Đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH-HĐH

Phần I- mở đầu Trong những năm qua công cuộc đổi mới ở nước ta đã dần dần có những chuyển biến sâu sắc và tích cực trên các mặt hoạt động kinh tế xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần đáng kể cho hầu hết các tầng lớp dân cư. Ngay từ đầu thập kỷ 90 Nhà nước đã thông qua “ Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000” mà trong đó nổi lên một quan điểm then chốt là “ đặt con người vào vị trí trung tâm, khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân và cả cộng đồng dân tộc”. C

doc28 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1470 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH-HĐH, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiến lược đó chính là nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực – một nguồn lực quan trọng nhất của mỗi quốc gia để từ đó nguồn lực này có thể đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Vì thực chất quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để đạt được năng suất lao động cao trong sản xuất. Vậy vấn đề đạt ra trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phải có chính sách đào tạo nguồn nhân lực thích hợp, đảm bảo đủ cả về số lượng và chất lượng. Vì giới hạn là một đề tài, em chỉ đi phân tích thực trạng chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo cao đẳng đại học, trung học chuyên nghiệp và đào tạo nghề. Từ đó đề ra một số giải pháp phát triển giáo dục đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Phần II- NộI DUNG CHƯƠNG I CƠ Sở Lí LUậN CHUNG Về ĐàO TạO NGUồN NHÂN LựC I-Khái niệm cơ bản 1 Khái niệm nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người và được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh Nguồn nhân lực với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường (không bị khiếm khuyết hoặc bị dị tật bẩm sinh) Nguồn nhân lực với tư cách là một yếu tố của sự phát triển kinh tế xã hội là khả năng lao động của xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Với cách hiểu này nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao động. Nguồn nhân lực còn có thể hiểu là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về vật chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Với cách hiểu này nguồn nhân lực bao gồm những người từ giới hạn dưới độ tuổi lao động trở nên. ở nước ta quy định đối với nam từ 15 tuổi đến 60 tuổi còn đối với nữ từ 15 tuổi đến 55 tuổi. Các cách hiểu trên chỉ khác nhau về việc xác định quy mô nguồn nhân lực, song đều nhất trí với nhau đó là nguồn nhân lực nói lên khả năng lao động của xã hội. Nguồn nhân lực thường được xem xét trên giác độ về số lượng và chất lượng Số lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại. Tuy nhiên mối quan hệ này được biểu hiện sau một thời gian nhất định. Chất lượng nguồn nhân lực được xem xét trên trạng thái sức khoẻ, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, năng lực phẩm chất … Trạng thái sức khoẻ là trạng thái thoái mái về vật chất và tinh thần và xã hội trứ không đơn thuần là không có bệnh tật. Sức khoẻ là tổng hoà các yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần. Trình độ văn hoá của người lao động là trạng thái hiểu biết của người lao động đối với kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội. Trình độ văn hoá của dân số thường biểu hiện bằng mặt bằng dân trí của người dân quốc gia đó, nó được biểu hiện qua các chỉ tiêu sau: + Số lượng người biết chữ và chưa biết chữ + Số người có trình độ học tiểu học + Số người có trình độ phổ thông cơ sở + Số người có trình độ phổ thông trung học + Số người có trình độ đại học và trên đại học … Đây là một chỉ tiêu hết sức quan trọng, nó phản ánh chất lượng nguồn nhân lực và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trình độ chuyên môn