MỤC LỤC
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
Giáo dục và Đào tạo GD – ĐT
Tổ chức Thương mại Thế giới WTO
Đại học ĐH
Cao đẳng CĐ
Trung học chuyên nghiệp THCN
Trung cấp chuyên nghiệp TCCN
Trung học cơ sở THCS
Trung học phổ thông THPT
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNH – HĐH
Kinh tế - xã hội KT – XH
Công nghiệp hoá CNH
Việt Nam VN
Đại học quốc gia ĐHQG
Công nghệ thông tin CNTT
Công nhân CN
MỞ ĐẦU
Một căn bệnh cốt tử trong nền Giáo dục và Đạo tạo (GD-ĐT) của ta hiện nay là sự cách biệt
42 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1362 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng & giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quá lớn giữa đào tạo và sử dụng, giữa cung và cầu về nhân lực, hay nói cách khác là hiệu quả GD-ĐT thấp. Đây là căn bệnh đã được nói đến từ hàng chục năm qua, từ ngày Đảng và Nhà nước bắt đầu đề cập đến chủ trương xã hội hóa giáo dục, thế nhưng cho đến nay vẫn chưa được khắc phục, nếu không nói là có xu hướng trầm trọng hơn trước áp lực của hội nhập quốc tế. Căn bệnh nói trên chính là hậu quả "kép" của một nền giáo dục vừa nặng về hư danh, khoa cử, sính bằng cấp theo kiểu giáo dục phong kiến xưa kia lại vừa mang tính "tháp ngà", tách biệt đào tạo với xã hội, với thực tiễn sản xuất kinh doanh theo mô hình của Liên Xô trước đây.
Biểu hiện rõ nhất của tình trạng nêu trên chính là sự mất cân đối trầm trọng trong cơ cấu nguồn nhân lực được đào tạo mà lâu nay vẫn được gọi là tình trạng "thừa thầy thiếu thợ", là tình trạng một bộ phận không nhỏ sinh viên ra trường không tìm được việc làm trong khi các doanh nghiệp, các khu công nghiệp lại thiếu trầm trọng lao động đã qua đào tạo theo đúng nhu cầu của họ, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ cao…Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, việc chúng ta chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với cam kết mở cửa thị trường giáo dục đại học đã tạo áp lực trực tiếp buộc chúng ta phải đổi mới tư duy GD-ĐT mà bằng chứng cụ thể là việc chấp nhận khái niệm thị trường giáo dục với đầy đủ ý nghĩa của nó, một khái niệm mà lâu nay vẫn bị coi là kiêng kỵ. Rõ ràng, với áp lực mở cửa thị trường đại học theo cam kết WTO, nếu chúng ta không khẩn trương đổi mới triệt để tư duy đào tạo, đặt GD-ĐT vào trung tâm của dòng chảy phát triển và hội nhập thì khủng hoảng, tụt hậu trong GD-ĐT và nguồn nhân lực nói chung tất yếu sẽ xảy ra. Một khi nguồn nhân lực đã được khẳng định là chìa khóa thắng lợi trong cạnh tranh kinh tế thì hậu quả của khủng hoảng, tụt hậu trong GD-ĐT mà trực tiếp là đào tạo ĐH đối với phát triển kinh tế là vô cùng nặng nề.
Do đó chủ trương hướng toàn bộ nền ĐH, CĐ, THCN cho mục tiêu đáp ứng nhu cầu của xã hội mà trước hết là nhu cầu của doanh nghiệp, đối tượng có nhu cầu lớn nhất về nhân lực đã qua đào tạo, hay nói nôm na là chuyển từ "đào tạo cái mình có" sang "đào tạo cái mà xã hội (doanh nghiệp) cần" và việc vận dụng các nguyên tắc của của thị trường trong đào tạo và sử dụng là cần thiết. Nó không nhanh chóng giải quyết vấn đề nguồn nhân lực của hiện tại mà còn trở thành một động lực to lớn thúc đẩy phát triển kinh tế khi nước ta trong tương lai.
Trong bài viết này, em đi sâu vào việc làm rõ thực trạng đào tạo theo nhu cầu ở nước ta hiện nay và kết quả mà chúng ta nhận được từ những gì mà chúng ta thực hiện. Vậy liệu có nên chăng tiếp tục con đường mà chúng ta đang đi hay phải đổi mới, hoàn thiện nó lên một bước cao hơn để GD – ĐT thực sự xuất phát từ nhu cầu xã hội, để sản phẩm của nó thực sự đáp ứng nhu cầu về nguồn lao động chất lượng cao tăng lên không ngừng của xã hội.
