A. lời mở đầu
Q
uá trình chuyển sang kinh tế thị trường và thực hiện CNH-HĐH ở Việt nam là bước chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế và quản lý kinh tế. Yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH cũng đã đặt ra nhiệm vụ to lớn đối với công tác cán bộ, trong đó có công tác quy hoạch cán bộ, khi nói tới vấn đề cán bộ đã có nhiều ý kiến thống nhất rằng con người vừa là chủ thể vừa là đối tượng phục vụ của mọi hoạt động kinh tế xã hội và cũng là nhân tố quyết định sự phát triển xã hội.
Thực t
27 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1376 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế cho thấy, những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh trong thời kỳ gần đây là những quốc gia nghèo về tài nguyên thiên nhiên nhưng giàu về tiềm năng “chất xám”, các nước thành công trong việc đầu tư và khai thác nguồn tài nguyên quý giá đó như Hàn quốc, Nhật bản...
Những công trình nghiên cứu mới nhất đã đi tới kết luận, con người là nguồn vốn lớn nhất, quý nhất của xã hội.
Một nhà kinh tế học phương tây đã có nhận định: tài sản lớn nhất của công ty hiện nay, không phải là các lâu đài công xưởng mà chính là những cái nằm trong vỏ não của các nhân viên.
Như vậy, rõ ràng con người đặc biệt là tri thức của họ đã trở thành nguồn lực quan trọng nhất của sự nghiệp phát triển.
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, thực hiện CNH-HĐH và mở cửa nền kinh tế thì điều kiện tiên quyết là phải có đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ cao, có bản lĩnh vững vàng trước những thời cơ, thách thức trong quá trình phát triển. Qua các kỳ đại hội, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chiến lược của công tác cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ trước hết là cán bộ chủ chốt có bản lĩnh chính trị, có trình độ chuyên môn cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô là một bộ phận của công tác cán bộ, đảm bảo thành công của sự nghiệp đổi mới. Đại hội lần thứ VI đã xây dựng chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 chỉ rõ “Đổi mới căn bản công tác cán bộ quản lý phải phù hợp với cơ chế mới”.
Từ nhận thức trên, nên trong bài viết này em cũng xin mạnh dạn đề cập đến vấn đề “Đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở Việt Nam” nhằm mục đích nhìn nhận vào thực trạng của việc đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô và đưa ra một số giải pháp đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô.
Vì khả năng và trình độ nhận thức còn nhiều hạn chế nên bài viết của em không thể không có thiếu sót. Em rất mong nhận được sự bổ khuyết của các thầy cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
B. lý luận, thực trạng và
giải pháp
chương I:
Sự cần thiết đối với cán bộ quản lý kinh tế và đào tạo
nâng cao chất lượng cán bộ quản lý
kinh tế vĩ mô ở nước ta
I. cơ sở lý luận:
T
ừ sau đại hội Đảng lần thứ VI (1986) nền kinh tế nước ta từng bước chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Sự chuyển đổi sang mô hình kinh tế mới đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế tương ứng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý nòng cốt - (cán bộ quản lý cấp cao và các chính khách kinh tế hay cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô).
Vậy cán bộ quản lý kinh tế là gì? cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô là gì?
Theo một số tài liệu thì:
1. Cán bộ quản lý kinh tế :
Là người làm lao động quản lý kinh tế và là một trong những yếu tố chủ yếu của hệ thống quản lý, người làm công tác quản lý kinh tế có 3 loại cán bộ kỹ thuật, nhân viên giúp việc và nhà quản lý.
Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô là một bộ phận của đội ngũ công chức nhà ước, làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế, tham gia hoạch định các chính sách kinh tế và thực hiện quản lý Nhà nước các hoạt động kinh tế trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân hoặc trong từng địa phương, từng vùng lãnh thổ.
2. Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có thể cụ thể hoá thành 2 loại là các chính khách kinh tế và các nhà điều hành quản lý cấp cao:
Mô hình:
Các nhà quản
lý kinh tế
QLKT Vĩ mô QLKT Vi mô
(CBLĐ cấp cao) (Các nhà QLDN)
Các chính Các nhà điều
khách KT hành QL C.Cao
2.1. Các chính khách kinh tế:
Là những người nắm giữ các bộ phận quyền lực Nhà nước, chịu trách nhiệm trong việc hoạch định đường lối, chủ trương, chiến lược, chính sách phát triển kinh tế đất nước và giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương, chiến lược, chính sách phát triển kinh tế đã vạch ra. Các chính khách kinh tế là các nhân vật có vị thế quan trọng trong xã hội đương thời (bao gồm cả các nhân vật trong chính quyền và các nhân vật của các tổ chức và đoàn thể lớn trong xã hội). Thông thường theo thiết kế của các xã hội hiện nay, các chính khách kinh tế là những người đứng đầu cơ quan quyền lực xã hội và các thành viên của cơ quan này (bộ trưởng, người lãnh đạo cấp tỉnh, thành phố) thực thi nhiệm vụ lãnh đạo các hoạt động quản lý kinh tế với vai trò là người điều hành cuộc chơi trong kinh tế.
2.2. Các nhà điều hành quản lý cấp cao:
Đó là các cá nhân trực tiếp vận hành các hoạt động quản lý, biến đường lối, chủ trương, chiến lược và chính sách phát triển kinh tế thành hiện thực. Các nhà điều hành quản lý cấp cao thường là những người đứng đầu cơ quan quyền lực Nhà nước.
Theo thiết chế xã hội hiện nay, ở nhiều nước chính khách kinh tế đồng thời là nhà điều hành quản lý cấp cao. ở nước ta hiện nay, thực hiện cơ thế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, thì phần nhiều chính khách kinh tế và nhà điều hành quản lý cấp cao ở một hệ thống thường là 2 thực thể khác nhau.
II. Vai trò của cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô
đối với CNH-HĐH ở nước ta:
1. Vai trò của quản lý kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường:
Quản lý kinh tế vĩ mô thực chất là nói đến vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế. Mô hình kinh tế phổ biến trên thế giới hiện là kinh tế hỗn hợp trong đó Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc điều tiết, quản lý các hoạt động của nền kinh tế quốc dân thông qua hệ thống các chính sách và công cụ quản lý kinh tế vĩ mô.
- Nhà nước thiết lập khung khuôn khổ luật pháp thống nhất để tạo môi trường chung cho các thị trường hoạt động.
- Khắc phục các khuyết tật của thị trường để tạo cho cơ chế thị trường hoạt động có hiệu quả thông qua chính sách kinh tế vĩ mô, xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Đảm bảo công bằng xã hội thông qua việc phân bổ các nguồn lực, phân phối thu nhập giữa các tầng lớp, các nhóm dân cư trong xã hội.
- ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn chặn và kiềm chế lạm phát, thất nghiệp, thực hiện các biện pháp kiểm soát, giám sát, sử dụng các công cụ thuế để điều tiết các hoạt động kinh tế.
Trong điều kiện ở nước ta, để đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội đã đề ra, quản lý kinh tế vĩ mô càng có vị trí quan trọng hơn bao giờ hết và vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước ta trong cơ chế mới thể hiện ở những điểm sau:
- Nhà nước xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển phù hợp với điều kiện KT-XH nước ta theo các mục tiêu đề ra và mong đạt được.
+ Nhà nước chủ động điều tiết các doanh nghiệp nhằm tạo ra sự thống nhất giữa các lợi ích của quốc gia.
+ Nhà nước hoạch định các chương trình phát triển KT-XH, thông qua đó thực hiện chiến lược phát triển KT-XH, dẫn dắt các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế đi đúng hướng đã chọn, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế để nhanh chóng hội nhập với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới.
- Tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh
+ Xây dựng kết cấu hạ tầng thuận lợi, có chính sách để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.
+ Quyết định và bảo đảm các quyền tạo điều kiện cho các hoạt động sản xuất kinh doanh như các quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ và ổn định...
- Thực hiện các chính sách phân phối thu nhập công bằng, hiệu quả, tạo động lực cho sản xuất phát triển.
- Phân phối hợp lý các nguồn lực và quản lý sử dụ ng có hiệu quả tài sản quốc gia.
2. Vai trò của cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở nước ta:
Trong một hệ thống kinh tế hoạt động thành công hay thất bại phụ thuộc rất nhiều vào người cán bộ quản lý kinh tế. Nói cách khác trong hệ thống thì người cán bộ quản lý giữ vai trò quyết định sự thành công hay thất bại của hoạt động kinh tế.
Cán bộ quản lý ở tầm vĩ mô chính là người vận hành, điều khiển và thực thi trong bộ máy đó. Nói cách khác, tính hiệu quả của hệ thống các chính sách và công cụ quản lý kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào 2 điều kiệncơ bản
1. Cơ chế vận hành của nền kinh tế
2. Khả năng và trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý
Hai yếu tố này có mối quan hệ tương tác và có liên quan tới hàng loạt các nhân tố KT-XH trong đó khả năng và trình độ đội ngũ cán bộ quản lý đóng vai trò quyết định nhất.
