Đào tạo phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong tiền trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

LỜI NÓI ĐẦU Nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời bước đầu đang tiếp cận dần đến nền kinh tế tri thức, do đó nền kinh tế đang trong quá trình chuyển dịch mạnh mẽ. Sự chuyển dịch kép từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức, đòi hỏi chúng ta phải có một nguồn nhân lực có đủ khả năng, đủ trình độ để đáp ứng những đòi hỏi khách quan của nó. Nhận thức được tầm quan trọng cấp thiết của vấn đề đào tạo phát triển nguồn nhân lực

doc39 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1372 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Đào tạo phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong tiền trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, Đảng và Nhà nước ta đã coi giáo dục-đào tạo là quốc sách hàng đầu, đồng thời đã đưa ra rất nhiều chính sách về giáo dục- đào tạo nhằm phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Từ sự chú trọng đó, nguồn nhân lực nước ta đã có những bước tiến đáng kể, góp phần không nhỏ trong sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, so với mặt bằng chung, nguồn nhân lực nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, một phần là do vấn đề đào tạo nguồn nhân lực còn nhiều bất cập và chưa hợp lý. Vì vậy em đã chọn đề tài: “Đào tạo phát triển nguồn nhân lực việt nam trong tiền trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế”, để đánh giá, phân tích những mặt được và những mặt còn hạn chế của vấn đề đào tạo. Từ đó đưa ra những giải pháp để nâng cao chất lượng đào tạo. Nội dung của đề án gồm ba chương chính: Chương I: Lý luận về đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong tiến trình chuyển dịch cơ câu kinh tế. Chương II: Thực trạng về vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ở việt nam Chương III: Giải pháp cho vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ở việt nam Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS. Nguyễn Vĩnh Giang đã hướng dẫn và giúp đỡ em, để em có thể hoàn thành đề án này. CHƯƠNG I LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONGTIẾN TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ ĐÀO TẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Đào tạo phát triển nguồn nhân lực nói chung bao gồm hai mảng là đào tạo kiến thức phổ thông và đào tạo kiến thức chuyên nghiệp. Trong đề án này em chỉ xin đi sâu vào phần đào tạo kiến thức chuyên nghiệp. 1.Khái niệm: _Đào tạo nguồn nhân lực: là quá trình trang bị những kiến thức nhất định về chuyên môn, nghiệp vụ cho người lao động, để họ có thể đảm nhận một nghề nào đó, hay để làm tốt hơn một công việc nào đó, hoặc để làm những công việc khác trong tương lai. _Phát triển nguồn nhân lực: là toàn bộ những hoạt động tác động vào người lao động, để người lao động có đủ khả năng phục vụ cho nhu cầu về lao động trong tương lai. Như vậy, đào tạo nguồn nhân lực có phạm vi hẹp hơn, nó chính là một nội dung của phát triển nguồn nhân lực. Đào tạo chỉ mang tính chất ngắn hạn, để khắc phục những sự thiếu hụt về kiến thức và kỹ năng cho những công việc hiện tại. Còn phát triển mang nghĩa rộng hơn, nó không chỉ bao gồm vấn đề đào tạo mà còn rất nhiều những vấn đề khác, như chăm sóc y tế, tuyên truyền sức khoẻ cộng đồng…nhằm phát triển nguồn nhân lực trên mọi phương diện. Về mặt thời gian, phát triển nguồn nhân lực mang tính chất dài hạn, lâu dài hơn trong nền kinh tế. 2.Vai trò của đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế: Để phát triển một nền kinh tế chúng ta cần rất nhiều yếu tố như nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học công nghệ… Nhưng cả lý luận và thực tiễn đều đã chứng minh nguồn nhân lực là yếu tố quyết định trong việc sử dụng, phát triển các nguồn lực còn lại và có vai trò quyết định trong phát triển nền kinh tế. Chúng ta không thể phủ nhận sự tồn tại khách quan của một