyết trước đó; lời văn trong sáng, giản dị. Nhân vật được chú trọng về diễn biến tâm tư hơn là
mô tả hành động, tính cách nhân vật trở nên phong phú, phức tạp, đa diện hơn. Trong một số tác
phẩm về sau, có sự giảm nhẹ yếu tố kịch tính, giảm thiểu những tình tiết éo le dị thường trong
cốt truyện, mà tập trung để khai thác tâm lí nhân vật, khắc họa tính cách. Một số tiểu thuyết cốt
truyện dường như “không có gì để đọc”, mà chỉ có tâm tư nhân vật như dòng chảy triền miên,
bàng bạc trải dài các trang sách.
Với những bước chuyển biến đó, bộ mặt tiểu thuyết Việt Nam đã có sự thay đổi căn bản,
nó sẵn sàng hơn cho việc đón nhận những hình thức và thủ pháp mới mẻ, trong đó có của
Dostoievski.
1.2. Nhất Linh với quan niệm đổi mới văn học
1.2.1. Nhất Linh – con người và sự nghiệp sáng tác
@ – Vài nét về tiểu sử của Nhất Linh
Nhất Linh (1906 – 1963) tên thật là Nguyễn Tường Tam, sinh ở phố huyện Cẩm Giàng,
tỉnh Hải Dương, trong một gia đình công chức, về sau bố mất việc, cả nhà dựa vào việc buôn
bán tảo tần của mẹ. Ông đi học ở Hà Nội rồi làm việc ở Sở tài chính và bắt đầu sáng tác. Năm
1925, Nhất Linh học vẽ ở Trường cao đẳng Mĩ thuật Hà Nội, nhưng sau không theo đuổi môn
nghệ thuật này.
Năm 1927, ông sang Pháp du học, vừa học nghề làm báo vừa học và tốt nghiệp cử nhân lí
– hóa. Ba năm sau ông về Hà Nội dạy học, được một thời gian ngắn rồi chuyển sang làm báo.
Năm 1932, Nhất Linh cùng những người bạn ra báo Phong hóa, chủ trương vận động dân chúng
theo phong trào Âu hóa, bài trừ hủ tục của lễ giáo phong kiến, đề cao cái tôi cá nhân. Năm
1933, Nhất Linh thành lập Tự lực văn đoàn với chủ trương, quan điểm sáng tác tiến bộ.
Ngoài việc biên tập báo, sáng tác, Nhất Linh còn hoạt động từ thiện: tổ chức hội Ánh
sáng, giúp dân nghèo. Khi Nhật vào nước ta (năm 1940), Nhất Linh ngừng sáng tác và chuyển
sang hoạt động chính trị. Năm 1951, ông tuyên bố không làm chính trị nữa và trở lại sáng tác.
Năm 1963, do dính líu vào vụ đảo chính Ngô Đình Diệm không thành, ông tự vẫn trước khi bị
gọi đến tra vấn.
@ – Vài nét về con người Nhất Linh
Nhất Linh suốt cả cuộc đời không ngừng tự hoàn thiện và làm mới chính mình. Ông thử
sức ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề: làm công chức, học vẽ, làm nhà báo, nhà văn, nhà giáo, làm
chính trị. Ông làm việc với tất cả tâm hồn, theo triết lí tuyệt hảo, luôn đưa ra những ý kiến mới
mẻ.
Con người Nhất Linh mang hai khuynh hướng: khuynh hướng nghệ sĩ và khuynh hướng
cách mạng. Dù là nghệ sĩ hay là nhà cách mạng, Nhất Linh đều làm việc với mục đích: cải tạo,
đổi mới xã hội, san bằng những bất công, đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mọi người.
Nhất Linh là người có ý thức đổi mới tư duy, học tập những cái tiến bộ của phương Tây.
Từ một nhà “cựu nho”, sau ba năm ở Pháp, ông trở thành người chủ trương đổi mới tư duy theo
Tây phương.
Khi làm biên tập báo, Nhất Linh biết trọng người tài, biết phát huy năng khiếu của từng
người trong từng lĩnh vực. Ông là người phát hiện, khuyến khích những tài năng như Tú Mỡ,
Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo,…
@ – Sự nghiệp sáng tác của Nhất Linh
Những tác phẩm đầu tay của Nhất Linh như Nho phong (1925), Người quay tơ (1927)
chưa có gì mới mẻ về nội dung tư tưởng lẫn nghệ thuật. Nho phong vẫn mang đậm dáng vẻ của
đề tài giai nhân – tài tử trong truyện Nôm. Về tư tưởng, tác giả vẫn theo khuôn khổ của nho gia,
đề cao luân lí, cốt để khuyên người ta dù nghèo nhưng giữ được phẩm giá. Người quay tơ là một
tập truyện ngắn, vừa truyện dịch, vừa sáng tác. Đó vẫn là những tác phẩm mang đậm tính giáo
huấn đạo lí nho phong. Nhà văn miêu tả cảnh vật, tình người vẫn theo lối tượng trưng, ước lệ,
khuôn sáo; câu văn vẫn có tính biền ngẫu, nhịp nhàng; từ ngữ hoa mĩ, kiểu cách. Vì thế, tác giả
không lột tả được đời sống tâm hồn của nhân vật một cách chân thành, tinh tế.
Từ 1933, sau khi thành lập Tự lực văn đoàn, nội dung tư tưởng và nghệ thuật trong sáng
tác của Nhất Linh trở nên đổi mới hoàn toàn. Đây là thời gian sáng tác sung sức của ông, với
những tác phẩm: Tập truyện ngắn: Anh phải sống, Tối tăm, Hai buổi chiều vàng; Tiểu thuyết:
Gánh hàng hoa, Đời mưa gió, Nắng thu, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Đôi bạn, Bướm trắng. Một số
tiểu thuyết luận đề của nhà văn như Đoạn tuyệt, Lạnh lùng,…là những lời lẽ hùng hồn chống đối
những hủ tục, những ràng buộc của lễ giáo phong kiến, đấu tranh cho tình yêu và hôn nhân tự
nguyện, giải phóng phụ nữ thoát khỏi bạo hành gia đình. Về nghệ thuật, những tiểu thuyết luận
đề này đã thể hiện một bước tiến mới của tiểu thuyết Việt Nam: xây dựng nhân vật có “xương
thịt”, phân tích tâm lí khá sắc sảo; hành văn trong sáng, giản dị. Tuy nhiên, vì là tiểu thuyết luận
đề nên tiếng nói của tác giả nhiều khi lấn lướt nhân vật, khiến chúng trở thành cái loa phát ngôn
của tác giả.
Khi chuyển sang viết tiểu thuyết tâm lí, Nhất Linh đã tỏ ra tinh tế trong việc khám phá
chiều sâu tâm hồn con người, với một lối văn nhẹ nhàng, trong sáng; cốt truyện không có nhiều
kịch tính mà vẫn thu hút được người đọc. Tiểu thuyết Bướm trắng đạt đến đỉnh cao trong sự
nghiệp sáng tác của Nhất Linh, về nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật.
Những sáng tác của Nhất Linh ở miền Nam sau 1945 như Xóm cầu mới, Dòng sông
Thanh Thủy, Thương chồng,… là những tiểu thuyết không được chú ý lắm. Nhà văn không thật
sự sống với nhân vật, mà chỉ ở vai trò một người quan sát, và lối kể chuyện cũng thật nhạt nhẽo.
Nhất Linh đã không còn sinh lực để bắt kịp với bước tiến của đời sống văn học đang sôi động
lúc bấy giờ. Ngay chính Thế Uyên và Duy Lam, hai cây bút trẻ của văn học Sài Gòn, cháu ruột
gọi Nhất Linh là bác, cũng chỉ coi trọng ông chứ không thích thú lối viết cũ kĩ này. Thế Uyên
viết: “Riêng hai đứa chúng tôi (tức Thế Uyên và Duy Lam – H.T.P.C.) thán phục Nhất Linh tiền
và chấp nhận Nhất Linh hậu chiến” (chúng tôi nhấn mạnh – H.T.P.C) [90, tr.160]. “Chấp nhận”
là lối viết theo kiểu “kính nhi viễn chi”, như các nhà Thơ mới kính trọng Tản Đà, không muốn
làm buồn lòng các bậc tiền bối, chứ thật ra độc giả trẻ miền Nam lúc bấy giờ không mặn mà
mấy với những tác phẩm sau này của Nhất Linh.
1.2.2. Quan điểm của Nhất Linh về việc hiện đại hóa văn học
Việt Nam
Năm 1930, khi ở Pháp về, Nhất Linh thành lập Tự lực văn đoàn với phương châm: Tự lực
sáng tác để làm giàu thêm văn học nước nhà; viết bằng lối văn giản dị, dễ hiểu của ngôn ngữ dân
tộc, mang tính bình dân để cho con người và xã hội ngày càng tiến bộ hơn; học tập phương pháp
sáng tác của phương Tây để ứng dụng vào văn chương Việt Nam.
Trước và cùng thời với Nhất Linh, đã có nhiều nhà văn chủ trương học tập văn học
phương Tây để sáng tác. Chẳng hạn như Hồ Biểu Chánh phóng tác các tác phẩm Chúa tàu Kim
Qui từ tiểu thuyết Bá tước Monte Cristo của A. Dumas, Cay đắng mùi đời từ tiểu thuyết Không
gia đình của H. Malot, Ngọn cỏ gió đùa từ tiểu thuyết Những người khốn khổ của V. Hugo.
