Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải pháp

Tài liệu Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải pháp: MỤC LỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT Giáo dục và Đào tạo GD – ĐT Tổ chức Thương mại Thế giới WTO Đại học ĐH Cao đẳng CĐ Trung học chuyên nghiệp THCN Trung cấp chuyên nghiệp TCCN Trung học cơ sở THCS Trung học chuyên nghiệp THCN Dạy nghề DN Trung học phổ thông THPT Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNH – HĐH Kinh tế - xã hội KT – XH Công nghiệp hoá CNH Việt Nam VN Đại học quốc gia ĐHQG Công nghệ thông tin CNTT Công nhân CN MỞ ĐẦU Một căn bệnh cốt tử trong nền Giáo dục và Đạo tạ... Ebook Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải pháp

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1491 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o (GD-ĐT) của ta hiện nay là sự cách biệt quá lớn giữa đào tạo và sử dụng, giữa cung và cầu về nhân lực, hay nói cách khác là kết quả GD-ĐT chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị trường. Đây là căn bệnh đã được nói đến từ nhiều năm qua, từ ngày Đảng và Nhà nước bắt đầu đề cập đến chủ trương xã hội hóa giáo dục, thế nhưng cho đến nay vẫn chưa được khắc phục, nếu không nói là có xu hướng trầm trọng hơn trước áp lực của hội nhập quốc tế. Căn bệnh nói trên chính là hậu quả "kép" của một nền giáo dục vừa nặng về hư danh, khoa cử, sính bằng cấp theo kiểu giáo dục phong kiến xưa kia lại vừa mang tính "tháp ngà", tách biệt đào tạo với xã hội, với thực tiễn sản xuất kinh doanh theo mô hình của Liên Xô trước đây. Biểu hiện rõ nhất của tình trạng nêu trên chính là sự mất cân đối trầm trọng trong cơ cấu nguồn nhân lực được đào tạo mà lâu nay vẫn được gọi là tình trạng "thừa thầy thiếu thợ", là tình trạng một bộ phận không nhỏ sinh viên ra trường không tìm được việc làm trong khi các doanh nghiệp, các khu công nghiệp lại thiếu trầm trọng lao động đã qua đào tạo theo đúng nhu cầu của họ, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ cao…Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, việc chúng ta chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với cam kết mở cửa thị trường giáo dục đại học đã tạo áp lực trực tiếp buộc chúng ta phải đổi mới tư duy GD-ĐT mà bằng chứng cụ thể là việc chấp nhận khái niệm thị trường giáo dục với đầy đủ ý nghĩa của nó. Rõ ràng, với áp lực mở cửa thị trường đại học theo cam kết WTO, nếu chúng ta không khẩn trương đổi mới triệt để tư duy đào tạo, đặt GD-ĐT vào trung tâm của dòng chảy phát triển và hội nhập thì khủng hoảng, tụt hậu trong GD-ĐT và nguồn nhân lực nói chung tất yếu sẽ xảy ra. Một khi nguồn nhân lực đã được khẳng định là chìa khóa thắng lợi trong cạnh tranh kinh tế thì hậu quả của khủng hoảng, tụt hậu trong GD-ĐT mà trực tiếp là đào tạo ĐH đối với phát triển kinh tế là vô cùng nặng nề. Do đó chủ trương hướng toàn bộ nền ĐH, CĐ, THCN cho mục tiêu đáp ứng nhu cầu của xã hội mà trước hết là nhu cầu của doanh nghiệp - đối tượng có nhu cầu lớn nhất về nhân lực đã qua đào tạo - hay nói nôm na là chuyển từ "đào tạo cái mình có" sang "đào tạo cái mà xã hội (doanh nghiệp) cần" và việc vận dụng các nguyên tắc của của thị trường trong đào tạo và sử dụng là rất cần thiết. Nó không những tạo ra bước đệm giúp chúng ta nhanh chóng giải quyết vấn đề nguồn nhân lực của hiện tại mà còn trở thành một động lực to lớn thúc đẩy phát triển kinh tế trong tương lai. Trong bài viết này, tôi đi sâu vào việc làm rõ thực trạng đào tạo theo nhu cầu ở nước ta hiện nay và kết quả mà chúng ta nhận được từ những gì chúng ta đã thực hiện. Qua đó thấy được con đường mà toàn nền giáo dục Việt Nam đã chọn có đã đi theo đúng nhu cầu của xã hội hay chưa hay cần phải sửa đổi, bổ xung cho hoàn thiện hơn nữa để con đường đó thực sự xuất phát từ nhu cầu xã hội, để sản phẩm của nó thực sự đáp ứng nhu cầu về nguồn lao động chất lượng cao tăng lên không ngừng của xã hội. Mô hình này không còn phải là mới trên thế giới, nó đã được thực hiện từ rất lâu rồi, ở rất nhiều quốc gia từ Châu Á đến Châu Âu, Châu Mỹ... Việc Việt Nam đến nay mới nhận thấy hết ý nghĩa to lớn của đào tạo theo nhu cầu xã hội trong vấn đề giải quyết nhu cầu lao động ngày càng cao của các doanh nghiệp nói riêng và của xã hội nói chung và quyết định tiến hành triển khai rộng khắp trong cả nước tuy là quá muộn song việc thực hiện nó không phải là không có ý nghĩa bởi lẽ nếu không thực hiện thì không biết nền giáo dục nước nhà sẽ còn đi đến đâu đặc biệt là hiện nay nước ta đã là thành viên của WTO thì nhu cầu về nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường là rất lớn. Tuy nhiên để có thể đi đến đích thành công của nó không phải điều dễ dàng, thực tế trên thế giới cho thấy rõ không phải nước nào cũng thành công khi đi theo con đường này. Với tính cấp thiết và quan trọng của vấn đề này nên tôi đã chọn đề tài: “Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải pháp” Nội dung chính của bài viết gồm có 3 phần: Chương I : Lý luận chung về đào tạo theo nhu cầu Chương II : Thực trạng việc đào tạo theo nhu cầu ở Việt Nam Chương III : Giải pháp cho đào tạo theo nhu cầu ở nước ta Do những hạn chế về mặt kiến thức và nguồn tài liệu tìm kiếm được nên bài viết của tôi khó tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những sự góp ý của thầy, cô và những ai quan tâm đến vấn đề mà tôi nghiên cứu. Qua đây tôi xin chân thành cảm ơn thầy Bùi Đức Thọ đã hướng dẫn tôi hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp này. Chương I LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU Quan điểm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội ở nước ta đã xuất hiện từ rất lâu song để nhận thấy hết được ý nghĩa của nó thì phải đến giai đoạn hiện nay vấn đề này mới thực sự được quan tâm và trở thành vấn đề lớn của cả nước. Ngay trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá VII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996), Đảng ta đã khẳng định: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả 3 mặt mở rộng quy mô, nâng cao dân trí và phát huy hiệu quả. Phương hướng chung của lĩnh vực đào tạo trong những năm tiếp theo là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH – HĐH). Hay trong bài phát biểu của Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình tại Hội nghị giáo dục đào tạo (năm 1996), Bà đã nhấn mạnh: “Ở thời đại CNH – HĐH hiện nay sự phát triển kinh tế - xã hội (KT – XH) trước mắt và tương lai đòi hỏi cấp bách những năng lực mới như năng lực thích ứng với sự thay đổi, năng lực tư duy độc lập, năng lực tự học và tự cập nhập thường xuyên kiến thức mới, năng lực sáng tạo và nâng cao sự cạnh tranh của nền kinh tế … đó là những năng lực cần thiết để tìm ra những cách làm rút ngắn khoảng cách lạc hậu so với các nước đi trước nhằm đạt mục tiêu CNH – HĐH. Để có được những năng lực đó thì ngay từ bây giờ các trường, các cơ sở đào tạo phải chuyển hướng đào tạo theo hướng đáp ứng nhu cầu của xã hội, hướng giáo dục đào tạo phải trở thành một hệ thống mở: mở đối với đại chúng, mở đối với thực tế kinh tế xã hội, mở đối với thế giới và thời đại có như vậy chúng ta mới có thể hy vọng trong tương lai không xa chúng ta có được nguồn lao động đáp ứng được các yêu cầu của xã hội”. Bên cạnh những quan điểm chỉ đạo của Đảng và nhà nước thì sự phát triển của thị trường ngày một nhanh chóng cũng đòi hỏi phải có một phương thức giáo dục mới ra đời thay thế cho phương thức giáo dục cũ còn nhiều hạn chế để tạo ra một nguồn lao động vừa mạnh về số lượng vừa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng. Cụ thể là: - Sự hình thành những ngành nghề mới đã đặt ra những yêu cầu mới đối với lực lượng lao động, đòi hỏi người lao động phải được đào tạo, đào tạo lại hoặc thường xuyên bồi dưỡng theo những chương trình được cá biệt. - Do