số yếu tố, nhưng chính con người lại là yếu tố quyết định việc tổ choc, sử dụng chúng, hơn nữa chính con người đã tạo ra và phát triển các yếu tố khác như khoa học công nghệ, máy móc thiết bị… để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế. Như vậy, nếu nguồn nhân lực không được phát triển cao về thể chất, trình độ, kinh nghiệm quản lý… thì sẽ không thể sử dụng được hợp lý các nguồn lực trên. Thậm chí, nếu thiếu một nguồn nhân lực có chất lượng có thể sẽ làm lãng phí, cạn kiệt và huỷ hoại các nguồn lực khác, làm cho nền kinh tế không thể phát triển được. Mặt khác, chính sự phát triển kinh tế sẽ làm xuất hiện những ngành nghề mới, những công nghệ, máy mọc mới hay cách quản lý mới. Điều đó đòi hỏi nguồn nhân lực phải không ngừng tự hoàn thiện, nâng cao khả năng và trình độ của mình để làm chủ quá trình phát triển kinh tế. Như vậy, đào tạo phát triển nguồn nhân lực, không ngừng nâng cao trình độ cho người lao động chính là một trọng tố quyết định cho sự phát triển của một nền kinh tế. Nếu vấn đề đào tạo phát triển nguồn nhân lực không được quan tâm chú trọng, không được thực hiện tốt thì sẽ không tạo ra được một nguồn nhân lực có đủ khả năng, đủ trình độ phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế. Ngược lại, nếu đào tạo tốt, sẽ là bàn đạp, là nền tảng cốt lõi cho sự nghiệp phát triển nền kinh tế của một quốc gia. II. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ: 1. Khái niệm: _Cơ cấu kinh tế: là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỷ trọng tương ứng của chúng và mối quan hệ hưu cơ tương đối ổn định hợp thành. _Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: thực chất là sự phát triển không đều giữa các ngành, các lĩnh vực, bộ phận… Nơi nào có tốc độ phát triển cao hơn tốc độ phát triển chung của nền kinh tế thì sẽ tăng tỷ trọng. Ngược lại nơi nào có tốc độ phát triển chậm hơn tốc độ phát triển chung của nền kinh tế thì sẽ giảm tỷ trọng. _Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý: là sự chuyển dịch sang một cơ cấu kinh tế có khả năng tái sản xuất mở rông cao, phản ánh được năng lực khai thác, sử dụng các nguồn lựcvà phải phù hợp với các quy luật, các xu hướng của thời đại. 2. Phân loại : Thông thường cơ cấu kinh tế được phân ra làm ba loại: _Cơ cấu kinh tế ngành: là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối quan hệ giữa các ngành của nền kinh tế. Cơ cấu ngành là bộ phận cơ bản và quan trọng cấu thành nên nền kinh tế, nó là nòng cốt của chiến lược phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức. Cơ cấu ngành thường chia nền kinh tế ra làm ba khu vực: Khu vưcI (nông_lâm_ngư nghiệp), Khu vực II (công nghiệp, xây dựng cơ bản), Khu vực III (dịch vụ). Với nền kinh tế nước ta, khu vực I là khu vực có lợ thế rất lớn, nhưng khu vực II mới chính là khu vực tiềm năng, mang tính quyết định còn khu vực III là khu vực mang tính chất cầu nối. _Cơ cấu kinh tế lãnh thổ: là cơ cấu được hình thành bởi việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Nước ta, cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ được chia thành tám vùng kinh tế chính là: Đồng bằng sông hồng, Đông bắc, Tây bắc, Bắc trung bộ, Duyên hải nam trung bộ, Tây nguyên, Đông nam bộ, Đồng bằng sông cửu long. Trong đó có hai vùng kinh tế lớn là Đồng bằng sông hồng, với vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và Miền đông nam bộ với vùng kinh tế trong điểm phía nam. _Cơ cấu kinh tế thành phần: là hệ thống tổ chức kinh tế với các chế độ sở hữu khác nhau. Nước ta hiện nay có sáu thành phần kinh tế là: Kinh tế nhà nước, Kinh tế tập thể, Kinh tế cá thể, tiểu chủ, Kinh tế tư bản tư nhân, Kinh tế tư bản nhà nước và Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, thành phần kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo, đảm trách những ngành kinh tế quan trọng của đất nước, giữ vai trò cầm lái cho nền kinh tế. III. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG TRONG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ 1. Sự chuyển dịch khách quan của cơ cấu lao động: Sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế sẽ làm thay đổi quy mô, tỷ trọng và trình độ phát triển của các bộ phận cấu thành. Bộ phận kinh tế nào phát triển nhanh hơn sẽ lôi kéo và đòi hỏi cao hơn các nguồn lực phục vụ cho sự phát triển của nó. Lực lượng sản xuất, mà trong đó con người là trọng tố cũng không nằm ngoài quy luật này. Nó cũng sẽ đòi hỏi và thu hút nhiều lao động hơn, đòi hỏi trình độ lao động cao hơn. Như vậy, sẽ làm thay đổi quy mô, tỷ trọng và trình độ của lao động trong các bộ phận kinh tế cấu thành. Điều đó tất yếu sẽ dẫn đến sự chuyển dịch về cơ cấu lao động. Ngược lại, sự chuyển dịch cơ cấu lao động cũng tác động vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tỷ trọng và trình độ phát triển lao động trong bộ phận kinh tế nào cao hơn sẽ là điều kiện thúc đẩy cho bộ phận kinh tế đó phát triển nhanh hơn và ngược lại. Tức là sẽ tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, nếu sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo xu hướng không hợp lý sẽ làm cản trở sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, làm cản trở sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Như vậy, quy luật và xu hướng vận động của quy luật ở đây chính là: Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động. Còn sự chuyển dịch cơ cấu lao động sẽ tác động hai chiều, làm thúc đẩy hoặc cản trở sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý. Nắm bắt được quy luật này, chúng ta cần phải đào tạo nguồn nhân lực, tạo ra một cơ cấu lao động hợp lý, thúc đẩy sự chuyển dịch hợp lý của cơ cấu kinh tế, nhằm thực hiện mục tiêu và phương hướng phát triển của nền kinh tế quốc dân. 2.Xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động: 2.1.Mô hình chuyển dịch cơ cấu lao động trên thế giới: Trước tiên chúng ta hãy xem xét mô hình chuyển dịch của nền kinh tế thế giới. Khi nền kinh tế thế giới chuyển dịch từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, sự lên ngôi của máy móc thiết bị trong sản xuất đã kéo theo một sự chuyển dịch lớn về lao động. Lúc này nhu cầu về công nhân kỹ thuật là rất lớn, nhằm phục vụ cho bộ máy khổng lổ của nền sản xuất công nghiệp. Chính vì vậy cơ cấu nhu cầu về lao động của nền kinh tế thế giới khi đó được thể hiện qua mô hình “hình tháp nhân lực công nghiệp truyền thống”. Tức là nhu cầu về cán bộ chuyên môn để quản lý nền kinh tế là khá ít, còn nhu cầu về công nhân kỹ thuật cho nền sản xuất máy móc là rất lớn. Còn khi nền kinh tế chuyển tiếp từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, lúc này trình độ khoa học kỹ thuật phát triển ở mức cao, máy móc thiết bị đã dần thay thế cho các hoạt động sản xuất của con người, do đó, nhu cầu về công nhân kỹ thuật đã dần giảm xuống. Mặt khác, thu nhập và mức sống của con người trong nền kinh tế tri thức đã ở mức cao, vì vậy, những đòi hỏi của họ cũng lớn và đa dạng hơn trong nghỉ ngơi, giải trí, đòi hỏi các ngành công nghệ, dịch vụ phải được mở rộng và phát triển hơn. Do đó, tất yếu sẽ làm tăng nhu cầu về lao động trí thức có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao. Lúc này, cơ cấu nhu cầu về lao động sẽ không còn ở dạng “hình tháp nhân lực công nghiệp truyền thống” nữa, mà đã biến đổi sang kiểu “hình tháp nhân lực tri thức” Tức là, vẫn cần nhiều công nhân kỹ thuật nhưng giảm hơn so với nền kinh tế công nghiệp, đồng thời đòi hỏi một lượng lớn lao động có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao. Tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét cách phân chia của Martin Trow, một học giả người Hoa Kỳ (cách phân chia này đã được chấp nhận rộng rãi trên thế giới). Nếu ở một nước có “tỷ lệ độ tuổi đại học”(tức là tỷ lệ sinh viên đại học so với số thanh niên ở độ tuổi từ 18 đến 21) dưới 15% thì đào tạo đại học ở nước đó còn trong giai đoạn “cho số ít người”, khi tỷ lệ đó vượt quá 15% thì nền đào tạo