Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn hội nhập kinh tế

Lời mở đầu Trải qua nhiều chặng đường lịch sử hào hùng,quyết liệt,hi sinh xương máu chúng ta mới có được hiện tại tươi đẹp hôm nay.Tuổi trẻ Việt Nam tự hào với lịch sử vẻ vang,tự hào với mảnh đất mình đang sống.Đón nhận tất cả thành quả của ông cha để lại tuổi trẻ hôm nay đang khao khát đưa đất nước hoà nhập vào chuyến tàu phát triển của thế giới. Bất kể sự phát triển nào muốn có tốc độ cao,bền vững đều phải có gốc cô sở kiên cố.Đối với quá trình phát triển và hội nhập kinh tế ở Việt Nam thì g

doc41 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1451 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn hội nhập kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốc cơ sở chính là con người,đây là yếu tố trung tâm,quan trọng nhất.Trong các kì Đại Hội,Đảng luôn nhấn mạnh vị trí quan trọng của con người,đào tạo và phát triển nguồn nhân lực,xem đó là quốc sách hàng đầu trong giai đoạn mới.Tiềm năng của nguồn nhân lực Việt Nam vô cùng to lớn và cần được khai thác,bồi dưỡng hợp lý để phát huy lợi thế của mình.Những cơ hội và thách đặt ra cho nguồn nhân lực Việt Nam trong thế kỷ 21 này cũng chính là những cơ hội và thách thức của cả nền kinh tế quốc dân.Chúng ta phải đầu tư theo phương thức nào hợp lý nhất cho nguồn nhân lực là điều mà Đảng,Nhà nước,mọi công dân đếu quan tâm đặc biệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế.Chính vì muốn được tìm hiểu sâu hơn về thực trạng nguồn nhân lực nước ta,vai trò to lớn của nó với thời kỳ hội nhập kinh tế mà chúng tôi chọn đề tài:”Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn hội nhập kinh tế”. Trong bài viết này chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu các vấn đề quan trọng liên quan đến đào tạo,phát triển nguồn nhân lực từ đó rút ra những giải phát,kiến nghị cho sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực nước nhà.Với mục đích như vậy bài viết này bao gồm ba chương chính: CHƯƠNG I: Những cơ hội và thách thức của tiến trình hội nhập kinh tế với nguồn nhân lực Việt Nam. CHƯƠNG II: Thực trạng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta. CHƯƠNG III: Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn hội nhập kinh tế. Bài viết này là sự cố gắng,nỗ lực lớn của chúng tôi song với trình độ hiện có chắc chắn sẽ còn mang nhiều thiếu sót.Chúng tôi mong muốn được sự góp ý và bổ sung của thầy cô và các bạn. Nhóm sinh viên Chương I: Những cơ hội và thách thức của tiến trình hội nhập kinh tế với nguồn nhân lực việt Nam I/ Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay 1 Những thành tựu và khó khăn Nước ta đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu ,các cuộc đấu tranh kéo dài đã làm cho khoảng cách của chúng ta và các nước trên thế giới và trong khu vực còn khá xa.Nhưng từ khi đổi mới chúng ta đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể ,làm cơ sở cho chúng ta hội nhập cùng thế giới ,mở ra một thời kì mới của phát triển kinh tế nói chung.Thành tựu to lớn nhất là đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng và bước vào thời kì phát triển ,tăng trưởng kinh tế ngày càng cao:tốc độ tăng GDP bình quân thời kì 1986-1990 là 3,9%;1991-1995 là 8,2%;1996-2000 là 7%.Lạm phát giảm từ 774,6% năm 1986 xuống 67,4%: năm 1990 còn 12,7% ;vào năm 1995 còn 12,7% và 0,1% năm 1999; 0% năm 2000,giá trị đồng tiền ổn định trong suốt thập kỉ 90 tạo điều kiện cho các cá nhân ,tổ chức đầu tư sản xuất.Các ngành đều khởi sắc và tăng trưởng khá. (Nguồn:Trích tạp chí lý luận chính trị- số 4/2001). Trong công nghiệp:sản xuất các ngành công nghiệp then chốt đã phục hồi và phát triển khá ổn định,đã xuất hiện ngành sản xuất mới là khai thác dầu thô.Giá trị sản xuất công nghiệp tăng:14,2% vào 1996,13,8% vào năm 1997,12,1% vào 1998,10,4% năm 1999,15,5% năm 2000.Không chỉ tăng trưởng cao mà sản xuất công nghiệp còn xuất hiện xu hướng đa ngành ,đa sản phẩm với sự tham gia của các thành phần kinh tế quốc doanh,ngoài quốc