Mô hình này không còn phải là mới trên thế giới, nó đã được thực hiện từ rất lâu rồI, ở rất nhiều quốc gia trên thế giới. Việc Việt Nam đến nay mới nhận ra và đi theo con đường này tuy là quá muộn song việc thực hiện nó không phải là không có ý nghĩa bởi lẽ nếu không thực hiện thì không biết nền giáo dục nước nhà sẽ còn đi đến đâu đặc biệt là hiện nay nước ta đã là thành viên của WTO thì nhu cầu về nhân lực đáp ứng nhu cầu thị trường là rất lớn. Tuy nhiên để có thể đi đến đích thành công của nó không phải điều dễ dàng, thực tế trên thế giới cho thấy rõ không phải nước nào cũng thành công khi đi theo con đường này.
Với tính cấp thiết và quan trọng của vấn đề này nên em đã chọn đề tài:
“Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải pháp”
Nội dung chính của bài viết gồm có 3 phần:
Chương I : Lý luận chung về đào tạo theo nhu cầu
Chương II : Thực trạng việc đào tạo theo nhu cầu ở Việt Nam
Chương III : Giải pháp cho đào tạo theo nhu cầu ở nước ta
Do những hạn chế về mặt kiến thức và nguồn tài liệu tìm kiếm được nên bài viết của em khó tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được những sự góp ý của thầy và những ai quan tâm đến vấn đề mà em nghiên cứu.
Qua đây em xin chân thành cảm ơn thầy Bùi Đức Thọ đã hướng dẫn em hoàn thành đề án này.
Chương I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU
Quan điểm đào tạo theo nhu cầu xã hội ở nước ta đã xuất hiện từ rất lâu. Ngay trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá VII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996), Đảng ta đã khẳng định: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hang đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả 3 mặt mở rộng quy mô, nâng cao dân trí và phát huy hiệu quả. Phương hướng chung của lĩnh vực đào tạo trong những năm tiếp theo là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH – HĐH).
Hay trong bài phát biểu của Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình tại Hội nghị giáo dục đào tạo, Bà đã nhấn mạnh: “Ở thời đại CNH – HĐH hiện nay sự phát triển kinh tế - xã hộI (KT – XH) trước mắt và tương lai đòi hỏi cấp bách những năng lực mới như năng lực thích ứng với sự thay đổi, năng lực tư duy độc lập, năng lực tự học và tự cập nhập thường xuyên kiến thức mới, năng lực sang tạo và nâng cao sự cạnh tranh của nền kinh tế … đó là những năng lực cần thiết để tìm ra những cách làm rút ngắn khoảng cách lạc hậu so với các nước đi trước nhằm đạt muc tiêu CNH – HĐH. Để có được những năng lực đó thì ngay từ bây giờ các trường, các cơ sở đào tạo phải chuyển hướng đào tạo theo hướng đáp ứng nhu cầu của xã hội, hướng giáo dục đào tạo phải trở thành một hệ thống mở: mở đối với đại chúng, mở đối với thực tế kinh tế xã hội, mở đối với thế giới và thời đại có như vậy chúng ta mới có thể hy vọng trong tương lai không xa chúng ta có được nguồn lao động đáp ứng được các yêu cầu của xã hội”.
Như vậy vấn đề đào tạo theo nhu cấu thực sự trở thành một vấn đề cấp thiết với nước ta không chỉ trong hiện tại mà cả trong tương lai đặc biệt khi nước ta đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO thì vấn đề này lại càng trở nên quan trọng bội phần nó giúp ta có được một lượng lớn nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp trong nước và cả các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam, giảm bớt được một lượng đáng kể số người thất nghiệp trên thị trường đồng thời còn hạn chế được tình trạng trong khi số lượng người thất nghiệp trong nước tăng mà vẫn phải thuê lao động từ nước ngoài về làm việc.
1. Khái niệm về đào tạo theo nhu cầu
Hiện nay, khái niệm đào tạo theo nhu cầu xã hội còn nhiều tranh luận và chưa đi đến thống nhất. Có quan điểm cho rằng: Đào tạo theo nhu cầu xã hội gồm: đào tạo theo nhu cầu của Nhà nước, các địa phương, nhu cầu của người sử dụng lao động và nhu cầu của người học. Song cũng có quan điểm cho rằng: Đào tạo theo nhu cầu là phương thức tổ chức đào tạo ngắn hạn.
Những quan niệm trên đều chưa đầy đủ và sát với ý nghĩa của bản thân nó. Dưới đây tôi xin nêu ra cách khái niệm sau về đào tạo theo nhu cầu theo tôi là phù hợp nhất.
