Lời nói đầu
Nước ta đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có hai yếu tố cơ bản gắn bó với nhau, đó là kĩ thuật hiện đại và con người hiện đại.Vì thế phải đổi mới toàn diện con người, kỹ thuật- công nghệ hiện đại. Việc đổi mới kỹ thuật công nghệ diễn ra tương đối dễ dàng hơn khi chúng ta tạo được nguồn vốn (kể cả đi vay) và dùng vốn đó để
33 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1406 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đào tạo & phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhập khẩu kỹ thuật công nghệ(KT-CN) hiện đại từ các nước tiên tiến.Đối với người lao động không thể nhập khẩu được.Muốn có sự tương thức,đồng bộ giữa KT-CN và con người đòi hỏi không chỉ số lượng và không phải chủ yếu ở số lượng mà ở chất lượng con người sử dụng phương tiện KT-CN đó .Vì vậy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hay đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là một trong những yêu cầu cấp bách để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.Chính vì vậy vấn đề đặt ra đối với mỗi quốc gia là phải thường xuyên chăm lo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội
Nhằm góp phần vào việc phát huy yếu tố con người theo nghị quyết Trung ương Đảng, em lựa chọn đề tài: “Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu Công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước”.
Mục đích nghiên cứu là làm rõ thực trạng chất lượng nguồn nhân lực hiện nay và đưa ra những quan điểm và biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phân tích tổng hợp để rút ra nhận xét
Kết cấu đề tài: ngoài phần mở đầu và kết luận bao gồm hai phần
Chương I. Một số lý luận cơ bản về đào tạo và phất triển nguồn nhân lực.
Chương II. Thực trạng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay và phương hướng hoàn thi
Chương I.
một số lý luận cơ bản về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
I. Khái niệm
1. Khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực với tư cách là nơi cung cấp sức lao động cho xã hội, nó bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường (không bị khiếm khuyết hoặc dị tật bẩm sinh).
Nguồn nhân lực có thể với tư cách là một nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội ,là khả năng lao động của xã hội , được hiểu theo nghĩa hẹp hơn ,bao gồm những nhóm dân cư trong độ tuổi lao động ,có khả năng lao động.
Nguồn nhân lực còn được hiểu với tư cách là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động,là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động.Với cách hiểu này, nguồn nhân lực bao gồm những nguời từ bắt đầu bước vào tuổi lao động trở lên có tham gia vào nền sản xuất xã hội.
Các cách hiểu trên chỉ khác nhau về việc xác định qui mô nguồn nhân lực.Nguồn nhân lực còn được xem xét trên giác độ số lượng và chất lượng.Số lượng được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu qui mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu về số lượng này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu qui mô và tốc độ tăng dân số. Qui mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì dẫn đến qui mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại.Tuy nhiên mối quan hệ dân số và nguồn nhân lực được biểu hiện sau một thời gian khoảng 15 năm(vì lúc đó con người mới bước vào độ tuổi lao động).
Về chất lượng, nguồn nhân lực được xem xét trên các mặt: trình độ sức khoẻ, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn và năng lực phẩm chất…
Cũng giống như các nguồn lực khác,số lượng và đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trong trong việc tạo ra của cải vật chất và văn hoá cho xã hội
2. Khái niệm đào tạo nguồn nhân lực
Đào tạo gồm các hoạt động nhằm mục đích nâng cao tay nghề hay kỹ năng của một cá nhân đối với công việc hiện hành.
Carell et al tán thành quan điểm cho rằng có hai loại đào tạo: Đào tạo chung và đào tạo chuyên môn. Đào tạo chung được áp dụng để nhân viên có được những kỹ năng có thể sử dụng ở mọi nơi.Ví dụ,nâng cao khả năng đọc, viết, tính toán…có thể ích lợi cho nhân viên trong mọi công việc.Đào tạo chuyên môn được áp dụng để giúp cho nhân viên có được các thông tin và kỹ năng chuyên biệt, áp dụng cho công việc của mình tại nơi làm việc. Ông cho rằng khái niệm đào tạo được sử dụng trong trường hợp các nhân viên (không phải là quản trị gia) học tập, lĩnh hội được các kiến thức, kỹ năng kỹ thuật. Các chương trình đào tạo chỉ trú trọng lên một số vấn đề hoặc các kỹ năng, kỹ thuật thuần túy. Ví dụ, chương trình đào tạo cho các nhân viên máy in là chú trọng lên các vấn đề giúp cho người điều hành nắm được các kỹ thuật mới nhất về tốc độ và mức độ chính xác trong khâu in ấn.