doanh và công nghiệp có vốn FDI trong đó công nghiệp quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Trong nông nghiệp thành tựu nổi bật và to lớn nhất là đã giải quyết vững chắc vấn đề lương thực,bảo đảm an ninh lương thực quốc gia,biến Việt Nam từ nước thiếu lương thực triền miên thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới liên tục từ năm 1989 đến nay.Mỗi năm sản lượng lương thực tăng 5%(1,3 triệu tấn) cao hơn tốc độ tăng dân số(1,4%) nên lương thực bình quân nhân khẩu/năm cũng tăng: từ 280 kg năm 1987 lên 470 kg năm 2001.Thị trường hàng hoá và dịch vụ đã khởi sắc trên phạm vi cả nước,thị trường đầy ắp hàng hoá và dịch vụ và đã xuất hiện xu hướng cung vượt quá cầu từ nhiều năm nay.Phương thức mua bán thuận lợi với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế.Thị trường sôi động,sức mua của xã hội ngày càng tăng và năm 2000 đạt 200 nghìn tỷ,tăng 94% so với 1995.Hoạt động kinh tế đối ngoại có nhiều chuyển biến tích cực nhất là những năm gần đây .Kim ngạch xuất khẩu bình quân mỗi năm từ 570 triệu USD thời kì 1981-1985 tăng lên 1370 triệu thời kì 1986-1990,3401 triệu thời kì 1991 –1995 và 5646 triệu thời kì 1996-2000 ,năm 2000 đạt trên 14 tỷ USD.Không chỉ tăng về giá trị,cơ cấu xuất nhập khẩu đã có nhiều chuyển biến tích cực,tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu qua chế biến công nghiệp tăng,hàng nguyên liệu chưa qua chế biến giảm.Đến nay nước ta đã có quan hệ thương mại với trên 150 quốc gia và vùng lãnh thổ.Hoạt động đầu tư nước ngoài bắt đầu sôi động, năm 1999 khu vực FDI đã tạo ra 10,7% GDP ,25% giá trị xuất khẩu,góp phần quan trọng để phát huy nội lực của toàn bộ nền kinh tế,bảo vệ chủ quyền quốc gia trong điều kiện hội nhập và mở cửa.Bộ mặt đất nước thay đổi theo hướng văn minh,hiện đại,đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện,công bằng xã hội được bảo đảm. Bên cạnh những thành tựu đạt được thì vẫn còn những khó khăn và hạn chế.Cụ thể là tính ổn định và vững chắc của tốc độ tăng trưởng chưa cao,chất lượng ,hàng hoá,dịch vụ còn kém sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu.Tình trạng sản xuất còn tự phát,chưa bám sát nhu cầu thị trường vì thế dẫn đến cung vượt quá cầu.Cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế còn dịch chuyển chậm nhất là ở nông thôn dẫn đến lao động thừa,việc làm thiếu,thu nhập thấp.Đồng thời tiến độ triển khai các dự án chậm, môi trường đầu tư chưa thông thoáng nên sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước chưa cao;tiến độ giải phóng mặt bằng quá chậm,đây là thách thức lớn đối với các dự án. Thêm vào đó ngân sách nhà nước tuy đạt dự toán nhưng tính ổn định,vững chắc chưa cao.Nguồn thu chủ yếu dựa vào thu tài nguyên (dầu thô) và thuế nhập khẩu.Đây là một thách thức lớn của nền tài chính quốc gia những năm tới khi nước ta thực hiện lộ trình thuế suất AFTA và gia nhập WTO.Sức mua toàn xã hội tăng chậm,nhất là khu vực nông thôn dẫn đến chỉ số giá tiêu dùng cả năm duy trì trong tình trạng giảm phát,đây là năm thứ hai chỉ số giá tiêu dùng giảm.Lợi thế về lao động sẽ có xu hướng mất dần.Do trước mắt giá nhân công còn rẻ và đang có thị trường phát triển nên ngành may mặc và da giầy là hai ngành có lợi thế cạnh tranh cao nhất .Tuy nhiên ,lợi thế về nhân công rẻ đang mất dần vì giá nhân công của các ngành này hiện đang bằng và cao hơn một số nước trong khu vực .Hơn nữa để đào tạo nghề,nâng cao kĩ năng, trình độ tay nghề cần phải chi phí đầu tư lớn,điều này sẽ làm cho giá thành sản phẩm tăng lên,ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của hàng hoá.Khó khăn nữa là mặc dù thời kì hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế đến gần song tư tưởng đòi bảo hộ,chưa tích cực chuẩn bị còn phổ biến ở nhiều doanh nghiệp. Nhìn lại quá trình đổi mới ở nước ta,thành tựu thu được không phải là nhỏ nhưng bên cạnh đó thách thức và khó khăn vẫn còn nhiều .Bởi vậy chúng ta phải biết cách phát huy những lợi thế,khắc phục những khó khăn để tạo điều kiện thuận lợi giúp