Đào tạo theo nhu cầu xã hội là phương thức đào tạo mà ở đó chỉ rõ: Đào tạo cái gì? Đào tạo như thế nào? Đào tạo bao nhiêu? được định hướng bởi nhu cầu đào tạo xã hội
2. Phân loại đào tạo theo nhu cầu
Hiện nay trên thị trường tồn tại 2 loại hình đào tạo theo nhu cầu:
- Đào tạo theo nhu cầu hiện tại của thị trường: tức là căn cứ vào nhu cầu hiện tại của thị trường đang thiều lao động trong những ngành nghề gì thì đào tạo những ngành nghề đó và việc đào tạo này thường được tổ chức thành các lớp đào tạo ngắn hạn (từ 3 đến 6 tháng). Ưu điểm của loại hình đạo tạo này là đáp ừng ngay được nhu cầu lao động của thị trường, tuy nhiên nó có nhược điểm lớn là những lao động được đào tạo ra thường có tay nghề không cao nên sau một thời gian làm việc nều không có sự bổ sung kiến thức thì dễ bị đào thải do không còn đáp ứng được yêu cầu cao hơn của công việc
- Đào tạo đáp ứng nhu cầu tương lai của thị trường: theo hình thức này thì căn cứ vào tình hình phát triển hiện tại của nền kinh tế trong nước và xu thế phát triển của thế giới để đưa ra nhưng dự đoán về những ngành nghề sẽ phát triển trong tương lai. Việc đào tạo này thường được tổ chức thành các lớp đào tạo dài hạn (từ 3 đến 6 năm), những lao động được tạo ra từ đây thường có trình độ cao; khả năng học hỏi, tiếp cận những thành tựu của khoa học công nghệ, thích ứng với sự thay đổi là nhanh.Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là do thời gian đào tạo là dài nên đòi hỏi việc dự báo phải có tính chính xác cao để tránh sự lãng phí nguồn lực và gia tăng tỷ lệ thất nghiệp.
3. Vai trò và đặc điểm của đào tạo theo nhu cầu
a) Vai trò
Đào tạo theo nhu cầu xã hội có một vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Ý nghĩa của nó không chỉ tồn tại trong một giai đoạn phát triển nhất định nào đó mà nó xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc bởi lẽ xã hội luôn luôn đi lên, nhu cầu của con người này càng cao, khoa học công nghệ phát triển từng ngày từng giờ … khiến cho nhu cầu về nguồn nhân lực không chỉ dừng lại ở có đức tính tốt, cần cù, trung thành, có trách nhiệm nữa mà họ còn phải có tính sáng tạo, có khả năng xử lý vần đề, có khả năng phân tích, có tinh thần đồng độI, có khả năng ăn nói diễn đạt …
Như vậy đào tạo theo nhu cầu xã hội có một vai trò rất to lớn, cụ thể là:
- Nó khắc phục sự thiếu hụt trình độ và kỹ năng của từng cá nhân so với yêu cầu cụ thể do công việc hiện tại và trước mắt của chính mỗi cá nhân đó đặt ra.
- Đáp ứng sự thiếu hụt trầm trọng về nguồn nhân lực chất lượng cao cho các đơn vị tuyển dụng
- Tăng khả năng cạnh tranh của lao động trong nước so với nguồn nhân lực từ nước ngoài chảy vào.
- Làm giảm nhu cầu nhập khẩu lao động từ các nước của các đơn vị tuyển dụng trong nước
- Tiết kiệm chí phí và thời gian cho cơ quan tuyển dụng cũng như người lao động khi phải đào tạo lại.
b) Đặc điểm
Đào tạo theo nhu cầu xã hội không phải là một loại hình đào tạo mới trên thế giới, nhưng đối với Việt Nam thì đây còn là một bài toàn khó cần giải quyết trong giai đoạn hiện nay để có thể có một nguồn nhân lực tốt đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
Đào tạo theo nhu cầu có những đặc điểm sau:
- Chi phí cho đào tạo là khá lớn cả về tiền bạc và công sức bởi nó thường đòi hỏI cơ sở đào tạo phải nghiên cứu kỹ nhu cầu của thị trường cũng như phải đầu tư mua sắm những trang thiết bị hiện đại phục vụ giảng dạy và nghiên cứu theo đúng những gì đang có trên thị trường, tiếp cận những phương pháp giảng dạy tiên tiến trên thế giới
- Chương trình đào tạo, bồi dưỡng đa dạng phù hợp với nhu cầu của người học và của các cơ quan sử dụng lao động.
- Luôn tồn tại sự chênh lệch giữa nhu cầu đào tạo và cung ứng đào tạo do nhu cầu luôn biến đổi còn quy trình đài tạo thì lại có sức ỳ lớn.