điều kiện sản xuất kinh doanh, do môi trường hoạt động của các loại lao động, các doanh nghiệp và cá nhân người lao động có những nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng rất riêng biệt, thường đòi hỏi phải có những chương trình được thiết kế riêng. Đối với cá nhân người lao động, các yếu tố chủ quan và kỳ vọng phát triển cá nhân cũng đòi hỏi được đáp ứng bằng những chương trình đào tạo, bồi dưỡng riêng biệt. - Thị trường lao động ngày càng hoàn thiện và có quy mô rộng hơn. Nó không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia, mà đã vươn ra phạm vi quốc tế. Cùng với sự phát triển của thị trường này, sức ép đối với người lao động cũng tăng lên, đòi hỏi họ phải không ngừng được đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng để chuẩn bị cho bước phát triển tiếp hoặc khi chuyển sang công việc khác - Sự luân chuyển ngày càng nhanh và với quy mô ngày càng rộng làm nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng trở nên ngày càng lớn. Xuất phát từ trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng khác nhau, sự chuyển đổi kiến thức, kỹ năng của các cá nhân, nhóm người lao động khác nhau sẽ khác nhau, khiến các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cũng phải đa dạng để có thể đáp ứng để có thể đáp ứng được những yêu cầu này. - Bản thân người lao động có những điều kiện, đặc điểm riêng khiến cho họ có những trình độ chuyên môn, tay nghề khá khác nhau dù có cùng một điểm xuất phát giống nhau về đào tạo cơ bản, về môi trường và điều kiện làm việc… Do đó, nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của mỗi người sẽ ngày càng khác biệt. Như vậy vấn đề đào tạo theo nhu cấu thực sự trở thành một vấn đề cấp thiết với nước ta không chỉ trong hiện tại mà cả trong tương lai đặc biệt khi nước ta đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO thì vấn đề này lại càng trở nên quan trọng bội phần, nó góp phâng quan trọng vào việc tạo ra một lượng lớn nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp trong nước và cả các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam, giảm bớt được một lượng đáng kể số người thất nghiệp trên thị trường đồng thời còn hạn chế được tình trạng trong khi số lượng người thất nghiệp trong nước tăng mà vẫn phải thuê lao động từ nước ngoài về làm việc. 1. Khái niệm về đào tạo theo nhu cầu Hiện nay, khái niệm đào tạo theo nhu cầu xã hội còn nhiều tranh luận và chưa đi đến thống nhất. Có quan điểm cho rằng: Đào tạo theo nhu cầu xã hội gồm: đào tạo theo nhu cầu của Nhà nước, các địa phương, nhu cầu của người sử dụng lao động và nhu cầu của người học. Song cũng có quan điểm cho rằng: Đào tạo theo nhu cầu là phương thức tổ chức đào tạo ngắn hạn. Những quan niệm trên đều chưa đầy đủ và sát với ý nghĩa của bản thân nó. Dưới đây tôi xin nêu ra cách khái niệm sau về đào tạo theo nhu cầu theo tôi là phù hợp nhất. Đào tạo theo nhu cầu xã hội là phương thức đào tạo mà ở đó: Đào tạo cái gì? Đào tạo như thế nào? Đào tạo bao nhiêu? được định hướng bởi nhu cầu đào tạo xã hội. Đào tạo cái gì? Trả lời được câu hỏi này chúng ta sẽ xác định được mục đích của đào tạo như đào tạo ra lớp bác sỹ, kỹ sư, các nhà ngoại giao…, đồng thời cũng xác định rõ những bác sỹ, kỹ sư, nhà ngoại giao đó phái có những kỹ năng gì để có thể đảm nhận được công việc Ví dụ như để trở thành một nhà ngoại giao đòi hỏi ngoài những yêu cầu cơ bản như có ý thức kỷ luật cao, có chuyên môn, trình độ nghề nghiệp cao phải có kỹ năng sau:,có khả năng giao tiếp tốt, biết nhiều thứ tiếng, năng động, có khả năng làm việc theo nhóm . Như vậy khi tiến hành giáo dục và đào tạo chúng ta phải xác định được cụ thể rõ xã hội cần những con người trong những lĩnh vực hoạt động gì, ở trình độ, kỹ năng ra sao. Để tránh gây lãnh phí thời gian và tiền bạc thì việc điều tra, nghiên cứu, nắm bắt được nhu cầu xã hội trong tương lai gần và xa là rất quan trọng. Đào tạo như thế nào? Câu hỏi này giúp chúng ta tìm ra được để đào tạo có hiệu quả cao thì phải có một cách thức, phương thức đào tạo như thế nào cho đúng. Hiện nay, tại Việt Nam cũng như trên thế giới tồn tại rất nhiều phương thức đào tạo trong nhà trường rất khác nhau như đào tạo theo kiểu máy móc, cổ truyền thầy giảng gì trò biết nấy; hoặc học sinh tự nghiên cứu là chính đến lớp thầy chỉ giải đáp những thắc mắc của học sinh mà thôi; rồi có cả hình thức đào tạo trực tuyến….Tuy nhiên tùy theo điều kiện mỗi nơi mà trong trường hợp này cách thức đào tạo đó là hiệu quả song khi áp dụng cho nơi khác lại nhận được những kết quả trái ngược. Do đó để tìm ra được một phương thức đào tạo cho hiệu quả cũng cần phải xét đến yếu tố con người và xã hội của bản thân khu vực đó. Đào tạo bao nhiêu? Bao nhiêu ở đây muốn nói đến số lượng con người mà chúng ta sẽ đào tạo trong một thời kỳ sao cho đủ để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Để xác định được một cách chính xác con số này không phải là điều đơn giản. Con số này không chỉ dừng lại ở con số chung chung cho toàn xã hội mà điều quan trọng là chúng ta phải xác định rõ xem ứng với mỗi ngành nghề cụ thể con số này sẽ là bao nhiều. Đây là điều khiến cho các nhà hoạch định cảm thấy rất khó khăn bởi lẽ xã hội luôn biến đổi không ngừng, ngành nghề hôm nay thịnh hành thì ngày mai lại có thể trở nên quá nhàm chán và một ngành nghề mới lại xuất hiện và lên ngôi. Vì vậy việc xác định cụ thể số lượng đào tạo trong mỗi ngành nghề có ý nghĩa rất quan trọng, tránh được tình trạng thất nghiệp do thừa nhân lực ở khu vực này và thiếu nhân lực ở khu vực khác do không dự báo được hết nhu cầu xã hội. Như vậy, với cả 3 câu hỏi trên muốn tìm được câu trả lời chuẩn xác phải căn cứ vào nhu cầu xã hội. Hay nói chính xác nhu cầu của xã hội sẽ là cái mốc để giáo dục - đào tạo dõi theo và điều chỉnh phương thức hoạt động của mình cho phù hợp. 2. Phân loại đào tạo theo nhu cầu Hiện nay trên thị trường tồn tại 2 loại hình đào tạo theo nhu cầu: - Đào tạo theo nhu cầu hiện tại của thị trường: tức là căn cứ vào nhu cầu hiện tại của thị trường đang thiếu lao động trong những ngành nghề gì thì đào tạo những ngành nghề đó và việc đào tạo này thường được tổ chức thành các lớp đào tạo ngắn hạn (từ 3 đến 6 tháng). Ưu điểm của loại hình đạo tạo này là đáp ừng ngay được nhu cầu lao động của thị trường, tuy nhiên nó có nhược điểm lớn là những lao động được đào tạo ra thường có tay nghề không cao nên sau một thời gian làm việc nếu không có sự bổ sung kiến thức thì dễ bị đào thải do không còn đáp ứng được yêu cầu cao hơn của công việc - Đào tạo đáp ứng nhu cầu tương lai của thị trường: theo hình thức này thì căn cứ vào tình hình phát triển hiện tại của nền kinh tế trong nước và xu thế phát triển của thế giới để đưa ra nhưng dự đoán về những ngành nghề sẽ phát triển trong tương lai. Việc đào tạo này thường được tổ chức thành các lớp đào tạo dài hạn (từ 3 đến 6 năm), những lao động được tạo ra từ đây thường có trình độ cao; khả năng học hỏi, tiếp cận những thành tựu của khoa học công nghệ, thích ứng với sự thay đổi là nhanh. Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là do thời gian đào tạo là dài nên đòi hỏi việc dự báo phải có tính chính xác cao để tránh sự lãng phí nguồn lực và gia tăng tỷ lệ thất nghiệp. 