I – Phần Mở đầu
I. 1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong những năm gần đây ở Việt Nam, quá trình chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp diễn ra nhanh chóng, thể hiện tốc độ đô thị hóa cao. Theo số liệu thống kê, trong giai đoạn 2000-2006, diện tích đất nông nghiệp đã được thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp trên 15.000 ha, cụm công nghiệp trên 24.000ha, xây dựng đô thị trên 70.000 ha, xây dựng hạ tầng trên 136.000ha. Việc thu hồi đất này đã ảnh hưởng đến đời sống của khoảng 2,5 triệu nông
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1359 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Đánh giá việc thực hiện giá đất bồi thường ở một số dự án trên địa bàn quận Long Biên, Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dân Việt Nam. Mỗi hécta đất nông nghiệp thu hồi ảnh hưởng tới việc làm của trên 10 lao động nông nghiệp. Chuyển đổi đất nông nghiệp là việc làm cần thiết để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhưng, trên thực tế, quá trình này đã và đang gây ra nhiều tác động tiêu cực đến người dân, đặc biệt là những người nông dân các vùng ven đô thị - khu vực đang trong quá trình đô thị hóa mạnh, như: gia tăng tỷ lệ người thất nghiệp, mất ổn định an ninh trật tự, suy giảm nghề thủ công truyền thống. Người dân có thể giàu lên trong phút chốc rồi lại nghèo đi vì không biết cách sử dụng tiền bồi thường hợp lý. Trong những năm vừa qua, một loạt các tờ báo lớn và có uy tín của Việt Nam như VTV, Báo Hà Nội mới, Báo Tuổi trẻ, Báo Lao động, Báo Nhân dân,… đều liên tục đăng tải những tin tức liên quan về những khó khăn gặp phải của người nông dân sau thu hồi đất nông nghiệp và việc bồi thường đất chưa hợp lý của các dự án. Trong đợt kiểm tra của Bộ Tài nguyên - Môi trường năm 2007, có tới 70% trong số 17.480 đơn, thư khiếu nại của người dân tố cáo về công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng khi bị thu hồi đất, hoặc hỗ trợ tiền cho người dân chuyển đổi nghề nghiệp.
Từ năm 2000 đến nay, toàn Thành phố Hà Nội đã có 1148 dự án được bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư tương ứng với 7.098ha đất, liên quan đến 173.725 hộ dân, trong đó có 67.600 hộ là nông dân. Trong giai đoạn 2005-2010, Hà Nội sẽ thu hồi khoảng 8.500 ha đất với số lao động nông nghiệp phải chuyển đổi nghề có thể lên đến 25 vạn người. Số lượng người đã, đang và sẽ bị ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất nông nghiệp ở Hà Nội không hề nhỏ.
Quận Long Biên thuộc Thành phố Hà Nội là một Quận mới thành lập theo Nghị định số 132/2003/NĐ-CP ngày 06/11/2003 của Chính phủ với tổng diện tích tự nhiên là 5.993,03 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp là 1.904,91ha, đất phi nông nghiệp là 3.947,27 ha, dân số của Quận là 222.378 người, do vậy việc phát triển kinh tế của Quận vẫn dựa chủ yếu vào phát triển kinh tế nông nghiệp là chính, mà phát triển kinh tế này các hộ phụ thuộc phần lớn vào hoạt động sản xuất nông nghiệp .
Hiện nay, trên toàn địa bàn Quận với nhiều dự án lớn đang triển khai với 95 dự án trong đó có 62 dự án có quyết định thu hồi đất của Thành phố và 33 dự án không có quyết định thu hồi đất, việc thực hiện công tác bồi thường giải phóng mặt bằng ở đây đang gặp rất nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân, và một trong những nguyên nhân chủ yếu nhất đó là đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chính, đất ở cũng như vật kiến trúc trên đất là một tài sản rất lớn của người dân nơi đây.
Trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung và quận Long Biên nói riêng, việc thu hồi đất nông nghiệp cũng như đất ở là một yếu tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế, từ năm 2004 đến năm 2007 trên địa bàn Quận đã thực hiện việc thu hồi diện tích là 64,82 ha của 2.644 hộ gia đình đất nông nghiệp với tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ 465,7 tỷ đồng, vấn đề tồn tại chính trong công tác giải phóng mặt bằng chính là giá đất bồi thường chưa phù hợp và sát với giá thị trường nên công tác GPMB thường tiến hành chậm hơn so với tiến độ đề ra. Vì vậy việc áp dụng giá đất bồi thường cho những người bị thu hồi đất đang được các ban, ngành của Quận hết sức quan tâm, làm sao có lợi ích cao nhất cho người bị thu hồi đất mà vẫn theo quy định của pháp luật:
Xuất phát từ những ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài : "Đánh giá việc thực hiện giá đất bồi thường ở một số dự án trên địa bàn quận Long Biên, Thành phố Hà Nội".
I . 2 . Mục Tiêu của đề tài:
- Đánh giá việc thực hiện công tác bồi thường giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất tại 03 dự án trên địa bàn quận Long Biên.
+ Dự án 1: Dự án đầu tư giải phóng mặt bằng và san nền sơ bộ khu tái định cư phục vụ giải phóng mặt bằng đường 5 kéo dài tại P.Thượng Thanh – quận Long Biên( Dự án 1).
+ Dự án 2: Dự án xây dựng tuyến đường Ngọc Thụy đi khu đô thị Thạch Bàn – phường Long Biên – quận Long Biên ( Dự án 2).
+ Dự án 3: Dự án xây dựng tuyến đường vào khu Công nghiệp Đài Tư – Sài Đồng A thuộc phường Việt Hưng, Phúc Lợi – quận Long Biên(Dự án 3).
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các chính sách thúc đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, thu hút đầu tư góp phần phát triển nền kinh tế Quận, khắc phục những bất cập hiện nay.
I . 2 .1. Yêu cầu của đề tài:
- Nghiên cứu, hệ thống hoá các văn bản chính sách liên quan được ban hành từ trước đến nay về công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
- Điều tra, thu thập, làm rõ những thiệt hại khi người dân bị thu hồi đất như: công việc như thế nào sau khi bị thu hồi đất, chỗ ở, các điều kiện về kinh tế gia đình, hoạt động văn hoá tinh thần, số tiền được bồi thường sử dụng vào mục đích gì, thu nhập, mức sống có cao lên không…
II. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu:
II.1. Tổng quan về các chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
II.1.1. Tính tất yếu
Tất yếu khách quan của sự tồn tại là phát triển, phát triển nền kinh tế đất nước đóng vai trò hết sức quan trọng. Để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước, nền kinh tế, đặc biệt là các dự án phát triển đô thị, dự án sản xuất, kinh doanh phát triển kinh tế cần sử dụng đất đai như một nguồn lực đầu vào tạo mặt bằng sản xuất. Khi đó Nhà nước phải thu hồi đất của nhân dân và thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho các hộ bị thu hồi đất.
Với các văn bản luật như từ Luật đất đai năm 1988 đến Luật đất đai năm 2003, từ Nghị định số 151–TTg ngày 14/4/1959 của Thủ tướng chính phủ quy định về thể lệ tạm thời trưng dụng ruộng đất, Nghị định số 90 – CP ngày 17/8/1994 của Chính phủ ban hành quy định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích Quốc gia, lợi ích cộng đồng. Đến Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 về Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và các Thông tư hướng dẫn đã xây dựng các chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy chưa hẳn đã đáp ứng được việc bồi thường đúng, đủ và công bằng những thiệt hại cho người bị thu hồi đất. Nhưng đã phần nào phản ánh việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là rất cần thiết phải thực hiện, đúng theo chủ trương của Đảng và Nhà nước.
II.1.2. một số vấn đề cơ bản bồi thường, hỗ trợ và tđc ở nước ta
II.1.2.1. Trước khi có Luật Đất đai 1993:
Nước Việt Nam đã giành được độc lập từ năm 1945 và Hiếp pháp đầu tiên của Việt Nam được Quốc Hội khoá I thông qua vào năm 1946( gọi là Hiệp pháp), từ đó, kinh tế – xã hội của đất nước được phát triển dựa trên mô hình kinh tế chỉ huy tập trung, Nhà nước thực hiện chế độ bao cấp đối với mọi hoạt động kinh tế. Về đất đai, Hiến pháp 1946 tiếp tục công nhận chế độ đa sở hữu về đất đai như trước đó. Chính sách đất đai trong giai đoạn này tập trung chủ yếu sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả để thoát khỏi nạn đói năm 1945. Từ năm 1946 đến năm 1954, Việt Nam tập trung sức của toàn dân vào cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp. Chính sách đất đai quan trọng nhất trong giai đoạn này thực hiện cải cách ruộng đất trên cơ sở luật cải cách ruộng đất được Quốc hội thông qua vào năm 1953. Cải cách ruộng đất được thực hiện từ đó tới năm 1955 trên nguyên tắc xoá bỏ sở hữu đất đai của địa chủ để chia cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp.
Sau khi hoà bình lập lại (năm 1954), Quốc hội Việt Nam đã thông qua Hiến pháp lần thứ hai vào năm 1959(gọi là Hiến pháp năm 1959), Hiến pháp năm 1959 tiếp tục thừa nhận chế độ đa sở hữu về đất đai nhưng khẳng định rõ là Nhà nước bảo hộ chặt chẽ với sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể về đất đai. Chính sách đất đai quan trọng nhất lúc này là khuyến khích nông dân gia nhập các hợp tác xã nông nghiệp. Trong những năm đầu hoạt động(1960-1965), hình thực hợp tác xã nông nghiệp đã đưa năng suất và sản lượng nông nghiệp của Việt Nam lên mức cao nhất khu vực Đông Nam á.
Từ năm 1965, Việt Nam lại tập trung sức toàn dân vào cuộc kháng chiến chống lại sự chiếm đống của Mỹ ở phía Nam, để thống nhất đất nước. Vào năm 1975, chiến tranh kết thúc và nước Việt Nam được thống nhất. Năm 1980, Quốc hôi Việt Nam đã thông qua Hiến pháp lần thứ ba(gọi là Hiến pháp 1980), trong đó Nhà nước công nhận chỉ một hình thức sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước thống nhất quản lý. Như vậy, người đang sử dụng đất chỉ có quyền được sử dụng, ai có nhu cầu sử dụng đất thì Nhà nước giao không thu tiền, ai không còn nhu cầu sử dụng thì Nhà nước thu hồi. Đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc phát triển công nghiệp, đô thị thì Nhà nước ban hành quyết định thu hồi đất nông nghiệp và điều chỉnh lại đất nông nghiệp giữa các hợp tác xã nông nghiệp. Từ đó cho thấy, Nhà nước thực hiện chế độ bao cấp về đất đai nên thường ít xẩy ra các tranh chấp, khiếu kiện của người sử dụng đất. Trong hoàn cảnh như vậy, hệ thống quản lý đất đai thực sự không quan trọng, nhiệm vụ chủ yếu là xác định chính xác diện tích để tính thuế sử dụng đất nông nghiệp của các hợp tác xã.