Để thực hiện được mục tiêu mà đại hội đảng VIII đã xác định, đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô nói riêng có vai trò quyết định và nó được thể hiện tập trung trên các mặt chủ yếu sau:
- Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có vai trò quyết định trong việc xây dựng đúng đắn đường lối, chiến lược, chủ trương, định hướng kế hoạch phát triển kinh tế, chính sách, cơ chế quản lý kinh tế và hệ thống pháp luật kinh tế trong toàn bộ đất nước, trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương.
- Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có vai trò quyết định trong việc tổ chức bộ máy và lựa chọn cán bộ để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quản lý trong thời kỳ tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH.
- Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có vai trò quyết định trong việc chỉ huy và điều hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ các hoạt động trong quá trình phát triển kinh tế và quản lý kinh tế ở phạm vi cả nước, từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương.
- Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có vai trò quyết định trong việc thường xuyên phối kết hợp các quá trình quản lý kinh tế để điều chỉnh kịp thời những mặt cân đối, những mâu thuẫn phát sinh.
- Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có vai trò quyết định trong việc kiểm tra và kiểm soát quá trình phát triển kinh tế và quản lý kinh tế. Trong đổi mới kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế, công tác kiểm tra, kiểm soát đặc biệt là kiểm tra, kiểm soát trong lĩnh vực kinh tế tài chính có vị trí rất quan trọng, không có kiểm tra, kiểm soát thì không có quản lý kinh tế vĩ mô.
Đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô thì những người đứng đầu các cấp và những chuyên gia đầu ngành luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
III. Tiêu chuẩn đối với cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô
trong giai đoạn mới:
1. Phẩm chất chính trị:
- Có ý chí và có khả năng làm giàu cho hệ thống, cho xã hội và cho bản thân.
- Biết giao đúng việc cho cấp dưới và tạo điều kiện cho thực hiện thành công (để cấp dưới luôn luôn có thành tích, để họ hồ hởi, tích cực làm việc).
- Biết lường trước mọi tình huống có thể xảy ra cho hệ thống và có giải pháp, giải quyết đúng đắn.
- Biết dồn tiền lực vào các khâu xung yếu của hệ thống, biết tận dụng các thời cơ có lợi.
2. Năng lực tổ chức:
- Có óc quan sát để biết được và nắm được cả cái tổng quát và cái chi tiết, để tổ chức cho hệ thống mà mình phụ trách. Biết mình phải làm cái gì và làm cái đó như thế nào.
- Biết sử dụng con người có hiệu quả, biết cách tiếp cận với con người, phải chan hoà, cởi mở, chân thành, trung thực.
- Tháo vát, có sáng kiến và không chịu bó tay trước mọi khó khăn.
- Dám chịu trách nhiệm
- Dũng cảm, lạc quan, có khả năng dám chịu mạo hiểm
- Biết tâm trạng của tập thể và hoàn cảnh của cán bộ cấp dưới.
- Có ngoại hình khả dĩ
3. Phương pháp tư duy khoa học để quan sát phân tích và giải quyết vấn đề:
- Nhạy cảm với cái mới
- Có tư duy hệ thống
- Có tư duy phục thiện (có sai biết nhận, dám tự phủ định bản thân nếu đã trở thành lạc hậu).
- Biết dùng người giúp việc
- Có khả năng ra quyết định...
4. Đạo đức công tác:
- Vững vàng, tự chủ, kiên định lập trường quan điểm
- Công bằng, công tâm, có tính đồng loại
- Có văn hoá và biết tôn trọng con người
- Có thiện chí với con người, không làm điều ác cho con người
Trong các yêu cầu nói trên thì mức độ quan trọng của từng yêu cầu đối với từng loại cán bộ quản lý kinh tế là có khác nhau. Đối với cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô thì những phẩm chất được đào tạo và năng lực là các yêu cầu quan trọng hơn vì nó vừa là tiêu chuẩn, vừa là giá trị bên trong của con người, nó là thước đo năng lực thực tế và phẩm chất tư tưởng của cán bộ quản lý. Tuy nhiên trong công tác quy hoạch cán bộ, việc lựa chọn, sử dụng, đào tạo,bồi dưỡng cán bộ cần phải căn cứ vào một tiêu chuẩn nữa đó là triển vọng, tức là khả năng cống hiến tiếp theo của cán bộ. Trong công tác quy hoạch cán bộ cần chú ý việc sắp xếp, bố trí cán bộ không chỉ là vấn đề tuổi tác,sức khoẻ và khả năng thích ứng của mỗi con người. Chính điều đó là cơ sở để xem xét, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho phù hợp với điều kiện thực tiễn.