Theo Vũ Ngọc Phan, Em ơi đừng tuyệt vọng của Vũ Bằng là phỏng dịch từ Đêm trắng của nhà
văn Nga Dostoievski; vở kịch Lòng rỗng không của Đoàn Phú Tứ là phỏng dịch từ vở Người
thầy giáo của nhà văn Pháp Henri Duvernois. Ở mức ảnh hưởng cao hơn, một số nhà văn đã học
tập phong cách sáng tác của các nhà văn phương Tây. Chẳng hạn như trong Vàng và máu, ta
thấy Thế Lữ học tập phong cách huyễn tưởng của Edgar Poe; Vũ Trọng Phụng ảnh hưởng phong
cách tự nhiên chủ nghĩa của Emile Zola, Nam Cao học tập phong cách tâm lí – nội quan của
Dostoievski.
Nhất Linh chủ trương học tập tiểu thuyết phương Tây về phương diện nghệ thuật chứ
không bắt chước cốt truyện, nhân vật, tình tiết trong các tác phẩm ấy. Vì thế, chúng ta thấy ông
không phóng tác, phỏng dịch, mà hoàn toàn dựa vào cuộc sống, con người Việt Nam để viết.
Trong tiểu luận Viết và đọc tiểu thuyết, ông bày tỏ quan niệm về cách viết mới:
Những cuốn tiểu thuyết hay là những cuốn tả đúng sự thực, cả bề trong lẫn bề ngoài, diễn
được một cách linh động các trạng thái phức tạp của cuộc sống, đi thật sâu vào sự sống
với tất cả những chuyển biến mong manh, tế nhị của tâm hồn, bằng cách dùng những chi
tiết về người và việc để tìm hoạt động của nhân vật cùng hành vi, cảm giác và ý nghĩ của
họ. Những cuốn đó cần phải do sự thành thực của tác giả cấu tạo nên, viết bằng một lối
văn giản dị, không giảng giải nhiều và không cần phải chỉ hay về cốt truyện [51, tr.373]
Ông còn muốn tạo cho mình một cách viết, một giọng văn riêng: “Tuyệt đích, đối với tôi là viết
giản dị mà không lạt lẽo, rất bình thường mà vẫn sâu sắc, giọng văn hơi điểm một chút khôi hài
rất nhẹ, kín đáo” [51, tr.406]
Cũng trong tiểu luận Viết và đọc tiểu thuyết này, Nhất Linh nhìn nhận lại quá trình hiện
đại hóa văn học trong sáng tác của mình: Thuở mới cầm bút, ông rất yêu thích kiểu viết văn chải
chuốt, theo lối biền ngẫu như các tiểu thuyết thời ấy. Sau đó, ông chuyển sang viết tiểu thuyết
luận đề để đả phá lễ giáo phong kiến, tuyên truyền cho lối sống mới, tự do về tư tưởng và hành
động. Nhất Linh cho rằng đây là “cái lầm lớn nhất trong đời văn sĩ của tôi”, bởi ông đã “không
theo sát cuộc đời thực là mục đích chính của tiểu thuyết mà đổi cuộc đời thực đi để lại cho luận
đề của mình” [51, tr.355]. Về sau, Nhất Linh quan tâm nhiều hơn đến nghệ thuật tiểu thuyết hiện
đại: Không chú trọng những cốt truyện li kì; không thể hiện tư tưởng, lời bình xét của tác giả
trên trang sách; xây dựng nhân vật thật “sống” như cuộc đời, với những mặt xấu – tốt pha trộn
chứ không đơn giản, nhất phiến hoặc tốt hoặc xấu như trong văn học truyền thống. Ông chú ý đi
sâu diễn tả đời sống nội tâm nhân vật với tất cả những biến chuyển mong manh của tâm hồn.
Bướm trắng thể hiện những cố gắng của Nhất Linh trong việc hiện đại hóa nghệ thuật tiểu
thuyết Việt Nam. Chính Bướm trắng, chứ không phải bất cứ một tác phẩm nào khác đã nâng
Nhất Linh lên hàng, như linh mục Thanh Lãng – tác giả nhiều bộ sách nghiên cứu văn học Việt
Nam – nói, “thủ lãnh, tổng thống trong cái nước cộng hòa văn học 1932 – 1945” [81, tr. 218].
1.2.3. Nhận định của Nhất Linh về tiểu thuyết Dostoievski
Tiểu thuyết Dostoievski được dịch sang tiếng Việt khá muộn, bắt đầu từ những năm 50
của thế kỉ XX, qua tiếng Pháp, tiếng Anh chứ không trực tiếp từ nguyên tác tiếng Nga. Nhưng
đó là mặt dịch thuật, còn thật ra, Dostoievski đã đến với một số độc giả Việt Nam từ trước Cách
mạng tháng Tám 1945 không cần chờ chuyển dịch, họ đọc thẳng từ tiếng Pháp. Nhất Linh từng
du học ở Pháp từ năm 1927, cho nên không loại trừ khả năng ông đã đọc Dostoievski hay ít ra
đã từng nghe người ta bình luận về nhà văn đang được châu Âu ngưỡng mộ này. Lúc bấy giờ ở
châu Âu không thể nào đếm hết những bài viết về thiên tài Dostoievski, bởi người ta tìm thấy ở
ông nguồn sáng an ủi soi đường cho nhân loại sau cơn hoảng loạn thế chiến thứ nhất. Ở Việt
Nam thời ấy đã có nhiều trí thức Tây học đến với Dostoievski, mà họ gọi thân mật là Đốt. Nhà
văn Nguyễn Tuân nhớ lại rằng: “Ở Hà Nội đã khối người say Đốt Xtôi, thuở ấy tôi cũng là
người say Đốt” [88, tr.293]. Khi ngồi trong nhà tù thực dân Pháp ông vẫn say mê đọc bốn quyển
tiểu thuyết của Dotoievski. Bộ phim Tội ác và hình phạt dựng theo tác phẩm cùng tên của
Dostoievski được chiếu ở nước ta từ năm 1935 và mùa đông năm ấy nhà văn Nguyên Hồng xem
mà như cảm thấy như bị “dội lửa”. Trong quyển Nhà văn hiện đại, nhà văn Vũ Ngọc Phan tỏ ra
hiểu biết nhiều về tiểu thuyết Dostoievski khi ông chỉ ra Vũ Bằng phỏng dịch truyện Em ơi đừng
tuyệt vọng từ truyện Les nuits blanches (Đêm trắng) của Dostoievski chứ không phải là sáng tác
như nhà văn này công bố.
Việc tiếp nhận, ảnh hưởng Dostoievski cũng có sự chuyển biến rõ rệt, ban đầu từ hiện
tượng mô phỏng bắt chước như kiểu của nhà văn Vũ Bằng đã nói ở trên, đến việc ảnh hưởng
loáng thoáng vài chi tiết trong một số tác phẩm của một số nhà văn, và hơn cả là sự tiếp nhận
sáng tạo về mặt nghệ thuật tiểu thuyết ở nhà văn Nhất Linh, Nam Cao,…
Trong tiểu luận Viết và đọc tiểu thuyết, Nhất Linh xem Dostoievski cùng với
Shakespeare, Dickens, Tolstoi… là những bậc thầy trong sáng tác văn chương. Những tác phẩm
của họ là “lí tưởng muốn noi theo của phần đông người viết tiểu thuyết” [51, tr. 347]. Nhất Linh
đã từng đọc Tội ác và hình phạt, Anh em nhà Karamazov, Lũ người quỷ ám của Dostoievski và
học tập ở đó nghệ thuật viết tiểu thuyết.
Khi bàn về cốt truyện trong tiểu thuyết, Nhất Linh cho rằng tác phẩm của Dostoievski hay
không phải bởi cốt truyện: “Ở nhà văn Anh Dickens hay Dostoievski cũng có những truyện li kì
nhưng cái hay không ở đấy” [51, tr.371]. Những tác phẩm có cốt truyện hay mà xây dựng nhân
vật không “sống”, phân tích tâm lí hời hợt thì không thể sánh được với những tác phẩm của
Dostoievski (và của những nhà văn lớn khác).
Nhất Linh đánh giá cao ở Dostoievski và những nhà văn lớn của thế giới sự thành thực,
sâu sắc trong cảm xúc, suy nghĩ. Ông viết: “[…] dưới những cái mà tác giả viết ra lại còn ẩn
một thứ gì khác, tuy tác giả không nói đến nhưng mình cảm thấy rõ và cái đó như chiếu sáng
những cái sâu xa của cuộc đời…” [51, tr.372]. Đó là cảm xúc của Nhất Linh khi đọc Anh em
nhà Karamazov.
Ông thích thú trước việc Dostoievski đưa tư tưởng, triết lí vào văn chương mà vẫn không
làm tác phẩm trở nên nặng nề: “[…] những nhà văn thâm thúy nhất về triết lí mà không đả động
tới triết lí vẫn là Shakespeare, Dostoievski” [51, tr.407]
Bên cạnh đó, Nhất Linh tỏ ra công tâm khi không ca ngợi giọng văn của Dostoievski,
thậm chí cho rằng giọng văn đó “nặng nề gò gẫm” và “bí hiểm”. Đó cũng là xu hướng chung
của nhiều người đọc lúc bấy giờ. Trong cuốn Từ điển danh nhân (SG, 1964) Trịnh Chuyết than
phiền về lối viết của Dostoievski: “Tiểu thuyết của tiên sinh rườm rà, khó hiểu, nhiều chi tiết
quá, có những đoạn quá đen tối, quá thê thảm” [11, tr.19]. Nguyễn Hiến Lê cũng có nhận xét
tương tự đối với Chàng ngốc, Đầu xanh tuổi trẻ, Người chồng muôn thuở. Không thán phục
giọng văn Dostoievski, nhưng Nhất Linh lại vô cùng ca ngợi kĩ thuật viết của nhà văn này; trong
các tiểu luận của ông, hễ cứ bàn đến kĩ thuật viết là Nhất Linh lại nhắc đến Dostoievski. Điều
trên giải thích tại sao Bướm trắng mang nhiều dấu vết kĩ thuật viết của Dostoievski, chứ không
phải là giọng điệu.