- Nội dung đào tạo phải luôn gắn với thực tiễn
4. Phân loại nhu cầu đào tạo
Hiện nay có 3 nhóm nhu cầu sau đây:
- Nhu cầu của nhà nước: là chiến lược phát triển nguồn nhân lực với tầm xa 15 đến 20 năm với các ngành nghề đặc biệt, đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của đất nước. Nhu cầu đào tạo này thường chọn mục tiêu đi trước, đón đầu về khoa học, công nghệ, vượt trước nhu cầu đào tạo của doanh nghiệp cũng như nhu cầu của người học. Có thể thấy nhu cầu đào tạo này trong việc phát triển nguồn nhân lực cho các ngành điện hạt nhân, công nghệ Nano, công nghệ sinh học, cơ điện tử và một số ngành công nghệ quan trọng khác. Nhu cầu đào tạo này có số lượng lớn, có căn cứ và cơ sở để dự đoán hàng năm. Những ngành nghề đặc biệt về an ninh, quốc phòng và chế độ cử tuyển do nhà nước dự báo nhu cầu.
- Nhu cầu của doanh nghiệp: về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực bao gồm đào tạo cán bộ quản lý và lao động chuyên môn trực tiếp đòi hỏi người học sau khi tốt nghiệp có thể làm được việc ngay, phù hợp với yêu cầu cụ thể của doanh nghiệp. Nhu cầu đào tạo này phù hợp với các trình độ: đại học theo hướng nghề nghiệp ừng dụng, kỹ thuật viên trình độ cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề. Tuy nhiên nhu cầu này chưa được tổng hợ, thiều thông tin nhu cầu dự báo hang năm. Đặc biệt trong các doanh nghiệp ở các nước hiện nay đang phải nhập khẩu lao động thì việc đào tạo theo nhu cầu của họ để xuất khẩu lao động là hoàn toàn cần thiết.
- Nhu cầu của người học: là nhu cầu cá nhân của học sinh, sinh viên. Nhu cầu này thường thay đổi theo nhu cầu của thị trường lao động rất khó xác định nhưng phải được nghiên cứu và tôn trọng. Đó là nhu cầu của bản than người học để nâng cao trình độ, học để tìm việc làm, để làm một nghề có thể sống được, học để tự tạo việc lamg cho bản than và cho người khác. Bên cạnh đó là nhu cầu của gia đình hướng cho con em mình lựa chọn ngành nghề theo truyền thống của gia đình.
Ba nhóm nhu cầu này thường xuyên biến động, thay đổi theo từng giai đoạn, phụ thuộc vào sự phát triển của KT – XH của đất nước tạo ra một tập hợp có các vùng giao thoa với nhau. Tuỳ theo tầm nhìn và nhiệm vụ đào tạo, nhà trường sẽ điều chỉnh số người học, ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với xu thế phát triển, thoả mãn nhu cầu đào tạo của nhà nước, của doanh nghiệp và nhu cầu của bản thân người học.
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc đào tạo theo nhu cầu của các trường
Việc đào tạo theo nhu cầu là rất quan trọng tuy nhiên có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng làm cho kết quả của quá trình đào tạo có thể hoặc không thể theo ý muốn chủ quan của người đào tạo và người sử dụng sản phẩm qua đào tạo. Trong đó bao gồm cả những nhân tố tích cực và những nhân tố tiêu cực
- Những nhân tố tích cực:
+ Có nhiều chính sách, chương trình, dự án của Nhà nước khuyến khích các trường học, cơ sở đào tạo tiến hành đào tạo theo nhu cầu của xã hội như: tăng nguồn vốn cấp phát cho các trường, cơ sở đào tạo đầu tư các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho dạy và học, tăng cường liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp …
+ Nhận thức của người dân về nhu cầu học của cá nhân ngày càng theo hường đáp ứng nhu cầu của xã hội hơn là chạy theo thị hiếu
+ Ngày càng có nhiều loại hình, phương tiện giảng dạy mới giúp học sinh, sinh viên nhanh chóng tiếp cận các kiến thức, công nghệ hiện đại như: giảng dạy bằng máy chiếu, phương pháp trao đổI thông tin qua mạng …
- Những nhân tố tiêu cực:
+ Tài chính Nhà nước cấp cho các trường và khoản thu của nhà trường (học phí và các khoản thu khác) có tăng qua từng năm nhưng vẫn là quá ít so với nhu cầu của một nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng.