IV. Sự cần thiết phải đào tạo và nâng cao chất lượng
cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô:
1. Đặc điểm đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở nước ta hiện nay:
- Sau nhiều năm đổi mới, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô đã có những bước phát triển quan trọng về số lượng, chất lượng, trình độ chuyên môn.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, đổi mới kinh tế, cán bộ quản lý kinh tế đã tích lũy được những kinh nghiệm cần thiết để tiếp tục phát huy cao hơn trong thời kỳ mới - thời kỳ tiếp tục sự nghiệp đổi mới đồng bộ, sâu sắc, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước về mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng và văn minh, vững bước đi lên CNXH. Trong những điều kiện và hoàn cảnh nói trên, đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ lãnh đạo và quản lý kinh tế vĩ mô các cấp nói riêng, đã được thử thách và trưởng thành cả về số lượng và chất lượng. Có thể nói, số đông cán bộ lãnh đạo và quản lý kinh tế vĩ mô đã vì sự nghiệp chung của đất nước, của dân tộc, đoàn kết xung quanh Ban chấp hành trung ương Đảng, Bộ Chính trị thống nhất về đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và lối sống lành mạnh, thích nghi nhanh với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
Kiến thức, kinh nghiệm, trình độ và năng lực thực tiễn trong lãnh đạo, quản lý kinh tế vĩ mô được nâng lên một bước mới. Trong những năm đổi mới, tiêu chuẩn cơ cấu đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô cũng từng bước được hoàn thiện và phù hợp với yêu cầu đổi mới kinh tế xã hội của đất nước. Tỷ lệ đội ngũ cán bộ trẻ có trình độ đã được tăng lên, cơ cấu nam nữ, vùng miền, dân tộc tôn giáo, công, nông, binh, tri thức... đã được quan tâm nhiều hơn trong việc xây dựng cán bộ chủ chốt của hệ thống quản lý kinh tế vĩ mô. Sự phát triển mới của đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô trong thời gian qua đã thực sự là nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước.
- Tuy nhiên đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở nước ta hiện nay còn bộc lộ một số khuyết điểm, yếu kém đáng quan tâm:
Trong những năm qua trong số đông cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô đã được đào tạo và bồi dưỡng lại những kiến thức và kinh nghiệm về quản lý kinh tế thị trường vẫn còn nhiều hạn chế, nên trong hoạt động thực tiễn nhiều người còn lúng túng, làm ăn với nước ngoài bị thua thiệt, thậm chí có một bộ phận bị lừa đảo, bị lôi cuốn, biến chất và sa đoạ vì đồng tiền và lợi ích cá nhân bất chính, làm tổn hại không nhỏ đến nền kinh tế, cho hệ thống Nhà nước. Đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế trẻ tuy được đào tạo có hệ thống trong cơ chế mới đã tỏ ra có năng lực, nhanh nhẹn, năng động hơn nhưng chưa được thử thách, rèn luyện và chưa có nhiều về kinh nghiệm thực tiễn, dễ nóng vội, thiếu thận trọng và còn những biểu hiện tuỳ tiện trong hoạt động quản lý kinh tế.
Cơ cấu đội ngũ cán bộ hiện còn chưa có sự đồng bộ như cán bộ cao tuổi còn chiếm tỉ trọng lớn nhất là cán bộ lãnh đạo và quản lý kinh tế vĩ mô.
Đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt ở vùng sâu, xa, miền núi, vừng căn cứ cách mạng vừa thiếu về số lượng, vừa thấp về trình độ văn hoá, lý luận, chuyên môn về quản lý kinh tế vĩ mô.
Tỷ trọng cán bộ nữ là lãnh đạo và quản lý trong các cơ quan Nhà nước về kinh tế còn thấp trong khi nữ chiếm 50% dân số cả nước.