Nhất Linh không phải là trường hợp duy nhất đề cao và học tập Dostoievski. Cùng thời
với Nhất Linh còn có Thạch Lam, Vũ Bằng, Đinh Gia Trinh,… là những nhà văn có ý thức học
tập văn phong của các nhà văn lớn trên thế giới để sáng tác.
Thạch Lam, em ruột của Nhất Linh, trong tiểu luận Theo dòng, cũng rất khâm phục tài
năng của các nhà văn lớn nước Nga, trong đó có Dostoievski. Ông cho rằng Dostoievski “có lẽ
là nhà viết tiểu thuyết có giá trị nhất của thế kỉ và trên hoàn cầu” [47, tr.307]. Thạch Lam học
tập Dostoievski tấm gương cẩn thận câu chữ khi sáng tác văn chương. Ông bày tỏ mình thích
văn học Nga và Anh hơn văn học Pháp, bởi văn học Pháp lí trí nhiều quá, làm ông phục chứ
không thích, trong khi đó “những tiểu thuyết Anh, Nga ta thấy linh động như cuộc đời, cả bề
rộng lẫn bề sâu” [47, tr.314]. Và những nhận xét này của Thạch Lam cũng được Nhất Linh tán
thành, nhắc lại ở tiểu luận Viết và đọc tiểu thuyết.
Nhìn chung, Nhất Linh đánh giá cao tiểu thuyết Dostoievski và có ý thức học tập nhà văn
bậc thầy này trong sáng tác văn chương, cụ thể là trong cách xây dựng nhân vật, ở sự thành thực
của cảm xúc, ở cách thể hiện tư tưởng triết lí sao cho khéo léo. Bên cạnh đó, Nhất Linh bày tỏ
sự không tán đồng giọng văn của Dostoievski, nó quá phức tạp, rắc rối, khó hiểu, hình như là
khác với cảm quan văn học của Nhất Linh và cũng là của phần đông người Việt Nam – yêu
thích lối văn giản dị, trong sáng, dễ hiểu. Nghĩa là, Nhất Linh đến với Dostoievski với một lòng
ngưỡng mộ sâu sắc, nhưng chủ động trong tiếp nhận và học tập.
1.2.4. Vị trí của Bướm trắng trong sáng tác của Nhất Linh
Bướm trắng là một đỉnh cao, một bước đột phá trong nghệ thuật tiểu thuyết của Nhất
Linh. Với tác phẩm này, kĩ thuật viết tiểu thuyết “theo phương pháp Thái Tây” của thủ lĩnh Tự
lực văn đoàn đã đạt đến hoàn hảo, đánh dấu cột mốc già dặn nhất đời văn của ông sau những
thành công ở Đôi bạn, Đoạn tuyệt. Đó là lời vinh danh của nhiều nhà nghiên cứu có uy tín, như
Bùi Xuân Bào, Huỳnh Phan Anh, Phạm Thế Ngũ, Đỗ Đức Hiểu,…Võ Phiến ghi nhận sự thoát
thai nhanh chóng lạ lùng của Nhất Linh từ Đoạn tuyệt chuyển sang Bướm trắng:
Chỉ trong vòng thời gian chưa đầy năm năm ông (tức Nhất Linh – H.T.P.C) từ bỏ quan
niệm viết cho luận đề một thời để nhảy sang quan niệm viết cho cái hay muôn thuở,
chuyển từ mục tiêu nhân sinh sang mục tiêu nghệ thuật. Sau Bướm trắng quan niệm ấy
được nghiên cứu cứu kĩ, làm nền tảng cho những sáng tác của Nhất Linh hậu chiến [67].
Trước Bướm trắng, mặc dù những tiểu thuyết luận đề của ông như Đoạn tuyệt, Lạnh
lùng,... khi mới ra đời được người đọc tán thưởng nồng nhiệt, nhưng các tác phẩm này chỉ có giá
trị nội dung – tư tưởng trong một giai đoạn, đáp ứng yêu cầu cải cách xã hội lúc bấy giờ. Vì thế
mà không lâu sau, người ta chẳng mấy hào hứng khi đọc chúng nữa. Chính Thạch Lam cũng phê
phán Đoạn tuyệt ở cái kết thúc khiên cưỡng, ông viết: “Những lời kết tội nghiêm khắc của ông
chưởng lí đại diện cho lề lối phong tục cũ và những lời cãi hùng hồn của trạng sư, khiến chúng
ta buồn cười” [47, tr. 285]. Ngay cả Nhất Linh sau hai mươi năm nhìn lại, ông viết: “Giở Đoạn
Tuyệt đọc lại tôi thấy chỉ có một vài đoạn tả mẹ chồng, nàng dâu có đôi chút giá trị” [51,
tr.354]. Thế Uyên, thế hệ trẻ của văn học miền Nam trước giải phóng, cháu gọi Nhất Linh bằng
bác ruột, đã nhận xét: “Những cuốn nổi tiếng thời trước như Đoạn tuyệt bây giờ xa lạ như một
mái tóc đuôi gà. Những cuốn lúc mới ra đời bị thờ ơ như Bướm trắng lại có giá trị hơn” [90,
tr.32]. Những ý kiến của các nhà nghiên cứu gần đây (Thụy Khê, Võ Phiến, Huỳnh Phan
Anh,…) vẫn tiếp tục nhất trí để Bướm trắng giữ vị trí đầu bảng trong sáng tác của Nhất Linh và
các tác giả Tự lực văn đoàn. Trong bài Nhất Linh, Huỳnh Phan Anh đưa ra ba lí do tại sao ông
bầu chọn Bướm trắng, nhấn mạnh rằng tác phẩm này là “cái đỉnh quan trọng nhất của nghệ
thuật Nhất Linh”, là “một lời nói không của chính tác giả trước lối mòn của quá khứ” [1, tr.
255-256]. Thụy Khê khẳng định:
Nhất Linh, với Bướm trắng, đã tìm ra một con đường tiểu thuyết khác hoàn toàn khác
trước và bỏ xa những bạn đồng hành. Trong khi những người cùng thời với ông vẫn còn
miệt mài trong tiểu thuyết hiện thực xã hội, ông đã bước ra ngoài hiện thực và đi vào địa
hạt nội tâm. Khi mọi người vẫn là bác sĩ toàn khoa, ông đã trở thành bác sĩ chuyên môn,
dùng phương pháp nội soi để chiếu vào những ngõ ngách sâu xa nhất của tâm hồn con
người, đối diện giữa sống và chết, với tình yêu và cái chết, với cao cả và tội ác, với định
mệnh và hư vô [92].
Bướm trắng là tác phẩm thành công nhất của Nhất Linh, đưa nhà văn tiến gần đến nghệ
thuật tiểu thuyết hiện đại. Khi viết Bướm trắng, Nhất Linh đã từ bỏ lối viết tiểu thuyết luận đề từ
bỏ việc lấy văn chương làm công cụ tuyên truyền cho vấn đề cải tạo xã hội, để thể hiện đúng
bản chất văn chương: chỉ đơn giản là cảm nghiệm cuộc sống. Về mặt nghệ thuật, Bướm trắng
vượt xa những tác phẩm khác, nó như là phút thăng hoa, là sự kết tinh tài năng sáng tác trong
nghiệp văn của tác giả. Điều này sẽ được chúng tôi làm rõ trong khi triển khai vấn đề ở những
chương tiếp theo.
Sự thành công của Bướm trắng trước hết là ở nghệ thuật, mà nghệ thuật ấy mang nhiều
dấu vết của Dostoievski1, điều này chúng tôi sẽ chứng minh ở hai chương sau. Nhưng trước hết,
chúng tôi xin nêu ra một vài nhận xét để khẳng định có một sự kế thừa và học tập ở nhà văn Nga
vĩ đại của tác giả Bướm trắng: Bùi Xuân Bào khẳng định rằng độc thoại nội tâm của Trương là
cách độc thoại “mà Dostoievski đã sử dụng” [5, tr. 350]. Thế Phong xác định: “Bướm trắng là
mượn hơi ngắn của một hơi trường thiên Crime et Châtimen của Dostoievski” [72]. Phạm Thế
Ngũ viết: “Người ta thấy rõ ảnh hưởng của Dostoievski, của Gide khi đọc những đoạn nhân vật
Trương xem xét cái thiện và cái ác dưới con mắt hoà đồng hay cúi xuống thăm dò cái hố sâu tội
lỗi trong tâm hồn mình” [62]. Phan Cự Đệ nhận xét:
Sự đắn đo của Trương lúc thụt két, sức hấp dẫn ma quái của ánh thép ở tủ sắt làm ta nhớ
tới cuộc đấu tranh nội tâm của Raskolnikov trước cái chết của mụ già cho vay lãi. Nhìn
chung cuốn tiểu thuyết này của Nhất Linh có một bình diện phụ (arriere plane) mang tính
siêu hình và tôn giáo, ảnh hưởng vài chương của Tội ác và hình phạt của Dostoievski
[28, tr.291].