nước ta đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế thông qua quá trình hội nhập. 2 Xu hướng phát triển của nước ta hiện nay và tác động đến nguồn nhân lực . Từng ngày sự thay đổi và chuyển dịch cơ cấu đang diễn ra,cả trong công nghiệp cũng như trong nông nghiệp để phục vụ cho sự phát triển của đất nước và hội nhập kinh tế với quốc tế và trong khu vực. Trong công nghiệp có sự chuyển dịch nội bộ ngành và cơ cấu theo theo vùng.Trong cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp khai thác có xu hướng giảm tương đối so với các ngành công nghiệp khác,năm 1991 ngành này chiếm 15% trong GDP công nghiệp,nhưng 2000 giảm xuống còn 13,4%. Công nghiệp chế biến có xu hướng tăng dần từ 77,4% lên trên 80% năm 2000. Điều này đã thu hút được một lượng lao động đáng kể đặc biệt là dệt may và da giày, đã tạo công ăn việc làm cho người lao động, những công việc không mất thời gian đào tạo nhiều. Cơ cấu công nghiệp theo vùng cũng khá rõ, phân bố công nghiệp chưa đều, chủ yếu tập trung ở Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Hồng, các vùng còn lại hầu như chưa phát triển. Tỷ trọng công nghiệp các vùng năm 2000 là: Đông Nam Bộ 54%, đồng bằng sông Hồng 18,5%; đồng bằng sông Cửu Long 11%, Đông Bắc 7,5%; Duyên Hải miền Trung 5%; Bắc Trung Bộ 3,4%: Tây Nguyên 0,6%; Tây Bắc 0,3%. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến sự phân bố nhân lực bị ảnh hưởng và ảnh hưởng đến hình thức, phương pháp, qui mô đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trên cả nước cũng như ở từng vùng, từng địa phương. Mặc dù chiếm 35% trong GDP nhưng khu vực công nghiệp chỉ chiếm trên dưới 13% tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế, mặc dù vốn đầu tư đã tăng lên rất nhanh điều đó chứng tỏ khu vực công nghiệp chưa phải là nơi thu hút lao động giải quyết công ăn việc làm. Còn bên nông nghiệp mặc dù đã có những chuyển biến, năng suất tăng lên nhưng lượng lao động dư thừa vẫn còn nhiều, thêm vào đó lại có nhiều người thất nghiệp theo mùa vụ, trong từng giai đoạn nên dẫn đến tình trạng người không có việc làm đời sống vẫn khó khăn.Gần 70% lực lượng lao động có việc làm trong cả nước vẫn tập trung trong nông nghiệp,chủ yếu là trồng trọt.Các ngành công nghiệp -xây dựng tỷ trọng lao động đã được nâng lên song còn rất chậm,đến nay mới đạt trên 10%;ngành dịch vụ có tăng,nhưng cũng chỉ chiếm trên 20%.Riêng ở nông thôn,tỷ lệ lao động thuần nông năm 1998 vẫn chiếm 80%,lao động làm dịch vụ chiếm trên 10%,còn lại lao động công nghiệp chỉ chiếm dưới 10%.Với cơ cấu trên cho thấy,quá nhiều lao động tập trung trong nông nghiệp-ngành có năng suất lao động thấp nhất trong xã hội.Điều đó sẽ ảnh hưởng đến quy mô tốc độ tăng trưởng GDP và việc nâng cao thu nhập,đời sống của nhân dân ta,trước hết là của nông dân ở nông thôn.Từ đó,cũng ảnh hưởng đến sức mua của dân cư,ảnh hưởng chủ trương của Đảng và Nhà nước về “kích cầu” nhằm phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Cùng với việc chuyển dịch lao động theo ngành kinh tế chậm,việc phân bổ lao động giữa các vùng, tiểu vùng vẫn còn nhiều điều phải quan tâm. mặc dù việc di chuyển dân cư và lao động có khá hơn trong mấy năm gần đây song nhìn chung vẫn còn tự phát và thiếu hiệu quả. Điều này thể hiện ở hiện tượng di dân tự do, người đi xây dựng vùng kinh tế mới quay về quê cũ. II- Tiến trình hội nhập kinh tế trên thế giới và trong khu vực 1. Khái niệm về hội nhập Ngày nay các quốc gia trên toàn thế giới trong quá trình phát triển đã từng bước tạo lập nên các mối quan hệ song phương và đa phương nhằm tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế với nhiều mức độ khác nhau, nhằm đưa lại lợi ích thiết thực cho mỗi bên. Chính các liên kết kinh tế đó là sự biểu hiện rõ nết của hai xu hướng là khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức sôi động và đặc biệt quan trọng trong những năm gần đây. Hội nhập kinh tế chính là sự đan xen hay dung hợp lẫn nhau về thị trường và kinh tế giữa các nước thành một thể chế diễn ra