đại học bước vào giai đoạn “đại chúng”, còn khi vượt quá 50% thì đào tạo đại học đã ở giai đoạn “phổ cập”. Tương ứng với cách phân chia trên, các chuyên gia kinh tế và đào tạo cho rằng: Đào tạo đại học cho số ít người chỉ phù hợp với nền kinh tế nông nghiệp, đào tạo đại học đại chúng sẽ tương ứng với nền kinh tế công nghiệp, còn đào tạo đại học phổ cập tương ứng với đòi hỏi của nền kinh tế tri thức. Thực tại nền kinh tế thế giới đã chứng minh mô hình này, theo báo cáo của ngân hàng thế giới (năm 1994), chỉ số sinh viên đại học của khối các nước phát triển OECD là 51%, tức là tương ứng với thực tế nền kinh tế tri thức của họ. Còn theo báo cáo của UNESCO (năm 1995), chỉ số này của Bắc mỹ là 82%, của các nước có thu nhập trung bình là 21%, còn của các nước có thu nhập thấp chỉ đạt 6%. Tức là đã thể hiện rất rõ mối quan hệ giữa trình độ đào tạo đại học với trình độ phát triển của nền kinh tế. Qua mô hình này ta có thể thấy, muốn nền kinh tế phát triển càng cao thì tương ứng với nó trình độ đào tạo đại học cũng phải càng cao, mà cụ thể ở đây là tỷ lệ sinh viên đại học phải càng cao. 2.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở việt nam: Để xác định được phương hướng đào tạo nguồn nhân lực, trước hết chúng ta phải xét xem nền kinh tế nước ta đang ở đâu và chuyển dịch như thế nào. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp khá phát triển, đã đưa nền kinh tế nước ta chuyển dịch từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu lên nền kinh tế công nghiệp và hiện đang ở khoảng giữa của quá trình chuyển dịch. Mặt khác, tác động của quá trình toàn cầu hoá và xu hướng chuyển nền kinh tế thế giới từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, đã làm phát triển một số ngành dịch vụ và công nghệ cao ở nước ta như ngân hàng, tài chính, công nghệ thông tin... Điều đó chứng tỏ nước ta cũng đang ở điểm khởi đầu của quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế tri thức. Như vậy, nền kinh tế của ta đang diễn ra quá trình chuyển dịch kép, một mặt, vừa chuyển dịch lên nền kinh tế công nghiệp và đang ở khoảng giữa, đồng thời, lại vừa chuyển dịch lên nền kinh tế tri thức và đang ở điểm khởi đầu của sự chuyển dịch. Chính đặc điểm này đã làm cho nền kinh tế có những đòi hỏi cao hơn và phức tạp hơn về nguồn nhân lực nhằm phục vụ cho sự phát triển và chuyển dịch của nó. 3. Yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực trong tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Quá trình chuyển dịch kép của nền kinh tế nước ta đòi hỏi nguồn nhân lực phải có một mặt bằng chung về trình độ cao hơn. Khác với trước kia trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chỉ đòi hỏi người lao động phải có đức tính tốt, cần cù, trung thành, và có tinh thần trách nhiệm. Với ngày nay, nền kinh tế đòi hỏi người lao động phải có tính sáng tạo, có khả năng xử lý vấn đề, có khả năng phân tích, tinh thần đồng đội, rồi khả năng ăn nói, diễn đạt… Tức là phải có một trình độ, năng lực ở mức khá trở lên. Đấy là xét chung cho nguồn nhân lực, còn cụ thể, quá trình chuyển dịch lên nền kinh tế công nghiệp của nước ta, như đã phân tích ở mô hình lý thuyết trên, sẽ đòi hỏi một nguồn nhân lực có cơ cấu theo mô hình “hình tháp nhân lực công nghiệp truyền thống” và trình độ đào tạo đại học đại chúng. Tức là phải có tỷ lệ độ tuổi đại học trên 15%. Như vậy, cần phải mở rộng quy mô đào tạo đại học để tăng nhanh hơn nữa số lượng sinh viên, phục vụ cho nhu cầu của nền kinh tế. Mặt khác, cơ cấu trong “hình tháp nhân lực công nghiệp truyền thống”, như ở các nước phát triển trước kia đúc rút ra là khoảng: 1 đại học\ 4 trung cấp chuyên nghiệp\ 10 công nhân kỹ thuật, vậy ta cần phải có nhiều hơn nữa lượng công nhân kỹ thuật và trung cấp chuyên nghiệp, đặc biệt là công nhân kỹ thuật. Mặt khác, sự chuyển dịch lên nền kinh tế tri thức lại đòi hỏi nguồn nhân lực phải có một trình độ cao hơn nữa, trình độ đại học phổ cập và cơ cấu nhân lực theo mô hình “ hình tháp nhân lực tri thức”. Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta mới chỉ ở điểm khởi đầu của quá trình chuyển dịch này, nên đòi hỏi trên về nguồn nhân lực mới chỉ nằm trong một số ngành dịch vụ và công nghệ cao như viễn thông, ngân hàng, tài chính, công nghệ thông tin… Tóm lại, để đáp ứng những đòi hỏi trên về nguồn nhân lực cuả nền kinh tế, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của ta cần phải đặt ra những phương hướng như sau: Trước tiên là phải mở rộng quy mô và nâng cao trình độ đào tạo trên phạm vi toàn nền kinh tế, nhằm nâng cao mặt bằng chung của nguồn nhân lực. Trong đó, chú trọng vấn đề về quy mô chất lượng đào tạo công nhân kỹ thuật và đào tạo đại học, để nhanh chóng cung cấp đủ lượng công nhân và cán bộ chuyên môn có trình độ phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần sớm thực hiện được mục tiêu trở thành một nước công nghiệp. Đồng thời phải chú trọng đào tạo một đội ngũ công nhân kỹ thuật và cán bộ chuyên môn có trình độ thật sự cao trong các ngành công nghiệp tiềm năng và mũi nhọn, các ngành dịch vụ và công nghệ cao, các trung tâm kinh tế lớn, các vùng, khu, cụm, điểm công nghiệp… Về cơ cấu đào tạo, cần phải mở rộng quy mô đào tạo các ngành nghề công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là các ngành công nghiệp chủ chốt mà trình độ lao động mang tính quyết định… Và đặc biệt cần chú ý trong chính nội tại vấn đề, là phải mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ quản lý, giáo viên, giảng viên để tăng quy mô và chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Đây chính là hướng đi gốc rễ, lâu dài và đúng đắn nhất cho nền giáo dục, đào tạo nước ta. CHƯƠNG II ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở VIỆT NAM I. Đánh giá Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực Việt nam Quan điểm về vai trò của giáo dục, đào tạo nước ta là rất đúng đắn, nó đựơc khẳng định ngay từ cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của đảng ta: “Giáo dục, đào tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu”. Quan điểm này luôn được khẳng định và nhấn mạnh trong các văn kiện của đảng tại các kỳ đại hội VII, VIII và IX. Điều này cho thấy sự nhất quán trong việc khẳng định vai trò của giáo dục, đào tạo, coi giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu , là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục, đào tạo chính là đầu tư cho sự phát triển. Chính quan điểm đúng đắn về giáo dục đào tạo này đã làm cho nền giáo dục, đào tạo nước ta không ngừng phát triển, tạo ra một nguồn nhân lực có trình độ phục vụ cho sự phát triển kinh tế, xã hội của nước ta trong thời gian qua. Cụ thể hoá quan điểm trên, trong thời gian qua, nước ta đã liên tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách giáo dục đào tạo theo hướng ưu tiên và tạo môi trường thuận lợi cho giáo dục đào tạo phát triển. Các chính sách tập trung vào những vấn đề như chiến lược phát triển, quy hoạch, kế hoạch, đảm bảo công bằng trong giáo dục đào tạo, đổi mới chương trình, nâng cao chất lượng, cải cách hành chính quản lý… Đặc biệt, luật giáo dục được ban hành vào cuối năm 1998, đã đánh dấu một mốc quan trọng trong việc xây dựng môi trường pháp lý và đổi mới cơ chế quản lý trong hoạt động giáo dục đào tạo ở nước ta. Theo đó, các chức năng quản lý đã được phân rõ, công cụ quản lý cũng được xây dựng và hoàn thiện trên cơ sở của pháp luật. Công tác thanh tra, kiểm tra cũng được chú trọng, những điều này đã đóng góp không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực. Chính sự quan tâm đúng đắn của đảng, nhà nước và toàn xã hội, đã làm cho quy mô và chất lượng đào tạo nguồn nhân lực nước ta không ngừng tăng lên. Điều này thể hiện trong sự phát triển của nguồn nhân lực nước ta trong thời gian qua. 1. Quy mô đào tạo: 1.1. Công nhân kỹ thuật: Sau nhiều năm suy giảm, quy mô đào tạo công nhân kỹ thuật những năm gần đây đã được mở rộng và phát triển trở lại. Hiện nay, cả