Từ thời điểm này, cơ chế kinh tế bao cấp của Nhà nước làm cho người dân không phải lo về kinh tế, ít khiếu kiện về đất đai, nhưng không tạo được động lực phát triển từ tất cả các thành phần kinh tế, đất đai sử dụng không có hiệu quả. Sản xuất nông nghiệp của các hợp tác xã nông nghiệp có năng suất và sản lượng rất thấp, tình trạng thiếu lương thực đã lan rộng trên phạm vi cả nước. Nhìn rộng hơn sang các khu vực kinh tế công nghiệp và dịch vụ, các cơ sở sản xuất, kinh doanh của Nhà nước nắm giữ một diện tích phi nông nghiệp rất lớn nhưng hiệu quả sử dụng không cao, năng suất và sản lượng của các ngành kinh tế phi nông nghiệp cũng rất thấp.
Vào năm 1986, Nhà nước Việt Nam đã quyết định thực hiện công tác đổi mới đất nước, trước hết tập trung vào đổi mới kinh tế. Điểm đột phá của quá trình đổi mới kinh tế là quyết định cải cách chính sách đất đai nông nghiệp: Nhà nước giao đất sản xuất nông nghiệp do hợp tác xã nông nghiệp sử dụng cho hộ gia đình, cá nhân để sử dụng ổn định lâu dài. Nói cách khác, sản xuất nông nghiệp đã được chuyển từ phương thức hợp tác xã nông nghiệp sang phương thức hộ gia đình. Chính sách này đã tạo bước ngoặt quan trọng trong phát triển kinh tế nông nghiệp của Việt Nam: từ một nước thiếu lương thực Việt Nam đã trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba trên thứ giới. Thành công đổi mới trong khu vực kinh tế nông nghiệp đã giúp Việt Nam tiếp tục đổi mới khu vực kinh tế công nghiệp và dịch vụ. Mặt khác, chính sách giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân để sử dụng ổn định lâu dài đã đòi hỏi xây dựng pháp luật về đất đai, thiết lập hệ thống địa chính và tổ chức bộ máy quản lý đất đai theo các cấp hành chính. Luật đất đai đầu tiên của Việt Nam được ban hành năm 1987. Thực chất của luật này là luật hoá chính sách Nhà nước giao đất sản xuất nông nghiệp cho các hộ gia đình, cá nhân và xây dựng nền móng đầu tiên của hệ thống địa chính Việt Nam. Chính sách đất đai vẫn tiếp tục được vận hành trên nguyên tắc Nhà nước bao cấp về đất đai, đất đai không có giá, không được giao dịch trên thị trường, mọi sự chuyển quyền sử dụng đất đai đều không có quyết định hành chính của cơ quan Nhà nước.
Sau đó Luật Đất đai năm 1988 ban hành cũng dựa trên những điều cơ bản đó. Ngày 31/5/1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định số 186/HĐBT về việc bồi thường thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi bị chuyển sang sử dụng vào mục đích khác thì phải bồi thường thiệt hại. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất nông nghiệp, đất có rừng để sử dụng vào mục đích khác thì phải bồi thường về đất nông nghiệp, đất có rừng cho Nhà nước. Khoản tiền này được nộp vào ngân sách Nhà nước và được sử dụng vào việc khai hoang, phục hoá, trồng rừng, cải tạo đất nông nghiệp, ổn định cuộc sống định canh, định cư cho vùng bị lấy đất.
II.1.2.2. Sau khi ban hành Luật Đất đai 1993 đến nay:
Khi Hiến pháp 1992 ra đời thay thế Hiến pháp 1980 đã quy định : “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”. Tại Điều 17 quy định : “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý”. Và Điều 18 quy định: “Các tổ chức và cá nhân được Nhà nước giao đất sử dụng lâu dài và được chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật”. Đặc biệt, tại Điều 23 quy định : “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hoá. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định” [15]. Những quy định trên đã tạo điều kiện củng cố quyền hạn riêng của Nhà nước trong việc thu hồi đất đai cho mục đích an ninh, quốc phòng và các lợi ích quốc gia.
Hiến pháp năm 1992 đã quyết định áp dụng mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước (gọi là mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa). Hệ thống pháp luật mới được xây dựng trên cơ sở Hiến pháp này bảo đảm phát triển kinh tế, tạo công bằng xã hội, áp dụng mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Đối với đất đai, Hiến pháp năm 1992, tiếp tục công nhận chỉ một chế độ sở hữu toàn dân về đất đai và xác định rõ quyền quản lý của Nhà nước và quyền sử dụng của các tổ chức, cá nhân. Luật đất đai lần thứ hai được Quốc hội Việt Nam thông qua vào năm 1993, trong đó nội dung quan trọng nhất bao gồm: đất đai có giá và giá đất do Nhà nước quy định; hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có 5 quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế. Cho thuê, thuế chấp đối với đất đai. Do tư duy của nhà quản lý mong muốn giá đất thấp để thuận lợi cho việc đầu tư phát triển nên các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thường quy định giá đất rất thấp, chỉ bằng 10% -30% giá đất chuyển nhượng trên thị trường.
Luật Đất đai 1993 đã có hiệu lực từ ngày 15/10/1993 thay thế cho Luật Đất đai 1988.
Đây là văn kiện chính sách quan trọng nhất đối với việc thu hồi đất và bồi thường thiệt hại của Nhà nước. Luật Đất đai quy định các loại đất sử dụng, các nguyên tắc sử dụng từng loại đất, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Một thủ tục rất quan trọng và là cơ sở pháp lý cho người sử dụng đất là họ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà. Chính điều này làm căn cứ cho quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất [7].
Tại Điều 12 Luật Đất đai 1993 đã quy định: “Nhà nước xác định giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi giao đất hoặc cho thuê đất. Tính giá trị tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất. Chính phủ quy định khung giá các loại đất đối với từng vùng theo thời gian”. Điều 27 quy định: “Trong trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì người thu hồi đất được bồi thường thiệt hại”.
Sau khi Luật Đất đai 1993 được ban hành, Nhà nước đã ban hành rất nhiều các văn bản dưới luật như Nghị định, Thông tư và các văn bản pháp quy khác về quản lý đất đai nhằm cụ thể hoá các điều luật để thực hiện các văn bản đó, bao gồm:
- Nghị định 90/CP ngày 17/9/1994 quy định về việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào các mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
- Nghị định 87/CP ngày 17/8/1994 ban hành khung giá các loại đất.
- Thông tư Liên bộ số 94/TTLB ngày 14/11/1994 của Liên bộ Tài chính- Xây dựng- Tổng cục Địa chính- Ban vật giá Chính phủ hướng dẫn thi hành Nghị định 87/CP.
- Nghị định 22/1998/ NĐ-CP ngày 24/4/1998, thay thế Nghị định 90/CP nói trên.
Tháng 10/1999, Cục quản lý Công sản - Bộ tài chính đã tiến hành dự thảo lần thứ nhất về việc sửa đổi bổ sung Nghị định 22/1998/CP về việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. Trong đó, một số điều cơ bản đã được đề nghị sửa đổi như xác định mức đất để tính bồi thường, giá bồi thường, lập khu tái định cư, quyền và nghĩa vụ của người bị thu hồi đất phải chuyển đến nơi ở mới, các chính sách hỗ trợ và các điều kiện bắt buộc phải có của khu tái định cư, Hội đồng bồi thường GPMB và thẩm định phương án bồi thường GPMB [7].
- Thông tư 145/1998/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định 22/1998/NĐ-CP bao gồm các phương pháp xác định hệ số K, nội dung và chế độ quản lý, phương án bồi thường và một số nội dung khác.
- Văn bản số 4448/TC-QLCS ngày 04/9/1999 của Cục Quản lý Công sản - Bộ tài chính hướng dẫn xử lý một số vướng mắc trong công tác bồi thường GPMB.
Bên cạnh những văn bản pháp lý để thực hiện Luật đất đai năm 1993, Nhà nước quyết định thực hiện tiếp theo của quá trình đổi mới kinh tế, đó là chương trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thị trường đầu tư ở Việt Nam đã hình thành với các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp và dịch vụ thực hiện từ nguồn vốn đầu tư từ Nhà nước, từ các nhà đầu tư nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và các nhà đầu tư từ các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước ở trong nước. Do vậy, nhu cầu đất đai để phục vụ cho các dự án đầu tư ngày càng tăng và trở thành một trong những trọng điểm để thu hút đầu tư. Theo Luật đất đai 1993, việc chuyển đổi đất đai để thực hiện các dự án đầu tư vẫn được tiếp tục áp dụng chỉ một cơ chế đất đai bắt buộc: Nhà nước ban hành quyết định hành chính để thu hồi đất của người đang sử dụng và giao đất cho nhà đầu tư thực hiện các dự án đầu tư, nhà đầu tư nộp tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất cho Nhà nước và trả tiền bồi thường đối với đất bị thu hồi, tiền tái định cư cho người bị thu hồi đất ở theo giá đất do Nhà nước quy định.