3. Vai trò và đặc điểm của đào tạo theo nhu cầu 3.1. Vai trò Đào tạo theo nhu cầu xã hội có một vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Ý nghĩa của nó không chỉ tồn tại trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử mà nó xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc bởi lẽ xã hội luôn luôn thay đổi không ngừng và đi lên theo hướng chuyển dần từ lao động thủ công, thô sơ sang lao động bằng chất xám do đó nhu cầu của thị trường về nguồn lao động không còn đơn thuần chỉ dừng lại ở đức tính tốt, cần cù, trung thành, có trách nhiệm như thời xa xưa nữa mà họ còn phải có tính sáng tạo, có khả năng xử lý vần đề, có khả năng phân tích, có tinh thần đồng đội, có khả năng ăn nói diễn đạt …Do đó nếu không nhanh chóng nắm bắt được những đòi hỏi về số lượng và chất lượng của các doanh nghiệp nói riêng và của xã hội nói chung về lao động thì hàng năm sẽ xảy ra hiện tượng một lượng lớn lao động qua đào tạo sẽ thất nghiệp trong ngành nghề này và thiếu cục bộ trong ngành nghề khác. Điều này gây lãng phí rất lớn cho bản thân người lao động, nhà trường và xã hội. Như vậy phương thức đào tạo theo nhu cầu sẽ khắc phục được hạn chế cơ bản của cách thức giáo dục trước đây khi còn quá nặng nề, móc máy trong giảng dạy mà chưa chú tâm đến chất lượng đầu ra. Qua đây, tôi xin nêu ra những vai trò và ý nghĩa cơ bản của phương thức đào tạo theo nhu cầu xã: - Nó khắc phục sự thiếu hụt trình độ và kỹ năng của từng cá nhân so với yêu cầu cụ thể do công việc hiện tại và trước mắt của chính mỗi cá nhân đó đặt ra. Khi đã tiến hành đào tạo theo nhu cầu, mỗi công việc, ngành nghề cụ thể sẽ quy định rõ ở mỗi trình độ nhất định cần những kỹ năng nào để có thể đảm nhận được công việc đó. Do khi tham gia các khóa học nghề, cũng như đào tạo tai các trường cao đẳng, đại học sinh viên sẽ được được đào tạo một cách bài bản các kỹ năng đó và khi ra trường sinh viên có thể bắt tay vào công việc luôn. - Đáp ứng sự thiếu hụt trầm trọng về nguồn nhân lực chất lượng cao cho các đơn vị tuyển dụng. Hiện nay đa số sinh viên ra trường đều rất khó có thể xin đươck một công việc theo đúng những gì đã học mặc dù nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp là rất cao do đó rất khó cho doanh nghiệp có thể tuyển được số lượng lao động như mong muốn. Phần lớn là do những kỹ năng sinh viên có được trong quá trình học ở nhà trườn là rất ít so với yêu cầu đòi hỏi của doanh nghiệp. Song khi tiến hành đào tạo theo nhu cầu thì số lượng lao động mà thị trường cần đã được dự báo trước và chất lượng lao động đã được nâng cao nên khả năng doanh nghiệp tuyển không đủ lượng cần là rất hạn chế. - Tăng khả năng cạnh tranh của lao động trong nước so với nguồn nhân lực từ nước ngoài chảy vào, làm giảm nhu cầu nhập khẩu lao động từ các nước của các đơn vị tuyển dụng trong nước. Do lao động trong nước không đáp ứng được yêu cầu của các nhà tuyển dụng nên nhiều doanh nghiệp đã phải tìm đến những lao động nước ngoài (thường thấy khi tuyển các vị trí cấp cao như giám đốc, CEO…). Nhưng khi áp dụng đào tạo theo nhu cầu thì vấn đề này sẽ được giải quyết do lao động của ta sẽ được đào tạo theo đúng nhưng gì doanh nghiệp cần và được tiếp cận công nghệ mới một cách liên tục do đó sẽ nhanh chóng nâng cao tay nghề của bản thân. - Tiết kiệm chí phí và thời gian cho cơ quan tuyển dụng cũng như người lao động khi phải đào tạo lại.Khi đào tạo theo nhu cầu, người lao động đã được đào tạo theo đúng những yêu cầu mà doanh nghiệp mong muốn từ họ do đó người lao động có thể làm được ngay những công việc ở những vị trí mà họ đã dự tuyển, khi đó doanh nghiệp không phải tiến hành đào tạo lại và sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí. 3.2. Đặc điểm Đào tạo theo nhu cầu xã hội không phải là một phương thức đào tạo mới trên thế giới hiện nay, song đối với Việt Nam thì đây còn là một bài toàn khó cần phải giải quyết kịp thời để có nhanh chóng tạo ra nguồn nhân lực tốt đáp ứng nhu cầu đòi hỏi trước mắt và lâu dài của xã hội. Tuy nhiên để có thể thực hiện tốt công tác này thì chúng ta cần hiểu rõ đào tạo theo nhu cầu cần xác định cụ thể, rõ ràng nó cần những yếu tố nào, cách thức vận dùng điều hành những yếu tố đó có khác gì so với trước đây để tránh việc đi sai hướng, lòng vòng, kém hiệu quả. Dưới đây tôi xin nêu ra một số đặc điểm của phương thức đào tạo theo nhu cầu: - Chi phí cho đào tạo là khá lớn cả về tiền bạc và công sức bởi nó thường đòi hỏi cơ sở đào tạo phải nghiên cứu kỹ nhu cầu của thị trường cũng như phải đầu tư mua sắm những trang thiết bị hiện đại phục vụ giảng dạy và nghiên cứu theo đúng những gì đang có trên thị trường, tiếp cận những phương pháp giảng dạy tiên tiến trên thế giới - Chương trình đào tạo, bồi dưỡng đa dạng phù hợp với nhu cầu của người học và của các cơ quan sử dụng lao động.Khi tiến hành đào tạo theo nhu cầu nhà trường sẽ kết hợp cùng doanh nghiệp để xác định rõ những kiến thức và kỹ năng sinh viên cần có đối với mỗi chuyên ngành, qua đó tổng hợp lại và xây dựng thành giáo trình giảng dạy trong nhà trường. Tuy nhiên bộ giáo trình này chỉ được xây dựng hoàn chỉnh khi đã tổng hợp được những yêu cầu mà các doanh nghiệp trong lĩnh vực đó cho là cần thiết cho đào tạo. Tránh trường hợp xây dựng giáo trình cá thể cho từng doanh nghiệp cụ thể như vậy bộ giáo trình sẽ chỉ áp dụng đơn thuần cho doanh nghiệp đó mà không áp dụng được trên diện rộng. Việc làm này sẽ gây lãng phí thời gian và tiền của của doanh nghiệp và nhà trường. 4. Phân loại nhu cầu đào tạo Hiện nay có 3 nhóm nhu cầu sau đây: - Nhu cầu của nhà nước: là những đòi hỏi về nguồn nhân lực từ những chiến lược phát triển của bộ máy nhà nước hay của những ngành nghề mới mà Nhà nước định hướng phát triển trong tương lai đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của đất nước. Nhu cầu đào tạo này thường chọn mục tiêu đi trước, đón đầu về khoa học, công nghệ, vượt trước nhu cầu đào tạo của doanh nghiệp cũng như nhu cầu của người học. Có thể thấy nhu cầu đào tạo này trong việc phát triển nguồn nhân lực cho các ngành điện hạt nhân, công nghệ Nano, công nghệ sinh học, cơ điện tử và một số ngành công nghệ quan trọng khác. Nhu cầu đào tạo này có số lượng lớn, có căn cứ và cơ sở để dự đoán hàng năm. Những ngành nghề đặc biệt về an ninh, quốc phòng và chế độ cử tuyển do nhà nước dự báo nhu cầu. - Nhu cầu của doanh nghiệp: là nhu cầu về số lượng và chất lượng, tay nghề, trình độ chuyên môn, kỹ năng của người lao động. Nhu cầu này đòi hỏi lao động sau khi được đào tạo có thể làm được việc ngay, phù hợp với yêu cầu cụ thể của doanh nghiệp để giảm thiếu chi phí do phải đào tạo lại. Tuy nhiên nhu cầu này chưa được tổng hợp, thiếu thông tin nhu cầu dự báo hàng năm. Đặc biệt trong các doanh nghiệp ở các nước hiện nay đang phải nhập khẩu lao động thì việc đào tạo theo nhu cầu của họ để xuất khẩu lao động là hoàn toàn cần thiết. - Nhu cầu của người học: là nhu cầu cá nhân của học sinh, sinh viên. Nhu cầu này thường thay đổi theo nhu cầu của thị trường lao động rất khó xác định nhưng phải được nghiên cứu và tôn trọng. Đó là nhu cầu của bản thân người học để nâng cao trình độ, học để tìm việc làm, để làm một nghề có thể sống được, học để tự tạo việc làm cho bản thân và cho người khác. Bên cạnh đó là nhu cầu của gia đình hướng cho con em mình lựa chọn ngành nghề theo truyền thống của gia đình. Ba nhóm nhu cầu này thường xuyên biến động, thay đổi theo từng giai đoạn, phụ thuộc vào sự phát triển của KT – XH của đất nước tạo ra một tập hợp có các vùng giao thoa với nhau. Tuỳ theo tầm nhìn và nhiệm vụ đào tạo, nhà trường sẽ điều chỉnh số người học, ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với xu thế phát triển, thoả mãn nhu cầu đào tạo của nhà nước, của doanh nghiệp và nhu cầu của bản thân người học. 5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc đào tạo theo nhu cầu của các trường Việc đào tạo theo nhu cầu của xã hội là rất quan trọng tuy nhiên có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng làm cho kết quả của quá trình đào tạo có thể hoặc không thể theo ý muốn chủ quan của người đào tạo và người sử dụng sản phẩm qua đào tạo. Trong đó bao gồm cả những nhân tố tích cực và những nhân tố tiêu cực 5.1. Những nhân tố tích cực + Có nhiều chính sách, chương trình, dự án của Nhà nước khuyến khích các trường học, cơ sở đào tạo tiến hành đào tạo theo nhu cầu của xã hội như: tăng nguồn vốn cấp phát