Đối với một công ty mới thành lập thì nhu cầu đào tạo nhân viên là một nhiệm vụ cấp bách, quan trọng nhất. Bởi vì cho dù chúng ta có lắp đặt cả một hệ thống máy móc tinh vi mà không có con người biết điều khiển cũng trở thành vô ích. Đây là chưa kể các nghiệp vụ có tính cách mô hình như kỹ năng quản trị.
Đối với một công ty lâu đời thì nhu cầu đào tạo, huấn luyện và giáo dục lại là vấn đề khác. Qua kinh nghiệm công ty đã xây dựng được bản mô tả công việc cũng như bản mô tả chi tiết công việc. Dựa vào bảng này mà công ty khi tuyển nhân viên mới,họ biết rõ nhân viên mới còn thiếu các kỹ năng nào. ít khi một công ty mà tuyển được người mới có đầy đủ trình độ phù hợp theo bản “Job speeification” . Dù lâu hay mau, những ngưòi mới đựơc tuyển phải qua một thời kỳ đào tạo.
3. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực
Phát triển bao gồm các hoạt động nhằm chuẩn bị cho công nhân viên theo kịp với cơ cấu tổ chức khi nó thay đổi và phát triển.
Theo Cherington, phát triển liên quan đến việc nâng cao khả năng trí tuệ và cảm xúc cần thiết để thực hiện các công việc tốt hơn.Khái niệm phát triển quản trị liên quan tới các phương pháp và hoạt động nhằm nâng cao khả năng quản trị bằng cách truyền đạt các kiến thức, thay đổi quan điểm hoặc nâng cao kỹ năng thực hành cho các quản trị gia hoặc các quản trị gia tương lai. Các chương trình phát triển quản trị chú trọng lên nhiều nhóm kỹ năng hoặc vấn đề rộng hơn.Các chương trình phát triển quản trị thường ấn định nhằm mục đích lâu dài còn chương trình đào tạo thường đáp ứng nhu trước mắt.Tuy nhiên đào tạo và phát triển là cả một tiến trình liên tục, không bao giờ dứt.
Theo Wayne, khái niệm đào tạo và phát triển sẽ được dùng thay đổi cho nhau và đều bao gồm chương trình được hoạch định nhằm hoàn thiện việc thực hiện công việc ở các cấp: cá nhân , nhóm và doanh nghiệp.
Theo quan điểm của Cenzo và Robbins, điểm tương đồng giữa đào tạo và phát triển là chúng đều có các phương pháp tương tự, được sử dụng nhằm tác động lên quá trình học tập để nâng cao các kiến thức, kỹ năng thự hành. Tuy nhiên đào tạo có định hướng vào hiện tại, chú trọng vào công việc hiện thời của các cá nhân, giúp các cá nhân có ngay các kỹ năng cần thiết để thực hiện tốt công việc hiện tại. Còn phát triển nhằm chú trọng lên các công việc tương lai trong tổ chức, doanh nghiệp. Khi một người được thăng tiến lên chức vụ mới, họ cần có những kiến thức, kỹ năng mới theo yêu cầu của công việc. Công tác phát triển nhân viên sẽ giúp cho các cá nhân chuẩn bị sẵn những kiến thức, kỹ năng cần thiết đó.
4. Công nghiệp hóa-hiện đại hóa và đào tạo – phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp này
Khái niệm Công nghiệp hóa- hiện đại hoá
-Công nghiệp hoá
Trong thực tiễn hiện nay vẫn còn tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về phạm trù “Công nghiệp hóa”.
Quan điểm đơn giản nhất cho rằng: “Công nghiệp hoá là đưa đặc tính công nghiệp cho một hoạt động, trang bị cho một vùng, một nước các nhà máy, các loại công nghiệp”.
Trong sách báo kinh tế của Liên Xô trước đây tồn tại một định nghĩa phổ biến cho rằng: “Công nghiệp hoá là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả công nghiệp. Đó là sự phát triển của công nghiệp nặng với ngành trung tâm là công nghiệp chế tạo máy”.
Theo tác giả B.Mazlish thì : “Công nghiệp hoá là một qúa trình được đánh dấu bằng một sự chuyển động từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp sang một nền kinh tế được gọi là công nghiệp”.
Theo tác giả J.Ladriere thì: “Công nghiệp hoá là một quá trình mà các xã hội ngày nay chuyển từ một kiểu kinh tế từ chủ yếu dựa trên nông nghiệp với đặc điểm năng suất thấp và tăng trưởng cực kỳ thấp hay bằng không sang một kiểu kinh tế về cơ bản dựa trên công nghiệp với các đặc điểm năng suất cao và tăng trưởng tương đối cao”.