+ Sự can thiệp, chỉ đạo chưa hợp lý của Bộ GD - ĐT
+ Cơ sở vật chất cho giảng dạy còn nhiều hạn chế nhất là các ngành thuộc khối kỹ thuật do đầu tư vào trang thiết bị quá tốn kém
+ Nội dung giáo trình còn lạc hậu so với thế giới
6. Kinh nghiệm
Sự tăng trưởng của khu vực Đông Á trong những thập kỷ qua là kết quả của nhiều nhân tố khác nhau, trong đó không thể không kể đến chiến lực phát triển nguồn nhân lực thông qua GD – ĐT nhằm mục tiêu đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, trở thành nước công nghiệp sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới (như Anh, Mỹ, Đức…) là mục tiêu hàng đầu và phải kiên quyết thực hiện. Cho đến nay, sau những chặng đường dài của sự phát triển thì những thành tựu phát triển kinh tế của các nước trong khu vực Đông Á có được từ chính sách phát triển chú trọng phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo của họ vẫn là những bài học quý giá mà chúng ta cần học tập mặc dù việc thực hiện chính sách này ở nước ta là muộn so với nhu cầu thực tại của đất nước.
Ngay từ thời kỳ đầu bước vào công nghiệp hoá (CNH), các nền kinh tế Đông Á đã nhận thức một cách sâu sắc rằng con người là vốn quý nhất của xã hội, là yếu tố quyết định của quá trình sản xuất. Điều đáng lưu ý là nhận thức này không chỉ của Chính phủ mà đã trở thành nhận thức chung, thống nhất của cả chính quyền các cấp lẫn người dân và các tầng lớp với các giới có liên quan.
Ở các nền kinh tế Đông Á, chiến lược phát triển nguồn nhân lực thông qua GD – ĐT với chiến lược CNH có tính bổ xung và phù hợp khá cao. Hai loại chính sách này không thể thành công được nếu như chính sách phát triển NNL thông qua GD – ĐT không được hoạch định nhằm đáp ứng các mục tiêu cụ thể đặt ra cho mỗi giai đoạn của CNH. Cụ thể là vào thời kỳ chuẩn bị cất cánh công nghiệp, các nền kinh tế Đông Á (ngay cả Nhật Bản) thường bị lạc vào tụt hậu xa so với các nền kinh tế Tây Âu và Mỹ. Các nền nước ở Đông Á có nguồn nhân lực dồi dào và rẻ mạt song lại rất thiếu các nguồn lực để có thể cùng mọt lúc đáp ứng được rất nhiều nhu cầu cấp bách. Để có thể sớm rút ngắn khoảng cách đó và đuổi kịp các nước phát triển, các nước Đông Á không có cách nào khác để tiến hành thành công CNH là phải tiến hành tiếp thu công nghiệp nước ngoài. Muồn làm được điều này, các nước này cần phải nhanh chóng nâng cao trình độ dân chúng và tạo ra được một đội ngũ lao động có trình độ đồng đều và phù hợp để có thể tiếp thu và cải tiến được các công nghệ nhập khẩu. Trong tình thế đó do nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục tiểu học, nên các nền kinh tế này đã ưu tiên đầu tư cao nhất cho giáo dục tiểu học. Nhiều nền kinh tế trong khu vực đã giành một nửa kinh phí giáo dục cho giáo dục tiểu học. Nhờ đó, hầu hết các nền kinh tế này đã sớm thực hiện thành công quá trình phổ cập giáo dục tiểu học, tạo nền tảng quan trọng cho việc chuyển dịch trôi chảy lao động giản đơn từ nông nghiệp sang công nghiệp cũng nhơ cho việc xây dựng và phát triển thành công các ngành công nghiệp xuất khẩu sử dụng nhiều lao động. Đó thực sự là một chuyển đổi thành công từ sự gia tăng trình độ giáo dục sang sự gia tăng năng xuất lao động xã hội và sự gia tăng mức độ CNH của nền kinh tế.
Vào thời kỳ chuyển dịch cơ cầu công nghiệp từ các hoạt động giá trị gia tăng thấp lên các hoạt động có giá trị gia tăng cao, nhu cầu nhân lực lúc này không chỉ là lao động giản đơn tốt nghiệp tiểu học nhơ giai đoạn trước nữa mà đòi hỏi lao động phải có trình độ cao hơn. Do đó ngay sau khi đạt được phổ cập giáo dục tiểu học, các nền kinh tế Đông Á đã chuyển sang mở rộng giáo dục trung học, ban hành chính sách phổ cập giáo dục trung học và ưu tiên đầu tư cho cấp học này. Nhật Bản và các nước công nghiệp đã rất thành công trong việc thực hiện chính sách mới này là do họ đã có chính sách mở rộng và ưu tiên đầu tư thích hợp khiến quy mô mở rộng giáo dục trung học đủ lớn; đồng thời chính sách CNH thích hợp được đưa ra sau khi các nền kinh tế này thực hiện thành công phổ cập giáo dục tiểu học, đã thu hút được hầu hết lực lực lượng lap động vào quá trình sản xuất, do vậy đã giúp nền kinh tế nhanh chóng chuyển sang hoạt động công nghiệp có giá trị giá tăng cao. Trong những năm 1970, giáo dục trung học trong các nền kinh tế này đã nhận được phần đầu tư đáng kể trong các khoản đầu tư cho 3 cấp giáo dục : tiểu học, trung học, đại học. Đồng thời chính sách mở rộng giáo dục trung học đã nhấn mạnh không chỉ khía cạnh văn hoá của giáo dục trung học mà còn cả khía cạnh giáo dục nghề nghiệp cấp trung học.