cho các trường, cơ sở đào tạo được đầu tư các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho dạy và học, tăng cường liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp … + Nhận thức của người dân về đào tạo theo nhu cầu ngày càng được nâng cao. Kết quả của nền giáo dục cũ (nặng về lý thuyết xem nhẹ thực hành, các trường chỉ tập trung đào tạo những gì mình có) đã khiến cho người học có tâm lý băn khoăn, lo lắng trong vấn đề chọn trường, chọn nghề sao cho khi ra trường có thể dễ xin việc nhất. Do đó nhu cầu mong muốn được biết rõ xã hội đang cần những ngành nghề, công việc gì của cả phụ huynh và học sinh ngày một lớn. + Ngày càng có nhiều loại hình, phương tiện giảng dạy mới giúp học sinh, sinh viên nhanh chóng tiếp cận các kiến thức, công nghệ hiện đại như: giảng dạy bằng máy chiếu, phương pháp trao đổi thông tin qua mạng …giúp giáo viên và học sinh tiếp thu kiến thức một cách nhanh chóng và tạo cảm giác thoải trong học tập. Đồng thời nhờ có internet giáo viên và học sinh có thể trao đổi bài tập rất bất cứ khi nào mà không mất nhiều thời gian. 5.2. Những nhân tố tiêu cực + Tài chính Nhà nước cấp cho các trường và khoản thu của nhà trường (học phí và các khoản thu khác) có tăng qua từng năm nhưng vẫn là quá ít so với nhu cầu của nền giáo dục ngày càng phát triển. Trước năm 2007 ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục khoảng 15% đến 16 % tổng chi cho ngân sách nhà nước, đến năm 2007 con số này là 20% và có thể tăng lên từ 21% đến 22% vào những năm tiếp sau. Tuy nhiên mức đầu tư này cộng thêm các khoản của nhà trường từ học phí còn là rất nhỏ so với chi phí cần thiết đầu tư trang thiết bị, máy móc hiện đại cho các trường. Mặt khác tổng chi ngân sách của Nhà nước tính trên một mặt bằng GDP thấp như nước ta nên 20% là một con số nhỏ trong khi hầu hết các máy móc thiệt bị tối tân đều phải nhập từ nước ngoài về do đó khoản chi phí này chỉ đủ cho một số trước lớn mua từ 1 đến 2 loại máy móc. + Cơ sở vật chất cho giảng dạy còn nhiều hạn chế nhất là các ngành thuộc khối kỹ thuật do đầu tư vào trang thiết bị quá tốn kém. Hệ thống giảng đường, phòng thí nghiệm và trang thiết bị phục vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học của các trường còn thiếu, nghèo nàn và lạc hậu. Hệ thống thư viện nhà trường nhỏ bé, không cung cấp đủ thông tin, sách báo, tạp chí, tài liệu tham khảo cho nhu cầu ngày càng cao của giảng viên, SV. + Nội dung giảng dạy tại trường học còn lạc hậu so với thực tế công việc. Hầu hết các giáo trình giảng dạy cho sinh viên hiện nay đều là giáo trình cũ của nhiều năm trước, tuy có sửa đổi, bổ sung xong vẫn chủ là chắp vá chứ ít có bộ giáo trình hoàn chỉnh theo đúng nội dung của công việc hiện tại. Hoặc nhiều giáo trình được dịch ra từ sách nước ngoài nên có đôi chỗ không hiểu chính xác ý của tác giả dẫn đến tình trạng học sinh không hiểu được nội dung của bài. Và đa số sách này cũng chủ yếu lá sách cũ từ vài năm trước đó chứ cũng chưa có nhiều sách tham khảo mới nhất từ nước ngoài về hoặc có được thì cũng chỉ là bản gốc nên nhiều khi do hạn chế về mặt tiếng nước ngoài nên học sinh ngại không xem. + Đôi chỗ còn tồn tại một đội ngũ giảng viên có sức ỳ lớn, ngại đổi mới phương pháp giảng dạy giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng cải cách theo hướng đáp ứng nhu cầu của xã hội. 6. Kinh nghiệm về đào tạo theo nhu cầu của một số nước và khu vực trên thế giới 6.1. Khu vực Đông Á Sự tăng trưởng của khu vực Đông Á trong những thập kỷ qua là kết quả của nhiều nhân tố khác nhau, trong đó không thể không kể đến chiến lược phát triển nguồn nhân lực thông qua GD – ĐT nhằm mục tiêu đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, trở thành nước công nghiệp sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới (như Anh, Mỹ, Đức…) là mục tiêu hàng đầu và phải kiên quyết thực hiện. Cho đến nay, sau những chặng đường dài của sự phát triển thì những thành tựu phát triển kinh tế của các nước trong khu vực Đông Á có được từ chính sách phát triển chú trọng phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo của họ vẫn là những bài học quý giá mà chúng ta cần học tập mặc dù việc thực hiện chính sách này ở nước ta là muộn so với nhu cầu thực tại của đất nước. Ngay từ thời kỳ đầu bước vào công nghiệp hoá (CNH), các nền kinh tế Đông Á đã nhận thức một cách sâu sắc rằng con người là vốn quý nhất của xã hội, là yếu tố quyết định của quá trình sản xuất. Điều đáng lưu ý là nhận thức này không chỉ của Chính phủ mà đã trở thành nhận thức chung, thống nhất của cả chính quyền các cấp lẫn người dân và các tầng lớp với các giới có liên quan. Ở các nền kinh tế Đông Á, chiến lược phát triển nguồn nhân lực thông qua GD – ĐT với chiến lược CNH có tính bổ xung và phù hợp khá cao. Hai loại chính sách này không thể thành công được nếu như chính sách phát triển NNL thông qua GD – ĐT không được hoạch định nhằm đáp ứng các mục tiêu cụ thể đặt ra cho mỗi giai đoạn của CNH. Cụ thể là vào thời kỳ chuẩn bị cất cánh công nghiệp, các nền kinh tế Đông Á (ngay cả Nhật Bản) thường bị lạc vào tụt hậu xa so với các nền kinh tế Tây Âu và Mỹ. Các nền nước ở Đông Á có nguồn nhân lực dồi dào và rẻ mạt song lại rất thiếu các nguồn lực để có thể cùng mọt lúc đáp ứng được rất nhiều nhu cầu cấp bách. Để có thể sớm rút ngắn khoảng cách đó và đuổi kịp các nước phát triển, các nước Đông Á không có cách nào khác để tiến hành thành công CNH là phải tiến hành tiếp thu công nghiệp nước ngoài. Muồn làm được điều này, các nước này cần phải nhanh chóng nâng cao trình độ dân chúng và tạo ra được một đội ngũ lao động có trình độ đồng đều và phù hợp để có thể tiếp thu và cải tiến được các công nghệ nhập khẩu. Trong tình thế đó do nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục tiểu học, nên các nền kinh tế này đã ưu tiên đầu tư cao nhất cho giáo dục tiểu học. Nhiều nền kinh tế trong khu vực đã giành một nửa kinh phí giáo dục cho giáo dục tiểu học. Nhờ đó, hầu hết các nền kinh tế này đã sớm thực hiện thành công quá trình phổ cập giáo dục tiểu học, tạo nền tảng quan trọng cho việc chuyển dịch trôi chảy lao động giản đơn từ nông nghiệp sang công nghiệp cũng như cho việc xây dựng và phát triển thành công các ngành công nghiệp xuất khẩu sử dụng nhiều lao động. Đó thực sự là một chuyển đổi thành công từ sự gia tăng trình độ giáo dục sang sự gia tăng năng xuất lao động xã hội và sự gia tăng mức độ CNH của nền kinh tế. Vào thời kỳ chuyển dịch cơ cầu công nghiệp từ các hoạt động giá trị gia tăng thấp lên các hoạt động có giá trị gia tăng cao, nhu cầu nhân lực lúc này không chỉ là lao động giản đơn tốt nghiệp tiểu học như giai đoạn trước nữa mà đòi hỏi lao động phải có trình độ cao hơn. Do đó ngay sau khi đạt được phổ cập giáo dục tiểu học, các nền kinh tế Đông Á đã chuyển sang mở rộng giáo dục trung học, ban hành chính sách phổ cập giáo dục trung học và ưu tiên đầu tư cho cấp học này. Nhật Bản và các nước công nghiệp đã rất thành công trong việc thực hiện chính sách mới này là do họ đã có chính sách mở rộng và ưu tiên đầu tư thích hợp khiến quy mô mở rộng giáo dục trung học đủ lớn; đồng thời chính sách CNH thích hợp được đưa ra sau khi các nền kinh tế này thực hiện thành công phổ cập giáo dục tiểu học, đã thu hút được hầu hết lực lực lượng lao động vào quá trình sản xuất, do vậy đã giúp nền kinh tế nhanh chóng chuyển sang hoạt động công nghiệp có giá trị giá tăng cao. Trong những năm 1970, giáo dục trung học trong các nền kinh tế này đã nhận được phần đầu tư đáng kể trong các khoản đầu tư cho 3 cấp giáo dục : tiểu học, trung học, đại học. Đồng thời chính sách mở rộng giáo dục trung học đã nhấn mạnh không chỉ khía cạnh văn hoá của giáo dục trung học mà còn cả khía cạnh giáo dục nghề nghiệp cấp trung học. Từ những năm 1980, do toàn cầu hoá kinh tế ngày càng trở thành một xu thế nổi trội và do sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức, nên khối lượng kiến thức được sản sinh ra ngày càng nhiều và đổi mới ngày càng nhanh, đồng thời tính cạnh tranh giữa các nền kinh tế và các doanh nghiệp ngày càng quyết liệt. Thực tế này đòi hỏi các nền kinh tế phải chuẩn bị được nguồn nhân lực chất lượng cao không ch._.