Tiêu chuẩn chung, tiêu chuẩn cơ bản của đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô tuy đã được hình thành nhưng chưa được cụ thể hoá cho từng cấp, ngành, từng lĩnh vực và từng loại chức danh, chưa có cơ sở pháp lý cho việc đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, sử dụng, đánh giá cán bộ. Do đó làm cho một bộ phận cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ỷ lại không chịu phấn đấu, vươn lên để nâng cao trình độ chuyên môn và rèn luyện phẩm chất, bản lĩnh chính trị theo tiêu chuẩn quy định. Vậy có thể khẳng định đội ngũ cán bộ hiện còn bất cập về trình độ so với đòi hỏi của công cuộc tiếp tục đổi mới kinh tế, đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH ở Việt nam trong tương lai.
2. Một số quan điểm cơ bản về xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế trong những năm đổi mới:
Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế trong những năm tới là vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn. Từ trước đến nay đã có nhiều quan điểm được đưa ra nhằm mục đích xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế trong những năm đổi mới được hữu hiệu trong đó những quan điểm sau đây được coi là hiệu quả hơn cả:
- Phải luôn nắm vững quan điểm và nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác cán bộ và xây dựng quy hoạch cán bộ nói chung, cán bộ quản lý kinh tế nói riêng.
- Cần chăm lo đến tính đồng bộ của đội ngũ cán bộ, phải hết sức coi trọng và tập trung xây dựng tốt đội ngũ cán bộ chủ chốt, trước hết là người đứng đầu về quản lý kinh tế vĩ mô ở từng cấp và đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược về quản lý kinh tế vĩ mô.
- Cần có quan điểm, phương pháp đánh giá, sử dụng cán bộ một cách khoa học và khách quan, công tâm. Đánh giá đúng cán bộ và bố trí sử dụng đúng cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô là vấn đề khó khăn phức tạp và quan trọng nhất. Khi đánh giá phải có quan điểm đúng và phải theo tiêu chuẩn quy định, căn cứ vào kết quả và hiệu quả hoạt động của cán bộ, xét đến một cách đầy đủ, hoàn cảnh và điều kiện hoạt động của cán bộ.
- Cần thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ bằng việc thể chế hoá thành các quy chế, quy định, quy trình và chỉ đạo thực hiện một cách chặt chẽ việc xây dựng đội ngũ cán bộ.
- Phải làm rõ trách nhiệm, quyền hạn và quyền lợi của cán bộ trong từng thời kỳ. Cả 3 mặt này có quan hệ chặt chẽ với nhau, trách nhiệm rõ phải có quyền để thực hiện, khi thực hiện trách nhiệm tốt phải đảm bảo quyền lợi về vật chất và tinh thần đúng mực.
- Trong công tác cán bộ phải kết hợp chặt chẽ giữa trước mắt và lâu dài, kế thừa và phát triển nhằm đảm bảo kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng một cách vững vàng.
3. Yêu cầu cấp thiết đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô:
Nền kinh tế nước ta đang bước sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH thực hiện mục tiêu chiến lược đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, công tác đào tạo cán bộ trong đó có cán bộ quản lý kinh tế có đủ phẩm chất và năng lực, nắm bắt được công nghệ quản lý kinh tế hiện đại và vận dụng thích ứng vào điều kiện cụ thể ở nước ta là một trong những khâu có ý nghĩa quyết định.
ở nước ta hiện nay, công tác đào tạo cán bộ quản lý nói chung và đào tạo cán bộ quản lý kinh tế nói riêng đang đứng trước những mâu thuẫn gay gắt:
Thứ nhất: Yêu cầu từng quy mô với việc bảo đảm chất lượng và hiệu quả đào tạo.
Thứ hai: đào tạo cán bộ quản lý kinh tế có chất lượng cao với sự hạn hẹp về tài chính và đội ngũ giáo viên có trình độ cao.
Thứ ba: sự cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu ngành giáo dục và thị hiếu tập trung vào một số ít ngành nghề của người học.
Chính từ thực tế như vậy cho nên trong những năm gần đây, nhu cầu đào tạo cán bộ quản lý kinh tế ở nước ta tăng lên rất nhanh, nhiều trường đại học và cao đẳng kinh tế đã mở rộng quy mô đào tạo. Sự tăng nhanh về quy mô đào tạo ở các trường kinh tế đã góp phần từng bước khắc phục osự thiếu hụt về số lượng cán bộ quản lý kinh tế. tuy nhiên điều này lại đang làm xuất hiện mâu thuẫn trong việc bảo đảm chất lượng đào tạo do hạn chế về tài chính và năng lực nội sinh của các cơ quan đào tạo và trưởng thành từ trong thời kỳ nền kinh tế vận hành theo mô hình kế hoạch hoá tập trung. Trong quá trình đổi mới, một bộ phận khá lớn cán bộ quản lý kinh tế đã được đào tạo và đào tạo lại, bồi dưỡng kiến thức về kinh tế thị trường. Tuy nhiên trước yêu cầu tiếp tục đổi mới và hội nhập trong giai đoạn hiện nay, đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ quản lý kinh tế nói riêng xét về số lượng, chất lượng và cơ cấu có nhiều mặt chưa ngang tầm với sự nghiệp CNH-HĐH.
chương II:
thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô
và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế
vĩ mô ở nước ta hiện nay.
I. Thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô
ở nước ta hiện nay:
Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô đã được rèn luyện và trưởng thành. Trong điều kiện biến động mạnh và phức tạp của tình hình dân tộc, quốc tế, những thử thách gay go của đất nước trong những năm cuối thập kỷ 90, nhìn chung đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng và kiên định con đường XHCN mà Đảng đã vạch ra.
Đã có chuyển biến mọi mặt về trình độ, năng lực, thông qua việc học tập,bồi dưỡng và hoạt động thực tiễn, làm quen và thích ứng với cơ chế quản lý mới. Đặc biệt ở các thành phố lớn, lực lượng cán bộ có trình độ cao về chuyên môn, lý luận chính trị tăng đáng kể, ở các tỉnh miền núi lãnh đạo chủ chốt và phần đông cán bộ đã có ý thức được tầm quan trọng của việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của địa phương.
Những năm qua đội ngũ cán bộ có sự ổn định tương đối về biên chế. Hầu hết các địa phương, với sự giúp đỡ của trung ương đã tiến hành thực hiện công việc đào tạo lại và bồi dưỡng cán bộ có quy mô đáng kể.
Bên cạnh những mặt mạnh và ưu điểm cơ bản nêu trên, đội ngũ cán bộ quản lí kinh tế vĩ mô ở nước ta còn đang bộc lộ một số hạn chế sau:
Thứ nhất: Tình trạng “vừa thừa, vừa thiếu” đang diễn ra khá phổ biến nhất là cán bộ quản lý nhà nước ở các bộ, ban, ngành trung ương và địa phương. Thừa cán bộ chưa được đào tạo về quản lý kinh tế thích ứng với kinh tế thị trường và thiếu cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu quản lý kinh tế của nền kinh tế đang chuyển đổi. Theo kết quả điều tra năm 1997 của Viện Nghiên cứu kinh tế và phát triển - Đại học KTQD trong số 200 cán bộ quản lý kinh tế thuộc10 bộ và cơ quan ngang bộ được hỏi có 60% ý kiến cho rằng cán bộ quản lý kinh tế của ta hiện đang trong tình trạng thiếu, 20% ý kiến cho rằng đội ngũ này đang trong tình trạng thừa và 20% cho rằng vừa thiếu vừa thừa.
Thứ hai: Một số lượng khá lớn cán bộ đang làm nhiệm vụ quản lý kinh tế chưa được đào tạo một cách cơ bản và có hệ thống về quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Kết quả điều tra chi tiết về đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở 10 bộ, cơ quan ngang bộ và 10 tỉnh thành trong cả nước cho thấy có 65% số cán bộ quản lý kinh tế ở cấp bộ được đào tạo trước năm 1989 trong đó có khoảng 30% chưa được đào tạo lại, khoảng 60% số cán bộ quản lý kinh tế ở cấp bộ có trình độ lý luận sơ cấp và chỉ có gần 5% có trình độ lý luận cao cấp. 89% cán bộ quản lý kinh tế >45 tuổi không biết sử dụng máy vi tính và chỉ có 9,5% biết tiếng Anh có trình độ trên C. ở các sở, ban, ngành cấp tỉnh có 52,8% số cán bộ quản lý kinh tế được đào tạo từ trước năm 1989 và có một bộ phận khá lớn chưa qua đaò tạo, bồi dưỡng kiến thức kinh tế thị trường, chỉ có 54% số cán bộ quản lý kinh tế các sở, ban, ngành thuộc 10 tỉnh, thành phố đã được đào tạo từ các trường kinh tế. Số cán bộ được đào tạo ở các lĩnh vực khác (khoa học kỹ thuật, khoa học cơ bản...) chiếm 46% và đang cần tiếp tục bồi dưỡng kiến thức về quản lý kinh tế.