Theo Encyclopedic Francáie thì: “Công nghiệp hoá là hoạt động mở rộng tiến bộ kỹ thuật với sự lùi dần của tính chất thủ công trong sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ”.
Theo tổ chức phát triển của Liên hợp quốc (UNICO) thì: “Công nghiệp hoá là quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận luôn luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có khả năng đảm bảo cho toàn bbộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới tiến bộ và kinh tế-xã hội”.
- Hiện đại hóa
Hiện đại hóa: Là một quá trình lâu dài, đầy gian khổ của việc cải biến một xã hội cổ truyền thành một xã hội hiện đại, có trình độ văn mimh cao hơn, thể hiện đầy đủ hơn những giá trị mà nhân loại vươn tới”.
Một xã hội được thừa nhận là hiện đại hóa là một xã hội có nền kinh tế phát triển, thể hiện tập trung ở nhịp độ tăng tổng sản phẩm chung và tính ra đầu người. Sự tăng trưởng kinh tế này có quan hệ hữu cơ với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cái cốt lõi của hiện đại hoá kinh tế là tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa-hiện đại hoá, gắn liền với đổi mới căn bản về công nghệ, phát triển mạnh mẽ các ngành có hàm lượng khoa học-công nghệ cao.
Công nghiệp hóa-hiện đại hoá đất nước là quá trình xây dựng đất nước trở thành nước công nghiệp hiện đại, tỉ trọng sản xuất công nghiệp chiếm phần lớn trong nền kinh tế quốc dân với nền sản xuất hiện đaị, sử dụng nhiều máy móc, thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến với hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại và được tiến hành trong một thời gian nhất định.
b. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá
“Không còn là vấn đề chúng ta muốn hay chúng ta nên phát triển tài nguyên nhân sự…Phát triển tài nguyên nhân sự là vấn đề sống còn của xã hội chúng ta”.(James L.Hages)
Ta đã biết nhu cầu về lao động là nhu cầu dẫn xuất do nhu cầu sản xuất sản phẩm nhất định; nhu cầu dẫn xuất sản phẩm là xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng của con người.Cùng với sự phát triển của nền sản xuất nhu cầu của con người ngày càng phong phú và đa dạng, sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều hơn và chất lượng ngày càng cao hơn. Điều đó chỉ có thể có được do loại lao động có trình độ cao sản xuất ra. Bởi vậy không thể không chăm lo tới việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước là một xu hướng tất yếu của lịch sử. Đó là quá trình trang bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại cho nền kinh tế quốc dân.Trong lĩnh vực nguồn nhân lực đã tạo ra sự chuyển biến về chất : từ lao động thủ công sang lao động cơ khí và lao động trí tuệ.
Nước ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước từ một mặt bằng kinh tế thấp kém và đội ngũ lao động chất lượng thấp.Vì vậy muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiên đại hóa một đòi hỏi cấp bách là không thể không nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu hàng đầu của xã hội nước ta nhằm nâng cao dân trí, trình độ tay nghề, giải quyết công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo và tệ nạn xã hội. Hơn nữa, việc giảm thiểu chi phí đào tạo tiết kiệm để đạt được hiệu quả cao hơn là mong muốn của xã hội. Việc phân bổ đúng người, đúng việc luôn là nhiệm vụ khó khăn của xã hội.
Kinh nghiệm của các công ty thành đạt trên thế giới đều chứng tỏ rằng công ty nào có ban lãnh đạo chú ý tới chương trình HNV MT /LV( orientation) và đào tạo huấn luyện(training), công ty đó dễ thành công trong kinh doanh.Việc định hướng và đào tạo này được thưc hiện không những đối với mọi cấp lãnh đạo mà còn xuống tới công nhân có tay nghề thấp nhất.Dĩ nhiên, hình thức huấn luyện hoàn toàn khác nhau. Điển hình nhất trong lình vực này, chúng ta phải kể đến công ty IBM(International Bussiness Machines)-một trong những công ty sản xuất máy tính lớn nhất thế giới. Hàng năm,ban lãnh đạo từ tổng giám đốc trở xuống cấp quản trị thấp nhất đều phải qua một khoá huấn luyện trong vòng 15 ngày.
Trong vài năm gần đây, tại Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh khác tại miền Nam đã có nhiều công ty thấy tầm quan trọng của vấn đề này và đã tổ chức liên tiếp nhiều khoá tu nghiệp về quản trị kinh doanh cho các cấp quản trị. Dĩ nhiên, các hình thức đào tạo và huấn luyện tại các công ty Việt Nam hiện nay chưa phong phú nhưng đó là dấu hiêụ của sự tiến bộ, theo kịp với trào lưu của thế giới.
Nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống: tăng cường sức khoẻ, mở rộng tri thức, nâng cao trình độ tay nghề không chỉ do kết quả của phát triển sản xuất mà nó xuất phát từ nhu cầu cảu chính bản thân con người muốn nâng cao chất lượng cuộc sống .Bởi vậy việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không chỉ xuất phát từ yêu cầu sản xuất mà còn xuất phát từ chính nhu cầu của con người, điều đó đã tạo ra điều kiện tốt cho việc nâng cao nguồn nhân lực hiện nay.
II. Các hình thức đào tạo và phát triển Nguồn nhân lực
Trên thế giới hiện nay có rất nhiều phương pháp đào tạo và phát triển.Nhìn chung tên gọi mỗi phương pháp có thể khác nhau nhưng cách đào tạo và nội dung đào tạo tương đối giống nhau.Có những phương pháp đào tạo tinh vi và tốn kém mà trong tương lai khá xa không biết có công ty Việt Nam nào thực hiện được không.Vì vậy xin được trình bầy các phương pháp có thể áp dụng tại Việt Nam trong giai đoạn trước mắt cũng như trong tương lai.
Các phương pháp đào tạo rất đa dạng và phù hợp với từng đối tượng từ sinh viên thực tập, công nhân trực tiếp sản xuất, cấp quản trị tuyến thứ nhất(kiểm soát viên, quản đốc phân xưởng) đến cấp quản trị trung cấp và cao cấp.Bảng 1 là một cái nhìn tổn quan về đào tạo và phát triển. Có 18 phương pháp đào tạo và phát triển cho 3 đối tượng gồm các ngành quản trị, các chuyên viên ở mức khởi điểm và các công nhân trực tiếp sản xuất. Các phương pháp này được áp dụng tại nơi làm việc hoặc ngoài nơi làm việc.
Bảng 1. Các phương pháp đào tạo và phát triển
Phương pháp
áp dụng cho
Thực hiện tại
Quản trị gia và chuyên viên
Công nhân
Cả hai cấp
Tại nơi làm việc
Ngoài nơi làm việc
1.Dạy kèm
_
ˇ_
x
x
0
2.Trò chơi kinh doanh
x
0
0
0
x
3.Điển quản trị
x
0
0
0
x
4.Hội nghị/Thảo luận
x
0
0
0
x
5.Mô hình ứng xử
x
0
0
0
x
6.Huấn luyện tại bàn giấy
x
0
0
0
x
7.Thực tập sinh
x
0
0
x
0
8.Đóng lịch
x
0
0
0
x
9.Luân phiên công việc
_
_
x
x
0
10.Giảng dạy theo thứ tự chương trình
_
_
x
0
x
11.Giảng dạy nhờ MVT hỗ trợ
_
_
x
0
x
12.Bài thuyết trình trong lớp
_
_
x
0
x
13.Đào tạo tại chỗ
0
x
0
x
0
14.Đào tạo học nghề
0
x
0
x
0
15.Dụng cụ mô phỏng
0
x
0
0
x
16.đào tạo xa nơi làm việc
0
x
0
0
x
Ghi chú: - : áp dụng cho cả hai cấp quản trị và công nhân
0 : không áp dụng
x : áp dụng
Ngoài 16 phương pháp trên còn phương pháp kỹ thuật nghe nhìn và các phương pháp khác như khuyến khích các cấp quản trị học các chương trình hàm thụ, các khóa đặc biệt mở tại các trường đại học dưới nhiều hình thức: học tại chức, học ngoài giờ làm việc, học hàm thụ…
Iii. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược đào tạo và phát triển Nguồn nhân lực
Nhiệm vụ và mục tiêu kế hoạch dài hạn phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020
Đến năm 2020 phấn đấu về cơ bản đưa nước ta trở thành nước công nghiệp và đạt chỉ tiêu 80-90% lao động qua đào tạo nghề nghiệp.
“Phát triển Đại học, Trung học chuyên nghệp, đẩy mạnh đào tạo công nhân lành nghề, đảm bảo có nhiều nhân tài cho đất nước”. (Văn kiện Hội nghị Trung ương 2/31)
Phấn đấu có một số cơ sở giáo dục từ Phổ thông đến Đại học đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Kế hoạch đào tạo nghề phải theo sát chương trình Kinh tế- xã hội của từng vùng, phục vụ cho sự chuyển đổi cơ cấu lao động cho Công nghiệp hóa-hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.Tăng cường đầu tư, củng cố và phát triển các trường dạy nghề, xây dựng một số trường trọng điểm. Đào tạo đủ công nhân lành nghề cho các khu vực công nghiệp, khu chế xuất có tính đến xuất khẩu lao động.