ỉ nắm vững các kiến thức cơ bản mà còn phải cập nhập thường xuyên các thành tựu khao học và có đầu óc sáng tạo, linh hoạt, dám nghĩ dám làm, năng động, chấp nhận mạo hiểm. Trước những yêu cầu đòi hỏi đó các nền kinh tế Đông Á đã tập trung nguồn lực tiến hành cải cách mạnh mẽ hệ thồng giáo dục và đào tạo cả về cơ cấu, nội dung giảng dạy, tạo điều kiện tốt nhất cho mọi người tham gia học tập và đổi mới kiến thức suốt đời. Bên cạnh vấn đề giáo dục phổ thông, thì các nước trong khu vực Đông Á còn quan tâm đến giáo dục nghề ban đầu, Các nước này cho rằng lực lượng lao động có tay nghề là cầu nối giữa các nhà khoa học và sản xuất, là lực lượng chủ chốt cho sản xuất. Các nước này thường kết hợp giáo dục nghề nghiẹp ban đầu ở các cấp trung học, lẫn sau trung học. Trong các phương thức đào tạo nghề ở các nước Đông Á thì phương thức nổi trội nhất là đào tạo nghề ngay tại nơi làm việc (phát triển nhất ở Đài Loan, Nhật bản, Hàn Quốc). Phương thức đào tạo này đảm bảo được nguyên tắc gắn học với hành và hầu như không có sự bất cập giữa cung và cầu lao động được đào tạo vì các công ty thực hiện đào tạo chủ yếu cho và từ nhu cầu của chính mình. Gần đây, Nhật Bản đã đẩy mạnh cải cách giáo dục nhằm đào tạo ra những con người năng động, sáng tạo hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học và công nghệ của đất nước trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu. Những hướng cải cách chủ yếu là loại bỏ dần tính thống nhất và bình đẳng thái quá trong giáo dục; giảm thiểu kiến thức, nhất là phần lý thuyết suông trong các trường phổ thông và tăng thêm phần thực hành; chuyển cách dạy và học từ chỗ nặng về "thày dạy, trò ghi nhớ một cách máy móc" sang chỗ "thày chủ yếu khơi gợi vấn đề, trò chủ động tham gia thảo luận"; giảm dần sự can thiệp quá mức của Nhà nước, đề cao tính chủ động và tự quản của các địa phương, các nhà trường trong các vấn đề giáo dục; và đa dạng hoá các loại hình trường lớp, linh hoạt hoá các chương trình giảng dạy để tạo cho mọi người có thể chủ động tham gia vào quá trình học tập bất cứ lúc nào trong đời. Để khắc phục sự chậm trễ của mình trong công nghệ thông tin và cũng để nhanh chóng phổ cập tin học đến mọi người dân, tháng 12 năm 1999 Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra Dự án thiên niên kỷ "Millennium Project" trong đó có mục "Digitalization of Education" (số hoá giáo dục) nhằm phổ cập máy tính và Internet tại tất cả các cấp học phổ thông, kể cả các trường dành cho người khuyết tật vào năm tài chính 2001, và chuẩn bị môi trường và điều kiện để có thể sử dụng được máy tính vào việc dạy và học ở tất cả các trường công lập vào năm 2005. Đồng thời, chính phủ Nhật Bản cũng đang xúc tiến mở các khoá tiếng Anh trên khắp cả nước và tăng cường mời các thầy giáo tiếng Anh bản xứ vào dạy học tại các trường Nhật Bản ngay từ tiểu học, phấn đấu tạo cho mọi công dân đều có thể sử dụng thành thạo tiếng Anh vào công việc chuyên môn của mình khi đến tuổi trưởng thành trong tương lai không xa. Về lâu dài, tiếng Anh sẽ dần được coi là ngôn ngữ chính thức thứ hai sau tiếng Nhật. Cùng với việc cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo, Nhật Bản cũng tiến hành đổi mới hệ thống quản lý xí nghiệp theo hướng chuyển từ chế độ coi trọng thâm niên và kinh nghiệm công tác, coi trọng tính tập thể và phục tùng cấp trên sang chế độ coi trọng hơn năng lực và thành tích cá nhân, đề cao tính độc lập và sáng tạo của công nhân, khuyến khích mọi người hăng hái học tập để nâng cao trình độ hơn là ỷ lại vào thâm niên phục vụ công ty và kinh nghiệm "sống lâu lên lão làng". Trong khi đó ở các nước ASEAN, việc mở rộng hệ thống giáo dục trung học lại không theo sát quá trình CNH đã gây ra một vài rối loạn trên thị trường lao động. Philippin mở rộng giáo dục vượt quá nhu cầu của CNH, hay không đi kèm với sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ đã gây ra tình trạng thất nghiệp có học lớn. Do đó trên thực tế Philippin đã phải chọn giải pháp xuất khẩu lao động để giải quyết việc làm cho số lao động dư thừa. Ngược lại, ở một cực khác các nước như Thái Lan, Indonexia, Malayxia giáo dục trung học lại không đáp ứng được nhu cầu về lao động có kỹ năng ngày càng cao của nền kinh tế. Như vậy, điểm mấu chốt khiến cho chính sách mở rộng giáo dục trung học của Nhật Bản và các nước công nghiệp mới hiệu quả hơn các nước ASEAN là họ đã kịp thời nhận thấy được nhu cầu về lao động có kỹ năng cao ngày càng tăng cho phát triển và nhanh chóng có những đổi mới trong quá trình đào tạo để tạo ra những con người đáp ứng các nhu cầu đó. Hay nói một cách chính xác là vấn đề đào tạo theo nhu cầu ở Đông Á đã được nhận thức một cách sâu sắc ý nghĩa và tầm quan trọng của nó đối với phát triển kinh tế. 6.2. Châu Âu Ở châu Âu, các doanh nghiệp thường kết hợp chặt chẽ với ngành giáo dục để tạo thuận lợi cho các sinh viên từ nhà trường đến làm việc ở các doanh nghiệp. Để phổ cập Internet trong dân chúng, Hội nghị thượng đỉnh EU tại Lisbon, Bồ Đào Nha (23/3/2000) nhất trí quyết định tăng cường đầu tư đào tạo nhân tài, thúc đẩy cải cách kinh tế xã hội, để EU thích ứng hơn nữa với "xã hội tin học dựa trên cơ sở tri thức và đổi mới". Các nước này đã đặt mục tiêu, trong vòng 10 năm tới, đuổi kịp nền kinh tế Internet Mỹ, xây dựng châu Âu thành khu "khu vực kinh tế có sức sống mạnh nhất, có sức cạnh tranh nhất thế giới", với một số biện pháp cụ thể như hoàn tất khung pháp lý cho thương mại điện tử, tất cả các trường học đều có thể truy cập Internet; năm 2002, kết nối mạng với tốc độ cao cho tất cả các trường đại học, thư viện và viện nghiên cứu. 6.3.Trung Quốc Còn ở Trung Quốc thì trong nhiều năm qua, Đảng và chính phủ Trung Quốc đã coi việc hỗ trợ, thu hút và sử dụng nhân tài là một nhiệm vụ chiến lược quốc gia, trong đó giáo dục được coi là khâu quan trọng nhất. Trung Quốc đã tiến hành cải cách và đổi mới mạnh mẽ quá trình phát triển giáo dục và hướng giáo dục theo nhu cầu của hiện đại hoá, của thế giới và của tương lai, có nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục, khuyến khích tinh thần sáng tạo và khả năng thực tiễn. Ngoài việc cải cách và phát triển giáo dục phổ thông, Trung Quốc còn đặc biệt chú ý đến việc phát triển giáo dục đại học và coi đó là một biện pháp quan trọng để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Cụ thể, Trung Quốc đã đưa ra Dự án 21 nhằm nâng cấp 100 trường đại học của mình trong một số lĩnh vực trọng điểm như cơ khí, phát triển nông thôn và công nghệ thông tin lên ngang tầm thế giới. Đồng thời, ngoài việc nâng cao chất lượng đào tạo trong nước, Trung Quốc còn có chính sách khuyến khích thanh niên đi du học và nghiên cứu ở nước ngoài để sau đó trở về xây dựng đất nước. Như vậy các nước Đông Á, Châu Âu và Trung Quốc ngay từ những ngày đầu tiến hành CNH nền kinh tế đều đã coi con người là nhân tố quan trọng và cần được đào tạo không chỉ về số lượng mà cả chất lượng theo nhu cầu thị trường. Tuy cách thức đào tạo của mỗi nước là khác nhau như các nước Đông Á gắn đào tạo theo sát nhu cầu của thị trường trong từng giai đoạn phát triển, các nước Châu Âu tạo mối liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và nhà trường, Trung Quốc tiến hành cải cách mạnh mẽ giáo dục theo nhu cầu của hiện đại hoá, của thế giới và của tương lai song tựu chung lại các nước đều gắn đào tạo theo nhu cầu xã hội. Đây chính là một trong những nguyên nhân cơ bản khiến cho nền kinh tế của các nước này phát triển vượt bậc. Trên