trên phạm vi thế giới. Hội nhập kinh tế là sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của sự phát triển trực tiếp đầu tư từ nước ngoài, là sự xoá mờ biên giới về lĩnh vưc kinh tế, thâm nhập vào thị trường các quốc gia khác nhằm tìm kiếm lợi nhuận, nó xuất phát từ mục tiêu cạnh tranh. Hội nhập kinh tế cũng có mức độ khác nhau từ miễn thuế quan đến giảm một phần thuế, tự do hoá thương mại đến tự do hoá đầu tư, dịch vụ, tự do hoá kinh tế trong quan hệ hai bên đến nhiều bên, trong khu vực đến toàn cầu.Các quốc gia dù muốn hay không dần dần đều buộc phải hội nhập vào các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu, phải có chính sách và chiến lược thích ứng với quá trình hội nhập kinh tế 2. Xu thế trên thế giới và trong khu vực Hội nhập kinh tế là một xu thế khách quan. Trong hơn một thập kỉ lại đây xu hướng hội nhập kinh tế có sự gia tăng mạnh mẽ gắn liền với sự phát triển của khoa học- công nghệ, sự chấm dứt chiến tranh lạnh, thế giới chuyển sang thời kỳ mới: hoà bình, hợp tác và phát triển, sự gia tăng hàng loạt vấn đề toàn cầu như môi trường, dân số... . Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế đặt ra yếu tố khách quan đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Trong bối cảnh này không thể phát triển nếu như không mở cửa hội nhập. Mở rộng thị trường kích thích sản xuất, nhiều sản phẩm với mẫu mã kiểu dáng và chất lượng khác nhau, không chỉ tiêu thụ trong nước mà phải hướng ra thị trường nước ngoài. Do đó các quốc gia phụ thuộc với nhau về kinh tế. Làm cho nền kinh tế của mỗi nước bị cột chặt vào nền kinh tế chung đồng thời đó cũng là cơ hội để củng cố vị thế của các nước nếu như nước đó giành được vị thế tối ưu trong phân công lao động quốc tế. Những hiện tượng mới như hệ thống thông tin, truyền hình vượt biên quốc gia mang tính toàn cầu; hàng rào thuế quan bị rỡ bỏ hoặc hạ thấp; sự dịch chuyển hàng hoá, dịch vụ, tiền tệ, lao động thông thoáng, thậm chí ở một số khu vực rộng lớn công dân giữa cá nước qua lại không cần hộ chiếu. Điều đó vừa là cơ hội vừa là sự thách thức đối với mỗi quốc gia, đồng thời nó cũng là động lực để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển. Còn trong khu vực thì các nước cũng liên kết với nhau để cùng phát triển. Như liên minh châu âu, mở ra triển vọng toàn bộ Châu Âu thành một thực thể, khu vực thương mại tự do Châu Âu (EFTA). Khu vực thương mại tự do Châu Mỹ (FTAA); khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ(NAFTA); Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN); Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á-Thái Bình Dương(APEC).Liên minh vì mục tiêu thúc đẩy sự tăng trưởng, tiến bộ xã hội và phát triển văn hoá trong khu vực thông qua các nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng, hợp tác nhằm tăng cường cơ sở vật chất cho một cộng đồng các quốc gia khu vực hoà bình và thịnh vượng. Trong khu vực Đông Nam á trải qua những năm tháng hợp tác phát triển cơ chế hợp tác và các lĩnh vực hợp tác cũng được hoàn thiện và mở rộng.Các nước thống nhất để đưa ra những quy định chung, những nguyên tắc về tự do thương mại.Với việc thực hiện liên kết theo kiểu AFTA rõ ràng năng lực hội nhập của ASEAN đối với các khu vực khác.Qua hợp tác nội bộ sẽ góp phần giảm bớt sự lệ thuộc vào các tổ chức và quốc gia bên ngoài và sự hợp tác này sẽ tạo đà cho việc tham gia hợp tác trong không gian rộng hơn như APEC và WTO.Việt Nam gia nhập ASEAN vào năm 1995,và sự kiện này cùng với việc bắt đầu thực hiện khu vực tự do ASEAN (AFTA) từ năm 1998 đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới của nước ta.Nội dung của AFTA là các thành viên cam kết loại bỏ hàng rào thuế và phi thuế đối với thương mại,tiến tới thực hiện tự do hoá thương mại trong vòng mười năm.Gia nhập AFTA đồng nghĩa với việc chúng ta đón nhận nhiều cơ hội nhưng kèm theo là những thách thức đối với nền kinh tế. Về cơ hội:Chúng ta mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu;ví dụ về xuất khẩu hàng dệt may,do