kỹ thuật là sự hiểu biết khả năng thực hành về chuyên môn nào đó được biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học có khả năng chỉ đạo quản lý một công việc chuyên môn nhất định. Do đó trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực được đo bằng các chỉ tiêu sau: + Tỷ lệ cán bộ trung cấp + Tỷ lệ cán bộ cao đẳng, đại học + Tỷ lệ cán bộ trên đại học … Ngoài ra còn một số chỉ tiêu khác phản ánh chất lượng nguồn nhân lực như chỉ số phát triển con người, năng lực phẩm chất người lao động … Khái niệm đào tạo nguồn nhân lực Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận được một công việc nhất định. Đào tạo là những hoạt động học tập nhằm giúp cho người lao động có nhiều hiểu biết về kỹ năng, các nhiệm vụ của mình được giao thông qua quá trình học tập để làm cho người lao động nắm vững các kỹ năng nghề nghiệp, chuyên môn để thực hiện các nhiệm vụ một cách có hiệu quả. Trong thực tế thì mọi người đều có hướng là phát triển đào tạo vì phát triển đào tạo cũng là những hoạt động học tập nhưng hoạt động học tập này vượt ra khỏi phạm vi của những công việc trước mắt của người lao động nhằm mở ra cho họ những kỹ năng mới hoặc phát triển khả năng nghề nghiệp theo một hướng mới để họ có thể đảm nhận và hoàn thành công việc dựa trên cơ sở định hướng tương lai của một đơn vị công tác, của một tổ chức, một doanh nghiệp. Để người lao động có trình độ lành nghề nào đó phải thông qua công tác đào tạo. Vì qua đào tạo người lao động có sự hiểu biết về lý thuyết về kỹ thuật của sản xuất và kỹ năng kỹ xảo để hoàn thành những công việc có trình độ phức tạp nhất định thuộc một nghề một chuyên môn nào đó. Nghề là một hình thức phân công lao động, nó đòi hỏi kiến thức lý thuyết tổng hợp và thói quen thực hành để hoàn thành những công việc nhất định. Chuyên môn là một hình thức phân công lao động sâu sắc hơn do sự chia nhỏ của nghề. Do đó nó đòi hỏi kiến thức lý thuyết và thói quen trong phạm vi hẹp, sâu hơn. Một nghề thường có nhiều chuyên môn Vai trò nguồn nhân lực trong sự phát triển kinh tế xã hội Trước đây họ đánh giá cao vai trò kỹ thuật của các nguồn nhân lực tự nhiên thì hiện nay ở hầu hết các quốc gia người ta nói đến vai trò con người, của nguồn nhân lực. Kinh nghiệm của các nước phát triển trên thế giới và trong khu vực chỉ ra sự tăng trưởng với tốc độ cao về kinh tế trong những thập kỷ qua gắn chặt với chiến lược phát triển nguồn lực con người. Vì các nước này từ chỗ nền kinh tế kém phát triển, tài nguyên khan hiếm và kiệt quệ sau chiến tranh thế giới thứ hai nhưng do biết cách đầu tư khai thác và phát triển nguồn nhân lực nên đã trở thành những nước công nghiệp mới rút ngắn thời gian công nghiệp hoá tạo ra sự tăng trưởng với tốc độ cao. Vì vậy chính sách đầu tư của các nước đang tập trung vào việc khai thác một cách có hiệu quả nguồn lực con người . Điều đó không phải là ngẫu nhiên mà là thực tế đã chứng minh và nhận định ra rằng nguồn lực tự nhiên dù phong phú, giàu có đến mấy thì cũng sẽ bị cạn kiệt trước sự khai thác của con người và chỉ có nguồn lực con người mới là nguồn lực duy nhất khai thác không bao giờ hết, nó là nguồn tài nguyên vô tận. Do nhận định được vai trò quan trọng của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước chúng ta không còn con đường nào khác là phải phát huy và sử dụng đúng đắn vai trò nguồn lực con người. Con người vừa là động lực của sự phát triển, vừa là mục tiêu của sự phát triển . Từ thời xa xưa con người đã biết tự chế tạo ra công cụ lao động để sản xuất ra sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu của bản thân. Sản xuất ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loại người, tính chất lao động dần dần được thay đổi từ việc lao động bằng chân tay thay vào đó là lao động trí óc và vai trò của người lao động ngày càng quan trọng vì chính con người đã