Nguyễn Huệ Chi viết:
Khác hẳn loại tiểu thuyết luận đề đã viết từ trước, Bướm trắng đánh dấu một thay đổi
lớn trong quan niệm nghệ thuật của Nhất Linh. Với ông, nghệ thuật không còn là sự khám
phá con người từ bên ngoài, mà từ chính thế giới phức tạp bên trong của nó. Con người
hiện ra không chỉ như một chứng nhân xã hội, do sự sắp đặt và định hướng của những
xung lực tinh thần nào đấy. Mà trước hết, con người suy nghĩ, hành động như một sự tự
1 Ngay cả những ý kiến chê bai chất lượng tiểu thuyết Bướm trắng cũng vẫn công nhận sự chịu ảnh hưởng từ Dostoievski của
Nhất Linh. Ví dụ như ý kiến của Trọng Đạt: “Cốt truyện Bướm trắng giả tạo, mối tình Trương – Thu nhạt nhẽo. Kỹ thuật mô tả
tâm lí nhân vật bắt chước Dostoievski một cách vụng về. Tác giả dựng lên một nhân vật Trương điên điên khùng khùng, theo kiểu
các nhân vật chính trong các truyện của Dostoievski như Người chồng vĩnh cửu, Thằng ngốc, Tội ác và hình phạt. […] Nhìn
chung, Bướm trắng là một tác phẩm đua đòi bắt chước Phương Tây một cách vụng về, giả tạo, đây là một tác phẩm thất bại của
Nhất Linh”. [Những tác phẩm cuối cùng của Nhất Linh, nxb Đại Nam, 2003, nguồn: Việt Nam thư quán. Thư viện.online].
thực hiện, ở đó có sự chi phối của cả ảo giác và thực tại, vô thức và hữu thức […] Nhất
Linh không cố ý bày ra cho người đọc một mẫu người trải qua đấu tranh để trở về với
đạo đức. Ông chỉ soi tỏ những ngóc ngách khuất tối trong tâm hồn, nó chi phối hành
động của người ta một cách bất chợt, ngẫu nhiên, không thể tiên liệu . [89, tr.178]
Về cốt truyện: sẽ khó nhận thấy một sự trùng khít nếu so sánh Bướm trắng với bất kì tác
phẩm nào của Dostoievski. Sự trùng khít này đã từng thấy khi so sánh rất nhiều tác phẩm của
Hồ Biểu Chánh với vài tiểu thuyết của Victor Hugo, Hecto Malot, hay so sánh truyện Em ơi
đừng tuyệt vọng của Vũ Bằng với truyện vừa Đêm trắng của Dostoievski. Nhưng đối tượng của
Văn học so sánh không chỉ dừng lại ở sự tương đồng đơn giản và dễ nhận biết như thế, mà còn
là những tương đồng về loại hình, phức tạp và lí thú hơn. Chúng tôi cho rằng Bướm trắng tuy
không sao chép lại y nguyên cốt truyện Tội ác và hình phạt, nhưng lại mang tư tưởng của kiệt
tác đó. Về điều này, không ít nhà nghiên cứu đi trước (Thế Phong, Bùi Xuân Bào, Phan Cự Đệ,
Phạm Thị Phương,…) đã khẳng định. Sự tương đồng về một số hình tượng nhân vật: có
những nhân vật trong tác phẩm Bướm trắng dễ làm ta liên tưởng đến hình ảnh, cuộc đời, cách
ứng xử của một số nhân vật của Dostoievski. Đó là những Trương, Thu, Mùi, Nhan. Theo Phạm
Thị Phương, Trương là “sự pha trộn giữa anh sinh viên luật học Raskolnikov bí hiểm, đầy toan
tính với chàng sĩ quan Dmit’ri Karamazov hoang đàng, náo động, cao thượng và đắm say” [71,
tr.120]. Nam nhân vật này cũng xung vào hàng loạt mối quan hệ cả tế nhị lẫn rắc rối với những
nhân vật khác, theo kiểu của Dostoievski: với cô gái nhà lành tên Thu (như mối quan hệ của
Dmit’ri với Katerina Ivanovan trong Anh em nhà Karamazov), với cô gái làng chơi tên Mùi (như
mối quan hệ của Dmit’ri với Grusenca trong Anh em nhà Karamazov, của Raskolnikov với
Sonia trong Tội ác và hình phạt).
Trong quan hệ với cô gái khuê các, Trương (cũng như Dmit’ri) đều có cái nhìn “kính nhi
viễn chi”, đứng sang bên để chiêm ngưỡng, không dám chia sẻ tâm tình, rồi cuối cùng cũng
nhận thức được rằng mình không xứng đáng với “nàng tiên đứng trong vừng ánh sáng không
chút bụi” ấy. Dmit’ri nhận ra rằng vị hôn thê của mình “chỉ yêu đức hạnh của nàng”, nàng mãn
nguyện trước chiến công “cứu giúp con người sa ngã” và cuối cùng đã nhanh chóng rời xa
chàng hôn phu tai tiếng. Trương cũng cảm nhận như thế ở Thu: nàng tự hào vì che chở cứu vớt
một tâm hồn lầm lạc, nhưng cuối cùng đã quyết định cần giữ lấy tiếng đức hạnh mà rời xa anh
chàng người yêu lắm rắc rối.
Giống như Raskolnikov và Dmit’ri, trong mối quan hệ với cô gái làng chơi, Trương cảm
thấy không phải “gồng mình”, dấu giếm, làm bộ làm tịch chơi trò “tâm lí chiến”, chàng dễ dàng
cư xử và thành thật bày tỏ tâm tình của mình, không so đo tính toán. Cũng như Raskolnikov,
Trương dốc đồng xu cuối cùng đưa cho cô gái điếm để cứu vớt đời cô. Và cả hai chàng trí thức
đó đều tìm đến các cô gái ấy để “xưng tội”, để nhận được sự sẻ chia.
Sơ bộ vài nét như trên, một lần nữa chúng tôi khẳng định có sự tương đồng ở nhiều
phương diện giữa Bướm trắng với sáng tác của Dostoievski. Đây không phải là trùng hợp ngẫu
nhiên mà là kết quả của sự dụng công học tập Dostoievski của Nhất Linh. Chính sự ảnh hưởng
này đã góp phần làm mới lạ, tăng sức hấp dẫn và tăng giá trị nghệ thuật của tiểu thuyết Bướm
trắng.
Sau Bướm trắng, như chúng tôi trình bày ở phần trước, Nhất Linh lại trở về với lối viết
cũ, không đủ sức hấp dẫn thế hệ độc giả mới. Những tác phẩm như Dòng sông Thanh Thủy,
Xóm Cầu Mới,… có cách quan sát cuộc sống như người đứng ngoài cuộc, nhà văn chưa thật sự
thâm nhập vào cuộc sống của người lao động.
Tóm lại, ở chương 1 này, chúng tôi đã trình bày một cách tổng quát về tiểu thuyết của
Dostoievski và của Nhất Linh, sau đó sơ bộ chỉ ra ý thức học tập Dostoievski của Nhất Linh. Ở
chương 2 và chương 3, chúng tôi sẽ phân tích và chứng minh cụ thể hơn dấu ấn tiểu thuyết
Dostoievski trong tác phẩm Bướm trắng.
Chương 2
DẤU ẤN TIỂU THUYẾT DOSTOIEVSKI
TRONG BƯỚM TRẮNG – KẾT CẤU VÀ CỐT TRUYỆN
2.1. Đặc điểm kết cấu – cốt truyện của tiểu thuyết Dostoievski
Theo Bakhtin, tiểu thuyết đa thanh của Dostoievski có kết cấu – cốt truyện của thể loại
tiểu thuyết phiêu lưu châu Âu. Tiểu thuyết phiêu lưu châu Âu có nguồn gốc sâu xa từ các thể
loại cười cợt – nghiêm túc, kết hợp giữa đối thoại kiểu Socrate, trào phúng Menippe và Carnaval
hóa.
Đối thoại kiểu Socrate dựa trên tinh thần tự do dân chủ giữa những người tham gia tranh
luận, chân lí do va chạm nảy lửa mới trường tồn, chân lí thuộc về mọi người chứ không chỉ
riêng ai. Đó không phải là kiểu đối thoại hỏi – đáp của thầy trò Khổng Tử, khi mà thầy là người
nắm hết chân lí, trò chỉ là kẻ đón nhận điều hay lẽ phải. Đối thoại bình đẳng kiểu Socrate khiến
cho những cuộc tranh luận trở nên sôi nổi, cho đến khi kết thúc câu chuyện, các vấn đề vẫn chưa
ngã ngũ, vẫn còn dang dở, khuyến dụ người ta tiếp tục con đường kiếm tìm.
Trào phúng Menippe gia tăng yếu tố cười cợt so với đối thoại kiểu Socrate, nó đậm chất
hư cấu._.hỗ có ánh đèn sáng. Hợp nói:
- Sau chúng mình cùng lên xe điện.
Trương vẫn ngơ ngác làm như chưa nhớ ra.
Hợp nhìn Thu:
- À hôm ấy có cả cô Thu nữa, cô Thu nhỉ. Cô ngủ gà ngủ gật trên xe điện mãi.
Trương cũng nhìn Thu và thấy vẻ mặt nàng trở nên lãnh đạm. Chàng đoán là Thu
đương khó chịu vì chàng không nhớ đến hôm đó; Thu khó chịu vì chắc chắn là Thu xưa
nay vẫn yên trí chàng phải nhớ hôm đó.
Chàng mỉm cười, thầm hỏi Thu:
- Có đúng như thế không? Tôi phải nhớ nhưng tôi làm như không nhớ để trêu chơi
đấy.
Trương thấy Thu hơi cau mày nhìn chàng khi chàng mỉm cười: chàng vui thích
được thấy Thu có vẻ giận dỗi. Thu ngoảnh lại nói với Hợp:
- Hôm nào nhỉ em cũng chẳng nhớ nữa.
Hợp bật lên cười:
- Cô này hay. Hôm đưa cậu mà cô không nhớ à? Dễ thường ăn cháo lú cả hay sao
mà không ai nhớ cả.
Thu vội nói:
- Đi đưa đám thì em nhớ. Nhưng em chỉ nhớ vẻn vẹn có thế thôi. Còn từ đấy trở đi
em không nhớ gì cả, em nhớ làm gì!