Về mặt giáo dục cũng như đào tạo, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước đã làm chủ cung cũng như cầu. Đổi mới đã có hai tác động lên cung của Nhà nước. Một mặt cầu được giải phóng, mặt khác cùng với Nhà nước, nhiều tác nhân đóng vai trò chủ chốt mới về cung xuất hiện và khi có dịp, Nhà nước dựa vào các tác nhân đóng vai trò chủ chốt này. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, điều này là hoàn toàn có thực, không những Nhà nước đã cho phép nhu cầu xuất hiện mà còn chấp nhận cho nhu cầu tạo ra cung đáp ứng cho cầu này và mở rộng phạm vi cung giáo dục của đất nước. Đôi khi cạnh tranh nhau, đôi khi bổ sung cho nhau, cung công lập và cung tư nhân đã trải qua một quá trình điều chỉnh qua lại. Giành cho mình một số lĩnh vực về cung giáo dục, nhằm duy trì vai trò làm chủ hệ thống giáo dục, Nhà nước buộc phải nâng cao chất lượng các dịch vụ giáo dục của mình. Về mặt việc làm, đối với toàn dân, Nhà nước đã hoãn nghĩa vụ, đảm bảo việc làm cho mọi người. Như vậy, Nhà nước bắt đầu điều chỉnh có cấu tạo điều kiện cho phép cạnh tranh với khu vực ngoài quốc doanh ở trong nước và nước ngoài. Kết qủa là Nhà nước, người đảm bảo về mặt pháp lý cho việc áp dụng Luật lao động, trong thái độ và cung cách ứng xử của mình ngày càng có cách ứng xử và thái độ như khu vực tư nhân với tư cách là người sử dụng lao động. Điều còn lại là Nhà nước xác định các ưu tiên trong công tác giáo dục, đào tạo và việc làm để đối mặt với những cách thức ngày càng lớn của một quá trình toàn cầu hoá, kết quả của chính sách mở cửa.
Chương II
Thực trạng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta và phương hướng hoàn thiện.
I. Đánh giá chung công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay
i. Đánh giá chung công tác đào tạo nguồn nhân lực
Thị trường lao động ở Việt Nam mới hình thành và đang trong quá trình phát triển với nhiều biến động trong thời kỳ chuyển đổi. Nhiều nhân tố thị trường đã xuất hiện như nhân tố cạnh tranh giữa những người tìm việc làm trong các kỳ tuyển dụng lao động của các công ty- xí nghiệp; các cơ quan nhà nước; sự chi phối các dòng chuyển dịch lao động do mức sống và giá cả sức lao động ở các ngành kinh tế, khu vực địa phương khác nhau... Mặt khác, ở Việt Nam vai trò can thiệp của Nhà nước bằng hệ thống chính sách và pháp luật chưa đầy đủ tạo ra những “nhiễu” trong thị trường lao động vốn đã phức tạp lại càng phức tạp hơn. Đặc biệt cho đến nay, ở Việt Nam chưa hình thành một hệ thống thông tin về thị trường lao động một cách đầy đủ và đồng bộ, được cập nhật theo thời gian và có các dự báo làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đánh giá các đặc trưng và biến động của thị trường lao động để phục vụ cho công tác kế hoạch hoá đào tạo chung cho toàn hệ thống cũng như từng cơ sở đào tạo nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nhân lực của thị trường lao động.
Sau hơn 10 năm đổi mới giáo dục- đào tạo (1986-2000), hệ thống giáo dục- đào tạo Việt Nam đã có những bước phát triển và chuyền biến về mọi mặt cả về cơ cấu hệ thống mạng lưới loại hình trường, cơ sở vật chất, qui mô đào tạo ở tất cả các bậc học và ngành đào tạo. Với gần 22,5 triệu học sinh, chiếm hơn 1/4 dân số (76,3 triệu năm 1999), Việt Nam là nước có tỷ lệ người đi học trên số dân vào loại cao so với các nước trong khu vực ASEAN.
Bước vào thiên niên kỷ mới, cũng là thời gian Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn phổ cập THCS với mục tiêu đến năm 2010 đại trình độ phổ cập THCS trên phạm vi toàn quốc và khả năng đến năm 2005 đối với các khu vực thành phố, đô thị. Hệ thống giáo dục đại học, cao đẳng và THCN/DN đang được củng cố và phát triển là nguồn cung cấp nhân lực kĩ thuật chính cho nền kinh tế, cho thị trường lao động ở các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội khác nhau.