tạo ra máy móc thiết bị và chính con người vận hành máy móc đó, nếu thiếu sự điều khiển, kiểm tra của con người thì chúng chỉ là vật chết. Sự phát triển kinh tế xã hội suy cho cùng là nhằm mục tiêu phục vụ con người làm cho cuộc sống mỗi người ngày càng tốt hơn, xã hội ngày càng văn minh. Mà nhu cầu con người ngày càng phong phú, đa dạng cho nên có tác động mạnh đến sản xuất thông qua quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường dẫn đến phát triển kinh tế xã hội. Con người trong sự phát triển kinh tế xã hội tạo ra điều kiện để tự hoàn thiện chính bản thân con người. Chính trong sự phát triển đó mọi người đều muốn thể hiện mình có vai trò và vị trí trong xã hội vì tâm sinh lý con người cần được thoả mãn không những nhu cầu về vật chất mà cả nhu cầu về tinh thần. 4 Sự cần thiết đào tạo nguồn nhân lực Qua phân tích ở trên ta thấy vai trò quan trọng của nguồn lực con người trong sự phát triển kinh tế xã hội. Nói đến nguồn lực con người là chúng ta thường nói đến mặt số lượng và mặt chất lượng của nó. Nhưng yếu tố quan trọng của nguồn lực con người là chất lượng, đó là hàm lượng trí tuệ được kết tinh trong đó. Để đạt được điều đó thì các biện pháp về đào tạo giáo dục đóng vai trò hết sức quan trọng. Người ta tính ra rằng nếu phổ cập giáo dục nâng lên một lớp thì năng suất lao động bình quân của toàn xã hội tăng 5%. Sở dĩ giáo dục và đào tạo có vai trò to lớn như vậy là vì nó tạo ra cho nền kinh tế một dân tộc những bác học, chuyên gia, kỹ sư trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, kỹ thuật …Mà nhờ có những kỹ sư đó có thể tiếp thu kỹ thuật tiên tiến,công nghệ mới, tạo ra nguyên liệu không có sẵn trong tự nhiên. Nhờ có chuyên gia,nhà kinh tế mà có những hình thức quản lý mới đem đến hiệu quả kinh tế cao. Hơn nữa giáo dục đào tạo còn trực tiếp quyết định việc nâng cao trình độ học vấn trình độ khoa học kỹ thuật, tổ chức quản lý. Vì vậy giáo dục và đào tạo không chỉ là động lực hàng đầu để phát triển kinh tế mà còn tạo ra nhân cách con người. II nội dung đào tạo nguồn nhân lực Thực tế cho thấy nhu cầu về lao động là nhu cầu dẫn xuất từ nhu cầu sản xuất sản phẩm nhất định. Nhu cầu sản xuất sản phẩm lại từ nhu cầu tiêu dùng của con người. Cùng với sự phát triển nền sản xuất nhu cầu con người ngày càng phong phú và đa dạng, sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều hơn và chất lượng cao hơn. Điều đó chỉ có được khi lực lượng lao động có trình độ nhất định, nó thể hiện qua chất lượng nguồn nhân lực. Vậy để nguồn nhân lặc có chất lượng đòi hỏi nhà quản lý phải quan tâm đến đào tạo Đào tạo nguồn nhân lực bao gồm các nội dung sau: Đào tạo kiến thức phổ thông Việc đào tạo kiến thức phổ thông ở đây liên quan đến đào tạo nghề chứ không như kiến thức phổ thông. Tức là giáo dục kiến thức phổ thông phải được hiểu là bổ túc kiến thức phổ thông có liên quan đến kiến thức về đào tạo nghề. Đào tạo kiến thức chuyên nghiệp 2.1 Đào tạo mới Là tiến hành đào tạo đối với những người chưa tham gia vào quá trình lao động hoặc quá trình sản xuất. Hoặc đào tạo được tiến hành với những người có tham gia vào sản xuất nhưng họ chưa có nghề. Đào tạo lại Là tiến hành đào tạo đối với những người đã có nghề, đã có chuyên môn nhưng do yêu cầu của sản xuất và tiến bộ kỹ thuật của ngành nghề, chuyên môn thay đổi theo hướng phát triển đòi hỏi phải đào tạo lại những người lao động đó. Đào tạo nâng cao trình độ lành nghề Đào tạo này nhằm bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kinh nghiệm làm việc để người lao động có thể đảm nhận được những công việc phức tạp hơn. iii phương pháp đào tạo Đào tạo trong công việc Là tiến hành đào tạo tại nơi làm việc trong đó người học sẽ được tang bị kiến thức, kỹ năng trong công việc. Hình thức đào tạo này chia làm hai dạng: Kèm cặp, hướng dẫn tại chỗ tức là tiến hành đào tạo ngay trong