Năm 2002, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện chương trình tổng kết 10 thực hiện phát Luật đất đai nhằm xây dựng một bộ luật đất đai phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Báo cáo tổng kết này đã chỉ ra nhiều điểm bất cập của pháp luật đất đai lúc đó, trong đó có 2 điểm quan trọng nhất: một là cần mở rộng hơn nữa quyền của các nhà đầu tư trong giao dịch đất đai sao cho phù hợp với cơ chế thị trường; hai là tiếp tục đổi mới cơ chế bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên nguyên tắc cân đối hợp lý lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người bị thu hồi. Tháng 11 năm 2003, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật đất đai thứ ba, có hiệu lực ngày 01/7/2004. Luật đất đai năm 2003 đã tạo được sự đổi mới khá toàn diện của hệ thống pháp luật đất đai Việt Nam. Thứ nhất, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai được cụ thể hoá, có các quy định chi tiết về quyền và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đối với đất đai trên nguyên tắc quyền sử dụng đất do Nhà nước giao có thu tiền được coi như tài sản của người sử dụng đất, thứ hai, có quy định cụ thể về việc giải quyết các tồn tại lịch sử về đất đai, trong đó có khẳng định việc Nhà nước sẽ trả đất mà Nhà nước mượn của dân trong thời gian trước đây. Thứ ba, giá đất do Nhà nước quy định phải phù hợp với giá đất trên thị trường trong điều kiện bình thường, tức là hệ thống tài chính đất đai mới được xác lập trên nguyên tắc” một giá đất “. Thứ bốn, các tổ chức kinh tế có tài sản là quyền sử dụng đất được phép thực hiện các giao dịch về đất đai trên thị trường. Thứ năm, tạo bình đẳng hơn về quyền và nghĩa vụ đối với đất đai giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Thứ sáu, cơ chế chuyển đổi đất đai bắt buộc theo quy định của pháp luật đất đai trước đó được hạn chế lại, chỉ áp dụng cho các trường hợp sử dụng đất vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và một số dự án đầu tư phát triển kinh tế quan trọng( như đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao, khu dânc ư đô thị và nông thôn, các dự án có vốn đầu tư thuộc nhóm lớn nhất), các trường hợp khác phải thực hiện cơ chế chuyển đổi đất đai tự nguyện trên cơ sở nhà đầu tư nhận chuyển quyền sử dụng đất, thuê đất hoặc nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất. Thứ bẩy, có quy định cụ thể về việc tính bồi thường về đất, điều kiện nơi tái định cư đối với các trường hợp được áp dụng cơ chế chuyển đổi đất đai bắt buộc. Thứ tám, thiết lập một hệ thống trình tự, thủ tục hành chính đối với đăng ký đất đai trên nguyên tắc cụ thể, đơn giản, ít chi phí, công khai, minh bạch. Thứ chín, tăng cường vai trò giám sát của dân đối với thi hành pháp luật đất đai. Thứ mười, hoàn chỉnh cơ chế giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo của dân về đất đai trên nguyên tắc nâng cao trách nhiệm của các cấp địa phương và chủ yếu chuyển sang hệ thống toà án giải quyết. Đến năm 2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết các khiếu nại về đất đai. Nghị định trên tập trung vào 3 nội dung chính như: Quy định các tiêu chí để công nhận quyền sử dụng đất đối với các trường hợp đang sử dụng đất nhưng không có bất kỳ loại giấy tờ nào; cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư các dự án xây dựng nhà ở để bán và cho thuê, tạo công bằng hơn giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài; ba là quy định cụ thể hơn về trình tự, thủ tục thực hiện cơ chế chuyển đổi đất đai bắt buộc dựa trên nguyên tắc công khai, minh bạch, bảo đảm quyền lợi của người bị thu hồi đất.
Sự đổi mới mạnh mẽ của hệ thống pháp luật đất đai đã tạo động lực lớn cho việc phát triển kinh tế công nghiệp và dịch vụ, số lượng dự án đầu tư và số vốn đầu tư tăng lên đáng kể, nhất là đầu tư từ các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam, có thể lập biểu đồ để chỉ ra mức độ tăng nhanh của quá trình đầu tư phát triển với sự tham gia của các thành phần kinh tế cụ thể:
Vốn đầu tư theo các thành phần kinh tế từ năm 1999 – 2007
250000
200000
150000
100000
50000
0
II.1.2.2.1. Công tác bồi thường, hỗ trợ GPMB hiện nay.
Tất cả mọi mục tiêu của quốc gia là để cho người dân có ăn, có mặc, có chỗ ở ổn định và được học hành nâng cao dân trí để xây dựng đất nước. Chính vì vậy trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước sẽ có nhiều khu đô thị, nhiều điểm dân cư, nhiều khu sản xuất, văn hoá mọc lên thì việc di chuyển giải toả dân cư là không thể tránh khỏi. Để phục vụ những mục tiêu trên, Chính phủ đã ban hành các văn bản pháp lý nhằm thực hiện công tác bồi thường GPMB cụ thể như:
+ Ngày 16/11/2004 Chính phủ ra Nghị đinh 188/2004/NĐ-CP về phương pháp xác định đất và khung giá các loại đất.
+ Thông tư số 114/2004/TT-BTC ngày 26/11/2004 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ra ngày 16/11/2004 của Chính phủ về Phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.
+ Ngày 03/12/2004 Chính phủ ra Nghị định số 197/2004/NĐ-CP về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
+ Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 7/12/2004 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ra ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
+ Quyết định số 26/2005/QĐ-UB ngày 18/2/2005 của UBND Thành phố Hà Nội về việc: Ban hành ”Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ra ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội”.
+ Ngày 29/12/2004 UBND Thành phố Hà Nội ra Quyết định số 199/2004/QĐ-UB về việc ban hành giá các loại đất trên địa bàn thành phố Hà Nội, thực hiện nghị đinh 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về phương pháp xác định đất và khung giá các loại đất.
+ Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 15/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai; Quyết định số 137/2007/,150/2007/Đ-UBND ngày 30/11/2007.
Quyết định số 137/2007/,150,151/2007/QĐ-UBND ngày 30/11/2007, Quyết định số 18/2008/QĐ-UBND ngày 29/9/2008 của UBND Thành phố Hà Nội ban hành Quy định về bồi thường hỗ trợ, tái định cư và giá đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
+ Quyết định số 151/2007/QĐ-UBND ngày 30/11/2007, 40/UBND– NNĐC ngày 16/4/2008 của UBND Thành phố Hà Nội về ban hành giá xây dựng nhà mới, nhà tạm, vật kiến trúc địa bàn Thành phố và các văn bản liên quan khác.
Hiện nay, có rất nhiều các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, các khu công nghiệp, khu thương mại đang được thực hiện và trong tương lai con số các dự án sẽ tăng lên rất nhanh. Các dự án này đều đòi hỏi phải có mặt bằng để xây dựng, vì vậy Nhà nước phải thu hồi một phần đất của nhân dân. Khi thu hồi đất, người ta đã tính toán đến lợi ích thu được từ việc sử dụng đất, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, ổn định cuộc sống của người dân trong diện được bồi thường, đảm bảo công bằng đồng thời cũng góp phần điều chỉnh hiện trạng sử dụng đất theo quy hoạch.
Vấn đề GPMB diễn ra rất chậm, chưa hiệu quả, còn nhiều sai sót gây khiếu kiện trong nhân dân làm ảnh hưởng đến tiến độ đầu tư, triển khai dự án, đồng thời công tác quy hoạch và quản lý xây dựng còn nhiều bất cập ảnh hưởng đến tiến độ của các dự án.
Mặt khác, các chính sách đất đai đã được đổi mới nhiều song công tác quản lý đất đai ở nước ta vẫn còn nhiều yếu kém. Đối với một số địa phương, công tác GPMB dường như là công việc luôn luôn mới vì chỉ khi có dự án mới thành lập Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Hội đồng bồi thường thông thường chỉ kiêm nhiệm hoặc điều động tạm thời, thậm chí là hợp đồng ngắn hạn, không có bộ phận chuyên trách thực hiện công việc, do đó khi tích luỹ được chút ít kinh nghiệm là lúc kết thúc dự án. Mặt khác, thường là khi thu hồi đất và giải quyết bồi thường thiệt hại về đất đi đôi với việc giải quyết tranh chấp, giải quyết các trường hợp vi phạm pháp luật về đất đai mà trong đó giải quyết những trường hợp sử dụng đất bất hợp pháp là rất khó khăn mang tính chất xã hội phức tạp. Việc bồi thường thiệt hại nhìn chung Nhà nước chỉ bồi thường về giá trị đất và tài sản trên đất còn cuộc sống của người dân bị mất đất sau thu hồi thì chưa quan tâm triệt để hoặc nếu có thì chỉ mang tính hình thức.
Từ thực tế tình hình quản lý Nhà nước và các chính sách đất đai, chính sách bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất qua các thời kỳ và hiện tại, chúng tôi nhận thấy rằng việc chỉnh lý, bổ sung chính sách bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là cần thiết nhằm góp phần đẩy nhanh tiến độ GPMB thực hiện CNH- HĐH, ổn định đời sống nhân dân.
II.1.2.2.2. Thực trạng vấn đề thu hồi đất nông nghiệp ở nước ta trong quá trình CNH – HĐH.
II.1.2.2.2. 1. Chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp với sự gia tăng giá trị đất đai
Trong quá trình phát triển đất nước, việc chuyển đổi quỹ đất nông nghiệp sang các loại đất phi nông nghiệp, như đất ở, đất dành cho công trình công cộng, đất cho khu công nghiệp, đất giao thông, đất cho khu dịch vụ, du lịch,... là quá trình tất yếu xảy ra. Nhờ có quá trình này mà giá trị đất đai trên thị trường được gia tăng. Sau khi các cấp có thẩm quyền duyệt xong quy hoạch sử dụng đất thì giá trị của đất nông nghiệp đã tăng lên đáng kể, được gọi là giá trị tiềm năng. Thông thường, đất nông nghiệp chỉ được các chủ đầu tư dự án bồi thường cho người nông dân với mức giá của loại đất hiện trạng trước quy hoạch. Sau khi đầu tư thêm cơ sở hạ tầng, giá trị đất đai tăng lên vượt bậc và các nhà đầu tư sẽ là người được hưởng mức lợi nhuận khổng lồ này.
giá trị
tiềm năng
Sdđ hiện tại
giá trị đất NN
đất chưa phát triển
đất chưa có CSHT
đất đã
có CSHT
đất đã
phát triển
Phê
duyệt
QHCT
Xong
CSHT
Xong XDCT
t
giá trị
đất đai
Sơ đồ 1. Giá trị đất đai gia tăng cùng các hoạt động phát triển đô thị
Nguồn: Larsson, Gerhard (1997), [26]
“Việc xác định giá trị đất bị thu hồi phụ thuộc vào quyết định hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà thiếu sự tham vấn của các hộ trong diện bị thu hồi. Người có đất thường được đền bù dựa trên loại đất sử dụng hiện tại mà không được hưởng những giá trị gia tăng khi mảnh đất đó được phân loại lại cho mục đích công nghiệp” [47]. Như vậy, phần rất lớn lợi nhuận từ mảnh đất nông nghiệp của người nông dân qua chuyển đổi mục đích sử dụng lại thuộc về những chủ dự án, doanh nghiệp đầu tư, trong khi cơ hội tiếp cận với sự phát triển của họ kém hơn vì không được chuẩn bị trước về tinh thần, trình độ và tâm lý. Đó chính là điều dẫn đến sự không thỏa đáng về kinh tế-xã hội đối với người nông dân Việt Nam trong quá trình đô thị hoá hiện nay.