Trong khi đó ở các nước ASEAN, việc mở rộng hệ thống giáo dục trung học lại không theo sát quá trình CNH đã gây ra một vài rối loạn trên thị trường lao động. Philippin mở rộng giáo dục vượt quá nhu cầu của CNH, hay không đi kèm với sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ đã gây ra tình trạng thất nghiệp có học lớn. Do đó trên thực tế Philippin đã phải chọn giải pháp xuất khẩu lao động để giải quyết việc làm cho số lao động dư thừa. Ngược lại, ở một cực khác các nước như Thái Lan, Indonexia, Malayxia giáo dục trung học lại không đáp ứng được nhu cầu về lao động có kỹ năng ngày càng cao của nền kinh tế.
Như vậy, điểm mấu chốt khiến cho chính sách mở rộng giáo dục trung học của Nhật Bản và các nước công nghiệp mới hiệu quả hơn các nước ASEAN là họ đã kịp thời nhận thấy được nhu cầu về lao động có kỹ năng cao ngày càng tăng cho phát triển và nhanh chóng có những đổi mới trong quá trình đào tạo để tạo ra những con người đáp ứng các nhu cầu đó.
Từ những năm 1980, do toàn cầu hoá kinh tế ngày càng trở thành một xu thế nổi trội và do sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức, nên khối lượng kiến thức được sản sinh ra ngày càng nhiều và đổi mới ngày càng nhanh, đồng thời tính cạnh tranh giữa các nền kinh tế và các doanh nghiệp ngày càng quyết liệt. Thực tế này đòi hỏi các nền kinh tế phải chuẩn bị được nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ nắm vững các kiến thức cơ bản mà còn phải cập nhập thường xuyên các thành tựu khao học và có đầu óc sáng tạo, linh hoạt, dám nghĩ dám làm, năng động, chấp nhận mạo hiểm. Trước những yêu cầu đòi hỏi đó các nền kinh tế Đông Á đã tập trung nguồn lực tiến hành cải cách mạnh mẽ hệ thồng giáo dục và đào tạo cả về cơ cấu, nội dung giảng dạy, tạo điều kiện tốt nhất cho mọi người tham gia học tập và đổi mới kiến thức suốt đời.
Bên cạnh vấn đề giáo dục phổ thông, thì các nước trong khu vực Đông Á còn quan tâm đến giáo dục nghề ban đầu, Các nước này cho rằng lực lượng lao động có tay nghề là cầu nối giữa các nhà khoa học và sản xuất, là lực lượng chủ chốt cho sản xuất. Các nước này thường kết hợp giáo dục nghề nghiẹp ban đầu ở các cấp trung học, lẫn sau trung học. Trong các phương thức đào tạo nghề ở các nước Đông Á thì phương thức nổi trọi nhất là đào tạo nghề ngay tại nơi làm việc (phát triển nhất ở Đài Loan, Nhật bản, Hàn Quốc). Phương thức đào tạo này đảm bảo được nguyên tắc gắn học với hành và hầu như không có sự bất cập giữa cung và cầu lao động được đào tạo vì các công ty thực hiện đào tạo chủ yếu cho và từ nhu cầu của chính mình.
Gần đây, Nhật Bản đã đẩy mạnh cải cách giáo dục nhằm đào tạo ra những con người năng động, sáng tạo hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học và công nghệ của đất nước trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu. Những hướng cải cách chủ yếu là loại bỏ dần tính thống nhất và bình đẳng thái quá trong giáo dục; giảm thiểu kiến thức, nhất là phần lý thuyết suông trong các trường phổ thông và tăng thêm phần thực hành; chuyển cách dạy và học từ chỗ nặng về "thày dạy, trò ghi nhớ một cách máy móc" sang chỗ "thày chủ yếu khơi gợi vấn đề, trò chủ động tham gia thảo luận"; giảm dần sự can thiệp quá mức của Nhà nước, đề cao tính chủ động và tự quản của các địa phương, các nhà trường trong các vấn đề giáo dục; và đa dạng hoá các loại hình trường lớp, linh hoạt hoá các chương trình giảng dạy để tạo cho mọi người có thể chủ động tham gia vào quá trình học tập bất cứ lúc nào trong đời.