quá trình làm việc, người học sẽ quan sát ghi nhớ các thao tác thực hiện công việc theo người hướng dẫn. Và người hướng dẫn có thể là người công nhân lành nghề, chuyên viên có nhiều kinh nghiệp… Luân phiên thay đổi công việc để người học viên có thể nắm vững các kỹ năng và thực hiện những công việc có thể hoàn toàn khác nhau. Hình thức đào tạo trong công việc có nhiều ưu điểm như: + Tiết kiệm chi phí đào tạo do không đòi hỏi về cơ sở trường hợp, giáo viên chuyên trách + Có thể đào tạo nhiều công nhân một lúc, thời gian ngắn + Học viên có thể trực tiếp tham gia lao động góp phhần hoàn thành kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp. Tuy nhiên vẫn còn hạn chế như: + Học viên nắm kiến thức lý luận không theo trình tự logic + Người học viên bị ảnh hưởng rất nhiều vào người thầy Đào tạo ngoài công việc Là tiến hành đào tạo không phải tại nơi làm việc mà được tiến hành dưới các hình thức sau : Đào tạo ở các trường chính quy dài hạn và tại chức dài hạn Đào tạo từ xa là sự trợ giúp của các phương tiện nghe nhìn và máy vi tính. Đào tạo thông qua các khoá học ngắn hạn Tổ chức các buổi giảng bài và hội thảo. IV Các nhân tố tác động tới quá trình đào tạo nguồn nhân lực Chính sách của nhà nước Nhà nước có chính sách định hướng, kế hoạch đào tạo chính sách đảm bảo sự phân công hợp lý, đảm bảo tính hệ thống giữa các cấp bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Từ nhu cầu về cán bộ chuyên môn của từng ngành nghề từ đó có chính sách đào tạo hợp lý, cơ cấu đào tạo phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của đất nước tránh tình trạng đào tạo mất cân đối giữa các ngành nghề và khu vực tạo dư thữa lãng phí. Số học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học, phỏ thông cơ sở hàng năm có tác động lớn tới cơ cấu đào tạo nghề, đào tạo đại học cao đẳng. Số lượng học sinh này có thể phân theo 2 luồng sau : Số học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở sẽ được phân luồng vào đào tạo chương trình chuyên ban với số lượng ở các ban là bao nhiêu cho phù hợp với mấy năm sau khi số này tốt nghiệp. Hoặc số lượng học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở có thể hướng vào đào tạo nghề, học ở những trường trung học chuyên nghiệp. Số học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông sẽ được phân bổ vào các trường cao đẳng, đại học hoặc trường đào tạo nghề với cơ cấu như thế nào thì hợp lý. Vốn đầu tư cho đào tạo Hiện nay vốn đầu tư rất đa dạng , có thể từ nhiều nguồn: Vốn từ Nhà nước cấp kinh phí cho các trường đại học cao đẳng, trường đào tạo nghề chính quy… Vốn đầu tư của các tỉnh thành phố tại cơ sở trường đào tạo. Vốn đầu tư của doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức có nhu cầu về nhân lực của các trường hay cơ sở đào tạo. Vốn đầu tư từ các tổ chức nước ngoài Vốn đầu tư có vai trò quan trọng trong công tác đào tạo, nó góp phần mở rộng quy mô đào tạo và nâng cao chất lượngđào tạo do được trang bị các thiết bị mà học sinh có thể tiến hành vận dụng các kiến thức lý thuyết đã học nhằm nắm vững ngành nghề. Cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở đào tạo Một cơ sở đào tạo nếu được trang bị đầy đủ các điều kiện vật chất cho giảng dạy và học góp phần không nhỏ cho cho công tác đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Đội ngũ cán bộ giảng dạy Quy hoạc và phát triển đội ngũ cán bộ giảng dạy trên cơ sở các chuẩn mực đã được xác định nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ giảng dạy đủ mạnhcho sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Vì đội ngũ này đã tạo cho người học viên năng lực nghiên cứu khoa học và các kiến thức kỹ năng về nghề nghiệp, chuyên môn cho quá trình công tác sau này. Chương II Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực hiện nay I Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực nước ta hiện nay Hiện trạng nguồn nhân lực Quy mô lực lượng nguồn nhân lực Ta có thể thấy được lực lượng lao động của nước ta trong những năm vừa qua trong bảng sau: Bảng 1 : Lực lượng lao động Chỉ tiêu 1996 1997 1998 Dân số Tổng số lao động Số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị 35,87 35,57 5,76 (%) 76 36,29 36,99 5,82 (%) 74,45 37,41 38,75 6,68 (%) Đơn vị: Triệu người (Nguồn thực trạng lao động và việc làm ở Việt Nam, Nxb TK –HN) Qua số liệu trên ta thấy nguồn lao động mỗi năm tăng lên khoảng một triệu người và tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng ngày càng tăng. Tốc độ tăng nguồn nhân lực Hàng năm có khoảng một triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động. Ngoài ra còn kể đến số người ngoài độ tuổi lao động nhưng thực tế có làm việc cũng tăng lên như năm 1997 số người ngoài độ tuổi vẫn tham gia làm việc ở các ngành kinh tế là 700000 người nhưng đến năm 1998 số người này là 1340000 người. Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực Tình trạng sức khoẻ nguồn nhân lực Do chưa có một cuộc điều tra nào nghiên cứu mang tính chất toàn diện về thể lực và sự biến đổi tình trạng sức khoẻ của dân số nước ta nên chúng ta đánh giá trên một số mặt sau. Đánh giá về dinh dưỡng ở 6 vùng sinh thái ( 1987-1990) của viện dưỡng bộ y tế của những người từ 16 tuổi trở lên : + Số người gầy chiếm 48,7% và tăng theo lứa tuổi. + Trọng lượng và chiều cao của các lứa tuổi thấp . Năm 1993 có chiều cao là 1,47m và cân nặng 34,4kg. Năm 1997 đối với trẻ em dưới 5 tuổi ở vùng Băc Trung Bộ thì tỷ lệ suy dinh dưỡng là 52,7% còn các thành phố lớn là 26,3%. Như vậy tình trạng sức khoẻ của nước ta ở mức trung bình và kém. - Thực trạng về trình độ văn hoá Bảng 2 : Trình độ văn hoá của lực lượng lao động Chỉ tiêu 1997 1998 1999 Số người % Số người % Số người % 1.Tổng số lao động 2. Chưa biết chữ 3. Chưa TN cấp I 4.TN cấp I 5.TN cấp II 6. TN cấp III 36296.9 1850.8 7352.7 10212.1 11479.2 5132.1 100 5.1 20.26 28.14 32.37 14.13 37407.2 1435.8 6929.3 10988.7 12069.9 5983.5 100 3.84 18.52 29.38 32.27 15.99 37783.83 1555.3 6789.7 10914.3 12066.9 6457.6 100 4.12 17.97 28.89 31.93 17.09 Lao động ở đây là những người từ 15 tuổi trở nên hoạt động kinh tế thường xuyên trong 12 tháng. ( Nguồn: Thực trạng lao động việc làm ở VN 1999, Nxb TK-HN 2000) Qua bảng số liệu cho ta thấy xu hướng chung của số lao động có trình độ văn hoá cấp II , cấp III tăng dần, còn số lao động chưa biết chữ, chưa tốt nghiệp cấp I giảm dần. Số người tốt nghiệp cấp III liên tục tăng trong 3 năm từ 5132100 chiếm 14.13% vào năm 1997 đã lên là 5983500 người chiếm 15.99% vào năm 1998 và năm 1999có 6457600 người chiếm 17.09% . Còn số người chưa tốt nghiệp cấp I liên tục giảm khoảng gần 1% mỗi năm. Tuy nhiên đi vào phân tích cơ cấu tỷ lệ lao động có trình độ văn hoá cấp II, cấp III của nước ta vào năm 1999 vẫn chỉ có 49% so với tổng số lao động, con số này vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực, nhất là Đông á khi họ bước vào công nghiệp hoá đã phổ cập ít nhất là trình độ văn hoá cấp II. Chất lượng nguồn nhân lực không chỉ thể hiện ở trình độ văn hoá mà nó được biểu hiện qua trình độ chuyên môn kỹ thuật bao gồm cả số lượng và chất lượng của lao động đã qua đào tạo. - Hiện trạng trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực Bảng 3: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động thường xuyên Chỉ tiêu 1997 1998 1999 Số người % Số người % Số người % 1.Tổng số lao động 2.Không có CMKT 3. Có CMKT : Công nhân Sơ cấp Trung cấp CĐ- ĐH và trên ĐH 36296.9 31837.3 4459.6 1590.2 546.4 1380.1 942.9 100 87.71 12.29 4.38 1.5 3.8 2.6 37407.2 32431.1 4976.1 1775.9 544.6 1516.4 1139.2 100 86.69 13.31 4.75 1.45 4.01 3.1 37783.8 32542.1 5241.7 1769.2 572.9 1593.6 1306.1 100 86.13 13.87 5.44 1.76 4.9 3.5 Đơn vị : Nghìn người ( Nguồn : Thực trạng lao động và việc làm ở VN 1999 , Nxb TK-HN 2000) Năm 1999 cả nước có 5,24 triệu người thuộc lực lượng lao động thường xuyên có trình độ chuyên môn kỹ thuật, trong đó : Trình độ sơ cấp là 272900 người chiếm 1.76% Trình độ trung cấp có 1593600 người chiếm 4.9% Cao đẳng, đại học và trên đại học có 1306100 người chiếm 3.5% Như vậy, qua số liệu cho thấy xu hướng tăng lên hàng năm của lao động có chuyên môn kỹ thuật từ năm 1997 đến năm 1999 tăng từ 4459600 người lên 5241700, bình quân hàng năm tăng trên 8% . Số tăng thêm chủ yếu là lao động có trình độ cao đẳng, đại học tăng từ 942900 người năm 1997 lên 1306100 người năm 1999. Còn số sơ cấp tăng rất chậm, năm 1997 có 546400 người chiếm 1.5% thì năm 1999 có 572900 người chiếm 1.76%. Như vậy lao động chuyên môn kỹ thuật không nhiều và mất cân đối trong bậc đào tạo. Năm 1999 lực lương lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật mới có 5 triệu người chiếm 13.87% so với lực lượng lao động cả nước. Chúng ta có thể thấy được sự bất hợp lý về trình độ đào tạo qua bảng sau: Bảng 4: Trình độ chuyên môn kỹ thuật lực lượng lao động thường xuyên chia theo khu vực Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Cả nước T.Thị N.Thôn Cả nước T.Thị N.Thôn Tổng số Không có CMKT Có CMKT - CNKT có bằng - CNKT không bằng - CĐ, ĐH và trên ĐH - THCN - Sơ cấp - Khác 36296.9 31837.3 1590.2 742.5 847.8 987.7 1380.1 546.4 15.2 7333.1 4986.5 890.6 434.7 456 712.8 611.8 183.2 8.3 18963.8 26850.8 699.6 307.8 391.8 274.9 768.3 363.2 6.9 37407.3 32431.1 1775.9 807.5 968.4 1139.2 1516.4 544.7 7649.6 5071.2 997 484.4 512.6 749.2 651.1 181.0 29757.7 27359.9 778.9 323.1 455.8 390 865.3 363.7 Đơn vị : Nghìn người ( Nguồn số liệu: Thực trạng lao động việc làm ở VN 1999, Nxb TK-HN 2000) Qua số liệu ta thấy chung cho toàn quốc năm 1997 số người thuộc lực lượng lao động không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 87,71% có chuyên môn kỹ thuật chiếm 12,29%. Trong đó công nhân có bằng và không có bằng và sơ cấp chiếm 5,9%, trung học chuyên nghiệp chiếm 3,85%, cao đẳng đại học và trên đại học 2,55%. ở khu vực thành thị tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo chiếm 32% lớn hơn 2,6 lần so với tỷ lệ chung cả nước. Trong đó lực lượng công nhân kỹ thuật và sơ cấp chiếm 14,65%, trung học chuyên nghiệp chiếm 8,43%, cao đẳng đại học và trên đại học chiếm 8,89% ở khu vực nông thôn tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo chỉ chiếm 7,29% thấp hơn so so với tỷ lệ chung cả nước 5%. Trong đó số có trình độ công nhân kỹ thuật và sơ cấp chiếm 3,66%, trung học chuyên nghiệp chiếm 3,65%, cao đẳng đại học và trên đại học 1,007% . Như vậy mức chenh lệch giữa thành thị và nông thôn về trình độ chuyên môn kỹ thuật còn quá xa mà tỷ lệ lực lượng lao động không có chuyên môn kỹ thuật còn rất cao. Cơ cấu giữa các loại lao động có chuyên môn kỹ thuật biến động theo hướng ngày càng bất hợp lý. Bảng 5: Cơ cấu lực lượng lao động Chỉ tiêu 1989 1997 1999 - Cao đẳng, đại học - Trung học chuyên nghiệp - Công nhân kỹ thuật 1 1,77 2,26 1 1,27 1,71 1 1,27 1,37 Đơn vị : Lần Qua số liệu bảng ta thấy lực lượng lao động đào tạo trình độ đại học, cao đẳng ngày càng tăng trong khi lực lượng lao động công nhân có xu hướng giảm mạnh. Cho nên cơ cấu này càng bất hợp lý vì theo kinh nghiệm của các nước thì cứ một đại học cần bốn kỹ thuật viên và mười công nhân kỹ thuật. Qua nghiên cứu thực trạng về chất lượng nguồn nhân lực ta có thể có những nhận xét sau: Một là, Nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu của công nghiệp hoá hiện đại hoá còn tỏ ra nhiều bất cập. Từ nền kinh tế nông nghiệp phong cách tư duy con người Việt Nam còn mang nặng tính sản xuất thủ công, lạc hậu.Sản xuất và quản lý bằng kinh nghiệm theo kiểu trực giác, lấy thâm niên công tác thể hiện nghề nghiệp và lòng trung