II.1.2.2.2. 2. Thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam
Việc thu hồi đất nông nghiệp để phục vụ cho sự phát triển của các khu công nghiệp, khu đô thị mới đang làm thay đổi diện mạo của vùng nông thôn Việt Nam, cũng như các vùng ven đô thị. Trong giai đoạn 2001-2005, cả nước ta đã có 366.467 nghìn ha đất nông nghiệp chuyển sang đất phi nông nghiệp [5]. Tính đến năm 2005, trên 100.000 hộ trong cả nước đã bị thu hồi đất để dành diện tích cho việc phát triển hơn 190 khu và cụm công nghiệp. Theo Hội Nông dân Việt Nam, trong quá trình xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, cơ sở hạ tầng, tương ứng mỗi gia đình có khoảng 1,5 lao động mất việc làm mỗi năm [10]. “Thu hồi đất ở Việt Nam đã và đang tạo ra hai loại tác động đến cuộc sống của người dân nói chung và người nông dân Việt Nam nói riêng: một mặt, những hộ gia đình bị thu hồi đất chịu ảnh hưởng trực tiếp vì bị mất nguồn sinh kế nông nghiệp, buộc phải thay đổi nghề nghiệp và di dời khỏi cộng đồng mà họ đang sinh sống. Bên cạnh, nhờ có chuyển đổi đất nông nghiệp, khu vực kinh tế tư nhân được bổ sung thêm nguồn cung đất, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tạo việc làm và cơ hội xóa đói giảm nghèo” [5].
Diện tích đất nông nghiệp nước ta chỉ có hơn 9 triệu ha, chiếm khoảng 28% diện tích của cả nước [5]. Theo kế hoạch sử dụng đất 2006-2010, thì đến năm 2010, đất sản xuất nông nghiệp sẽ chỉ còn 9.239.930ha [69], tiếp tục giảm đi 175.638ha, đất ở đô thị tăng 7.861ha, đất chuyên dùng tăng 319.044ha và đất phi nông nghiệp khác tăng 2.849ha so với năm 2005.
Bảng 1. Hiện trạng sử dụng các loại đất của cả nước qua các năm 2000, 2005 và kế hoạch sử dụng đất năm 20._.10 (Đơn vị: ha)
Loại đất
Hiện trạng diện tích năm 2000(1)
Hiện trạng diện tích năm 2005(1)
Quy hoạch diện tích năm 2010(2)
1. Đất nông nghiệp
21.532.150
24.822.560
26.219.950
1.1. Đất sản xuất nông nghiệp
9.569.971
9.415.568
9.239.930
1.2. Đất lâm nghiệp
11.575.429
14.677.409
16.243.670
1.3. Đất nuôi trồng thủy sản
367.846
700.061
700.060
1.4. Đất làm muối
18.904
14.075
20.690
1.5. Đất nông nghiệp khác
-
15.447
15.600
2. Đất phi nông nghiệp
2.850.298
3.225.740
4.021.380
2.1. Đất ở
443.178
598.428
1.035.380
2.2. Đất chuyên dùng
1.072.202
1.383.766
1.702.810
2.3. Đất tôn giáo, tín ngưỡng
-
12.804
13.080
2.4. Đất nghĩa trang, nghĩa địa
93.741
97.052
92.290
2.5. Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng
1.143.087
1.130.469
1.171.753
2.6. Đất phi nông nghiệp khác
-
3.221
6.070
2.7. Đất chưa sử dụng
8.738.711
5.072.859
2.879.830
Thực tế, những lao động bị thu hồi đất nông nghiệp có rất ít cơ hội được cấp lại đất để tiếp tục sinh sống bằng nghề cũ, dẫn tới hàng triệu người, chủ yếu là nông dân không có, hoặc thiếu việc làm, không có hoặc giảm thu nhập. Đồng thời, những thiếu sót trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp đã gây ra bức xúc trong dân, bởi các nguyên nhân sau:
- Thứ nhất, giá bồi thường chưa hợp lý. “Quá trình xác định giá trị đất bị thu hồi phụ thuộc vào quyết định chủ quan của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà thiếu sự tham vấn của các hộ trong diện bị thu hồi” [49], dẫn đến tình trạng ở nhiều địa phương, giá bồi thường đất quá rẻ, khiến quyền lợi của người nông dân bị ảnh hưởng. Hơn 200ha ruộng tốt của người dân thôn Thụy Khuê, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây được UBND tỉnh ra quyết định thu hồi để công ty cổ phần Tuần Châu làm khu du lịch và vui chơi giải trí, với giá 54.000 đồng/m2. Trong khi đó, mảnh ruộng cách đó hơn trăm mét vừa được UBND huyện Quốc Oai bán cho người dân địa phương với giá trung bình hơn 6 triệu/m2, tức là gấp 111 lần so với giá đền bù thực tế [45]. Đây là sự phi lý mà người dân đã nhận ra được. Dự án Quản Lộ - Phụng Hiệp đoạn đi qua tỉnh Sóc Trăng có hai huyện bị ảnh hưởng là Mỹ Tú và Ngã Năm, trong bồi thường giải tỏa, các cơ quan chức năng huyện Ngã Năm áp giá bồi thường theo quy định của tỉnh là 80.000đ/m2, nhưng huyện Mỹ Tú lại áp giá bồi thường thấp hơn, chỉ 18.000đ/m2, mà không giải thích được nguyên nhân [41].
- Thứ hai, các dự án không thực hiện tốt việc hỗ trợ, đào tạo nghề cho người dân. Tốc độ người bị mất đất tăng nhanh hơn so với tốc độ người tìm được việc làm, là nguyên nhân dẫn đến gia tăng thất nghiệp. Đáng chú ý là trong số đó, nhóm người bị ảnh hưởng nhiều nhất là từ 35 tuổi trở lên (chiếm khoảng 50%), do gặp nhiều khó khăn trong việc đào tạo lại nghề, chuyển đổi nghề mới. “Theo Bộ lao động Thương binh và Xã hội, năm 2005, chỉ có trên 27% lao động bị thu hồi đất nông nghiệp tốt nghiệp phổ thông và 14% lao động được đào tạo chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp hoặc học nghề trở lên” [39]. Hộ nông dân bị thu hồi đất thì nhiều, nhưng những thành viên trong hộ được giải quyết việc làm thì lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Theo điều tra của CIEM thì “tỷ lệ thành viên có việc làm trong các khu công nghiệp của các hộ bị mất đất cho xây dựng khu công nghiệp chỉ chiếm 8% trong các hộ khảo sát ở Long An, Cần Thơ, 5% tại Vĩnh Phúc, Hà Tây” [52]. “Việc người nông dân tiếp cận với cơ hội được đào tạo nghề cũng rất khác nhau giữa các khu vực, với tỷ lệ 2% ở Quảng Nam; 4% ở Long An và Cần Thơ; và có tới 28% ở Bình Định trong tổng số các hộ được khảo sát ở mỗi vùng” [52]. “Tỉnh Hà Nam hiện có 7.520 hộ nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp, đất ở để phát triển khu công nghiệp (KCN) và mở rộng đô thị, và cũng có tương ứng 15.000 lao động nông nghiệp thiếu hoặc không có việc làm sau khi bị thu hồi đất canh tác” [34]. Trước thu hồi đất nông nghiệp, ở một số vùng thuộc đồng bằng sông Hồng, chỉ có 10% lao động đi làm thuê, nhưng sau thu hồi đất thì con số này tăng lên đến 17%. Trong hai năm 2006 và 2007, Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm cũng đã dành 22 tỷ đồng bổ sung vốn vay giải quyết việc làm cho gần 10.000 lao động bị thu hồi đất. Bên cạnh đó, xuất khẩu lao động cũng là một kênh quan trọng cho người dân có đất bị thu hồi. Tuy nhiên, hiệu quả thực tế của những biện pháp trên vẫn còn cách xa nhu cầu [51].
- Thứ ba, tình trạng quy hoạch treo gây lãng phí đất đai, trong khi người nông dân thì không có hoặc thiếu việc làm. “Theo báo cáo của Nhà nước, đến nay, 50% diện tích đất trong các KCN vẫn chưa được lấp đầy. KCN Đài Tư, Daewoo Hanel Hà Nội thành lập năm 1995 với quy mô trên 200 ha, nhưng đến năm 2006 mới cho thuê được 5 ha. KCN Nomura Hải Phòng có diện tích 153 ha, từ năm 1994 đến nay mới cho thuê được 39 ha. ở Bà Rịa- Vũng Tàu, KCN Mỹ Xuân B1, quy mô 226 ha, thành lập năm 1996, nay mới cho thuê được 20 ha” [44]. Nhà nước và các công ty tư nhân thu hồi đất nông nghiệp của người nông dân để lấy đất, nhưng rồi sử dụng không hiệu quả, gây lãng phí, trong khi người nông dân thì lại vừa mất nghề, vừa không tìm được việc làm mới. “Từ đầu năm 2004 cụm công nghiệp Hoàng Đông, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam bắt đầu đi vào san lấp mặt bằng, đến nay, 84ha đất này vẫn nằm không, trong lúc hơn 800 hộ dân nằm trong diện bị thu hồi đất ở 4 thôn Hoàng Lý, Bạch Xá, Hoàng Thượng, Hoàng Đông đã qua 4 mùa thu hoạch vẫn không có ruộng cày cấy, không có công ăn việc làm” [46]. 500 hộ dân ở cụm công nghiệp Tân Liên, huyện Vĩnh Bảo, T. phố Hải Phòng cũng đang rơi vào tình cảnh tương tự [43].