lợi thế về giá nhân công rẻ nên sản phẩm được sức cạnh tranh;về nhập khẩu:ta nhập các thiết bị hiện đại,kinh nghiệm quản lý tiên tiến để phục vụ phát triển.Bên cạnh đó chúng ta còn thu hút nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài nhằm mở rộng và phát triển các ngành,nghề chưa đủ vốn.Tạo thuận lợi cho việc mở rộng và phát triển kinh tế,thương mại với nhiều tổ chức kinh tế,tài chính,tiền tệ quốc tế nhằm chủ động hội nhập. Về thách thức:Hiệu quả,chất lượng sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp còn yếu kém (theo tổ chức diễn đàn kinh tế thế giới WEF xếp năng lực cạnh tranh của Việt Nam:62/75 nước;lĩnh vực dịch vụ của ta còn quá yếu kém;luật pháp,chính sách,cơ chế quản lý kinh tế còn chưa hoàn thiện đồng bộ;trình độ của nguồn nhân lực còn hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu;bộ máy quản lý còn cồng kềnh,chưa chặt chẽ,thủ tục hành chính rườm rà;hội nhập nhưng phải chú trọng độc lập,chủ quyền đất nước và định hướng XHCN.Hội nhập kinh tế nhằm phục vụ lợi ích cho quốc gia mình. Tuy vậy do những khác biệt về trình độ phát triển,về nguồn lực sản xuất đã đưa lại những lợi ích khác nhau khi tham gia vào quá trình này.Nhìn chung hội nhập kinh tế là cần thiết và cũng là yêu cầu của sự phát triển,đặc biệt đối với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam hiện nay.Chúng ta trên thực tế đã tham gia hội nhập quốc tế và khu vực nhưng mức độ và quy mô còn hạn chế.Do nhu cầu phát triển nền kinh tế hiện tại và trong tương lai cũng như xu thế phát triển chung của thế giới đã đến lúc chúng ta cần đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.Kết hợp một cách hợp lý giữa nguồn nhân lực,tài lực,kết cấu hạ tầng,tài nguyên để phát triển,hoà nhập với xu thế hội nhập toàn thế giới. 3. Tác động đến nguồn nhân lực :cơ hội và thách thức Hội nhập kinh tế là cần thiết trong điều kiện hiện nay.Nó tạo ra những cơ hội thuận lợi để tăng trưởng và phát triển kinh tế.Đối với nguồn nhân lực nó cũng tạo ra những thuận lợi đáng kể.Như chúng ta đã biết,Việt Nam là một quốc gia đang phát triển,là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới,song nước ta được đánh giá cao về chỉ số nguồn nhân lực:Với thị trường gần 80 triệu dân,trong đó tỷ lệ ngựời trong độ tuổi lao động cao,nguồn lao động dồi dào,có trình độ văn hoá,cần cù lao động và đặc biệt giá lao động rẻ. Đó là lợi thế so sánh có ý nghĩa trong quá trình tham gia hội nhập.Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang quá độ sang nền kinh tế trí tuệ,khoa học công nghệ phát triển mạnh,trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,chi phối mọi lĩnh vực kinh tế xã hội,nhưng cũng không thể thay thế vai trò của nguồn lực lao động. Hơn nữa,bản thân nguồn lực lao động còn là nhân tố sáng tạo ra công nghệ thiết bị và sử dụng chúng trong quá trình phát triển kinh tế.Trên thực tế nhiều công ty nước ngoài vào Việt Nam một trong những lý do quan trọng là tận dụng nguồn lao động dồi dào,rẻ và có khả năng tiếp thu công nghệ mới ở Việt Nam.Theo đánh giá của các công ty khi phân tích lợi thế môi trường kinh doanh của các quốc gia ASEAN,Việt Nam đứng thứ 7 trong tổng số 10 quốc gia. Tuy vậy nếu xét riêng về yếu tố nguồn nhân lực,lợi thế của ta không thua kém Thái Lan,thậm chí còn vượt cả Inđônexia,Mianma.Chỉ số HDI của ta tuy chưa cao so với thế giới mới chỉ đạt 0,56 song nếu so với các quốc gia có thu nhập tương ứng thì ta lại ở nhóm cao ‘’ (Trích toàn cầu hoá kinh tế- tr153-NXB KHXH-2001.). Hội nhập kinh tế sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực của nước ta khai thông giao lưu với thế giới bên ngoài.Ta có thể qua hội nhập để xuất khẩu lao động qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu.Đồng thời tạo điều kiện để nhập khẩu lao động kỹ thuật cao,công nghệ mới mà hiện nay ta đang rất cần.Như vậy với lợi thế nhất định về nguồn nhân lực cho phép lựa chọn dạng hình phù hợp tham gia vào hội nhập và chính qua hội nhập để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam. Việt Nam trong điều hội nhập và toàn cầu hoá cùng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức.Cơ hội phát triển thực sự lớn lao nhưng bên cạnh đó thách thức cũng không nhỏ.Nguồn nhân lực cần cho sự phát triển trong thời kỳ hội nhập cần có tính chuyên nghiệp cao trong công việc, nó thể hiện ở trình độ nghề nghiệp tinh xảo, tinh thần kỷ luật lao động, sự say mê nghề nghiệp, hiểu rõ vai trò và vị trí của mình trong tổ chức để có thể đóng góp hết khả năng của mình trong công việc. Đó là khả năng hoà nhập và năng lực cạnh tranh, họ cần có khả năng tư duy độc lập và sáng tạo trong công việc, ý trí mạnh dạn thay đổi và tìm tòi cái mới, tránh dập khuôn theo lối mòn cũ. Bên cạnh đó, người lao động cần có khả năng làm việc trong các môi trường và đối tượng khác nhau, người Việt Nam phải xác định là trong tươnglai họ có thể làm việc tại bất kỳ nơi nào trên thế giới chứ không phải chỉ ở trong nước. Môi trường lao động sẽ thay đổi theo những thành tựu tiên tiến của khoa học kỹ thuật. Mà hiện tại thì Việt Nam đang thiếu trầm trọng lao động cao cấp, thêm vào đó là hiện nay kỹ năng làm việc tập thể của lao động Việt Nam còn yếu, hơn nữa phần lớn sinh viên khi tốt nghiệp vẫn chưa đủ trình độ hội nhập khu vực vì còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm thực tế. Họ cần được đào tạo thêm về ngoại ngữ, chuyên môn và kỷ luật lao động. Phần lớn các nhà quản lý ở các doanh nghiệp Việt Nam chưa được đào tạo chuyên sâu về kinh tế và kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Họ có khả năng tiếp thu nhanh nhưng thiếu đồng bộ. Chúng ta mới chỉ nhấn mạnh vào đào tạo lý thuyết chứ chưa quan tâm đến kỹ năng thực hành. Vậy muốn hội nhập có hiệu quả thì chúng ta phải đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, trình độ cho nguồn nhân lực bằng những phương pháp hợp lý để trang bị cho họ những kiến thức vững chắc, có chuyên môn giúp họ thực hiện tốt những công việc của mình và phục vụ cho phát triển kinh tế, hội nhập cùng khu vực và thế giới, rút ngắn khoảng cách phát triển. III- Tính tất yếu khách quan của đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. 1. Vai trò của nguồn nhân lực. Nguồn lực con người là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của một quốc gia, là yếu tố quyết định sự phát triển. Sản xuất ngày càng phát triển, phân công lao động ngày càng chi tiết, hợp tác ngày càng chặt chẽ tạo cơ hội để chuyển dần hoạt động của con người cho máy móc thiết bị thực hiện làm thay đổi tính chất của lao động từ lao động thủ công sang lao động cơ khí và lao động trí tuệ. Nhưng ngay cả trong điều kiện đạt được tiến bộ KH-KT hiện đại như hiện nay thì cũng không thể tách rời nguồn nhân lực bởi vì chính con người đã tạo ra những máy móc thiết bị. Đặc biệt đối với những nước có nền kinh tế đang phát triển như nước ta, dân số đông, nguồn nhân lực dồi dào đã trở thành nguồn nội lực quan trọng nhất. Nếu biết khai thác nó sẽ tạo ra một động lực to lớn cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây cũng chỉ ra rằng động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là con người. Nhưng con người phải được đầu tư phát triển, tạo lập kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo để trở thành “nguồn vốn-vốn con người, vốn nhân lực” tổng kết 15 năm đổi mới và nghiên cứu lý luận, một lần nữa khẳng định trong nghị quyết của ĐH IX :”Con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ CNH-HĐH”. Để rút ngắn khoảng cách về sự phát triển so với các nước trong khu vực và trên thế giới trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thì yếu tố nguồn nhân lực chính là đầu vào để đưa nền kinh tế tiến lên. Con người vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển nhưng cũng đồng thời là mục tiêu của sự phát triển vì phát triển kinh tế xã hội suy cho cùng cũng là nhằm mục tiêu phục vụ con người, làm cho cuộc sống của con người tốt hơn. Con người sẽ định hướng phát triển thông qua nhu cầu tiêu dùng của mình. Chúng ta đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp sau đó đến nền kinh tế công nghiệp và sau khi đã có một nền tảng thì chúng ta sẽ chuẩn bị để tiến vào nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế trí thức thì dựa trên các trụ cột chủ yếu là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới...mà tất cả những thứ đó là do con người có tri thức tạo ra. Như vậy con người trong quá trình lao động là yếu tố duy nhất đưa lại lợi ích kinh tế,làm tăng trưởng của cải cho xã hội,vai trò của nguồn nhân lực rất to lớn, nó là động lực, là mục tiêu của sự phát triển. Đó chính là yếu tố quan trọng nhất của nguồn lực quốc gia. 2. Sự cần thiết của đạo tạo phát triển nguồn nhân lực. Khái niệm về đào tạo nguồn nhân lực: Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị những kiến thức nhất định về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận được một công việc nhất định. Khái niệm về phát triển nguồn nhân lực: Phát triển nguồn nhân lực là quá trình làm tăng kiến thức, kỹ năng, năng lực, thái độ của cá nhân người lao động để họ hoàn thành công việc ở vị trí cao hơn trong nghề nghiệp của bản thân họ. Trong điều kiện hiện nay của nước ta: Một nước nông nghiệp chậm phát triển nền kinh tế còn cách xa các nước phát triển hàng chục năm, nguồn lao động dồi dào. Thêm vào đó là sự phát triển không ngừng của tất cả các quốc gia trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển ngày càng cao. Để có sự khớp nhịp giữa con người và máy móc thiết bị thì con người cần có tri thức. Do đó đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là một loại đầu tư lâu dài, là chiến lược quan trọng nhất trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhằm tạo ra một lực lượng lao động có chất lượng cao phù hợp với yêu cầu công việc nhằm đạt hiệu quả cao trong sản xuất. Mặt khác nước ta là một nước có dân số trẻ nên hàng năm có trên một triệu người bước vào tuổi lao động nhưng chưa được đào tạo một nghề, một chuyên môn nào đó ngoài trình độ văn hoá phổ thông. Chúng ta thực hiện mở của hội nhập kinh tế, nhiều thành phần kinh tế hoạt động, cơ cấu ngành nghề công nghệ thay đổi, sản xuất ngày càng phát triển, phân công lao động ngày càng sâu sắc tạo điều kiện thuật lợi cho những cơ hội việc làm khác nhau. Nhưng cần phải có kiến thức chuyên môn thì mới có thể tiếp cận với máy móc thiết bị hiện đại, phương thức làm việc công nghiệp. Đòi hỏi trình đồ của nguồn nhân lực cần được đào tạo phát triển phù hợp với như cầu phát triển của sản xuất. Bên cạnh đó trong quá trình lao động vẫn xảy ra những tai nạn đáng tiếc do không hiểu biết hết về nghề nghiệp và công việc của mình. Để tránh được những rủi ro đó thì người lao động cần được trang bị những kiên thức về những vấn đề có liên quan đến nghề nghiệp như: Tính năng tác dụng, nguyên tắc vận hành của máy móc thiết bị. Khi đã có trình độ và chuyên môn thì người lao động sẽ tự ý thức được tầm quan trọng của mình trong công việc, họ sẽ biết ứng dụng những khoa học kỹ thuật vào để làm tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. Xuất phát từ nhu cầu của chính bản thân con người muốn năng cao chất lượng cuộc sống, do vậy việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không chỉ xuất phát từ yêu cầu của sản xuất mà còn xuất phát từ chính nhu cầu của con người, điều đó tạo điều kiện tốt để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hiện nay. Quá trình CNH-HĐH đất nước là một xu hướng tất yếu của lịch sử, là quá trình trang bị kỹ thuật công nghệ hiện đại cho nền kinh tế quốc dân. Trong lĩnh vực nguồn nhân lực đã tạo ra sự chuyển dịch về chất: Từ lao động thủ công sang lao động cơ khí và lao động trí tuệ. Nước ta tiến hành CNH-HĐH từ một mặt bằng kinh tế thấp kém, vì vậy để tiến hành CNH-HĐH một đòi hỏi cấp bách là không thể không nâng cao chất lượng nguồn nhân lực . Trong bối cảnh hội nhập kinh tế cùng khu vực và thế giới, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và lao động, con đường duy nhất phải là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về