Hệ thống giáo dục- đào tạo Việt Nam bao gồm nhiều loại hình trường ở các bậc giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Bên cạnh các cơ sở đào tạo công lập đã phát triển nhiều cơ sở đào tạo ngành công lập ở các bậc học, đặc biệt ở THPT và đại học. Mạng lưới các trường đại học- cao đẳng và giáo dục nghề nghiệp đang phát triển nhưng phân bố chưa hợp lý, tập trung nhiều ở Hà Nội và các thành phố lớn. Nhiều khu vực như Tây Bắc chưa có trường đại học, cao đẳng và một số địa phương chưa có trường dạy nghề.
* Về số lượng cơ sở đào tạo
Năm học 1998-1999, số lượng cơ sở là 238 trường THCN ( trong đó có 4 trường công lập), 213 trường dạy nghề, 92 trường đại học (trong đó 17 trường ngoài công lập),98 trường cao đẳng (trong đó 1 trường ngoài công lập), và khoảng 500 trung tâm giáo dục trường xuyên, trung tâm dạy nghề, trung tâm giáo dục KT-TH-HN phân bố các địa phương.
Dự kiến trong các năm tới sẽ đầu tư nâng cấp các trường dạy nghề trọng điểm và tăng thêm 22 trường đại học, 46 trường cao đẳng chủ yếu ở các vùng KT-XH, các địa phương chưa có các trường đại học, cao đẳng để đáp ứng nhu cầu nhân lực ở địa phương.
Bảng 2: Dự kiến phát triển các loại hình cơ sở đào tạo đại học- cao đẳng
Trường
1998
2010
Tăng, giảm
Đại học
Học viện
Nhạc viện
Cao đẳng
Tổng số
74
16
2
98
190
96
16
2
144
258
+20
-
-
+46
+68
Nguồn: Dự án mạng lưới đại học/ cao đẳng 1-2002 (dự thảo)
*Về qui mô đào tạo
Qui mô giáo dục đại học/ cao đẳng và giáo dục nghề nghiệp tăng trong các năm vừa qua và tiếp tục tăng trong các năm sắp đến để đáp ứng nhu cầu nhân lực ngày càng tăng của các lĩnh vực kinh tế- xã hội, tuy nhiên, xu thế tăng hiện nay vẫn tập trung ở bậc đại học và cao đẳng. Qui mô tăng ở bậc THCN và dạy nghề còn thấp chưa tương xứng với nhu cầu nhân lực trong giai đoạn tới.
Bảng 3: Dự báo cơ cấu lao động kĩ thuật
Trình độ
1996
2005
2010
Sơ cấp
CNKT có bằng
CNKT không có bằng
THCN
Đại học/ Cao đẳng
636246
809831
761425
1378282
816098
2428691
5761425
2500920
1516098
4561018
10761000
4285230
2215098
Tỉ trọng ĐH/THCN/CNKT
Tỉ lệ lao động có trình độ ĐH
1/1,5/2,5
18,5%
1/1,7/5,5
12,42%
1/1,9/6,8
10,15%
Nguồn: Dự án mạng lưới đại học/ cao đẳng 1/2002 ( bản dự th
*Về cơ cấu ngành nghề đào tạo
Đây là sự mất cân đối về cơ cấu đào tạo do tỉ lệ đào tạo trong lĩnh vực kĩ thuật công nghệ, nông- lâm- ngư nghiệp còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học- công nghệ và công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn tới.
Một trong những yêu cầu cấp bách hiện nay là cần điều chỉnh cơ cấu đào tạo đại học/ cao đẳng và giáo dục nghề nghiệp theo hướng tăng tỉ lệ đào tạo nghề nghiệp và THCN, giảm tỉ lệ đào tạo đại học để đảm bảo cân đối nguồn nhân lực.
Bảng 4: Dự kiến điều chỉnh cơ cấu loại hình đào tạo (%)
Ngành
1999
2005
2010
Dạy nghề
THCN
Đại học/cao đẳng
Tổng số
37,1
13,4
49,5
100,0
55,10
19,9
25,0
100,0
71,0
21,0
8,0
100,0
Nguồn: Dự án mạng lưới đại học/ cao đẳng 1/2002 (Bản dự thảo)
Hiện ngành giáo dục- đào tạo có khoảng 80 vạn giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp trong đó có khoảng 30000 cán bộ giảng dạy đại học và 10000 giáo viên các trường THCN và DN. Tuy nhiên ở bậc đại học tỉ lệ giáo viên có trình độ cao ( giáo sư, tiến sĩ ) còn thấp (10%) chưa đáp ứng yêu cầu phát triển qui mô và nâng cao chất lượng đào tạo.