II.1.2.2.2. 3. Thu hồi đất nông nghiệp ở Thành phố Hà Nội :
Là một trong những thành phố lớn của đất nước, quá trình đô thị hoá nhanh, trong giai đoạn 2000-2005, Hà Nội đã có 5200ha đất nông nghiệp được chuyển đổi sang loại hình đất phi nông nghiệp, kéo theo 20 vạn lao động bị ảnh hưởng. Cũng như nhiều địa phương khác trên cả nước, quá trình thu hồi và bồi thường đất nông nghiệp ở Hà Nội không tránh khỏi nhiều bất cập. Theo thống kê của Sở LĐ-TB&XH Thành phố Hà Nội, cùng với việc mở rộng các KCN, tốc độ đô thị hóa nhanh ở các quận, huyện ven thành phố như Từ Liêm, Gia Lâm, Đông Anh, Thanh Trì, Hoàng Mai, Tây Hồ,... [44], bình quân mỗi năm thành phố có khoảng 13.000-15.000 lao động không có việc, phần lớn lại chưa qua đào tạo nghề [50]. Theo điều tra của nhóm nghiên cứu trường Đại học Kinh tế quốc dân, cứ 1.000 hộ gia đình bị thu hồi đất thì có 190 người tự bỏ tiền ra để học nghề, nhưng chỉ có 90 người trong số đó được tuyển dụng [36]. Vấn đề việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất ở Hà Nội vẫn là bài toán chưa có lời giải [51]. Sở LĐ-TB&XH Hà Nội đã thống kê được rằng, cũng trong giai đoạn này, có đến 50% hộ sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp gặp khó khăn trong cuộc sống, 37% số hộ bị giảm thu nhập [32]. Nhiều bất cập cũng đã nảy sinh trong vấn đề tiền bồi thường, ở nhiều dự án được thực hiện trên địa bàn thành phố, đã xảy ra tình trạng mặc dù cùng một thửa đất, cùng một dự án, nhưng giá bồi thường lại chênh lệch tới 50 triệu đồng do chính sách bồi thường, nhất là khi thực hiện một dự án “vắt” qua hai Nghị định. Khi giải phóng mặt bằng đường vành đai 3 (đường Khuất Duy Tiến, Hà Nội) có hộ đất lấn chiếm được đền bù 100%, nhưng hộ khác chỉ được hỗ trợ, gây bức xúc [33]. Trong giai đoạn 2 của Dự án Khu đô thị Nam Thăng Long, hơn 700 hộ gương mẫu nhận tiền trước chỉ được đền bù tổng cộng 127,8 triệu đồng/sào, trong khi 170 hộ nhận tiền sau lại được 182 triệu đồng/sào [31].
ở vùng ven đô, những bất cập xảy ra còn đáng báo động hơn việc thu hồi đất nông nghiệp vùng nội đô. Vì rất nhiều người dân vùng ven đô sống nhờ vào nghề nông, khi bị thu hồi đất nông nghiệp, việc chuyển đổi nghề nghiệp đối với họ rất khó khăn. ở nhiều nơi thuộc vùng ven đô và ngoại đô, việc bồi thường đất còn được thực hiện không đúng quy định, thậm chí thu hồi đất nhưng không kèm theo bồi thường đất hoặc chỉ bồi thường với giá rất thấp, dẫn đến bất công bằng xã hội. Tâm lý người nông dân có những thay đổi phức tạp khi cuộc sống của họ thay đổi, dẫn đến việc sử dụng tiền bồi thường không hợp lý và là nguyên nhân khiến cho nhiều hộ nông dân giàu có nhờ tiền bồi thường mà rơi vào tình trạng nghèo trong phút chốc. Đây là tình trạng chung, xảy ra ở không chỉ vùng ven đô Hà Nội, mà còn ở nhiều địa phương khác trên cả nước.
“Thu hồi đất bắt buộc là phương thức hữu hiệu để chuyển đổi đất sang mục đích công nghiệp, đất ở trong trường hợp các dự án lớn, đặc biệt là trong điều kiện việc phân chia đất rất manh mún và các cuộc thương lượng phải tiến hành với số lượng rất đông các chủ sở hữu” [52]. Nhưng khi thực hiện thu hồi đất nông nghiệp, chúng ta phải làm thế nào để vừa đảm bảo tiến trình đô thị hóa, lại vừa mang lại công bằng và cơ hội tiếp cận sự phát triển cho người dân, hay nói khác đi, phải có sự cân đối giữa tốc độ chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp với tốc độ chuyển đổi lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp, đấy mới là định hướng đúng đắn cho một xã hội phát triển bền vững. Điều này lại càng trở nên cần thiết đối với Thành phố Hà Nội, với vị trí là thủ đô của cả nước, Hà Nội phải nhanh chóng thực hiện những thay đổi tích cực để khắc phục những tiêu cực và khó khăn xảy ra trong quá trình bồi thường, thu hồi đất nông nghiệp, để xứng đáng là tấm gương cho các địa phương khác.
II.1.2.2.2. 4. Tình hình chung:
Trước yêu cầu xây dựng Thủ đô, trong thời kỳ CNH – HĐH, khối lượng các dự án xây dựng đô thị và công nghiệp ngày càng lớn đặt ra cho công tác xác định giá đất để bồi thường của Thành phố Hà nội là một nhiệm vụ hết sức nặng nề, khó khăn và phức tạp. Theo thống kê, năm 2003, Hà nội có khoảng 400 dự án liên quan đến công tác GPMB, trong đó tiếp tục có nhiều dự án có quy mô chiếm dụng đất lớn như quốc lộ 5 kéo dài, đường vành đai 2, khu đô thị Nam Thăng Long ... Đến hết tháng 8 năm 2005 trên địa bàn Thành phố đang triển khai khoảng 383 dự án liên quan đến công tác GPMB , với diện tích đất thu hồi là 2.453 ha liên quan đến 56.834 hộ gia đình, trong đó 324 dự án phải xây dựng chính sách bồi thường hỗ, hỗ trợ TĐC và tổ chức GPMB với 1.761 ha khoảng 32.574 hộ. Đây thực sự là khối lượng công việc không nhỏ mà Thành phố Hà Nội đang phải dốc sức giải quyết sao cho vừa đảm bảo tiến độ các dự án, mục tiêu đề ra và ổn định đời sống nhân dân trong các khu vực phải giải toả, di dời.
Tuy nhiên để hoàn thành việc xác định bồi thường giá đất phục vụ công tác GPMB trên địa bàn Thành phố Hà nội không phải là một việc dễ dàng. Bởi nhiều khu vực diến biến về giá rất phức tạp gây khó khăn cho công tác quản lý Nhà nước. Nhiều tuyến phố mới được triển khai công tác bồi thường nhưng gặp rất nhiều khó khăn như đường Kim Liên - ô chợ dừa, đường Láng Hạ - Thanh Xuân. Nguyên nhân chính là do có nhiều khiếu kiện với nội dung giá đất bồi thường chưa sát với giá chuyển nhượng trên thị trường.
Việc chậm điều chỉnh giá các loại đất và quy định bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất không còn phù hợp với thực tế, phương pháp và cách thức tiến hành áp giá bồi thường theo Quyết định số 199/2004/QĐ-UB ngày 29/12/2004; 05/2006/QĐ-UBND ngày 03/01/2006; 242/QĐ-UBND ngày 29/12/2006 của UBND Thành phố Hà Nội còn bất cập, chưa sát thực tế thị trường dẫn đến phải thay đổi giá bồi thường nhiều lần trong thời gian ngắn như dự án đường Vật lý - đê bưởi, Nút ngã tư sở, Cầu Thanh Trì, cầu Vĩnh Tuy... gây chậm trễ khi triển khai dự án và tâm lý chần chừ, yêu sách để đợi điều chỉnh giá của những người do bị di dời.
Theo số liệu thống kê, tính đến thời điểm hiện nay, các dự án mới đảm bảo 40 đến 50% quỹ nhà đất tái định cư. Trong năm 2005 nhu cầu cần 7.000 căn hộ và lô đất nhưng thực tế khả năng mới đáp ứng được 4.500 căn hộ, lô đất. Tình trạng thiếu quỹ nhà, quỹ đất tái định cư vẫn chưa được giải quyết. Dự kiến còn mất cân đối . Hầu hết các chủ dự án không chuẩn bị được quỹ nhà, quỹ đất tái định cư cho dự án của mình. Nhiều dự án phải giãn tiến độ do không có nhà, đất đai tái định cư như dự án thoát nước giai đoạn I, các dự án do ban quản lý các dự án trọng điểm phát triển đô thị Hà Nội làm chủ đầu tư...
Công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong những năm qua đang được thực hiện với nỗ lực cao hơn và giải pháp mới với phương châm quyết liệt hơn. Nhờ như vậy công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã góp phần quan trọng vào qúa trình công nghiệp hoá hiện đại hoá thủ đô Hà Nội.
II.1.2.2.2. 5. Những khó khăn, tồn tại khi xây dựng giá đất tại Hà Nội
Theo Luật Đất năm 2003 và Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày16/11/2004 của Chính phủ về phương pháp xác định đất và khung giá các loại đất. Giá đất do UBND cấp tỉnh quy định được áp dụng cho nhiều mục đích:
a) Tính thuế đối với việc sử dụng đất và chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật;
b) Tính tiền sử dụng đất và tiền thuê đất khi giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất cho các trường hợp quy định tại Điều 34 và Điều 35 của Luật Đất đai năm 2003;
c) Tính giá trị quyền sử dụng đất khi giao đất không thu tiền sử dụng đất cho các tổ chức, cá nhân trong các trường hợp quy định tại Điều 33 của Luật Đất đai năm 2003;
d) Xác định giá trị quyền sử dụng đất để tính vào giá trị tài sản của doanh nghiệp nhà nước khi doanh nghiệp cổ phần hoá, lựa chọn hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất theo quy định tại khoản 3 Điều 59 của Luật Đất đai năm 2003;
đ) Tính giá trị quyền sử dụng đất để thu lệ phí trước bạ chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật;
e) Tính giá trị quyền sử dụng đất để bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế quy định tại Điều 39, Điều 40 của Luật Đất đai năm 2003;
g) Tính tiền bồi thường đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai mà gây thiệt hại cho Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Những đối tượng áp dụng giá theo các mục đích nêu trên luôn mâu thuẫn nhau về lợi ích: Trường hợp bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất luôn muốn mức giá cao, ngược lại, các trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước luôn muốn mức giá thấp và do vậy luôn có những luồng ý kiến trái ngược nhau về giá các loại đất như hiện nay.
Giá đất tính bồi thường là vấn đề đa dạng và phức tạp. Nó thể hiện khác nhau đối với mỗi một dự án, nó liên quan trực tiếp đến lợi ích của các bên tham gia và lợi ích của toàn xã hội.
- Tính đa dạng thể hiện: mỗi dự án được tiến hành trên một vùng đất khác nhau với điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội và trình độ dân trí nhất định. Đối với khu vực nội thành, mật độ dân cư cao, ngành nghề đa dạng, giá trị đất và tài sản trên đất lớn dẫn đến quá trình GPMB có đặc trưng nhất định. Đối với khu vực ven đô, mức độ tập trung dân cư khá cao, ngành nghề dân cư phức tạp, hoạt động sản xuất đa dạng: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, buôn bán nhỏ... quá trình GPMB và giá đất tính bồi thường cũng có đặc trưng riêng của nó. Còn đối với khu vực ngoại thành, hoạt động sản xuất chủ yếu của dân cư là sản xuất nông nghiệp, đời sống phụ thuộc chính vào nông nghiệp. Do đó, công tác GPMB, giá đất tính bồi thường được tiến hành với những đặc điểm riêng biệt.