mọi mặt: Sức khoẻ, trình độ dân trí, tri thức, tay nghề, tác phong, tính kỷ luật, chấp hành luật pháp. Muốn vậy cần tổ chức thực hiện có hiệu quả chiến lược giáo dục đào tạo và phát triển đào tạo nghề. Đó là chiến lược nhằm mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài của đất nước, phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Nâng cao trình độ tay nghề và kiến thức chuyên môn cho nguồn nhân lực tạo khả năng cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Chưa khi nào đất nước cần nhiều lao động có trí tuệ và tay nghề cần nhiều nhân tài như hiện nay. Bởi vậy chúng ta cần phải tập trung vào đào tạo, tăng nhanh bộ phân lao động có chuyên môn, kỹ thuật cao nhất là những nhà quản lý, các chuyên gia kinh tế, chuyên gia kỹ thuật và đội ngũ công nhân bậc cao, có thể lực và phẩm chất tốt để đi ngay vào kinh tế tri thức đồng thời phát triển và nhanh chóng phổ cập nghề cho số đông lao động phổ thông nhất là ở nông thôn và cho thanh niên nhằm chuyển đổi sản xuất phát triển nghề, tăng cường cơ hội và khả năng lựa chọn việc làm, tự tạo việc làm bảo đảm cuộc sống. 3. Kinh nghiệm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực một số nước. Đối với sự phát triển và giàu mạnh của mỗi quốc gia,con người luôn giữ vai trò quyết định.Thực tế đã chứng minh rằng, xét cho cùng, tốc độ phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia không phải do tài nguyên vật chất quyết định mà là do con người, nhất là con người được đào tạo với chất lượng cao và giàu tri thức quyết định. Trong mấy thập kỷ qua, những thành tựu mà các nước trên thế giới cũng như các nước ASEAN đạt được trong phát triển kinh tế xã hội có phần đóng góp to lớn của công tác giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực. Nhìn chung các nước đều hết sức chú trọng phổ cập giáo dục trong nhân dân và tăng cường đào tạo cho người lao động. Tuy nhiên, kinh nghiệm đào tạo nguồn nhân lực ở từng nước có những nét riêng và rất phong phú. Như ở Thái Lan rất coi trọng công tác giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, kinh nghiệm nổi bật của Thái Lan trong đào tạo nguồn nhân lực là tạo điều kiện cho các vùng dân cư nhất là các vùng có mức thu nhập thấp được tiếp cận với cơ hội giáo dục, Chính phủ chi ngân sách cho giáo dục khá lớn:3,4%GNP vào năm 1980, đến năm 1996 tăng lên 4,1%, xếp thứ 29 trên thế giới về đầu tư cho giáo dục (Nguồn: Kinh tế Châu á TBD số 4/2000). Xingapo xác định rõ phát triển giáo dục, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực là cơ sở để nâng cao đời sống của nhân dân và là động lực chủ yếu để phát triển. Chính vì vậy, một trong những công việc đầu tiên chính phủ thực hiện ngay sau khi giành được độc lập là tạo điều kiện cho tất cả trẻ em được cắp sách đến trường. Hàng năm chính phủ thường giành nguồn kinh phí khá lớn cho giáo dục: Bình quân mỗi người ở Xingapo được hưởng chi phí về giáo dục khoảng trên 1000 USD/năm. Đây là con số không một nước không một nước Đông Nam A nào theo kịp. Chương II: Thực trạng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Việt nam. I- Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam. 1. Qui mô cơ cấu và tốc độ tăng nguồn nhân lực Số lượng nhân lực là một điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện CNH-HĐH đất nước hiện nay. Chúng ta đang có một thị trường lao động dồi dào, hấp dẫn các nhà lao động trong và ngoài nước. Dân số Việt Nam tính đến 2001 là 78,3 triệu người. Nước ta có cơ cấu dân số trẻ, tỷ lệ trẻ em chiếm gần một nửa dân số, số người hết tuổi lao động có tỷ lệ thấp. Dân số Việt Nam đứng thứ 13 trên thế giới và đứng thứ 2 ASEAN chỉ sau Indonesia, với tỷ lệ gia tăng dân số hàng năm cao. Với điều kiện này hàng năm Việt Nam có một số lượng lớn người đến độ tuổi lao động. Nếu như năm 1986 có 30,3 triệu người trong độ tuổi lao động thì đến năm 1995 đã tăng lên 40,2 triệu người, bình quân mỗi nă._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35299.doc
Tài liệu liên quan