Nói xong Thu hối hận đã chót nói thêm câu sau rõ nghĩa quá mà lại vô lí nữa vì có
ai hỏi gì đâu. Nàng nhìn theo Trương, Trương cũng nhìn nàng một lúc lâu [52, tr.48].
Trương và Thu đã bắt đầu yêu, nhưng chưa thổ lộ, vẫn còn che giấu tình cảm với nhau và
với mọi người. Trương không muốn thú nhận vội với Thu là mình đã yêu từ cái nhìn đầu tiên
nên làm bộ không nhớ buổi gặp gỡ lần đầu trên phố khi Thu đi đưa ma cậu nàng về, chàng vờ
như không nhớ khi trả lời Hợp: “Hôm nào nhỉ? ”. Căn cứ vào nghĩa tường minh, người ngoài
như Hợp chỉ nghĩ là Trương quên, nhưng đối với Thu, câu ấy hàm nghĩa Trương chẳng có ấn
tượng gì với Thu buổi đầu gặp gỡ cả, nên mới chóng quên như thế chứ! Vì vậy mà vẻ mặt nàng
trở nên “lãnh đạm”, “cau mày”, và Trương đắc ý khi “mồi đã cắn câu”, chàng mỉm cười vui
thích thấy Thu giận dỗi, câu độc thoại nói lên tâm lí ấy của Trương. Để tỏ ra mình cũng chẳng
để ý gì đến Trương buổi đầu, Thu cũng nói không nhớ ra, nhưng câu nói của nàng quá lộ rõ:
“Còn từ đấy trở đi em không nhớ gì cả, em nhớ làm gì!”. Hợp có thể không để ý đến sắc thái
giận dỗi của câu nói ấy, nhưng với Trương thì khác, bởi Thu cốt chỉ để nói với chàng rằng: nếu
anh đã không nhớ buổi gặp gỡ đó thì tôi nhớ làm gì. Nói xong câu ấy, Thu biết ngay là mình bị
“hớ”, khi không tự “tố cáo”, nàng nhìn theo Trương để thăm dò, và Trương cũng nhìn Thu hồi
lâu như biết thấu “tim đen” của nàng.
Trong đoạn đối thoại này, ta thấy lời phân tích tâm lí khá nhiều, chứng tỏ Nhất Linh vẫn
rất yêu thích vai trò làm trung gian diễn giải tâm lí nhân vật cho người đọc, vẫn ảnh hưởng tiểu
thuyết tâm lí phương Tây thế kỉ XIX, trong khi xu hướng của tiểu thuyết thế kỉ XX là “tẩy
trắng” lời bình xét của tác giả về tâm lí, tâm trạng nhân vật. Với Dostoievski thì có khác, ông
dùng nhiều đối thoại và độc thoại nội tâm chứ ít khi miêu tả tâm lí nhân vật bằng lời tác giả như
trong tiểu thuyết tâm lí thế kỉ XIX, nhưng cũng không phải hoàn toàn “tẩy trắng” lời tác giả như
trong một số tiểu thuyết hiện đại. Dostoievski chỉ xen vài lời miêu tả biểu hiện bên ngoài của
nhân vật mà thôi. Đây là một đoạn tiêu biểu trong cuộc đối mặt lần đầu tiên giữa Raskolnikov
với Porphiri trong Tội ác và hình phạt:
- Được, ông cứ nói cái ý nhỏ đó ra – Raskolnikov đáp, gương mặt mệt nghiêm
nghị và nhợt nhạt, đứng trước mặt Porphiri chờ đợi.
- Thế này… Thật quả tôi không biết có thế nào cho rõ… cái ý này nó cũng quá ư kì
quặc… một ý nghĩ có tính chất tâm lí học… Thế này, khi anh thảo ra bài báo, không thể
nào, hì hì… anh lại không tự xem mình là… ấy, dù chỉ chút đỉnh thôi, xem mình như một
con người phi thường và đang nói lên một ý nghĩ mới theo cái nghĩa anh hiểu… Có phải
thế không nào?
- Rất có thể – Raskolnikov đáp, giọng khinh bỉ, Razumikhin rậm rựt như muốn nói
điều gì.
- Đã thế thì phải chăng chính anh có thể… chẳng hạn để giải quyết một số thất bại,
khó khăn trong cuộc sống vật chất hoặc góp phần thúc đẩy bước tiến của nhân loại – anh
có thể vượt qua trở lực?...Giết người, lấy của chẳng hạn?
Đoạn hình như Porphiri lại bỗng nheo mắt trái và cười thầm, hệt như lúc nãy.
- Nếu tôi đã vượt qua trở lực, tất nhiên tôi sẽ không nói với ông – Raskolnikov đáp,
với một vẻ khinh miệt đầy ý ngạo nghễ và khiêu khích.
- Không phải đâu, tôi chú ý như vậy chỉ để tìm hiểu bài báo của anh rõ hơn về
phương diện văn học thôi.
“Hừ! Thật là lộ liễu và trâng tráo!” – Raskolnikov kinh tởm nghĩ thầm. [18, tr.
409-410]
Trong đoạn trích trên, tâm lí nhân vật biểu lộ trong lời đối thoại và cử chỉ, thái độ của
nhân vật, chứ nhà văn không hề miêu tả. Porphiri đang thăm dò Raskolnikov bằng câu hỏi cuối
cùng khá rõ ý nghi ngờ chàng phạm tội giết người, nhưng biết Raskolnikov thông minh và nhạy
bén nên ông nói những lời rào trước đón sau, tỏ vẻ ngập ngừng với điệu cười “hì hì” ra bộ thân
mật, sợ làm mếch lòng.
Trở lại với Bướm trắng, chúng ta thấy lời phân tích tâm lí khá nhiều, nhưng cái mới của
Nhất Linh so với nhiều tác phẩm trước đó là nhà văn để nhân vật tự phân tích tâm lí của mình
một cách chân thành nhất. Tiêu biểu là đoạn Trương viết thư cho Thu. Trương như tự phân mình
ra làm hai: vừa là người viết thư, vừa là người đọc thư; vừa viết, chàng vừa quan sát thái độ,
cảm xúc của mình và của Thu khi đọc thư. Tâm lí của chàng Trương viết là vừa muốn giải bày
tình yêu sao cho Thu cảm thấy chàng rất chân thành, vừa muốn cường điệu lên để Thu cảm thấy
chàng yêu nàng tha thiết, có như thế Trương mới thỉnh cầu được nàng một buổi đi chơi cuối
cùng. Vì thế mà chàng mới viết những dòng ướt át, lại còn bắt chước anh chàng nhân tình của bà
Bovary rảy vài giọt nước lã vào mấy con chữ cho nhòe ra giả làm nước mắt, tinh vi hơn, chàng
không rỏ nước vào những câu thống thiết, mà rỏ vào câu khác cho nó “tự nhiên”. Nhưng liền đó,
chàng Trương kia cảm thấy ghê tởm cho sự giả dối của mình, cho nên tuy những điều chàng viết
rất thực, nhưng lại thấy mình không thành thực chút nào trong cảm xúc, bởi cái mục đích tối tăm
kia đã lấn át đi tình cảm trong sáng xưa kia chàng dành cho Thu mất rồi.
Như thế, Trương không phải là một người tình lãng mạn, không đắm say như Ngọc trong
Hồn bướm mơ tiên (Khái Hưng), không sương gió phiêu diêu như Dũng trong Đoạn tuyệt (Nhất
Linh)… Đó không phải là kiểu tình yêu đấu tranh chống sự ép buộc hôn nhân “cha mẹ đặt đâu
con ngồi đó” như trong nhiều tiểu thuyết khác của Tự lực văn đoàn. Tâm lí của Trương hết sức
phức tạp: yêu say đắm nhưng cũng rất tỉnh táo; chân thành trong tình yêu, nhưng nhiều khi cũng
dối trá; mặc cảm về bản thân, nên chàng luôn dò xét ý tứ, thái độ của người yêu; Trương có lúc
cao thượng, cư xử đẹp với người yêu, nhưng khi tuyệt vọng, chàng cũng bộc lộ sự tầm thường,
tính ích kỉ và có khi còn côn đồ nữa (ném đá vào cửa sổ để Thu phải mở cửa, mua dao định giết
người yêu và tự sát).
Nhất Linh còn dùng thiên nhiên để diễn tả tâm lí của nhân vật, tạo nên những câu văn đầy
chất thơ và diễn tả thật khéo léo, ý vị tâm lí nhân vật, nhất là trong tình yêu lứa đôi. Tác giả
Bướm trắng kế thừa, tiếp nối phương pháp này từ thể loại truyện thơ Nôm của dân tộc, mà kết
tinh là ở Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Đây là nét khác biệt so với Dostoievski.
Nhất Linh dùng biện pháp so sánh để miêu tả tâm lí, tâm trạng của người đang yêu:
“Tiếng Thu gọi ở ngoài hàng rào. Trương đứng dừng lại, trong lòng bỗng thấy nhẹ như bông
tơ; đám mây u uất trong hồn chàng cũng vừa tan đi và một nỗi vui hiện đến sáng như một quãng
trời xanh ấm nắng” [52, tr.41]
Có khi nhà văn dùng cảnh thiên nhiên để ẩn dụ tâm lí, tâm trạng của lứa đôi khi được
đứng gần nhau:
Ngoài vườn, đêm yên lặng. Không có gió, nhưng hơi lạnh đưa qua cửa vào phòng
ấm như từng làn gió nhẹ. Trên những chòm lá cây đen, các ngôi sao trong quá nên trông
tưởng như rời hẳn nền trời sa xuống đứng lơ lửng ở giữa lưng chừng cao. Trương nói
thật khẽ cho khỏi lấp tiếng đàn và nhờ thế chàng có thể ghé gần vào Thu được tự nhiên:
- Các ngôi sao hôm nay hình như rớt xuống gần hơn. Tưởng tượng giá cầm cái vợt
mà vớt thì được một mớ ngọc thủy soạn đủ làm một cái vòng đeo cổ [52, tr.120].