- Tính phức tạp thể hiện: đất đai là tài sản có giá trị cao, có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội đối với mọi người dân. ở khu vực nông thôn, dân cư chủ yếu sống nhờ vào hoạt động sản xuất nông nghiệp mà đất đai lại là tư liệu sản xuất quan trọng trong khi trình độ sản xuất của nông dân thấp, khả năng chuyển đổi nghề nghiệp khó khăn do đó tâm lý dân cư vùng này là giữ được đất để sản xuất, thậm chí họ cho thuê đất còn được lợi nhuận cao hơn là sản xuất nhưng họ vẫn không cho thuê. Trước tình hình đó đã dẫn đến công tác tuyên truyền, vận động dân cư tham gia di chuyển là rất khó khăn và việc hỗ trợ chuyển nghề nghiệp là điều cần thiết để đảm bảo đời sống dân cư sau này. Mặt khác, cây trồng, vật nuôi trên vùng đó cũng đa dạng, không được tập trung một loại nhất định nên gây khó khăn cho công tác định giá bồi thường.
Đối với đất ở lại càng phức tạp hơn do những nguyên nhân sau:
+ Đất ở là tài sản có giá trị lớn, gắn bó trực tiếp với đời sống và sinh hoạt của người dân mà tâm lý, tập quán là ngại di chuyển chỗ ở.
+ Nguồn gốc hình thành đất đai khác nhau do tồn tại chế độ cũ để lại và do cơ chế chính sách không đồng bộ dẫn đến tình trạng lấn chiếm đất đai xây nhà trái phép diễn ra thường xuyên.
+ Thiếu quỹ đất và vốn do xây dựng khu tái định cư cũng như chất lượng khu tái định cư thấp chưa đảm bảo được yêu cầu.
+ Dân cư một số vùng sống chủ yếu bằng nghề buôn bán nhỏ và sống bám vào các trục đường giao thông làm kế sinh nhai nay chuyển đến ở khu vực mới thì điều kiện kiếm sống bị thay đổi nên họ không muốn di chuyển.
+ Do chính sách pháp luật chưa phù hợp .
Từ các điểm trên cho thấy mỗi dự án khác nhau thì công tác GPMB được thực hiện khác nhau cũng như giá đất để tính bồi thường của mỗi dự án cũng có những đặc điểm, điều kiện và hoàn cảnh khác nhau.
II.1.3. Quá trình bồi thường, hỗ trợ GPMB của một số nước và các tổ chức:
Đối với bất cứ một quốc gia nào trên thế giới, đất đai là nguồn lực quan trọng nhất, cơ bản của mọi hoạt động đời sống kinh tế - xã hội. Khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ cho các mục đích của quốc gia đã làm thay đổi toàn bộ đời sống kinh tế của hàng triệu hộ gia đình, cá nhân, người bị ảnh hưởng không những không hạn chế về số lượng mà có xu hướng ngày càng tăng. Đặc biệt, ở những nước đang phát triển, người dân chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp thì vấn đề thu hồi đất quả là vấn đề sống còn của họ. Dưới đây là một số kinh nghiệm quản lý đất đai của các nước trên thế giới sẽ phần nào giúp ích cho Việt Nam chúng ta, đặc biệt trong chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định khi khi thực hiện giải phóng mặt bằng các dự án.
II.1.3.1. Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của Ngân hàng thế giới (WB)
Hầu hết các dự án được tài trợ bởi vốn vay của ngân hàng Thế giới (WB) đều có chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư do các dự án này đưa ra. Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tía định cư của tổ chức này có nhiều khác biệt so với luật, quy định, chính sách của nhà nước Việt Nam nên có những khó khăn nhất định trong việc áp dụng cho các dự án và đặc biệt có khả năng gây ra một số vấn đề xã hội nhất định, Nhưng bên cạnh cũng có những ảnh hưởng tích cực tới việc hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái địng cư cho người bị thu hồi đất của Việt Nam.
Tất cả mọi vấn đề kinh tế, xã hội phát sinh từ việc thu hồi đất gây ra cho người bị thu hồi đất đều được chính sách của WB quan tâm. Trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thì vấn đề tái định cư được WB quan tâm nhiều hơn, hỗ trợ những người bị ảnh hưởng trong suốt quá trình tái định cư, từ việc tìm nơi ở mới thích hợp cho một khối lượng lớn chủ sử dụng đất đai phải di chuyển, tổ chức các khu tái định cư, trợ giúp chi phí vận chuyển, xây dựng nhà ở mới, đào tạo nghề nghiệp, cho vay vốn phát triển sản xuất, cung cấp các dịch vụ...tại khu tái định cư.
Vì vậy các dự án do Ngân hàng Thế giới cho vay phải được các bộ chủ quản dự án thông qua như các chương trình tái định cư. Cũng như Ngân hàng thế giới (WB) theo Ngân hàng phát triển Châu á những người bị ảnh hưởng bởi dự án là những người bị mất toàn bộ đất đai, tài sản vật chất hoặc chi phí vật chất vào phạm vi thu hồi để giải phóng mặt bằng. Khi triển khai thực hiện công tác giải phóng mặt bằng ADB quan tâm đến hầu hết các vấn đề liên quan đến chủ hộ như nghề nghiệp, thu nhập hàng tháng, nguồn thu nhập của gia đình, số người trong độ tuổi lao động, có trong diện chính sách hay không và cả trình độ học vấn….cùng tính pháp lý của đất đai, tài sản trên đất. Điều đó cho thấy quan điểm bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là triệt để, là bù đắp cho người thiệt hại về kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến người bị thu hồi đất. Khi thực hiện các dự án thì quan điểm của ngân hàng ADB là không những phải thông báo đầy đủ những thông tin về dự án cũng như chính sách bồi thường, tái định cư của dự án cho các hộ dân mà còn tham khảo ý kiến và tìm mọi cách thoả mãn các yêu cầu chính đáng của họ trong suốt quá trình kế hoạch hoá cũng như thực hiện công tác tái định cư.
Về vấn đề tái định cư, mục tiêu chính sách tái định cư của ADB là giảm thiểu tối đa tái định cư và phải bảo đảm cho các hộ bị di chuyển được bồi thường và hỗ trợ sao cho tương lai kinh tế và xã hội của họ được thuận lợi tương tự trong trường hợp không có dự án. Xuất phát từ mục tiêu này chính sách tái định cư của ADB phải bao hàm toàn bộ quá trình từ bồi thường, giúp di chuyển và khôi phục các điều kiện sống, tạo thu nhập cho các hộ bị ảnh hưởng bằng mức ít nhất như chưa có dự án.
Theo chính sách của ADB thì việc bồi thường và tái địng cư bao giờ cũng phải hoàn thành xong trước khi tiến hành công trình xây dựng trong khi ở Việt Nam chưa có quy định rõ ràng về thời hạn này (có rất nhiều dự án vừa giải toả mặt bằng vừa triển khai thi công, chỗ nào giải phóng mặt bằng xong thì thi công trước để chống lấn chiếm đất đai...), do vậy nhiều gia đình còn chưa kịp thời xây dựng sửa chữa, xây dựng lại hoặc xây dựng lại nhà ở mới có nơi ổn định trước khi giải toả.
II.1.3.2. Inđônêxia
Đối với Inđônêxia di dân TĐC, bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích phát triển của xã hội từ trước đến nay vẫn bị coi là sự ‘hi sinh” mà một số người phải chấp nhận vì lợi ích của số đông và lợi ích cộng đồng. Các chương trình bồi thường TĐC chỉ giới hạn trong phạm vi bồi thường theo Luật cho đất bị dự án chiếm dụng, hoặc cho một số ít trường hợp đất TĐC.
Tuy nhiên, quan điểm nhìn nhận về công tác bồi thường TĐC đang từng bước thay đổi, nhận thức về hậu quả xấu có thể xảy ra đối với các vấn đề kinh tế, xã hội, môi trường trong quá trình thu hồi đất và di dân, mặt khác, từ thực tế khách quan và sự chuyển biến về nhận thức, người bị ảnh hưởng quan tâm ngày càng lớn về quyền lợi và phúc lợi cho họ, vì vậy TĐC ngày càng được xem như những chương trình phát triển của quốc gia. Kinh nghiệm thực tiễn đã giúp cho các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia lập kế hoạch và các nhà thực thi đi đến thống nhất rằng chi phí phải trả cho những tổn thất do sự thiếu quan tâm và đầu tư trong quá trình thực hiện chính sách TĐC có thể lớn hơn rất nhiều chi phí TĐC đúng đắn. Hơn nữa, những người bị bần cùng hoá, đến một thời điểm nhất định sẽ là nguyên nhân làm kiệt quệ nền kinh tế quốc dân. Do vậy, tránh hay giảm thiểu việc di dân TĐC, cộng với việc khôi phục thoả đáng cho những người bị ảnh hưởng, ngoài việc đạt được lợi ích về mặt kinh tế, còn đảm bảo tính công bằng đối với họ, điều này giúp cho các chủ thể an tâm trong quá trình triển khai thực hiện dự án.
Ngân hàng và các Nhà nước đang phát triển cần nhìn nhận những thay đổi về nhận thức này như cơ hội chứ không phải trở ngại, cần xây dựng, chính thức thông qua và thể chế hoá, thực hiện một chính sách TĐC bắt buộc nó sẽ tạo nên một môi trường pháp chế lành mạnh khi Nhà nước cần thu hồi đất phục vụ cho các mục đích công cộng của quốc gia. Mặt khác, cần cải tiến cách hiểu và lập kế hoạch thực hiện, sao cho các dự án luôn hướng tới sự phát triển, sự phát triển đó không chỉ mang lại lợi ích về kinh tế mà còn môi trường - xã hội, phương thức này phù hợp với hai mục tiêu tương ứng đồng thời là giảm nghèo đói và phát triển bền vững.
TĐC bắt buộc có ba yếu tố quan trọng:
- Đền bù tài sản bị thiệt hại, nghề nghiệp và thu nhập bị mất.
- Hỗ trợ di chuyển trong đó có trợ cấp, bố trí nơi ở mới với các dịch vụ và phương tiện phù hợp.
- Trợ cấp khôi phục để ít nhất người bị ảnh hưởng có được mức sống đạt hoặc gần đạt so với mức sống trước khi có dự án.