thành để đánh giá kết quả lao động và phân chia thu nhập. Lao động chưa được đào tạo và rèn luyện trong môi trường sản xuất công nghiệp nên hiệu suất lao động chưa được đề cao và đánh giá đúng mực. Khi tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại thâm nhập và chuyển giao vào Việt Nam thì mâu thuẫn giữa trình độ lạc hậu của người sử dụng xuất hiện . Hai là, Sự lạc hậu non yếu về trình độ của nguồn nhân lực Việt Nam so với khu vực. Cơ cấu lao động đào tạo của ta thể hiện qua tỷ lệ giữa cán bộ cao đẳng, đại học – trung học – công nhân kỹ thuật là 1-1,27- 1,37 trong khi ở các nước phát triển tỷ lệ này là 1- 4 –10. Điều đó chứng tỏ đội ngũ công nhân kỹ thuật của ta thiếu nghiêm trọng. Trình độ non kém lạc hậu về khoa học công nghệ,tác phong lao động, kỷ luật, sự hiểu biết về kinh tế thị trường, tính tự chịu trách nhiệm cá nhân thấp ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của nguồn nhân lực Việt Nam khi hoà nhập vào thị trường nhân lực của thế giới. Hiện nay nguồn lực dồi dào, giá nhân công rẻ về lâu dài không thể là lợi thế phát triển của việt nam vì lợi thế nhân công rẻ trên thế giới đang dần mất đi và thay thế vào đó là trình độ trí tuệ đồng đều của nhân công và nguồn nhân lực dồi dào trước mắt còn gây sức ép về việc làm, đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng di cư, gây nhiều xáo trộn về xã hội, môi trường tác động đến cơ cấu vùng. Ba là: Nguồn nhân lực việt nam hoạt động trong nền kinh tế thị trường có sự mất cân đối trong việc phân bổ các nghành, các thành phần kinh tế và khu vực. Cơ chế thị trường nó chịu sự vận động của các qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh. Nguồn nhân lực không nằm ngoài sự vận động này nên động lực lợi ích được coi trọng. Nhân lực được phân bố trong các nghành, các vùng, các thành phần không đồng đều. Nơi có thu nhập cao, ổn định, điều kiện lao động thuận lợi thì trình độ nhân lực sẽ được phát triển. Ưu thế này đang thuộc về các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, nghành độc quyền và lĩnh vực có quan hệ kinh tế nước ngoài …lợi thế trong việc thu hút lao động có trình độ cũng là môi trường nảy sinh các quan hệ lao động bất bình đẳng, cho nên cần phải phát huy vai trò điều tiết của nhà nước để điều chỉnh và có định hướng trong việc phát triển nguồn nhân lực. Thực trạng trong việc phân bổ, sử dụng nguồn nhân lực bất cập, thiếu đồng bộ làm tăng thêm mâu thuẫn về cung và cầu nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt là ở nông thôn và các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa thừa lao động giản đơn, thiếu nghiêm trọng lao động có trình độ, càng gây khó khăn cho việc phát triển ở các vùng này. Trong khi nông thôn, vùng sâu vùng xa rất cần nhiều giáo viên cán bộ y tế, bác sỹ những người có trình độ học vấn thì lực lượngnày lại tập trung ở các thành phố lớn, không chịu hoặc khó huy động rời khỏi thành phố đi phục vụ các vùng khác gây ra một sự lãng phí rất lớn cho xã hội. Bốn là: Sự mất cân đối về số lượng và chất lượng, cơ cấu nguồn lực phục vụ cơ khí hoá nông nghiệp nước ta. Nước ta với nền sản xuất nông nghiệp là chính nên việc cơ khí hoá nông nghiệp là con đường tất yếu của công nghiệp hoá nông nghiệp. Vì cơ khí hoá nông nghiệp là quá trình chuyển từ sản xuất thủ công sang sản xuất cơ khí đòi hỏi không chỉ thay thế công cụ sản xuất thô sơ dung sức người sức súc vật bằng máy móc hiện đại, dùng năng lượng, động cơ điện mà điều quan trọng là phải chuẩn bị một nguồn nhân lực có đủ trình độ khoa học kỹ thuật, làm chủ được thiết bị hiện đại và phương thức sản xuất mới cơ khí hoá nông nghiệp. II. Thực trạng về đào tạo nguồn nhân lực hiện nay: Giáo dục trung học chuyên nghiệp : Trong suốt quá trình phát triển giáo dục trung học chuyên nghiệp đã đóng vai trò rất quan trọng cho sự phát triển nguồn nhân lực. Đặc