Trương hẳn đã là người từng trải, nhưng với Thu là cô gái con nhà lành, lại xinh đẹp,
ngây thơ khiến chàng đã yêu với tình yêu tôn thờ, chiêm ngưỡng. Thu trong sáng, cao vời như
những ngôi sao kia, còn Trương chân đang lấm bùn trần thế, cho nên chàng muốn kéo nàng
xuống gần với mình hơn, cũng như những ngôi sao kia hôm nay như xuống thấp, có thể vợt
được để dùng làm món đồ trang sức kì diệu.
Có lúc mơ mộng như một thi sĩ là thế, nhưng tâm lí của Trương rất gần gũi với con người
đời thường, Nhất Linh không còn lí tưởng hóa tâm hồn của những người yêu lãng mạn nữa. Ông
đã bước chân vào chủ nghĩa hiện thực như kiểu của Dostoievski, hiện thực về đời sống tâm lí
con người. Tuy đó đây còn có chỗ gượng ép, nhưng Nhất Linh đã tỏ ra có khả năng trong việc
phân tích và diễn tả tâm lí nhân vật, góp phần vào cuộc hiện đại hoá tiểu thuyết Việt Nam.
3.2.2. Tâm lí “không có lí”. Thế giới của ý thức và vô thức, hiện thực và giấc mơ
Cuộc sống đầy những yếu tố ngẫu nhiên khiến con người không thể lí giải tâm lí theo một
quy luật nhất định. Tâm lí nhân vật Trương là một “ca” bệnh. Chính hoàn cảnh bệnh tật lẫn hoàn
cảnh sống khiến tâm lí chàng ta trở nên rắc rối, phức tạp, vừa có lí vừa không có lí. Ngay chính
nhân vật cũng cảm thấy ngạc nhiên với những biểu hiện tâm lí của mình. Vì thế khi diễn tả tâm
lí nhân vật, nhà văn thường để Trương tự cảm thấy “ngạc nhiên”, “hổ thẹn”, “ngượng”,
“không hiểu tại sao”, “lấy làm lạ”, “dối trá”,… khi đối diện với chính mình.
Trương hành động nhiều khi không có động cơ nào thật rõ rệt, mà chủ yếu để giải tỏa một
ức chế tâm lí, để thực nghiệm tâm lí. Trương nảy ra ý muốn ăn cắp tiền, dù ý muốn ấy không
thôi thúc mãnh liệt nhưng chàng muốn cho nó xong đi, làm hay là không làm thì phải quyết định
nhanh chóng, nếu không nó cứ ám ảnh làm chàng bứt rứt khó chịu. Vì thế khi thực hiện việc
trộm tiền xong, Trương tự quan sát mình, ngạc nhiên thấy mình “điềm nhiên như làm một công
việc rất tầm thường”, khi lại “thấy mình vừa phạm một tội lớn” . Trương tự nhận thấy sự vô lí
trong tâm lí của mình:
Chàng lấy làm lạ rằng hai lần phạm hai tội rất lớn ở trong đời – lần này và lần đưa thư
cho Thu – chàng đều thấy giống nhau như hệt. Chàng không muốn thụt két – nhưng biết
trước thế nào cũng thụt két, cũng như khi trước biết là không nên đưa thư song vẫn cứ
phải đưa thư [52, tr.146].
Cũng giống như vậy, Trương biết mình không thể giết Thu và tự vẫn nhưng vẫn cứ ra phố mua
con dao nhíp, việc làm này chỉ để giải tỏa vấn đề tâm lí, để Trương xem thử mình có gan làm
liều không.
Tâm lí “không có lí” thể hiện một quan niệm mới của Nhất Linh về con người hiện đại
lúc bấy giờ: Con người không còn răm rắp tuân theo những chuẩn mực chung về đạo đức, tâm
lí, mà họ có những phản ứng riêng, có khi táo bạo, bất ngờ đến vô lí, khó mà lí giải căn nguyên.
Bản thân Trương cũng thấy mọi sự vô lí ấy: chàng gặp và yêu Thu rất tình cờ, rất vô lí, và biết
đâu nàng cũng thế: “Hay có lẽ Thu cũng yêu chàng tự nhiên, yêu một cách vô lí như chàng yêu
Thu vô lí bấy lâu” [49, tr.199]. Suốt từ đầu đến cuối, Trương luôn sống trong cảm giác vô lí và
không biết. Thu hỏi: “Sao anh thụt két”, chàng đáp: “Không biết”, mà chàng không biết thật.
Chàng tự hỏi mình có thật sự yêu Nhan không, rồi tự trả lời “cũng không biết rõ”.
Đi sâu vào thế giới tâm linh, nhiều nhà văn đã không dừng ở thế giới hiện thực với ý thức
điều khiển, mà khơi sâu đến tiềm thức, vô thức của con người.
Tâm lí của nhân vật Raskolnikov là một thế giới hỗn mang, là thế giới của ý thức và vô
thức, hiện thực và giấc mơ. Trước khi giết người, Raskolnikov mơ về cảnh tượng khủng khiếp
và thương tâm khi một con ngựa già bị bọn người say tàn nhẫn hành hạ, đánh đập và giết chết
bằng thanh sắt. Sau khi giết người, chàng mơ những giấc mơ gần với sự thực: cảnh đánh đập, la
hét, khóc gào, máu đổ; cảnh đám đông xô lấn chỉ trỏ, cười nhạo chàng. Chỉ có duy nhất
Raskolnikov mơ về thời khắc khủng khiếp ấy, có những chi tiết thực, có những chi tiết khác đi:
lão lái buôn đi phía trước rồi núp đâu đó trong căn buồng đang sơn dở, ánh trăng rằm, bà già
ngồi trên ghế dựa, tiếng cười rũ rượi của bà ta khi Rasklonikov bổ rìu… Đó là những trang văn
đầy ám ảnh kì lạ. Nó như không thuộc thế giới của con người, vừa như đúng y với thế giới con
người. Nhà văn Dostoievski phải có kiến thức của một bác sĩ thần kinh, vừa có trải nghiệm của
một người bị bệnh động kinh giày vò triền miên mới có thể viết những trang tài tình như thế.
Ý thức và vô thức nhiều khi đan trộn vào nhau dẫn dắt hành vi của Raskolnikov. Có một
cái gì đó dẫn dắt bước chân anh ta đến lại nơi mình đã giết người, háo hức thử lại tiếng chuông
cửa, khoái trá khi nghe tiếng rè rè của nó. Ý thức bảo anh ta phải che giấu những bằng chứng
phạm tội của mình, nhưng vô thức khiến anh ta luôn có những lời nói nhỡ, những biểu hiện tố
cáo mình: lời thú tội luôn luôn muốn bật ra trên môi, lưỡi anh ta luôn muốn thè ra để trêu tức,
anh ta cất tiếng cười ghê rợn, toàn thân và môi run bần bật… Những trang viết của Dostoievski
đầy sức mê hoặc, khiến người đọc khi bị cuốn vào đó thì không tài nào dứt ra được. Nếu không
phải là tài năng thật sự, thì không thể có sự phân tích và miêu tả tâm lí thấu cùng như thế.
Trong tác phẩm Bướm trắng, nhà văn Nhất Linh cũng vận dụng vô thức thể hiện trong
giấc mơ để miêu tả tâm lí của nhân vật. Trương mơ một giấc mơ khủng khiếp, đó là cảnh Thu kề
dao vào cổ giết chàng, một dòng máu chảy ra lạnh ngắt. Nhất Linh tỏ ra am hiểu về giấc mơ:
không bao giờ người ta mơ đúng y như sự thật trong sự kiểm soát của ý thức. Ý nghĩ của
Trương là giết Thu, nhưng trong mơ thì ngược lại. Kẻ mưu đồ tội ác thường bị giày vò, ám ảnh,
luôn thấy bất an, ngay cả trong giấc ngủ.
Kí ức thuở ấu thơ trong sáng, thánh thiện thường trở về, đối lập gay gắt với tâm hồn hiện
tại cằn cỗi, đầy tội lỗi của kẻ mưu đồ phạm tội. Raskolnikov mơ về tuổi thơ khi tâm hồn thơ
ngây biết thương xót vô hạn con ngựa bị bọn người thú vật hành hạ chết. Trương nhớ lại mảnh
vườn rau yên bình xưa của mẹ, nơi có những con bướm trắng xinh xắn dập dờn bay. Thì ra cái
thiện, cái đẹp luôn luôn là hoài niệm tha thiết của con người, nó ùa về mạnh mẽ nhất khi người
ta đang muốn từ bỏ nó để đi theo ma lực của cái ác, cái xấu xa.
Cái chết thường xuyên ám ảnh tâm trí Trương, bởi vì chàng nghĩ mình bị bệnh nan y, và
lối sống hiện tại của chàng cũng “già cội như sắp chết”, sống bạt mạng liều lĩnh, không biết đến
ngày mai. Trương nằm mơ thấy mình chết và Thu mặc áo tang đi sau quan tài. Có khi hiện thực
hòa lẫn với giấc mơ khiến Trương như mê sảng, sống giữa cõi thực mà tưởng trong giấc mơ.