nước đã có 226 trường dậy nghề, trong đó 199 trường công lập và 27 trường ngoài công lập, tăng 1.75 lần so với năm 1998. Các hệ đào tạo ngắn hạn cũng phát triển mạnh với nhiều loại hình, tính đến nay, cả nước đã có 320 trung tâm dậy nghề, 150 trung tâm dịch vụ việc làm và trên 300 trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp. Biểu 1: Số lượng trường đào tạo công nhân kỹ thuật. Năm 1997 2000 2003 Số trường 129 159 218 Về chương trình giảng dậy, đã biên soạn và ban hành 50 chương trình dậy nghề ngắn hạn, lưu động và đang triển khai biên soạn 76 chương trình dậy nghề dài hạn. Cùng với sự tăng lên của số lượng các cơ sở đào tạo, số lương học viên cũng tăng lên rất nhanh trong thời gian qua. Năm học 2003 – 2004 đã có hơn 164000 học viên dài hạn và 949100 học viên ngắn hạn trong khi năm học 1997 – 1998 chỉ có 60000 học viên dài hạn. Biểu 2: Số lượng học viên đang học trong các trường đào tạo nghề. Năm học 1997-1998 1999-2000 2000-2001 2002-2003 2003-2004 Học viên 60000 100000 126000 146000 164000 Qua biểu này ta có thể thấy số lượng học viên học nghề đã tăng rất nhanh và đều đặn trong giai đoạn vừa qua, năm học 2003-2004, số lượng học viên đã tăng gần gấp 3 lần so với năm học 1997-1998. Có được kết quả này, là do sự quan tâm đúng mực đối với công tác đào tạo nghề trong những năm qua, nhà nước và nhân dân đã tham gia đầu tư mở rộng quy mô đào tạo. Và cũng là do yêu cầu của nền kinh tế đòi hỏi một số lượng lớn công nhân kỹ thuật cho quá trình chuyển dịch lên nền kinh tế công nghiệp của mình. Tuy nhiên, quy mô đào tạo nghề hiện nay vẫn còn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của nền kinh tế. Tình trạng thiếu công nhân kỹ thuật là rất phổ biến, đặc biệt là công nhân kỹ thuật có trình độ tay nghề cao. 1.2.Cán bộ chuyên môn: Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống cơ sỏ hạ tầng quốc gia, số lượng các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp cũng đã tăng lên nhanh chóng. Hiện nay, cả nước có 87 trường đại học, 127 trường cao đẳng, 245 trường trung cấp chuyên nghiệp. Số cơ sở sau đại học là 147, trong đó 95 cơ sở được đào tạo tiến sĩ. Các quan hệ hợp tác đào tạo với các nước , các tổ chức quốc tế cũng không ngừng tăng lên… Ngoài ra, các hình thức đào tạo cũng phát triển mạnh mẽ và đa dạng, hình thức đào tạo không chính quy đã có tại hầu hết các địa phương trên cả nước, thu hút được nhiều học viên tham gia học tập. Năm học 2003 – 2004, chúng ta đã có 57 trung tâm giáo dục từ xa cấp tỉnh, 494 trung tâm giáo dục từ xa cấp quận huyện và rất nhiều các trung tâm tin học ngoại ngữ đã được mở ra phục vụ nhu cầu học tập của xã hội. đặc biệt là đã có 11 trường đại học thực hiện hình thức giáo dục từ xa và đã thu hút được rất nhiều học viên tham gia. Về cơ sở trang thiết bị trang thiết bị cũng đã được cải thiện, các trường đã cố gắng nâng cấp thư viện, phòng thí nghiệm, các cơ sở thực hành, mua sắm các trang thiết bị hiện đại và nối mạng internet… Tuy vậy, xét mặt bằng chung, cơ sở trang thiết bị của ta vẫn còn thiếu thốn và lạc hậu chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của việc nghiên cứu, học tập và giảng dậy. Đội ngũ giảng viên đã tăng, song vẫn còn thiếu ở hầu hết các trường. Đặc biệt là trong hệ cao đẳng và đại học, có khoảng 40000 giảng viên, trong khi đó số lượng sinh viên là trên 1 triệu, tỷ lệ sinh viên trên một giảng viên bình quân là 25,8. Với vai trò quan trọng hiện nay, đào tạo cũng đã thu hút được nhiều học sinh tham gia thi tuyển vào nghề, tỷ lệ tuyển mới hàng năm là lớn nhất, khoảng 24,7%, tiếp sau đó là khối kinh tế với 20% và khối khoa học cơ bản 18,9%. Với tỷ lệ cao này, chúng ta hy vọng tương lai gần sẽ đáp ứng được đủ lượng giáo viên cho nền giáo dục nước nhà. Cùng với sự tăng lên của của các chủ thể đào tạo, số học viên cũng đã không ngừng tăng lên. Trong năm năm qua số sinh viên đại học, cao đẳng tăng bình quân 6,4%, học viên cao học tăng 51,9%, nghiên cứu sinh tăng 61,1%. Riêng