biệt là trong thời gian chiến tranh giáo dục chuyên nghiệp là nguồn cung cấp chính cán bộ chuyên môn cho đất nước. Sau đại hội Đảng VI Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường, hệ thống giáo dục trung học chuyên nghiệp chưa kịp thích ứng với cơ chế mới nên đã gặp phải sự khủng hoảng trầm trọng, quy mô bị thu hẹp, ngành học bị giảm xuống, một số trường bị sát nhập hoặc giải thể, có trường chuyển sang đào tạo công nhân là chủ yếu, chi tiêu đào tạo trung học chuyên nghiệp ít. Quy mô trung học chuyên nghiệp liên tục giảm xuống trong suốt từ giai đoạn 1986 đến nay. Chỉ tiêu 1986-1987 1991-1992 1995-1996 Học sinh 137618 122106 109816 Đơn vị: Người Như vậy, trong suốt 10 năm quy mô giáo dục trung học chuyên nghiệp giảm tới 27800 học sinh. Cùng với sự giảm sút về học sinh thì số trường trung học chuyên nghiệp giảm đi nhanh chóng từ 187 trường năm 1986-1987 xuống còn 253 trường năm 1995-1996 . Hiện tượng này xảy ra do một số nguyên nhân sau: Chất lượng đào tạo chưa phù hợp với thị trường lao động Năng lực đào tạo của hệ thống giáo dục trung học chuyên nghiệp còn hạn chế về đội ngũ giáo viên giảng dạy trình độ chưa cao, phương pháp giảng dạy yếu kém lạc hậu, các cơ sở vật chất kỹ thuật trang bị còn thiếu kém … Cơ cấu ngành đào tạo chưa phù hợp dẫn đến hiện tượng có ngành thiếu cán bộ, có ngành thừa cán bộ. Nhà nước chưa có sự quan tâm thích đáng đến giáo dục trung học chuyên nghiệp như đầu tư cấp vốn, áp dụng các phương pháp dạy mới. Đào tạo đại học, cao đẳng và sau đại học Mặc dù có sự biến động kinh tế xã hội, hệ thống đào tạo đại học, cao đẳng và sau đại học luôn được sự quan tâm của Nhà nước nên đã có sự phát triển liên tục cả về quy mô và chất lượng. Số lượng học sinh tăng rất nhanh, đặc biệt là trong những năm gần đây. Bảng 6: Quy mô đào tạo đại học, cao đẳng Năm học Số lượng ( Người ) Tốc độ tăng quy mô (%) 1994-1995 1995-1996 1996-1997 1997-1998 1998-1999 260000 414183 521752 568321 837960 5,69 59,30 25,97 8,97 47,44 ( Nguồn : Bộ giáo dục và đào tạo ) Chất lượng học sinh tốt nghiệp đại học, cao đẳng dần dần được nâng lên, học sinh sau khi ra trường đã đáp ứng được yêu cầu của công việc. Tuy nhiên do cơ cấu đào tạo theo ngành còn hạn chế nên đã dẫn đến tình trạng nhiều học sinh hoặc các ngành luật, kinh tế và các ngành khoa học xã hội khác không có việc làm trong khi đó lại thiếu ngành kỹ thuật. Đối với đào tạo sau đại học Nhà nước cũng có sự đầu tư, quan tâm thích đáng. Bắt đầu năm 1976 Chính phủ đã có quyết định cho đào tạo sau đại học trong nước. Từ đó đến nay Nhà nước đã thực hiện hàng loạt các chính sách nhằm thúc đẩy hệ thống đào tạo sau đại học: Thực hiện hai cấp đào tạo sau đại học : Thạc sỹ và Tiến sỹ Tiêu chuẩn hoá các ngạch công chức giáo dục đào tạo với công tác bồi dưỡng sau đại học. Thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng sau đại học. Hệ thống giáo dục đào tạo đại học cao đẳng và sau đại học đã có sự phát triển khá mạnh mẽ. Tuy nhiên quá trình đào tạo vẫn còn nhiều hạn chế như nội dung đào tạo chưa gắn sát với thực tế, mất cân đối về ngành nghề đào tạo, chương trình giảng dạy chưa đáp ứng được yêu cầu công việc … Vì vậy những hạn chế này không khắc phục kịp thời sẽ ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực. 3. Đào tạo nghề Để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì đòi hỏi phát triển nguồn nhân lực ở trình độ cao. Do vậy vấn đề đào tạo nghề đóng vai trò hết sức quan trọng. Cũng như giáo dục trung học chuyên nghiệp, quy mô đào tạo liên tục bị giảm sút cả về số lượng học sinh và số trường dạy nghề. Bảng 7: Quy mô đào tạo nghề Chỉ tiêu Đơn vị tính 1986-1987 1991-1992 1995-1996 Số trường nghề Số học sinh Số giáo viên Trường Người Người 296 119783 7143 230 77395 6072 174 79488 5562 ( N._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35031.doc
Tài liệu liên quan