đây là những bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện đào tào theo nhu cầu xã hội ở một số nước trên thế giới. Tuy nhiên không phải mọi bài học đó đều có thể áp dụng vào Việt Nam một cách thành công. Vì vậy trong quá trình học hỏi chúng ta phải xác định rõ những bài học nào phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của đất nước ta để vận dụng một cách tốt nhất, tránh tình trạng sao chép một cách máy móc. Chương II THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY I: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ TRUNG TÂM HỢP TÁC CHUYÊN GIA VÀ KỸ THUẬT VỚI NƯỚC NGOÀI 1.Quá trình hình thành Trung tâm hợp tác chuyên gia và kỹ thuật với nước ngoài được thành lập vào ngày 28 tháng 2 năm 1989 theo quyết định số 212 của Bộ trưởng Bộ Đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo), trước đó là Cục chuyên gia thuộc Chính phủ. Trong quyết định này có nêu rõ Trung tâm trực thuộc Bộ Đại học, THCN và DN, Trung tâm hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và được mở tài khoản tại Ngân hàng. Mọi hoạt động của trung tâm phải đảm bảo theo đúng pháp luật của Nhà nước và các quy định của Bộ. Trung tâm hợp tác chuyên gia và kỹ thuật với nước ngoài – Bộ GD-ĐT là đơn vị trực tiếp quản lý chuyên gia giáo dục làm việc ở nước ngoài. Trung tâm hiện đang thực hiện tuyển chọn, đào tạo ngoại ngữ và đưa chuyên gia đi làm việc tại các nước như Angola, Algierie, Công Gô, Madagascar, Môdămbique, Nhật bản, Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Nga, Lào, Campuchia, Malaysia và một số nước khác trên thế giới. 2. Chức năng, nhiệm vụ vủa trung tâm 2.1. Chức năng Trung tâm hợp tác chuyên gia và kỹ thuật với nước ngoài là tổ chức kinh tế trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, có chức năng làm dịch vụ đưa chuyên gia và người lao động (bao gồm: chuyên gia giáo dục, chuyên gia kỹ thuật và các dạng lao động khác) đi làm việc ở nước ngoài theo quy định, chế độ chính sách của Nhà nước và của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2.2. Nhiệm vụ + 02 nhiệm vụ nêu trong quyết định số 2447/QĐ ngày 19/9/1991: - Tiến hành tổ chức đưa người Việt Nam đi học tập, thực hành nâng cao trình độ theo nguyện vọng cá nhân và khả năng tiếp nhận của các cơ sở ngoài nước, trên cơ sở chủ trương của Bộ và quy định của Nhà nước; - Làm môi giới, giới thiệu, lo thủ tục ở trong và ngoài nước cho các đối tượng trên. + 08 nhiệm vụ trong Quyết định số 1556/TCCB ngày 3/8/1992: - Lập kế hoạch hợp tác chuyên gia và lao động kỹ thuật khác; - Khảo sát tiếp cận thị trường lao động, ký kết các hợp đồng về: Hợp tác chuyên gia giáo dục, chuyên gia kỹ thuật và lao động có nghề; - Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề, trình độ ngoại ngữ để chuẩn bị đội ngũ chuyên gia giỏi, lao động có kỹ thuật cao, biết ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu thị trường lao động hoặc bên sử dụng lao động; - Tổ chức tuyển chọn chuyên gia giáo dục, chuyên gia kỹ thuật và người lao động có nghề đi làm việc ở nước ngoài thông qua hợp đồng với các đơn vị, tổ chức hoặc cá nhân người lao động; - Đề xuất với Bộ và thực hiện các chế độ có liên quan, các quy định về nghĩa vụ và quyền lợi cho các đơn vị, cá nhân theo hợp lao động đã ký kết; - Phối hợp làm các thủ tục du học tự túc; - Liên doanh, liên kết với các tổ chức, các cá nhân trong và ngoài nước về các mặt hoạt động theo chức năng nhiệm vụ đã được quy định; - Thực hiện các chế độ tài chính có liên quan, sử dụng ngoại tệ theo quy định của nhà nước và của Bộ 3. Nhân sự và cơ cấu tổ chức của trung tâm a. Nhân sự Số lượng cán bộ của Trung tâm hiện nay là 46 người: trong đó 4 biên chế, 42 hợp đồng (2 tiến sĩ, 5 thạc sĩ, 37 đại học, 2 trung cấp); hiện có 30 cán bộ đang làm việc tại trung tâm, 8 cán bộ đang làm chuyên gia ở nước ngoài, 8 cán bộ được cử đi đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ ở nước ngoài (1 tiến sĩ, 7 thạc sĩ). Cụ thể được thể hiện ở bảng sau đây: SỐ LƯỢNG CÁN BỘ CÔNG NHÂN VIÊN CỦA TRUNG TÂM HỢP TÁC CHUYÊN GIA VÀ KỸ THUẬT VỚI NƯỚC NGOÀI Tổng só CBCNV Biên chế Hợp đồng dài hạn Trình độ Đang làm việc tại cơ quan Đang làm việc ở nước ngoài Đang đào tạo ở nước ngoài Đang đào tạo trong nước Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học Trung cấp Tiến sĩ Thạc sĩ Tiến sĩ Thạc sĩ (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (11) (12) (13) 46 4 42 2 5 37 2 30 8 1 7 0 1 Ghi chú: Tổng số CBCNV là 46 người trong đó: Làm việc tại cơ quan: 30 người Làm việc tại nước ngoài: 8 người Học tập ở nước ngoài: 8 người b. Cơ cấu tổ chức CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA TRUNG TÂM HỢP TÁC CHUYÊN GIA VÀ KỸ THUẬT VỚI NƯỚC NGOÀI GIÁM ĐỐC PHÓ GIÁM ĐỐC ĐẠI DIỆN Ở NƯỚC NGOÀI BAN DỰ ÁN PHÒNG TÀI VỤ PHÒNG HÀNH CHÍNH TỔNG HỢP BAN CHUYÊN GIA BAN DU HỌC II: THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA Đào tạo theo nhu cầu là mục tiêu của đổi mới giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ đắc lực cho quá trình CNH – HĐH đất nước. Nó không chỉ là trách nhiệm của nhà trường; của Bộ, ngành trung ương, địa phương mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Trong mối quan hệ đa chiều này nhà nước đóng vai trò điều phối dẫn đường thúc đẩy các mối quan hệ giữa nhà trường và nhà tuyển dụng, các ngành kinh tế mà đại diện là các doanh nghiệp làm cho cung cầu xích lại gần nhau vì lợi ích chung. Nhận thức được tầm quan trọng của đào tạo theo nhu cầu, toàn ngành giáo dục đã có rất nhiều biện pháp để nhằm chuyển hướng nền giáo dục như phát động các phong trào thi đua giảng dạy, mới đây Thứ trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân đã phát động phong trào: “hai không - Nói không với đào tạo không đạt chuẩn, không đáp ứng nhu cầu của xã hội". Tuy nhiên từ trước đến nay vấn đề đào tạo theo nhu cầu xã hội chưa trở thành vấn đề chung của toàn xã hội do đó kết quả đạt được còn rất hạn chế và nhiều khi vẫn mắc phải những lỗi của nền giáo dục cũ. Nên một bộ phận không nhỏ sinh viên của chúng ta sau khi ra trường vẫn phải đứng trước thực trạng thất nghiệp hoặc có xin được việc cũng đa phần là trái ngành trái nghề. Và doanh nghiệp cũng phải chịu trận cùng khi muốn đến kỳ tuyển dụng phải đỏ mắt mới tìm được những người có thể đảm đương được công việc ở vị trí mà doanh nghiệp tuyển, thậm chí còn phải đào tạo lai.Tôi xin đơn cử một ví dụ trong lĩnh vực du lịch - một trong những lĩnh vực tạo ra đóng góp lớn cho GDP: Theo dự báo của ngành du lịch, đến năm 2010, nước ta sẽ tiếp đón từ 5,5 đến 6 triệu lượt khách du lịch và khoảng 25 triệu khách nội địa. Do vậy, nguồn lực sẽ cần đến 1,4 triệu lao động. Trong đó, lao động trực tiếp sẽ khoảng 350.000 người. So với con số lao động thực tại (tính đến cuối năm 2007) thì tỉ lệ tăng bình quân mỗi năm phải vào khoảng 8,5% (ước tính khoảng 19.000 người/năm). Trong khi đó, với tổng số cơ sở đào tạo du lịch của ta hiện nay chỉ có 70 cơ sở, có năng lực đào tạo cho khoảng 13.000 người mỗi năm (kể cả hệ đại học lẫn trung cấp). Và qua khảo sát thực tế, ngành cũng đưa ra nhận định: Tuy lao động của ngành phát triển nhanh về số lượng, nhưng chất lượng chưa đảm bảo, đặc biệt là chuyên môn nghiệp vụ, chưa theo kịp đòi hỏi ngày càng cao và đa dạng của hoạt động du lịch trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Theo nhận định từ phía Bộ GDĐT thì lao động có trình độ đã qua các lớp đào tạo du lịch từ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và đại học - lực lượng lao động trực tiếp phục vụ khách, trực tiếp cung cấp sản phẩm đến người tiêu dùng - chỉ chiếm chưa đến 20% lao động toàn ngành (19,8%). Trong đó, số lao động được đào tạo đại học và sau đại học của ngành chỉ chiếm 7,4% số lao động có chuyên môn về du lịch. Trong khi, quy mô tuyển sinh của các cơ sở đào tạo du lịch cũng ngày