trong năm học 2003 – 2004, chúng ta đã có 292120 học viên trung cấp chuyên nghiệp, 1045382 học viên cao đẳng, đại học (năm 1991 là khoảng 120000), 33000 học viên cao học và nghiên cứu sinh. Ngoài ra, cón có khoảng 38500 lưu học sinh đang học tập tại hơn 30 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó hơn 70% là du học tự túc. Với hình thức đào tạo không chính quy, hàng năm có khoảng 700000 người theo học các chương trình bồi dưỡng tin học, ngoại ngữ và giáo dục từ xa. Đặc biệt là hiện đã có 108300 người theo học hệ đại học từ xa. Quy mô đào tạo cán bộ chuyên môn đã tăng lên nhanh chóng, nhưng như thế vẫn chưa đủ để đáp ứng cho đòi hỏi của nền kinh tế. Như đã phân tích trong phần lý luận, để trở thành một nước công nghiệp thì trình độ đào tạo đại học phải đạt mức độ đào tạo phổ cập, tương ứng với tỷ lệ độ tuổi đại học là trên 15%, trong khi đó tỷ lệ này của nước ta mới chỉ vào khoảng 8%, còn quá thấp… Như vậy, tuy rằng quy mô đào tạo cán bộ chuyên môn nước ta vẫn còn nhỏ bé, chưa đáp ứng đủ nhu cầu học tập, thể hiện rõ trong việc chưa đáp ứng đủ lượng cán bộ chuyên môn cần thiết cho thị trường lao động, nhưng không thể phủ định rằng quy mô đào tạo đã tăng lên đáng kể trong những năm qua. Biểu 3: Quy mô đào tạo cán bộ chuyên môn trong một số năm học. Năm học Số lượng học viên ĐH CĐ TCCN Tổng 2000-2001 721505 186723 200225 1108453 2001-2002 763256 210863 194831 1168950 2002-2003 805123 215544 292120 1312787 Năm học Số trường Số giáo viên ĐH CĐ TCCN Tổng ĐH CĐ TCCN Tổng 2000-2001 74 104 253 431 24362 7843 10189 42394 2001-2002 77 114 252 443 25546 10392 9327 45265 2002-2003 81 121 245 447 27393 11215 10247 48855 Như vậy, quy mô đào tạo nguồn nhân lực nước ta đã không ngừng tăng lên trong những năm qua, cả trong đào tạo cán bộ chuyên môn, lẫn đào tạo công nhân kỹ thuật. Tuy nhiên, với quy mô như vậy vẫn chưa đáp ứng đủ cho đòi hỏi của nền kinh tế nước ta. Chúng ta mới có khoảng 8844000 (năm 2003) lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, chỉ chiếm 20,99% tổng lực lượng lao động và chỉ tăng 1,5% so với năm 2002. Số lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn rất thấp, đặc biệt một bộ phận lớn thanh niên trong độ tuổi 18 – 23, bước vào thị trường lao động mà chưa qua đào tạo nghề nghiệp (chiếm tới 80%). Nguyên nhân của tình trạng này, một phần là do nền kinh tế nước ta xuất phát điểm thấp nên khả năng đầu tư cho đào tạo còn nhiều hạn chế. Mặt khác, việc huy động và khuyến khích đầu tư còn kém hiệu quả, đặc biệt là từ khu vực tư nhân,đây là khu vực rất tiềm năng. Việc sử dụng vốn đầu tư cũng chưa hiệu quả, chủ yếu là kiểu đầu tư giàn trải, bình quân do đó chưa đạt hiệu quả. 2. Cơ cấu đào tạo: Tuy đã cố gắng chuyển dịch cơ cấu đào tạo cho phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế, tập trung đào tạo cho các ngành, nghề mà thị trường lao động đang đòi hỏi cao, nhưng cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực nước ta vẫn còn rất nhiều bất cập. Cơ cấu nhân lực theo tỷ lệ ĐH/ TCCN/ CNKT tuy đã thay đổi, nhưng còn rất chậm: 1/ 1,68/ 2,3 (năm 1989), 1/ 1,6/ 3,6 (năm 1995) và 1/ 1,68/ 4,8 (năm 2000). Theo như kinh nghiệm của các nước phát triển trước kia, thì cơ cấu nhân lực hợp lý cho nền kinh tế công nghiệp là khoảng: 1/ 4/ 10 (trong ngành dịch vụ). Như vậy, để đáp ứng đủ yêu cầu về nhân lực cho quá trình tiến lên nền kinh tế công nghiệp của nước ta, thì so với lượng công nhân kỹ thuật hiện nay, chúng ta còn thiếu rất nhiều. Đặc biệt, quy mô đào tạo giữa cán bộ chuyên môn và công nhân kỹ thuật là chưa hợp lý, do đó, đã dẫn đến tình trạng thừa thầy thiếu thợ rất phổ biến hiện nay… Trong khi , đòi hỏi của nền kinh tế về công nhân kỹ thuật là rất lớn. Biểu 4: Cơ cấu sử dụng lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật của các loại hình doanh nghiệp (%). Loại hình DN LĐ phổ thông CNKT, sơ cấp Trung cấp CĐ, ĐH trở lên DN FDI 19.8 59.0 6.5 14.7 DNNN 25.7 49.1 11.7 13.5 DN tư nhân 39.2 44.5 8.2 8.1 