Bảng 5: Số lượng giáo viên các đại học/ cao đẳng/ THCN
Trường
1996-1997
1997-1998
1998-1999
1999-2000
Dạy nghề
THCN
Cao đẳng
Đại học
-
9690
5339
18175
6000
9770
6406
19368
7000
9732
6806
21229
7500
9565
-
30309
Nguồn: Trung tâm thông tin quản lý giáo dục. Bộ Giáo dục và Đào tạo
*Về ngân sách cho giáo dục
Với quan điểm giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu, phần ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục- đào tạo tăng hàng năm từ khoảng 10% ngân sách trong những năm 1995-1997 lên 14,5% vào năm 1999 và 15% vào năm 2000. Phần chi thường xuyên trong ngân sách giáo dục- đào tạo về cơ bản chỉ đủ để trả lương, các chế độ có tính chất lương của đội ngũ giáo viên và học bổng của học sinh ( khoảng 80-90%). Số còn lại chi cho các hoạt động nghiệp vụ rất eo hẹp (10-20%) không đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục- đào tạo. Dự kiến phải tăng lên khoảng 30%. Phần thu ngoài ngân sách Nhà nước trong những năm gần đây có tăng do mở rộng các loại hình đào tạo ngoài công lập ở các khu vực kinh tế phát triển song chưa nhiều. Cơ cấu chi ngân sách cho ngành đào tạo lên 14,5% vào năm 1999 và khoảng 15% vào năm 2000. Tăng dần tỉ trọng đầu tư từ các nguồn ngoài ngân sách Nhà nước ( hỗ trợ quốc tế,đóng góp từ dân) từ khoảng 10% hiện nay lên 20-30% vào các năm tới.
Đánh giá chung về việc phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
Mười lăm năm qua, Việt Nam đã có những tiến bộ vượt bậc trong việc lựa chọn phát triển con người và cải thiện môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân. Giáo dục, theo quan niệm chung nhất, được nhìn nhận phổ biến ở hầu hết các nước như là phương tiện cơ bản để mở rộng sự lựa chọn nghề nghiệp, cải thiện năng suất lao động của cá nhân và xã hội, tăng tổng sản phẩm và thu nhập và tạo ra những cơ hội cho trẻ em sinh ra trong nghèo đói thoát khỏi cảnh khó khăn và nhận thức được toàn bộ tiềm năng con người. Nền văn hoá Việt Nam luôn có truyền thống tôn trọng học vấn và điều này càng được chính phủ theo định hướng XHCN năm 1954 củng cố. Ngay trước đổi mới, mặc dù tổng sản phẩm quốc dân theo đầu người còn tương đối thấp, hậu quả chiến tranh còn rất nặng nề và cơ cấu nguồn ngân sách Nhà nước còn rất đạm bạc, Việt Nam đã đạt được mức độ biết chữ, tuổi thọ và bình đẳng về giới rất đặc biệt, cùng với một số các chỉ số khác về phát triển con người đạt cao (HainsWorth, 1993). Năm 1999, Việt Nam đứng thứ 110 trong tổng số 174 quốc gia về chỉ số phát triển con người của UNDP ( so với hạng thứ 133 về GDP tính theo đầu người), đã cải thiện được thứ hạng tương đối cao về chỉ số phát triển con người năm 1992-116 trong sỗ 173 quốc gia ( và đứng thứ 150 về GDP tính theo đầu người).
Nhập học ở cấp tiều học đặc biệt cao, đạt 91% chung cho toàn quốc và 82% đối với trẻ em thuộc nhóm chi tiêu hộ gia đình nghèo nhất, mặc dù tỉ lệ bỏ học và lưu ban cao hơn rất nhiều ở những gia đình nghèo, đặc biệt ở những vùng nông thôn và vùng sâu vùng xa. Sự khác biệt trong tỉ lệ nhập học ở cấp trung học cơ sở và phổ thông trung học lớn hơn rất nhiều, chỉ có 4,5% số trẻ em thuộc nhóm chi tiêu nghèo nhất lên đến cấp trung học cơ sở và ít hơn 0,5% có trình độ phổ thông trung học.
Bảng 6: Tỉ lệ nhập học chia theo nhóm thu nhập hộ gia đình,
Tỉ lệ
Nhập học
Nhóm chi tiêu
Việt
Nam
1
2
3
4
5
Mẫu giáo
Tiểu học
THCS
PTTH
81,9
33,6
4,5
0,4
93,2
53,0
13,3
0,6
94,6
65,5
20,7
2,9
96,0
71,7
26,5
8,3
96,4
91,0
64,1
28,9
91,2
61,7
28,6
9,3
Nguồn: tổng cục thống kê,1994, 1999
Chuyển sang kinh tế thị trường rõ ràng đã dẫn đến tỉ lệ bỏ học cao ở cấp trung học, đặc biệt đối với nữ- sự khác biệt về giới đang có xu hướng gia tăng trong tỉ lệ nhập học và tỉ lệ tốt nghiệp trung học cơ sở và phổ thông trung học. Số liệu điều tra mẫu về mức sống năm 1998 cho thấy số năm bình quân đi học và tỉ lệ biết chữ thấp hơn rất nhiều đối với trẻ em gái và cùng với sự hạn chế về phương tiện tiếp cận với cơ hội giáo dục và đào tạo thích hợp, đã là một trong những yếu tố giúp giải thích tại sao tỉ trọng phụ nữ “ tự tạo việc làm” trong nông nghiệp với thu nhập thấp và gắn với những hoạt động kinh tế hộ gia đình cao hơn nam giới và thấp hơn trong ngành sản xuất chế tạo và khu vực làm công ăn lương.