càng tăng, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội. Theo Thứ trưởng Bành Tiến Long - Bộ GDĐT, tuyển sinh hàng năm ở các bậc đào tạo chỉ mới đáp ứng được khoảng 60% nhu cầu đào tạo du lịch của xã hội và gần 80% nhu cầu thực tế của ngành du lịch. Điều này không chỉ xuất hiện trong ngành dịch vụ du lịch mà còn xuất hiện ở nhiều ngành nghề khác như ngành ngân hàng - tài chính các doanh nghiệp cũng rất vất vả để tìm được người đáp ứng được các yêu cầu của công việc. Ví dụ: Một cán bộ Ngân hàng Quốc tế (VIB Bank) cho biết, cứ mỗi đợt tuyển dụng, VIB Bank lại nhận được hàng ngàn đơn ứng cử. Nhưng tỷ lệ trúng tuyển không cao, nhiều khi phải đăng tuyển nhiều lần cho một vị trí tuyển dụng mới chọn được người đạt yêu cầu. Phần lớn nhân viên mới đều cần thêm 2 - 6 tháng để đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ và kỹ năng làm việc. Tình trạng này hiện nay khá phổ biến ở các công ty khi có nhu cầu tuyển dụng. Như vậy công việc dành cho người lao động là rất lớn song chính người lao động đã bỏ mất cơ hội của mình. Sở dĩ lao động nước ta luôn gặp khó khăn trong vấn đề tìm việc làm phù hợp với những gì đã học và phù hợp với nhu cầu của nhà tuyển dụng chính là xuất phát từ hệ thống giáo dục của nước ta còn nhiều bất cập mà yếu tố chính là do giáo dục nước ta chủ yếu đào tạo cái mình có chứ không quan tâm đến cái thị trường cần. Hay nói cách khác cung và cầu lao động ở nước ta còn quá vênh. Một điều đáng buồn nữa là theo điều tra trong quý II/2007, nhu cầu lao động của 45/56 ngành nghề tăng cao đáng kể, tập trung vào những ngành nghề đòi hỏi chuyên môn và trình độ cao. Trong khi đó, theo khảo sát, nếu nguồn cung tăng khoảng 30%, thì nhu cầu nguồn lao động lại tăng đến 142% so với quý trước. Theo kết quả khảo sát của Ngân hàng Thế giới (năm 2007) thì tại Việt Nam, khoảng 60% lao động trẻ tốt nghiệp từ các trường dạy nghề và trường cao đẳng cần được đào tạo lại ngay sau khi tuyển dụng. Một số doanh nghiệp phần mềm cần đào tạo lại ít nhất 1 năm cho khoảng 80%-90% sinh viên tốt nghiệp vừa được tuyển dụng. TS Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp VN lý giải: “Bán cái khách hàng cần, thay vì bán cái mình có” là câu châm ngôn tưởng như đơn giản nhưng không phải dễ thực hiện. Bản chất của nó là các đơn vị đào tạo phải xuất phát từ phân tích nhu cầu của khách hàng trước khi bắt tay vào “sản xuất”. Và chất lượng của “sản phẩm” cũng do khách hàng đánh giá và quyết định. Thiết kế nội dung đào tạo hiện nay vẫn đang gặp nhiều trở ngại do thiếu tư duy “định hướng khách hàng” và do đó chất lượng đào tạo cũng đương nhiên chưa đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng. Như vậy, kết quả quá trình đào tạo theo nhu cầu xã hội của nước ta trong thời gian qua chưa đạt được như mong muốn, vẫn còn nhiều mặt hạn chế mà chúng ta cần phải khắc phục kịp thời trong thời gian tới. Dưới đây tôi xin nêu ra một số thành tựu chúng ta đã đạt được cũng như những hạn chế còn vướng mắc. 1. Những thành tựu đã đạt được từ hoạt động giáo dục đào tạo Trong nhiều năm qua cùng với các lĩnh vực khác của xã hội như y tế, văn hoá xã hội … đang thay đổi từng ngày theo nhu cầu của xã hội, giáo dục cũng có những bước chuyển mình thành công trong việc từng bước đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao của xã hội cụ thể: Thứ nhất: Hệ thống giáo dục đào tạo nghề nghiệp bao gồm các trường đại học và cao đẳng, hệ thống các trường trung học chuyên nghiệp và hệ thồng các trường nghề đã đòng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế, cung cấp hang triệu lao động mỗi năm ở các trình độ khác nhau với số lượng ngày càng tăng, chất lượng dần được nâng cao. Thứ hai: Cơ cấu trình độ đào tạo giữa đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề đã được điều chỉnh. Năm 2000 tỷ trọng cơ cấu trình độ ĐH/CĐ/TCCN/CN là 1/0/0,7/1.1; tỷ lệ hiện nay là: 1/0,4/0,9/3,8. Nguồn nhân lực trình độ nghề tham gia lao động trực tiếp tăng nhanh. - Về số lượng: Theo số liệu thống kê của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo năm 2000: năm 2001 – 2002 cả nước có 77 trường đại học, 114 trường cao đẳng và 252 trường TCCN . Năm 2005 – 2006 số trường đại học là 148 trường tăng 92%; cao đẳng 163 trường tăng 42,9%; TCCN là 284 trường tăng 12,7%. Số sinh viên, học sinh học trong các cơ sở đào tạo năm 2001 – 2002: đại học 763.256, cao đẳng 210.836, TCCN 271.175. Con số tương ứng năm học 2005 – 2006: đại học 1.087.813 tăng 42,53%, cao đẳng là 299.294 tăng 41,95%, TCCN là 500.252 tăng 84,47%. Khối dạy nghề hết năm 2006 cả nước có 262 trường dạy nghề và 599 trung tâm dạy nghề. Số học sinh học nghề dài hạn năm 2001 là 126.100, năm 2005 là 228.600 tăng 79.69% - Về chất lượng: Cơ bản nguồn nhân lực có trình độ đào tạo đáp ứng được những yêu cầu thiết yếu của nền kinh tế và thị trường lao động. Nhiều chương trình đào tạo mới đã được mở và đưa vào áp dụng đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của toàn xã hội như khoa học máy tính, cộng nghệ thông tin, tự động hoá, cơ điện tử, công nghệ cơ khí, nuôi trồng thuỷ sản, tài chính, ngân hang, các ngành dịch vụ và du lịch. Cho đến nay số chương trình đào tạo áp dụng đang được áp dụng trong các cơ sở ở các trình độ là: đại học 264, cao đẳng 126, TCCN 262 Thứ ba: Xuất hiện những nhân tố mới trong việc tăng cường gắn kết giữa đào tạo với thị trường lao động, đào tạo với thế giới việc làm, đào tạo với nhu cầu xã hội. Đó là mô hình đào tạo của các trường Đại học Hàng hải Việt Nam đã cùng với đối tác Nga, Ba Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ thành lập trung tâm huần luyện hàng hải đạt tiêu chuẩn quốc tế, thành lập công ty liên doanh trong vận tải hàng hải. Hay như trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) với mô hình lien kết toàn diện với viện máy và dụng cụ Công nghệ (IMI), Bộ Công nghiệp trong việc đào tạo cử nhân ngành cơ điện tử cho toàn ngành công nghiệp. Mới đây mô hình phát triển chương trình đào tạo theo hướng nghề nghiệp của các trường Đại học NNI, Đại học nông lâm Thái Nguyên, Đại học Nông lâm Huế, Đại học Nông lâm Tp.HCM … đã được thực hiện dựa trên kết quả điều tra và phân tích nhu cầu đào tạo, phân tích năng lực, phát triển chung chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động . Hay như gần đây nhất cuối tháng 3-2007, Trường ĐH Công nghệ thông tin (ĐHQG-HCM) đã có cuộc “bắt tay” rầm rộ với Microsoft để cùng đào tạo nhân lực. Trước đó mấy ngày, Khoa Kinh tế (ĐHQG-HCM) cũng “tay trong tay” với Công ty cổ phần Hoa Sen (Hoa Sen Corporation) bằng việc ký kết hợp tác chiến lược giữa đơn vị đào tạo với doanh nghiệp nhằm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao và hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình phát triển. Trong những cái bắt tay này, phía trường cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho đơn vị thực hiện liên kết, rồi đào tạo nâng cao nghiệp vụ kinh doanh cho cán bộ công nhân viên của đơn vị… Ngược lại, các đơn vị sẽ hợp tác với trường nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng cũng như sẽ hỗ trợ sinh viên nghiên cứu khoa học; tài trợ học bổng, các hoạt động phong trào, học thuật cho sinh viên. Và quan trọng nhất là các đơn vị này sẽ tạo điều kiện cho sinh viên thực tập thực tế tại công ty. Tuy nhiên, tất cả những cuộc “bắt tay” như thế chỉ được coi như là nỗ lực đơn lẻ, một loại “giải pháp tình thế”, tuy được tổng kết, đúc rút kinh nghiệm và nhân rộng nhưng vẫn chưa trở thành một giải pháp chiến lược Thứ tư: Một số mô hình phát triển nguồn nhân lực cấp quốc gia cũng đang được nghiên cứu áp dụng và nhân rộng như: Chương trình Kĩ sư, cử nhân chất lượng cao, Chương trình cử nhân tài năng, đặc biệt là Bộ đang triển khai chương trình tiên tiến nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, tiếp cận những công