VP đại diện NN 1.5 16.5 30.9 50.7 Cơ cấu đào tạo về ngành nghề cũng chưa thực sự hợp lý, chưa thực sự chú trọng vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động thông qua đào tạo, chưa chú trọng việc mở rộng quy mô đào tạo lao động trong ngành công nghiệp và ngành dịch vụ để phục vụ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Biểu 5: Số trường trung cấp chuyên nghiệp phân theo ngành nghề Năm học Tổng số Công nghiệp Nông lâm ngư Kinh tế, dịch vụ Sư phạm Khác 2000-2001 253 54 34 62 14 89 2001-2002 252 50 34 62 11 95 2002-2003 245 50 33 62 6 94 Biểu 6: Số sinh viên đang đào tạo trong các trường CĐ-ĐH phân theo ngành nghề. Năm học Tổng Kỹ thuật Công nghệ KH cơ bản Nông lâm ngư Kinh tế Pháp lý Sư phạm Khác 2000-2001 552461 118321 108061 26125 142220 135818 2001-2002 579197 128273 117150 31037 139388 139465 2002-2003 604396 134580 129926 34897 137087 142039 Như vậy cơ cấu đào tạo theo ngành nghề có chuyển biến theo xu hướng hiện đại, nhưng rất chậm qua các năm. Quy mô đào tạo trong ngành công nghiệp và dịch vụ có tăng nhưng rất chậm, chưa tạo được sự vượt trội so với các ngành nghề khác. Trong khi đòi hỏi của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cần rất nhiều lao động được đào tạo trong các ngành này, điều này thể hiện rất rõ trong nhu cầu về lao động của nước ta hiện nay. Cơ cấu đào tạo theo vùng thì rất bất cập, chủ yếu các trường,các trung tâm, các lớp đào tạo tập trung tại các thành phố lớn, các trung tâm kinh tế. Các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa rất thiếu hoặc không có cơ sở đào tạo nào. lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở thành thị là 4588500, chiếm 45.04% tổng lực lượng lao động thành thị, trong khi ở nông thôn là 4255500, chiếm 13.32% lực lượng lao động ở nông thôn. việc tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn ở nông thôn thấp đã làm chậm tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn của nước ta. Việc cơ cấu đào tạo của ta chưa hợp lý, một mặt là do nhận thức chưa đúng đắn, chưa xác định được đòi hỏi thực tế của nền kinh tế, hay xây dựng kế hoạch đào tạo chưa hợp lý. Mặt khác, do chưa có đủ tiềm lực kinh tế để đầu tư cho đào tạo. Nhưng chính vấn đề đầu tư, nước ta đã tạo điều kiện cho tư nhân tham gia, nhưng thực sự chưa có những chính sách thông thoáng, thực sự tạo điều kiện cho tư nhân tham gia vào đầu tư cho đào tạo. Dó đó, các trường đào tạo chủ yếu vẫn là các trường công lập, số lượng các trường bán công và dân lập rất ít, đặc biệt là trong đào tạo cán bộ chuyên môn. Biểu 7: Số trường CĐ-ĐH phân theo hình thức sở hữu. Năm học Tổng Phân theo loại hình Công lập Bán công Dân lập 2000-2001 178 156 5 17 2001-2002 191 168 5 18 2002-2003 202 179 6 17 Nguyên nhân chủ yếu của việc cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực nước ta còn rất bất hợp lý, là do chưa có điều kiện để đầu tư cho đào tạo tại những vùng còn khó khăn về cơ sở hạ tầng. Còn chưa tạo ra được sự thông thoáng, để tư nhân tham gia vào nền giáo dục đào tạo. Mặt khác nữa, đó là việc kế hoạch chương trình đào tạo còn chưa thực sự nghiên cứu kỹ nhu cầu của thị trường lao động hiện tại và trong xu hướng tương lai, nên cơ cấu đào tạo theo ngành nghề còn rất bất cập… 3. Chất lượng đào tạo: 3.1. Công nhân kỹ thuật: Do có sự quan tâm đúng mực cho vấn đề đào tạo công nhân kỹ thuật, những năm qua đầu tư cho dậy nghề đã được cải thiện. Trong đó các dự án hợp tác quốc tế (ODA và vốn vay) đầu tư cho dậy nghề vào khoảng 180 triệu USD. Các địa phương đầu tư 200 tỷ đồng và các doanh nghiệp đầu tư trên 400 tỷ đồng cho dậy nghề. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và trang thiết bị cũng được đầu tư 450 tỷ đồng để nâng cấp phục vụ cho học tập và giảng dậy. Đồng thời đã đào tạo, bồi dưỡng cho trên 5000 lượt giáo viên dậy nghề về công nghệ mới và nâng cao tay nghề để nâng cao được chất lượng giảng dậy. Tuy nhiên, tỷ lệ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV450.doc