Để khắc phục sự chậm trễ của mình trong công nghệ thông tin và cũng để nhanh chóng phổ cập tin học đến mọi người dân, tháng 12 năm 1999 Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra Dự án thiên niên kỷ "Millennium Project" trong đó có mục "Digitalization of Education" (số hoá giáo dục) nhằm phổ cập máy tính và Internet tại tất cả các cấp học phổ thông, kể cả các trường dành cho người khuyết tật vào năm tài chính 2001, và chuẩn bị môi trường và điều kiện để có thể sử dụng được máy tính vào việc dạy và học ở tất cả các trường công lập vào năm 2005.
Đồng thời, chính phủ Nhật Bản cũng đang xúc tiến mở các khoá tiếng Anh trên khắp cả nước và tăng cường mời các thầy giáo tiếng Anh bản xứ vào dạy học tại các trường Nhật Bản ngay từ tiểu học, phấn đấu tạo cho mọi công dân đều có thể sử dụng thành thạo tiếng Anh vào công việc chuyên môn của mình khi đến tuổi trưởng thành trong tương lai không xa. Về lâu dài, tiếng Anh sẽ dần được coi là ngôn ngữ chính thức thứ hai sau tiếng Nhật.
Cùng với việc cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo, Nhật Bản cũng tiến hành đổi mới hệ thống quản lý xí nghiệp theo hướng chuyển từ chế độ coi trọng thâm niên và kinh nghiệm công tác, coi trọng tính tập thể và phục tùng cấp trên sang chế độ coi trọng hơn năng lực và thành tích cá nhân, đề cao tính độc lập và sáng tạo của công nhân, khuyến khích mọi người hăng hái học tập để nâng cao trình độ hơn là ỷ lại vào thâm niên phục vụ công ty và kinh nghiệm "sống lâu lên lão làng".
Ở châu Âu, các doanh nghiệp thường kết hợp chặt chẽ với ngành giáo dục để tạo thuận lợi cho các sinh viên từ nhà trường đến làm việc ở các doanh nghiệp. Để phổ cập Internet trong dân chúng, Hội nghị thượng đỉnh EU tại Lisbon, Bồ Đào Nha (23/3/2000) nhất trí quyết định tăng cường đầu tư đào tạo nhân tài, thúc đẩy cải cách kinh tế xã hội, để EU thích ứng hơn nữa với "xã hội tin học dựa trên cơ sở tri thức và đổi mới". Các nước này đã đặt mục tiêu, trong vòng 10 năm tới, đuổi kịp nền kinh tế Internet Mỹ, xây dựng châu Âu thành khu "khu vực kinh tế có sức sống mạnh nhất, có sức cạnh tranh nhất thế giới", với một số biện pháp cụ thể như hoàn tất khung pháp lý cho thương mại điện tử, tất cả các trường học đều có thể truy cập Internet; năm 2002, kết nối mạng với tốc độ cao cho tất cả các trường đại học, thư viện và viện nghiên cứu.
Còn ở Trung Quốc thì trong nhiều năm qua, Đảng và chính phủ Trung Quốc đã coi việc hỗ trợ, thu hút và sử dụng nhân tài là một nhiệm vụ chiến lược quốc gia, trong đó giáo dục được coi là khâu quan trọng nhất. Trung Quốc đã tiến hành cải cách và đổi mới mạnh mẽ quá trình phát triển giáo dục và hướng giáo dục theo nhu cầu của hiện đại hoá, của thế giới và của tương lai, có nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục, khuyến khích tinh thần sáng tạo và khả năng thực tiễn. Ngoài việc cải cách và phát triển giáo dục phổ thông, Trung Quốc còn đặc biệt chú ý đến việc phát triển giáo dục đại học và coi đó là một biện pháp quan trọng để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Cụ thể, Trung Quốc đã đưa ra Dự án 21 nhằm nâng cấp 100 trường đại học của mình trong một số lĩnh vực trọng điểm như cơ khí, phát triển nông thôn và công nghệ thông tin lên ngang tầm thế giới. Đồng thời, ngoài việc nâng cao chất lượng đào tạo trong nước, Trung Quốc còn có chính sách khuyến khích thanh niên đi du học và nghiên cứu ở nước ngoài để sau đó trở về xây dựng đất nước.
Trên đây là những bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện đào tào theo nhu cầu xã hội ở một số nước trên thế giới. Tuy nhiên không phải mọi bài học đó đều có thể áp dụng vào Việt Nam một cách thành công. Vì vậy trong quá trình học hỏi chúng ta phải xác định rõ những bài học nào phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của đất nước ta để vận dụng một cách tốt nhất, tránh tình trạng sao chép một cách máy móc.