Thứ ba: Cơ cấu cán bộ quản lý kinh tế đang có sự mất cân đối lớn xét cả về độ tuổi và giới tính, lẫn sự phân bổ theo ngành nghề, theo vùng, giữa cấp chiến lược hoạch định chính sách và cấp trực tiếp quản lý kinh doanh ở các doanh nghiệp. Số liệu điều tra 10 bộ cho thấy có gần 50% cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có độ tuổi > 45 tuổi, chỉ 1/5 số cán bộ dưới 35 tuổi, tuổi bình quân là 46 tuổi, cán bộ trẻ nhất (45 tuổi cao nhất. Tỷ lệ này ở Bộ Công nghiệp là 76% và Bộ Nông nghiệp-PTNT là 69%. Đến năm 2005 có khoảng 80% số cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô hiện nay đến tuổi nghỉ hưu. Sự già hoá của đội đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế sẽ gây nên tình trạng hẫng hụt cán bộ quản lý kinh tế kế cận
ở nhiều tỉnh miền núi, cán bộ quản lý kinh tế là người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ rất thấp và phần lớn chưa được qua đào tạo về quản lý kinh tế. ở Đắc lắc chỉ có 1 trong 475 cán bộ quản lý ở cấp tỉnh và huyện là người dân tộc thiểu số có trình độ từ cao đẳng trở lên. ở Lào cai có tới 49% cán bộ là người dân tộc chưa qua đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ.
Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô hiện nay chủ yếu là nam, nữ chiếm bộ phận thiểu số. Tuy nhiên tuỳ theo chức năng nhiệm vụ cụ thể thì tỷ lệ nam nữ cũng cao thấp khác nhau: tỷ lệ nam bình quân chiếm trên 65%, nữ chỉ có khoảng 34%. Tỷ lệ nam cao nhất là ở Bộ Thương mại (81%) và tỷ lệ nữ cao đông nhất là ở Ngân hàng Nhà nước (48%).
Thứ tư: Công tác đào tạo cán bộ nói chung và cán bộ quản lý kinh tế nói riêng chưa gắn với quy hoạch cán bộ. Hơn nữa, việc bố trí sử dụng cán bộ chưa thật hợp lý và trong nhiều trường hợp còn nặng về cơ cấu, thiếu mạnh dạn đề bạt cán bộ trẻ, chưa có giải pháp cụ thể để thực sự khuyến khích những cán bộ có năng lực và chưa mạnh dạn bố trí, sắp xếp lại hoặc đưa ra khỏi biên chế những cán bộ không còn đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mới.
II. Thực trạng đào tạo cán bộ quản lý kinh tế
vĩ mô ở Việt Nam hiện nay:
Hiện nay ở nước ta việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế trước hết tập trung vào cán bộ quản lý Nhà nước về kinh tế vì đội ngũ này vừa có vai trò quyết định trong việc xây dựng cơ chế vận hành mô hình kinh tế mới, vừa là người nghiên cứu, hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, sử dụng các chính sách và công cụ quản lý kinh tế để điều tiết quản lý các hoạt động kinh tế trên bình diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vậy để đáp ứng yêu cầu tiếp tục đổi mới và hội nhập hiện nay đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý tầm vĩ mô đủ về số lượng, mạnh về chất lượng và có cơ cấu hợp lý. Ngoài các tiêu chuẩn chung mà Đại hội Trung ương (Khoá 8) đã đề ra. Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô phải hiểu biết sâu sắc đường lối, quan điểm kinh tế của Đảng, có kiến thức về kinh tế thị trường, có khả năng đề xuất, hoạch định các cơ sở kinh tế và sử dụng các công cụ quản lý kinh tế để quản lý, điều tiết các hoạt động của nền kinh tế quốc dân phát triển theo các mục tiêu Kinh tế - Xã hội mà Đảng đã vạch ra.
Nhận thức rõ vai trò của cán bộ quản lý kinh tế như trên nên Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp đào tạo cán bộ quản lý kinh tế. Tuy nhiên cũng vẫn còn những hạn chế.
1- Chúng ta đã xây dựng được 1 hệ thống các cơ sở đào tạo đại học và trên đại học về kinh tế trên phạm vi cả nước với số lượng ngày càng tăng:
Cụ thể các trường công lập nước ta từ trường đại học tài chính tế toán thành phố Hồ Chí Minh sát nhập với trường ĐHKT thành phố để trở thành thành viên mới của đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Còn các trường khác vẫn giữ nguyên. Tuy nhiên quy mô đào tạo của từng trường đã được mở rộng ra rất nhiều so với trước, thông thường là tăng khoảng 10 lần.