Đối với các dự án có di dân TĐC, việc lập kế hoạch, thiết kế nội dung di dân là yếu tố không thể thiếu được ngay từ chu kỳ đầu tiên của việc lập dự án đầu tư và những nguyên tắc chính phải được đề cập đến, bao gồm:
- Nghiên cứu kỹ phương án khả thi của các dự án để giảm thiểu việc di dân bắt buộc, nếu không thể tránh được khi triển khai dự án.
- Người bị ảnh hưởng phải được bồi thường và hỗ trợ để triển vọng kinh tế, xã hội của người bị ảnh hưởng nói chung ít nhất cũng thuận lợi như trong trường hợp không có dự án - Đất đai, nhà cửa, cơ sở hạ tầng thích hợp và các loại bồi thường khác tương xứng như trước khi có dự án phải được cấp cho người bị ảnh hưởng, chú trọng đến người dân bản địa (các dự án nước ngoài) dân tộc thiểu số, nông dân vì họ là những người có quyền lợi hoặc quyền hoa lợi theo phong tục đối với đất và các tài sản khác bị dự án chiếm dụng.
- Bất cứ dự án nào về TĐC cần có nhận thức và ý thức, thực hiện đạt hiệu quả ở mức càng cao càng tốt, các kế hoạch TĐC phải được soạn thảo và xác lập tương ứng với thời gian và ngân sách phù hợp, người di chuyển được hưởng các cơ hội về nơi ở, nguồn sống, nguồn lực ổn định cuộc sống càng nhanh càng tốt.
- Người bị ảnh hưởng phải được thông báo đầy đủ, được tham khảo ý kiến chi tiết về các phương án bồi thường TĐC - người bị ảnh hưởng phải được hỗ trợ ở mức cao nhất về hoà nhập cộng đồng dân cư địa phương bằng cách mở rộng lợi ích của dự án đến cả các cộng đồng dân địa phương.
- Chú ý đến người nghèo nhất, trong đó có những người không hoặc chưa có quyền hợp pháp về đất đai, tài sản, những hộ gia đình do phụ nữ làm chủ. Đồng thời, sớm có kế hoạch xác định quyền hợp pháp của họ, cố gắng hạn chế những trường hợp coi lý do ngăn trở bồi thường TĐC là việc thiếu quyền sở hữu, quyền sử dụng đất hợp pháp.
- Để không ngừng cải tiến sự hỗ trợ của ngân hàng với các dự án trong lĩnh vực nhạy cảm này, cần chính thức thông qua và thực hiện một số chính sách bồi thường TĐC bắt buộc. Chính sách này không thể thiếu trong việc nêu rõ các mục tiêu và phương pháp, định ra các tiêu chuẩn trong hoạt động của các tổ chức ngân hàng, mở ra một cách nhìn bao quát rõ ràng về tất cả các vấn đề đó và vận dụng thủ tục chính thức để giải quyết có hệ thống những khía cạnh này trong các hoạt động của ngân hàng.
II.1.3. 3. Trung Quốc
Về pháp luật đất đai, Trung Quốc có nhiều nét tương đồng với pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên nhìn tổng thể, việc chấp hành pháp luật của người Trung Quốc rất cao. Việc sử dụng đất tại Trung Quốc thực sự tiết kiệm, Nhà nước Trung Quốc hoàn toàn cấm việc mua bán chuyển nhượng đất đai. Do vậy, thị trường đất đai gần như không tồn tại mà chỉ có thị trường nhà ở.
Về bồi thường thiệt hại về đất đai, do đất đai thuộc sở hữu Nhà nước nên không có chính sách bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, kể cả đất nông nghiệp, tuỳ trường hợp cụ thể, Nhà nước sẽ cấp đất mới cho các chủ sử dụng bị thu hồi đất.
Về phương thức bồi thường thiệt hại, Nhà nước thông báo cho người sử dụng đất biết trước việc họ sẽ bị thu hồi đất trong thời hạn một năm. Người dân có quyền lựa chọn các hình thức bồi thường thiệt hại bằng tiền hoặc bằng nhà tại khu ở mới. Tại thủ đô Bắc Kinh và Thành phố Thượng Hải, người dân thường lựa chọn bồi thường thiệt hại bằng tiền và tự tìm chỗ ở mới phù hợp với công việc nơi làm việc của mình.
Về giá bồi thường thiệt hại, tiêu chuẩn là giá thị trường. Mức giá này cũng được Nhà nước quy định cho từng khu vực và chất lượng nhà, đồng thời được điều chỉnh rất linh hoạt cho phù hợp với thực tế, vừa được coi là Nhà nước tác động điều chỉnh tại chính thị trường đó. Đối với đất nông nghiệp, việc bồi thường thiệt hại theo tính chất của đất và loại đất (tốt, xấu).
Về tái định cư, các khu tái định cư và các khu nhà ở được xây dựng đồng bộ và kịp thời, thường xuyên đáp ứng nhu cầu nhiều loại căn hộ với các nhu cầu sử dụng khác nhau. Các chủ sử dụng phải di chuyển đều được chính quyền chú ý điều kiện về việc làm, đối với các đối tượng chính sách xã hội được Nhà nước có chính sách xã hội riêng.
Khi di dời thực hiện nguyên tắc chỗ ở mới tốt hơn chỗ ở cũ. Khu tái định cư được quy hoạch tổng thể (nhà ở, trường học, chợ), cân đối được giao thông động và tĩnh. Trong quá trình bồi thường, GPMB phải lập các biện pháp xử lý đối với việc sắp xếp bồi thường khi không đạt được thống nhất. Khi không đạt được thống nhất sẽ xử lý theo phương thức trước tiên là dựa theo trọng tài, sau theo khiếu tố.
Tiêu chuẩn sắp xếp bồi thường di dời nhà cửa hiện nay của Thành phố Thượng Hải được thực hiện theo 3 loại:
- Loại 1: Lấy theo giá thị trường của nhà đất đối với nhà bị tháo dời cộng thêm với “Giá tăng thêm nhân với diện tích xây dựng của ngôi nhà bị tháo dỡ”.
- Loại 2: Đổi nhà theo tiêu chuẩn giá trị, bố trí nhà lấy theo giá thị trường, giá tương đương với giá nhà bị tháo dỡ, di dời.
- Loại 3: Bố trí nhà theo tiêu chuẩn diện tích, đây là tiêu chuẩn mà chính quyền quận, huyện nơi có di dời lập ra đối với những người có khó khăn về nhà ở. Người bị di dời có thể chọn hình thức bố trí nhà ở cho phù hợp. Dựa vào khu vực bố trí nhà ở để tăng diện tích, dựa theo phân cấp từng vùng trong thành phố. Càng ra ngoại vi càng được hệ số tăng thêm, mức tăng thêm có thể là 70%, 80% hay 100% [26].
II.1.3. 4. Thái Lan
Chưa có chính sách bồi thường TĐC quốc gia, nhưng tại Hiến Pháp năm 1982 quy định việc trưng dụng đất cho các mục đích xây dựng cơ sở hạ tầng, quốc phòng, phát triển nguồn tài nguyên cho đất nước, phát triển đô thị, cải tạo đất đai và các mục đích công cộng khác phải theo thời giá thị trường cho những người hợp pháp về tất cả các thiệt hại do việc trưng dụng gây ra và quy định việc bồi thường phải khách quan cho người chủ mảnh đất và người có quyền thừa kế tài sản đó. Dựa trên các qui định này, các ngành có qui định chi tiết cho việc thực hiện trưng dụng đất của ngành mình.
Năm 1987 Thái Lan ban hành Luật về trưng dụng bất động sản áp dụng cho việc trưng dụng đất sử dụng vào các mục đích xây dụng tiện ích công cộng, quốc phòng, phát triển nguồn tài nguyên hoặc các lợi ích khác cho đất nước, phát triển đô thị, nông nghiệp, công nghiệp, cải tạo đất đai vào các mục đích công cộng. Luật qui định những nguyên tắc về trưng dụng đất, nguyên tắc tính giá trị bồi thường các loại tài sản bị thiệt hại. Căn cứ vào đó, từng ngành đưa ra các qui định cụ thể về trình tự tiến hành bồi thường TĐC, nguyên tắc cụ thể xác định giá trị bồi thường, các bước lập và phê duyệt dự án bồi thường, thủ tục thành lập các cơ quan, uỷ ban._.ời dân gặp khó khăn trong gieo trồng); hay không cho người dân biết trước về quy hoạch, mà chỉ báo trước cho họ từ 3-4 tháng trước khi tiến hành thu hồi đất nông nghiệp,...
Với người nông dân, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu, là phần tài sản quý giá của họ, nguồn nuôi dưỡng gia đình, chính vì vậy mà việc thu hồi đất nông nghiệp của người nông dân lẽ ra phải được thực hiện một cách có kế hoạch, có quy hoạch, công khai chính sách rõ ràng, và điều quan trọng là phải có giải pháp thoả đáng đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của người nông dân.
IV.5.2. Tác động của quá trình thu hồi đất nông nghiệp đến nghề nghiệp và việc làm của người nông dân
Để đánh giá một cách khách quan và cụ thể các tác động của quá trình chuyển đổi sử dụng đất nông nghiệp đến cuộc sống của người nông dân của 3 dự án trên, tác giả đã thực hiện điều tra 150 phiếu hộ gia đình. Mẫu phiếu hỏi được thành lập với mục đích phỏng vấn sâu về nhiều vấn đề trong cuộc sống của các hộ gia đình nông dân từ trước và sau khi tiến hành chuyển đổi sử dụng đất nông nghiệp. Việc phỏng vấn được thực hiện ở cả 3 dự án. Trong quá trình phỏng vấn, tác giả nhận thấy các hộ gia đình ở phường Thượng Thanh và Việt Hưng có nhiều điểm chung, và có sự khác biệt rõ ràng với các hộ gia đình ở phường Long Biên về thu nhập, đời sống, nghề nghiệp, việc sử dụng tiền bồi thường vào mục đích gí, Ngoài ra, tác giả gặp một số khó khăn khi phỏng vấn hộ gia đình, do vấn đề tác giả muốn hỏi là vấn đề nhạy cảm, nhiều hộ gia đình không muốn trả lời hoặc chỉ trả lời một số câu hỏi trong phiếu phỏng vấn, hoặc trả lời không đúng sự thật, dẫn đến các thông tin trong phiếu thiếu tính logic. Số phiếu đã bị tác giả loại ra là 15 phiếu.