nghệ tiên tiến trên thế giới từ đó làm thay đỏi cơ bản chất lượng giáo dục đại học nói riêng và chất lượng giáo dục dạy nghề nói chung. Thứ năm: Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn nghề nghiệp, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng là cơ sở và căn cứ để phát triển chương trình đào tạo và đánh giá chất lượng đào tạo xem có đúng là phù hợp nhu cầu xã hội hay không. Cho đến nay, một số tiêu chuẩn nghề nghiệp đã được xây dựng , ban hành và áp dụng thí điểm như: tiêu chuẩn giáo viên tiểu học được áp dụng thử nghiệm ở 10 tỉnh thành với 25000 giáo viên tiểu học; tiêu chuẩn năng lực kỹ thuật viên công nghệ thông tin ở trình độ TCCN đang trong giai đoạn phê duyệt và ban hành; năm 2006 tiêu chuẩn kiểm định chất lượng trường đại học đã được áp dụng cho 20 trường và dự kiến năm 2007 sẽ kiểm định các trường tiếp theo. Theo đó một số trường đã áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tổng thể và được cấp chứng chỉ ISO như: Đại học Hàng Hải Việt Nam được cấp chứng chỉ ISO 9001 – 2000 về lĩnh vực đào tạo hàng hải năm 2005; Đại học Đà Lạt – ISO 9001-2000 về tổ chức quản lý đào tạo năm 2005; Đại học Kinh tế Quốc Dân – ISO 9001-2000 về tổ chức và quản lý đào tạo năm 2005. Những nhân tố tạo nên những thành tựu: Để có được những thành tựu trên chúng ta không thể không nhắc tới những nhân tố góp phần tạo nên những thành công đó.Cụ thể: - Đường lối giáo dục đào tạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, chính sách đổi mới mà trực tiếp là chính sách đổi mới trong giáo dục đào tạo - Truyền thống hiếu học của dân tộc ta được phát huy, nhu cầu học tập của dân không ngừng tăng lên. Nhân dân đóng góp rất nhiều công, của xây dựng trường lớp và chăm lo sự nghiệp giáo dục. - Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và số đông học sinh, sinh viên có nhiều cố gắng rất lớn, đại bộ phần thầy cô có tâm huyết, gắn bó với nghề. Các giáo viên vùng sâu, vùng xa nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh. - Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân nhận thức rõ hơn vai trò của giáo dục đối với tương lai của đất nước, đã khắc phục nhiều khó khăn, tích cực tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục. 2. Những tồn tại của nền giáo dục nước ta Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền giáo dục nước ta còn tồn tại nhiều mặt cần được khắc phục kịp thời để sản phẩm của nền giáo dục nước ta nhạnh chóng đáp ứng nhu cầu của xã hội. Thứ nhất: Nhiều trường đã đánh đồng quan điểm đào tạo theo nhu cầu là đào tạo những ngày đang “nóng”. Đây chỉ là giải pháp tạm thời cho nhu cầu hiện tại chứ không phải là cốt lõi của vấn đề đào tạo theo nhu cầu. Kết quả là nếu như những năm trước, các thí sinh chen chúc đua tranh vào các chuyên ngành y, dược, bách khoa ...rồi lại kinh tế, thương mại thì nay ưu tiên số 1 được chuyển qua các ngành “thị trường chứng khoán”, “đầu tư chứng khoán”. Và “sàn” tuyển sinh năm nay dưới áp lực của “sàn chứng khoán” đã chuyển hướng qua “nguyện vọng cổ phiếu” với mong muốn… đáp ứng nhu cầu xã hội. Khi dân tình nô nức “lên sàn” thì các cơ sở đào tạo cũng vội vã trưng biển, dán thông báo đào tạo “cấp tốc” để sau 8 tuần học… là có thể đầu tư chứng khoán có lãi! Và dưới sức “nóng” này, trong những chương trình tư vấn tuyển sinh vừa qua, các trường ĐH, CĐ bỗng giật mình lo ngại một mùa hướng nghiệp mất cân đối khi số học sinh hỏi về ngành chứng khoán nhiều hơn các ngành học khác. Còn nhớ 5-7 năm về trước, một số trường kinh tế với quan điểm “đi tắt, đón đầu” đã cho mở các chuyên ngành đào tạo chứng khoán, song ngay lập tức bị xếp vào hạng “kém hấp dẫn” và phải đóng cửa vì không có hoặc có rất ít người học. Nhưng giờ gió đã chuyển hướng, ngành chứng khoán được các thí sinh chọn nhiều hơn bao giờ hết. Và các trường – không có một sách lược nhất quán từ nhiều năm trước – đã “thức thời” mở ngay chuyên ngành này dù giảng viên vừa thiếu lại vừa yếu. Liệu cảnh đua chen thi vào ngành chứng khoán có kịp bổ khuyết nguồn nhân lực đang bị hụt hẫng? PGS-TS Trần Hoàng Ngân, Trưởng khoa Ngân hàng Trường ĐH Kinh tế TPHCM cho rằng chỉ trong 3 năm nữa, các công ty chứng khoán sẽ đủ nhân lực, nhu cầu sẽ chững lại. Bây giờ là “sốt” nhưng sau đó rất có thể xuất hiện tình trạng “thừa ảo” nhân lực. Và điều này cũng từng xảy ra đối với các ngành “nóng” một thời như quản trị kinh doanh, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học… dẫn đến kết cục bão hòa thị trường nhân lực. Theo đuổi ngành công nghệ sinh học trên cơ sở kỹ thuật hạt nhân, TS Lê Xuân Thám cho rằng, cái sự “làng nhàng” của cử nhân lĩnh vực sinh học hiện giờ là bởi có độ vênh giữa kiến thức thu nhận và thực tiễn phải cập nhật khi mà chúng ta chỉ lo phần “ngọn” với sự nhồi nhét, chồng chất thông tin trong khi phần “gốc” là khả năng tiếp cận, ứng dụng trong cuộc sống lại gần như không có. Đó cũng chính là cách lấy lượng đè chất và hậu quả là nguồn nhân lực thừa thì vẫn thừa mà thiếu vẫn hoàn thiếu: Nhân lực chất lượng cao thì thiếu trong khi dạng “bình dân” lại quá dư thừa. Hiện nay còn tồn tại một xu hướng nữa làm mất cân bằng giữa thầy và thợ đó là tình trạng sính bằng ĐH, nhà nhà, người người đua nhau cho con đi học ĐH để mong con mình đổi đời. Người ta rất sợ làm nghề vì lương thợ trung cấp quá thấp trong khi đó nước ngoài trả lương thợ có tay nghề nhiều khi cao hơn lương ĐH chỉ biết lý thuyết và nghiên cứu. Vì vậy ít người nghèo thích vào học trường nghề, mà chỉ muốn đi thẳng lên ĐH. Trong khi đó, phát triển kinh tế địa phương rất cần nguồn nhân lực có tay nghề, kỹ năng hiện đại trong sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp, các loại dịch vụ và chuẩn bị lao động xuất khẩu. Trong thời đại WTO, nhu cầu nguồn nhân lực tay nghề này quan trọng gấp nhiều lần hơn nguồn lao động lý thuyết hàn lâm từ các ĐH mà phải mất ít nhất 4 năm mới đào tạo được một ít phần trăm lao động ở mỗi địa phương. Do đó, chúng ta nên nhanh chóng điều chỉnh hành vi của con người để hướng con người đến với nhu cầu thực tế của nền kinh tế chứ không phải hư danh. Thứ hai: Phương thức giáo dục Nhìn lại phương thức giáo dục trước đây của nước ta, ai cũng thấy rõ nó còn quá nặng nề về lý thuyết, thiếu tính thực tiễn. Vấn đề này không chỉ tồn tại ngay từ cấp học mẫu giáo mà còn kéo dài đến tận cấp bậc đại học. Hầu hết các tiết thực hành của học sinh, hay những buổi kiến tập, thực tập của sinh viên đại học, cao đẳng hầu như bị bỏ qua và thay vào đó bằng những giờ học khác hoặc không được hướng dẫn cụ thể đối với cấp đại học và cao đẳng. Dẫn đến tình trạng khá phổ biến là học sinh, sinh viên nước ta nắm lý thuyết rất tốt nhưng khi áp dụng vào thực tiễn thì lại không biết vận dụng. Đây là điều mà hầu hết các nước trên thế giới đã nhận thức và chuyển hướng theo phương thức đào tạo gắn với thực tiễn. Các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề mới chỉ tập trung vào đào tạo những gì trường có, chứ không quan tâm đến nhu cầu xã hội cần nhân lực gì. Thực tế, nhiều trường vẫn chỉ quan tâm đến số lượng sinh viên đầu vào, mà không cần biết ra trường có tìm việc làm theo đúng ngành mình đào tạo hay không, có đáp ứng được yêu cầu cơ bản của nghề nghiệp không? Vì vậy, một tỷ lệ không nhỏ sinh viên tốt nghiệp hàng năm không đủ kiến thức và kỹ năng cần thiết để làm việc đúng theo trình độ của văn bằng được cấp. Đã vậy, kiến thức đó lại chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội, của các doanh nghiệp. Song nguyên nhân dẫn đến tình trạng này cũng một phần do chi phí đầu tư cho cơ sở vật trang và trang thiết bị còn quá hạn hẹp. Thêm vào đó nền giáo dục của nước ta còn thực hiện trên quy mô đại trà cũng còn khá nặng nề. Riêng ở Việt Nam, trong nhiều năm, do nhận thức “đào tạo để hình thành con ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12199.doc