Các khoa kinh tế của các trường Đại học kỹ thuật cũng có sự mở rộng quy mô đào tạo, thường gia tăng từ 4-5 lần so với trước.
Việc đào tạo cán bộ quản lý kinh tế dường như được tiến hành ở tất cả các trung tâm hoặc các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các tỉnh, thành phố trong cả nước. Tuy nhiên nét đặc trưng nhất của hệ thống các cơ sở đào tạo cán bộ quản lý kinh tế hiện nay là cùng với sự ra đời của nền kinh tế nhiều thành phần, các trường đại học dân lập mở ra khá nhiều, cho đến nay cả nước đã có trên 15 trường đại học dân lập được thành lập. Các trường này được tập trung ở 3 thành phố lớn là: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Điều đáng quan tâm là phần lớn các trường đại học dân lập đều có đào tạo về kinh tế.
Ngoài ra viện đại học mở Hà nội, đại học mở bán công thành phố HCM cũng là 2 cơ sở đào tạo cán bộ quản lý quy mô nhỏ.
Bên cạnh các trường đại học còn có nhiều trường Cao đẳng kỹ thuật, các ngành, các địa phương cũng tham gia vào việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế.
Việc mở rộng một cách ồ ạt các cơ sở đào tạo kỹ thuật bậc đại học thuộc mọi thành phần có mặt tốt là tạo điều kiện cho nhiều người được tham gia học tập và cũng nhanh chóng tạo ra cho đất nước một đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế đông đảo. Tuy nhiên cũng có mặt không tốt trong đó quan trọng nhất là khó bảo đảm được chất lượng của đội ngũ cán bộ đào tạo ra.
Chúng ta biết rằng chất lượng đào tạo đại học nói chung, đại học kinh tế nói riêng, phụ thuộc rất nhiều yếu tố: Điều kiện học tập, tham khảo tài liệu, khảo sát thực tế, điều kiện ăn ở sinh hoạt... Song quyết định nhất vẫn là đội ngũ thày giáo tốt. Nhưng trong thời gian qua, các cơ sở đào tạo đại học kinh tế được mở ra rất nhiều, song các điều kiện để đảm bảo cho việc dạy và học tốt thì không bảo đảm. Qua số liệu điều tra của về số lượng giáo viên và sinh viên ở một số trường đại học kinh tế năm 1995-1996 của Viện nghiên cứu kinh tế và đại học KTQD thì ta đánh giá được hiện tượng có thể nói là chảy máu chất xám từ các trường công lập sang các trường dân lập.
Tên trường
Số giảng viên
Số sinh viên
Số sinh viên
hiện có
đang học
tuyển năm 1995
1. ĐHKTQD Hà Nội
419
19.543
5.584
2. Viện ĐH mở Hà Nội
36
19.844
1.695
3. ĐH Dân lập P. Đông
14
3.169
2.470
4. ĐH Dân lập Đ. Đô
24
1.774
1.174
5. ĐH Dân lập T.Long
56
5.737
5.737
Ta thấy Đại học kinh tế quốc dân có số giáo viện hiện có gấp 12,5 lần giáo viên đại học mở nhưng số sinh viên đang học lại ít hơn 301 người hoặc so với đại học dân lập Phương đông số giáo viện hiện có của đại học kinh tế quốc dân nhiều hơn 32 lần nhưng số sinh viên đang học chỉ hơn 6,16 lần.
Điều này càng khẳng định là có sự chảy máu chất xám từ các trường công lập sang trường dân lập.
2 - Cơ sở vật chất kỹ thuật của các trường đại học kinh tế:
Ngày nay đã được nâng cấp và ngày càng được quan tâm. Các trường Đại học kinh tế ở nước ta (Chủ yếu là các trường quốc lập) ở phía Bắc được xây dựng cách đây trên 40 năm, ở phía Nam trên 20 năm. Trong những năm vừa qua nhất là từ năm 1991 trở lại đây nhờ sự quan tâm đầu tư của Nhà nước và sự nỗ lực của từng trường, một số bộ phận của cơ sở vật chất các trường đã có sự thay đổi vật chất và nâng cấp phục vụ ngày càng tốt hơn công tác giảng dạy của thày và học tập của sinh viên trong nhà trường.
- Chỗ làm việc của các khoa, các bộ môn trực thuộc cũng như các phòng ban, các trung tâm đã được nâng cấp nhiều so với trước. Các cơ sở này đã được trang bị thêm máy vi tính, ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0198.doc