Bảng 7: Chi tiêu giáo dục và việc làm chia theo giới tính, 1996 (%)
Nữ
Nam
Chung
Số năm bình quân đến trường (6+)
Tỉ lệ biết chữ ở người trưởng thành
Tỉ trọng trong việc làm:
Việc làm tự tạo gắn với nông nghiệp
Việc làm tự tạo phi nông nghiệp
Việc làm ăn lương:
+ Việc làm ăn lương trong nông nghiệp
+ Việc làm ăn lương trong ngành chế tạo
+ Việc lamf ăn lương trong ngành dịch vụ
5,6
78,8
51,7
54,4
55,2
39,8
39,6
37,1
42,6
6,8
89,6
48,3
45,6
44,8
60,2
60,4
62,9
57,4
6,2
83,5
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
Nguồn: Tổng cục thống kê, 1994, 1999
Xét tỉ lệ nhập học theo các nhóm dân tộc, cuộc điều tra mức sống Việt Nam cho thấy tình hình tỉ lệ này đã được cải thiện đáng kể trong giai đoạn 1992-1993 đến 1997-1998 đối với cả người Kinh và các nhóm dân tộc thiểu số khác, mặc dầu tỉ lệ bỏ học nhìn chung cao hơn đối với các nhóm dân tộc thiểu số và tỉ lệ khác biệt về tỉ lệ nhập học ở cấp trung học cơ sở và cấp cao hơn vẫn còn rất lớn. Không có số liệu về sự khác biệt giữa các nhóm dân tộc thiểu số, nhưng những khảo sát ở địa phương cho rằng một số nhóm dân tộc thiểu số chịu thiệt thòi hơn một số dân tộc thiểu sỗ khác về phương diện tiếp cận với cơ hội giáo dục và đào tạo và đồng thời do quan niệm phổ biến của cha mẹ đối với ý nghĩa của việc đưa con em tới trường. Hầu hết các dân tộc thiểu số sống ở các vùng nông thôn sâu và xa, rất ít người tìm được việc làm trong các ngành công nghiệp và ở vùng đô thị và rất nhiều bậc phụ huynh không thấy được giá trị của giáo dục trên mức biết đọc và biết viết, nếu con cái họ ( và đặc biệt là trẻ em gái) chỉ là để theo họ tham gia vào những công việc đồng áng để chỉ sống về cơ bản. Những nỗ lực to lớn đang đã được thực hiện trong chiến dịch HEPR quốc gia với sự cam kết và tài chính rất lớn của các tổ chức tài trợ để nâng cấp các phương tiện giáo dục và các tiện nghi xã hội khác tại các vùng nông thôn xa xôi. đặc biệt tập trung vào 1000 xã nghèo nhất- tại đó các dân tộc thiểu số thường chiếm đa số.
Giáo dục ở hầu hết các nước được nhìn nhận như là “ một nhà giải hoà lớn”, thúc đầy sự bình đẳng về cơ hội đối với tài năng, hoài bão và tính kiên trì của cá nhân bất kể vị thế xã hội ban đầu. Không có một đất nước nào sự cạnh tranh về phẩm chất lại xảy ra với mức độ thực sự như ở trên sân chơi, nhưng thiên hướng giáo dục công cộng được giả thiết như hỗ trợ cho những trường hợp ít lợi thế bù đắp cho sự bất công về gia sản và các hoàn cảnh khác.
Trong thời kỳ đổi mới, nội dung của các chương trình đào tạo phần nào đa dạng hoá, do các sáng kiến của địa phương được khuyến khích để đáp ứng những nhu cầu trong vùng về những chuyên ngành mới, nhưng điều phê phán chung là nhu cầu đào tạo của các doanh nghiệp địa phương chưa được quan tâm một cách thoả đáng.
Trong thời kỳ đổi mới, bên cạnh những chương trình do Nhà nước tài trợ, rất nhiều những khoá đào tạo, tập huấn, chương trình dạy nghề của tư n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0114.doc