Trương gặp một đám ma trên phố, sau quan tài có nhiều người bạn của chàng, hỏi ra mới biết đó
là một người chết vì ho lao, lại có đủ trăm thứ bệnh, và Trương nghĩ: “Thế thì là mình rồi chứ
còn gì? Hay là đám ma mình thật, chính mình nằm trong áo quan.” [52, tr.224]
Vô thức đã xui khiến Trương trở lại sở làm sau khi ngồi tù, để sờ lên cái két sắt, bởi
“chàng có cái ý muốn kì khôi đến gần để được sờ vào cái tủ két một lần nữa” [52, tr.182]. Ý
thức nhắc nhủ Trương đừng để ai biết chàng là kẻ trộm cắp phải tù tội, nhưng vô thức luôn xui
chàng nói huỵch toẹt ra sự thật.
Và, như Đỗ Đức Hiểu đã viết : “Nhất Linh đi tới vùng ẩn giấu của tâm linh con người”
[38, tr.559], trong tiềm thức của Trương vẫn còn đọng lại hương vị của quê nhà sau bao tháng
năm hoang đàng chốn đô hội, đó là khi chàng nhớ đến một bà cô đã mất, thường gội đầu bằng
nước rễ hương bài, dù chàng không hề nghĩ tới bà suốt hai chục năm qua.
Tóm lại, ở chương này chúng tôi đã chứng minh rằng Trương là nhân vật đang trên hành
trình kiếm tìm bản ngã, là kiểu nhân vật chưa hoàn kết tính cách, nhà văn không định đoạt ở đầu
trang sách tâm tính của anh ta như thế nào, ngay cả những yếu tố bên ngoài có khả năng quy
đinh tính cách như ngoại hình, tiểu sử, địa vị cũng không có nốt. Tính cách nhân vật bộc lộ trong
quá trình tự ý thức, thể hiện bằng độc thoại nội tâm và dòng ý thức. Bướm trắng được xem là
tiểu thuyết tâm lí, nhưng tâm lí của Trương hết sức phức tạp, không theo một quy luật nào, vừa
có lí, vừa không có lí; nhà văn kết hợp giữa ý thức với vô thức, hiện thực với giấc mơ để miêu tả
tâm lí nhân vật. Trương là kiểu nhân vật rất mới trong văn học nước ta, nhưng không phải là kẻ
xa lạ đến từ phương Tây, mà anh ta đến từ hiện thực cuộc sống mới của xã hội Việt Nam, vì thế
Trương thu hút, quyến rũ người đọc ở chất người rất thật của anh ta chứ không phải bởi kiểu
nhân vật mới lạ, khác thường như trong tiểu thuyết Dostoievski.
KẾT LUẬN
1. Như vậy là chúng tôi đã giải quyết đề tài của mình bằng cách đi từ việc tìm tư liệu xác
định nhà văn Việt Nam Nhất Linh có sự tiếp nhận và ảnh hưởng văn học từ đại văn hào Nga
Dostoievski, từ đó đi tìm dấu ấn tiểu thuyết Dostoievski trong Bướm trắng của Nhất Linh ở hai
phương diện: kết cấu – cốt truyện và nghệ thuật xây dựng nhân vật, bằng cách phân tích sâu tác
phẩm Bướm trắng và liên hệ, so sánh với một số tiểu thuyết tiêu biểu của Dostoievski để tìm
những nét tương đồng và khác biệt.
2. Mặc dù đã có nhiều nhà nghiên cứu khẳng định chắc chắn rằng Bướm trắng có chịu
ảnh hưởng từ tiểu thuyết Dostoievski, rõ nét nhất là từ Tội ác và hình phạt, nhưng theo chúng tôi
được biết thì chưa có công trình nào đi sâu chuyên riêng về vấn đề này. Vì thế, luận văn của
chúng tôi đã góp phần chứng minh cụ thể hơn sự chịu ảnh hưởng tích cực của Nhất Linh từ
tiểu thuyết Dostoievski. Chúng tôi nhấn mạnh ý này vì trong quá trình làm đề tài, chúng tôi
không sa đà vào việc tìm những chi tiết trong tác phẩm Bướm trắng giống với một vài tiểu
thuyết của Dostoievski, mà làm một công việc quan trọng và có giá trị hơn: nghiên cứu sự ảnh
hưởng văn học ở cấp độ cao, tức là về phương diện nghệ thuật.
Chúng tôi mạnh dạn khẳng định rằng Bướm trắng có kiểu kết cấu – cốt truyện phiêu lưu
tinh thần, một dạng kết cấu – cốt truyện tiêu biểu của tiểu thuyết Dostoievski nói riêng, của tiểu
thuyết hiện đại nói chung. Để làm sáng tỏ được điều đó, chúng tôi làm phương pháp bắc cầu:
chứng minh nhân vật Trương là kiểu nhân vật phiêu lưu về tinh thần. Về việc định dạng
Trương là kiểu nhân vật phiêu lưu thì đã có nhiều người xác nhận (như Đỗ Đức Hiểu, Phạm Thị
Phương, Dương Thị Hương), nhưng nói thêm kiểu nhân vật phiêu lưu tinh thần thì đây là một ý
kiến mới của chúng tôi.
Theo đó, chúng tôi bàn sâu hơn về nhân vật nam chính của tác phẩm: Nhân vật trên hành
trình kiếm tìm bản ngã thông qua kiểu nhân vật chưa hoàn kết tính cách và nhân vật tự ý thức.
Đây là kiểu nhân vật rất đặc trưng của Dostoievski, tuy nhiên nhân vật của Nhất Linh vẫn thú vị
đối với người đọc vì nhà văn không vay mượn hình dáng của ai, mà tự nặn đắp nên Trương từ
bộn bề cuộc sống Việt Nam. Và, chúng tôi thấy rằng trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật,
Nhất Linh đã có sử dụng một số kĩ thuật miêu tả tâm lí hiện đại, kết hợp với phương pháp truyền
thống, tạo nên một kiểu tâm lí “lạ mà quen” trong văn học Việt Nam.
3. Đồng thời, khi khảo sát vấn đề này, chúng tôi đã phân tích khá sâu một số phương diện
quan trọng của tiểu thuyết Bướm trắng theo hướng tiếp cận một tiểu thuyết hiện đại – đó là công
việc của chuyên ngành văn học Việt Nam, nhưng theo chúng tôi khảo sát thì chưa có công trình
nghiên cứu nào chuyên riêng về tác phẩm thành công nhất này của Nhất Linh. Với luận văn của
mình, chúng tôi muốn góp tiếng nói khiêm nhường một lần nữa khẳng định vị trí tiên phong của
Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam, đồng thời khẳng định vai trò quyết
định của văn học phương Tây đối với những nhà cách tân ưu tú thời kì gia tốc 1930 – 1945.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huỳnh Phan Anh (1999), Không gian và khoảnh khắc văn chương, Nxb Hội nhà văn, Hà
Nội.
2. Huỳnh Phan Anh, Vũ Hoàng Chương, Trần Văn Bang, Vũ Bằng (1999), Hoài niệm về
Nhất Linh, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
3. Bakhtin, M. (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch Trường viết văn
Nguyễn Du, Hà Nội.
4. Bakhtin, M. (1993), Những vấn đề thi pháp của Dostoievski, Trần Đình Sử và một số
người khác dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Bùi Xuân Bào (2007), "Nhất Linh hay khuynh hướng lãng mạn phản kháng", Tự lực
văn đoàn, trào lưu – tác giả, Hà Minh Đức chủ biên, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Bogdanov, V. (2000), "Bielinski và Dostoievski", Sáng tác của Dostoievski - những tiếp
cận từ nhiều phía, Lê Sơn tuyển chọn, Nxb Thông tin KHXH, Hà Nội.
7. Huy Cận (1989), “Tự lực văn đoàn đã có đóng góp lớn vào văn học Việt Nam”, đặc san
báo Giáo viên nhân dân, số 7.
8. Nguyễn Huệ Chi (2004), “Bướm Trắng”, Từ điển văn học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
9. Trương Chính (2007), “Trở lại với các cuốn tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn”, Tự lực
văn đoàn – Trào lưu, tác giả, Hà Minh Đức khảo luận và tuyển chọn, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
10. Đỗ Hồng Chung và những người khác (1997), Lịch sử văn học Nga, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
11. Trịnh Chuyết (1964), Từ điển danh nhân, Sài Gòn.
12. Đào Ngọc Chương (2003), Thi pháp tiểu thuyết và sáng tác của Ernest Hemingway,
Nxb Đại học quốc gia, Tp Hồ Chí Minh.
13. Phạm Vĩnh Cư (1982), "Lời giới thiệu", Tội ác và hình phạt, Nxb Văn Học, Hà Nội.
14. Trương Đình Cử (1973), “Lời giới thiệu tác phẩm”, Tội ác và hình phạt, Nxb Khai Trí,
Sài Gòn.
15. Nguyễn Văn Dân (1998), Lí luận văn học so sánh, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
16. Nguyễn Văn Dân (1997), “Dấu ấn phương Tây trong văn học Việt Nam hiện đại – Vài
nhận xét tổng quan”, Tạp chí văn học, số 2.
17. Trọng Đạt (2003), Những tác phẩm cuối cùng của Nhất Linh, Nxb Đại Nam, Sài Gòn.
18. Dostoievski, F (2007), Anh em nhà Karamazov, Nxb Lao động, Hà Nội.
19. Dostoievski, F. (2000), Tội ác và hình phạt, Cao Xuân Hạo dịch. Nxb Phụ nữ.
20. Dostoievski, F (1966), Hồi kí viết dưới hầm, Thạch Chương dịch, Nxb Văn, Sài Gòn.
21. Dostoievski, F (1974), Đầu xanh tuổi trẻ, Vũ Trinh dịch, Nxb Nguồn sáng, Sài Gòn.
22. Đỗ Đức Dục (1988), “Stendhal và Dostoievski – hai bậc thầy của tiểu thuyết tâm lí”,
Tham luận đọc tại hội thảo ở Huế.
23. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiêu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
24. Đặng Anh Đào, Hoàng Nhân, Lương Duy Trung và một số tác giả khác (1999), Văn học
phương Tây, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung,… (2000), Văn học
Viêt Nam (1900 – 1945), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
26. Phan Cự Đệ (1990), Tự lực văn đoàn – con người và văn chương, Nxb Văn học, Hà
Nội.
27. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
28. Phan Cự Đệ (1997), Văn học lãng mạn Việt Nam, Nxb Giáo dục.
29. Hà Minh Đức (2007), Tự lực văn đoàn, trào lưu – tác giả, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Hoàng Thiệu Khang (1994), “Chúng ta – hôm nay đọc Dostoievski – hôm qua”, Cảm
nhận và suy tưởng, Nxb Văn học.
31. Kundera, K. (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Đà Nẵng, Đà
Nẵng.
32. Vu Gia (1995), Nhất Linh trong tiến trình hiện đại văn học, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
33. Gide, A. (2000), "Người quy tụ trái tim Nga", Sáng tác củaDostoievski - những tiếp cận
từ nhiều phía, Nxb Thông tin KHXH, Hà Nội.
34. Gide, A (1974), Dostoievski với chân trời văn học Nga, Nxb An Tiêm, Sài Gòn.
35. Granin, D. (2000), "Những bài học của Dostoievski", Sáng tác của Dostoievski - những
tiếp cận từ nhiều phía, Nxb Thông tin KHXH, Hà Nội.
36. Grossman, L (1998), Dostoievski – Cuộc đời và sự nghiệp, Nxb Văn học, Hà Nội.
37. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lí luận văn học – vấn đề và suy nghĩ,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Phan Thu Hiền (1999), Sử thi Ấn Độ, tập 1, Mahabharata, Nxb Giáo dục, Tp Hồ Chí
Minh.
39. Đỗ Đức Hiểu (2007), "Tiểu thuyết Nhất Linh", Tự lực văn đoàn, trào lưu – tác giả, Nxb
Giáo dục. Hà Minh Đức chủ biên.
40. Howe, I. (2000), "Dostoievski: Quan điểm về sự cứu rỗi", Sáng tác của Dostoievski -
những tiếp cận từ nhiều phía, Nxb Thông tin KHXH, Hà Nội.
41. Đỗ Kim Hồi (1996), “Đọc Bướm trắng của Nhất Linh”, Tạp chí Văn học, số 10.
42. Mai Hương tuyển chọn (2000), Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, Nxb
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
43. Kotylova, T. (1965), “Độc thoại nội tâm và dòng ý thức”, Tạp chí Những vấn đề văn
học (Nga), Bản dịch tiếng Pháp của Claude Prévost, Nguyễn Tài Long dịch, số 1, tr.
179 – 196.
44. Khrapchenko, M. (2000), "Dostoievski và di sản văn học của ông", Sáng tác của
Dostoievski - những tiếp cận từ nhiều phía, Nxb Thông tin KHXH, Hà Nội.
45. Khravchenko, M. (1980), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học,
Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
46. Nguyễn Hoành Khung (1989), “Lời giới thiệu”, Văn xuôi lãng mạn Việt Nam, tập 1,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
47. Thạch Lam (1988), "Theo dòng", Tuyển tập Thạch Lam, Nxb Văn học, Hà Nội.
48. Nguyễn Hiến Lê (1960), “Dostoievski – một kẻ suốt đời chịu đau khổ để viết”, tạp chí
Bách Khoa, số 82, 83, Sài Gòn.
49. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
50. Phong Lê (1996), “Tố Tâm với nền tiểu thuyết mới và giòng văn xuôi lãng mạn Việt
Nam”, Tạp chí văn học, số 8.
51. Nhất Linh (1996), "Viết và đọc tiểu thuyết", Khảo về tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn.
Vương Trí Nhàn sưu tầm, biên soạn.
52. Nhất Linh (1989), Bướm trắng, Nxb tổng hợp An Giang.
53. Nhất Linh (1992), Đoạn tuyệt, Nxb ĐH và GD chuyên nghiệp.
54. Phương Lựu chủ biên (1986-1988), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
55. Phương Lựu (1995), “Đôi điểm khác biệt giữa lí luận văn học Đông – Tây”, Tạp chí văn
học, số11.
56. Phương Lựu (1996), Tiếp nhận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
57. Mizanishkova, T. (2000), "Sáng tác của Dostoievski trong sự đánh giá của giới phê bình
tôn giáo - triết học Nga", Sáng tác của Dostoievski - những tiếp cận từ nhiều phía,
Nxb Thông tin KHXH, Hà Nội.
58. Nguyễn Thị Hoàng Mai (2008), “Tiểu thuyết Nhất Linh trong và sau Tự lực văn đoàn”,
luận văn thạc sĩ, ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
59. Nguyễn Đăng Mạnh (1997), “Quá trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam nửa đầu thế
kỉ XX”, Tạp chí văn học, số 5.
60. Mai Đức Ngọc (2004), “Hình tượng “con người nhỏ bé” trong tiểu thuyết “Tội ác và
hình phạt” của F. M. Dostoievski”, khóa luận cử nhân, Khoa ngữ văn trường ĐH Dân
lập Văn Hiến.
61. Nguyên Ngọc (2007), “Tự lực văn đoàn định hình cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại”,
Tự lực văn đoàn – Trào lưu, tác giả, Hà Minh Đức khảo luận và tuyển chọn, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
62. Phạm Thế Ngũ (1988), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3, Văn học hiện đại
1862 – 1945, Nxb Đồng Tháp tái bản.
63. Vương Trí Nhàn (1996), Khảo về tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn.
64. Hoàng Nhân (1998), Phác thảo quan hệ văn học Pháp với Văn học Việt Nam hiện đại,
Nxb Mũi Cà Mau.
65. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Tp HCM.
66. Phạm Thị Phận (2006), “Nho phong – Đoạn tuyệt – Bướm trắng trong hành trình tiểu
thuyết Nhất Linh”, luận văn thạc sĩ, ĐHSP TP HCM.
67. Võ Phiến (1999), Văn học miền Nam, truyện 2, Nxb Văn nghệ, Ca Hoa Kì.
68. Phạm Thị Phương (1995), "Văn học Nga tại các thành thị miền Nam giai đoạn 1954-
1975", Luận văn cao học, Khoa Ngữ văn ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
69. Phạm Thị Phương (1996), "Những cơ sở cho việc tiếp nhận Dostoievski ở miền Nam
Việt Nam trước 1975", Kỉ yếu Hai mươi năm một chặng đường nghiên cứu, Khoa Ngữ
văn, ĐHSP TPHCM.
70. Phạm Thị Phương (1999), "Những tiếp xúc đầu tiên với Dostoievski của độc giả Sài
Gòn", Kỉ yếu khoa học, Khoa Ngữ văn ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
71. Phạm Thị Phương (2002), "Vấn đề tiếp nhận Dostoievski tại Việt Nam", Luận văn tiến
sĩ, Viện KHXH TP Hồ Chí Minh.
72. Thế Phong (2000), “Nhất Linh”, Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, Mai
Hương tuyển chọn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
73. Lê Sơn (2001), "Góc tiếp nhận Dostoievski trên bình diện so sánh", Văn học so sánh- Lí
luận và ứng dụng, Nxb KHXH, HN.
74. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
75. Trần Đình Sử (2003), Tự sự học – một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb ĐHSP, Hà Nội.
76. Văn Tâm (1991), Văn học Việt Nam 1930 – 1945, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
77. Hoài Thanh – Hoài Chân (1999), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
78. Trịnh Vân Thanh ( 1967), Giảng luận Việt văn, Nxb Hồn Thiêng, Sài Gòn.
79. Bạch Năng Thi (1961), “Nhất Linh – Tác giả tiêu biểu”, Văn học Việt Nam 1930 –
1945, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
80. Tràng Thiên (1963), Tiểu thuyết hiện đại, Nxb Thời Mới, Sài Gòn.
81. Nhật Thịnh (1970), Chân dung Nhất Linh, Đại Nam, Sài Gòn.
82. Lâm Nhật Thuận (2000), “Tiếp nhận văn học (qua một số tiểu thuyết của Khái Hưng –
Nhất Linh – Hoàng Đạo)”, khóa luận cử nhân, Khoa ngữ văn ĐHSP Tp HCM.
83. Lộc Phương Thủy (1999), Từ một góc nhìn về giao lưu văn học Việt – Pháp, Nxb
KHXH, Hà Nội.
84. Lê Ngọc Trà (1990), Lí luận và văn học, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
85. Lê Ngọc Trà chủ biên (1994), Mĩ học đại cương, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
86. Hoàng Trinh (1985), “Văn học so sánh và những vấn đề tiếp nhận văn học”, Tạp chí
văn học, số4.
87. Todorov, T. (2004), Mikhail Bakhtin – Nguyên lí đối thoại, Đào Ngọc Chương dịch, Nxb
ĐH Quốc gia, TP Hồ Chí Minh.
88. Nguyễn Tuân (2000), "Đốt-x-tôi", Sáng tác của Dostoievski - những tiếp cận từ nhiều
phía, Lê Sơn chủ biên, Nxb Thông tin KHXH, Hà Nội.
89. Từ điển văn học (2004), Nxb Thế giới, Hà Nội.
90. Thế Uyên (1968), Những người đã qua, Nguyệt san Văn Uyển số 6, Sài Gòn.
91. Zweig, S. (1996), Ba bậc thầy: Dostoievski, Balzac, Dikens, Nguyễn Dương Khư dịch,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
TÀI LIỆU TỪ INTERNET:
92.
93.http:archive.damau.org/Đọc lại Nhất Linh.html
94.
95.
96.àVănNhấtLinh,TácgiảTácphẩm/truyen.asp?
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5234.pdf