Chương II
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU Ở VIỆT NAMHIỆN NAY
Đào tạo theo nhu cầu là mục tiêu của đổi mới giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ đắc lực cho quá trình CNH – HĐH đất nước. Nó không chỉ là trách nhiệm của nhà trường; của Bộ, ngành trung ương, địa phương mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Trong mối quan hệ đa chiều này nhà nước đóng vai trò điều phối dẫn đường thúc đẩy các mối quan hệ giữa nhà trường và nhà tuyển dụng, các ngành kinh tế mà đại diện là các doanh nghiệp làm cho cung cầu xích lại gần nhau vì lợi ích chung.
Sở dĩ vấn đề đào tạo theo nhu cầu hiện đang nổi lên nhu một vấn đề có ý nghĩa thời sự cũng chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường lao động. Cụ thể là:
- Sự hình thành những ngành nghề mới đặt ra những yêu cầu mới đối với lực lượng lao động, đòi hỏi người lao động phải được đào tạo, đào tạo lại hoặc thường xuyên bồi dưỡng theo những chương trình được cá biệt.
- Do điều kiện sản xuất kinh doanh, do môi trường hoạt động của các loại lao động, các doanh nghiệp và cá nhân người lao động có những nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng rất riêng biệt, thường đòi hỏi phải có những chương trình được thiết kế riêng. Đối với cá nhân người lao động, các yếu tố chủ quan và kỳ vọng phát triển cá nhân cũng đòi hỏI được đáp ứng bằng những chương trình đào tạo, bồI dưỡng riêng biệt.
- Thị trường lao động ngày càng hoàn thiện và có quy mô rộng hơn. Nó không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia, mà đã vươn ra phạm vi quốc tế. Cùng với sự phát triển của thị trường này, sức ép đối với người lao động cũng tăng lên, đòi hỏi họ phải không ngừng được đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng khi chuẩn bị cho bước phát triển tiếp hoặc khi chuyển sang công việc khác
- Sự luân chuyển ngày càng nhanh và với quy mô ngày càng rộng làm nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng trở nên ngày càng lớn. Xuất phát từ trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng khác nhau, sự chuyển đổi kiến thức, kỹ năng của các cá nhân, nhóm người lao động khác nhau sẽ khác nhau, khiến các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cũng phải đa dạng để có thể đáp ứng để có thể đáp ứng được những yêu cầu này.
- Bản thân người lao động có những điều kiện, đặc điểm riêng khiến cho họ có những trình độ chuyên môn, tay nghề khá khác nhau dù có cùng một điểm xuất phát giống nhau về đào tạo cơ bản, về môi trường và điều kiện làm việc… Do đó, nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của mỗi người sẽ ngày càng khác biệt.
Hiện nay, do tính chất của thị trường lao động, do những yêu cầu kiến thức và kỹ năng tổng hợp đối với sinh viên tốt nghiệp mới ra trường, thậm chí cả do yêu cầu về hiệu quả kinh tế - tài chính đối với quá trình đào tạo, sức ép đòi hỏi phải đào tạo kiến thức phổ thông trên quy mô đại trà cũng còn khá nặng nề. Riêng ở Việt Nam, trong nhiều năm, do nhận thức “đào tạo để hình thành con người toàn diện”, nên thường có xu hướng đào tạo đại trà cho nhiều học sinh. Lượng kiến thức và kỹ năng cũng được cung cấp cho học sinh theo hướng mở rộng ra nhiều lĩnh vực ngày càng chiếm ưu thế hơn so với đào tạo chuyên sâu các kiến thức, kỹ năng thuộc chuyên ngành hẹp. Chính vì thế, trong các cơ sở đào tạo hiện nay, việc cá biệt hóa đào tạo trong các trường học nếu có được thực hiện cũng luôn được gắn với việc đào tạo chung trên diện rộng, có vị trí thứ yếu hơn so với đào tạo đại trà theo kiểu “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Điều này làm cho sinh viên khi ra trường có thể làm việc trong nhiều ngành nghề khác với ngành nghề được coi là chuyên ngành của mình, nhưng hầu hết đều chỉ phát huy tác dụng được sau khi đã được bổ túc nghiệp vụ, tập huấn thêm về các kỹ năng, kiến thức chuyên ngành đặc trưng. Theo Bộ Giáo dục Đào tạo, khảo sát về việc làm của sinh viên (năm 2006) sau khi tốt nghiệp các chương trình đào tạo cho thấy chỉ 50% sinh viên có việc làm khi tốt nghiệp, trong đó chỉ 30% là làm đúng ngành nghề đào tạo. Điều này cho thấy một thực trạng khá phổ biến hiện nay là đào tạo không đáp ứng nhu cầu xã hội, sinh viên ra trường không đáp ứng các yêu cầu cơ bản của nghề nghiệp ở tr._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0134.doc