IV.5.3. Chuyển đổi nghề nghiệp việc làm:
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp kéo theo quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, đào tạo việc làm theo xu hướng gia tăng lao động ngành dịch vụ, kinh doanh, sản xuất phi nông nghiệp. Trước thời điểm chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp, ngành nghề chính của người nông dân là sản xuất nông nghiệp và một phần buôn bán thời vụ. Nhưng đến giai đoạn 2005-2007, các hoạt động kinh doanh, dịch vụ, buôn bán, xây dựng phát triển mạnh mẽ, sản xuất nông nghiệp. Mặc dù vẫn còn ruộng, nhưng các hộ gia đình đã không còn tập trung vào nghề nông nữa. Một số hộ duy trì việc cấy lúa trong những mảnh ruộng có thể gieo trồng được chỉ để giữ ruộng, vì thu nhập từ cây lúa rất thấp. Quá trình này vừa tác động tích cực, lại vừa gây ra nhiều khó khăn cho cuộc sống của người nông dân.
Bảng 17: Thống kê số hộ chuyển đổi nghề nghiệp
trước và sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp của 3 dự án
Tên dự án
Nghề nghiệp của các hộ trước khi bị thu hồi đất (%)
Nghề nghiệp của các hộ sau khi bị thu hồi đất (%)
NN
Kinh doanh
Ngành nghề khác
Hộ không có việc làm
NN
Kinh doanh
Ngành nghề khác
Hộ không có việc làm
Dự án 1
100
16
34
0
56
36
44
16
Dự án 2
92
32
42
0
22
56
62
20
Dự án 3
100
10
25
0
34
26
74
34
Qua bảng trên cho ta thấy, tỷ lệ chuyển đổi nghề nghiệp của các hộ dân trước và sau khi bị thu hồi đất là rất lớn cụ thể như trước khi thu hồi đất của số hộ của dự án 1 sử dụng đất nông nghiệp là 100%, sau khi bị thu hồi số hộ còn tiếp tục làm ngông nghiệp đã xuống còn 56%, bên cạnh đó, ngành kinh doanh, dịch vụ và các ngành nghề khác như sửa chữa xe máy, thợ xây.... tăng nên đáng kể như ngành nghề kinh doanh từ 16% lên 36%.
IV.5.4. Hoạt động kinh doanh, dịch vụ
Từ khi thành lập Quận theo Nghị định số 132/2003/NĐ-CP ngày 06/11/2003 của Chính phủ, quận Long Biên nằm ở vị trí thuận tiện trong việc đi lại, phát triển kinh tế nhiều thành phần và có một số bến bãi xe chính trước khi vào Thành phố, kể từ sau năm 2005, khi quá trình thu hồi đất nông nghiệp diễn ra mạnh mẽ, một phần lớn quỹ đất nông nghiệp bị thu hồi, người dân Long Biên ồ ạt chuyển sang hoạt động dịch vụ, kinh doanh như bán nước, bán tạp hoá, cho thuê phòng trọ, bán hàng ăn,… Cũng do các nguyên nhân khách quan như nhiều dự án xây dựng được thực hiện trên cùng địa bàn, cùng lúc và trong thời gian dài, kéo theo sự di chuyển đến của một lượng lớn công nhân; hệ thống nhà trọ ở vùng dân cư trong thành phố đã dần quá tải, trong khi Long Biên lại có đường giao thông thuận lợi cho việc đi lại. Do đó, hoạt động dịch vụ, buôn bán thời gian đầu ở Long Biên rất phát triển. Điển hình như dự án 2, nếu như trước khi thu hồi đất nông nghiệp, chỉ có 32% hộ trong số hộ được hỏi tham gia vào hoạt động kinh doanh, dịch vụ, buôn bán thì sáu khi bị thu hồi đất đến nay đã có đến 56% các hộ có thu nhập từ hoạt động này và số hộ mở hàng quán nước hoặc hàng ăn tại nhà, làm nghề xe ôm, dịch vụ cho thuê nhà trọ, số hộ bị thất nghiệp chiếm 20% hộ ở đây chủ yếu là những người có tuổi không thể chuyển đổi được nghề nghiệp và buôn bán. Trong 50 hộ được hỏi này thì sau khi bị thu hồi đất của dự án 1 có đến 36% mở dịch vụ kinh doanh, buôn bán và cho thuê nhà trọ, mở hàng quán nước hoặc hàng ăn tại nhà, 44% làm các nghề như xe ôm, thợ xây, trông trẻ và nghề cơ khí.....
Sau khi bị thu hồi ruộng, người nông dân đã khá nhanh nhạy trong việc tìm kiếm nguồn thu nhập thêm bằng cách mở dịch vụ phòng trọ, quán nước, hàng ăn,... Nguồn thu hàng tháng của từng dịch vụ là từ 900.000-1.200.000đ/ tháng, hoặc có thể hơn. Tuy chỉ mang tính tạm thời, nhưng nguồn thu này góp một phần quan trọng giúp người dân ổn định cuộc sống khi không còn đất để sản xuất.
- Sự phát triển của các hoạt động kinh doanh, dịch vụ ở Long Biên được nhận thấy rất rõ ràng. Tuy nhiên, một mối lo ngại lại nổi lên trong hai năm trở lại đây. Khi các dự án bắt đầu hoàn thiện và khu công nghiệp Sài Đồng B đang có một số công ty bị phá sản, một lượng lớn công nhân lại rút đi nơi khác, thì hoạt động hàng quán, cho thuê trọ đang bắt đầu tạm lắng đã hạn chế nguồn thu từ việc cho thuê nhà trọ.
IV.5.5. Các nghề phi nông nghiệp khác:
Trước thu hồi ruộng, hầu như không phải hộ gia đình nào ở Long Biên cũng là hộ thuần nông. Mặc dù 100% hộ có nguồn thu từ nghề nông, nhưng chỉ có 15,84% hộ chỉ sống dựa vào nông nghiệp. Ngoài những hộ có nguồn thu từ hoạt động kinh doanh dịch vụ nhỏ lẻ, 34,65% hộ có lao động theo các nghề phi nông nghiệp như làm công nhân, buôn bán, thợ xây... Lúc còn ruộng, thì với rất nhiều hộ, những công việc như thế này chỉ là việc làm tạm thời trong mùa nông nhàn. Sau khi bị thu hồi ruộng, không làm nghề nông nữa, các nghề này lại trở thành nghề đem lại thu nhập chính cho 16,83% hộ gia đình. Tỷ lệ hộ có nguồn thu thêm từ các công việc phi nông nghiệp khác là 59,41%. Mặc dù các nghề mà họ làm có phần đa dạng hơn, phù hợp với tình hình kinh tế mới hơn, nhưng rất nhiều nghề trong đó cũng vẫn chỉ mang tính tạm thời, không ổn định và không làm lâu dài được.
Điều đáng nói là các lao động ở 4 phường bị thu hồi đất nếu có chuyển đổi việc làm thì đều tự phải tìm cho mình công việc mới, chứ không nhờ được sự giúp đỡ nào của các dự án quy hoạch trên địa bàn. Tiền hỗ trợ lao động mất việc do bị thu hồi đất nông nghiệp được tính gộp vào tiền bồi thường đất nông nghiệp, nên tâm lý chung của người nông dân là sử dụng để tiêu dùng chứ không tách riêng một khoản để cho lao động trong gia đình đi học nghề hoặc đầu tư vào lĩnh vực sản xuất phi nông nghiệp. 100% các hộ gia đình được hỏi đều khẳng định rằng họ đi học nghề mới hoặc tìm được việc làm mới là do chính bản thân họ, các dự án không mở lớp dạy nghề cho người dân, cũng không hỗ trợ tìm kiếm việc làm cho họ. Hoặc cũng có dự án, theo cam kết lúc thực hiện thu hồi đất nông nghiệp đã tuyển dụng một số lao động trẻ của các hộ bị mất ruộng vào làm bảo vệ, công nhân,…nhưng một thời gian ngắn sau lại sa thải họ mà không cho biết nguyên nhân. Quận Long Biên cũng có mở lớp đào tạo nghề cho người nông dân, nhưng số lượng giới hạn và thu nhập từ các nghành, nghề đang đào tạo lại cũng không cao hơn thu nhập từ các việc lao động giản đơn mà người dân đang làm, nên rất ít người theo học. Với các lớp đào tạo nghề cho thu nhập cao hơn như sửa xe máy, ô tô, máy tính, lái xe,…thì người dân phải trả tiền chứ không được miễn phí hay hỗ trợ đào tạo nghề.
IV.5.6. Tác động đến hoạt động sản xuất nông nghiệp
Đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp, có 45 hộ sau các lần thu hồi đất nông nghiệp đã không còn ruộng nữa, các hộ còn lại vẫn còn ít nhiều đất nông nghiệp. Cho đến nay, 128 hộ đã bị thu hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp còn lại. Mặc dù các hộ dân vẫn còn ruộng để sản xuất, nhưng người dân lại không thể tập trung vào sản xuất nông nghiệp từ khi bị thu hồi đất nông nghiệp diễn ra mạnh mẽ bởi 4 lý do:
+ Một phần không nhỏ diện tích ruộng còn lại của các hộ không thể trồng cấy được vì thiếu nước. Khi các dự án thực hiện thi công công trình, hệ thống kênh mương bị phá vỡ, ở rất nhiều mảnh ruộng, người nông dân không đưa nước vào hay dẫn nước ra được, dẫn đến tình trạng đất nông nghiệp đành bỏ hoang không sử dụng.
+ Khoảng không gian cây trồng trước đây rộng rãi, thoáng đãng, nay lại bị thu hẹp lại, bị chia cắt manh mún,...nên phải gánh chịu nhiều rủi ro trong sản xuất như: sâu bọ phá hoại, nạn chuột hoành hành, nguồn nước thiếu, ô nhiễm,...dẫn đến năng suất, sản lượng và chất lượng thu hoạch ngày càng thấp kém.
+ Người dân cũng nhận ra rằng nghề trồng lúa không đem lại thu nhập cao cho người dân bằng các nghề dịch vụ, buôn bán, ... nên họ tập trung đầu tư công sức và thời gian vào các nghề này hơn. Nếu có hộ còn làm ruộng vì họ làm theo thói quen, hoặc là vì họ làm chỉ để giữ ruộng do dư nhiều thời gian rỗi.
+ Từ sau khi nhận tiền bồi thường đất nông nghiệp, nhiều hộ gia đình đã xây nhà to, phần diện tích đất thừa lại của nhà họ không còn nhiều. Đồng thời, không gian bị thu hẹp, nếu chăn nuôi lớn hoặc thực hiện chăn nuôi trên diện tích nhỏ sẽ khiến không khí bị ô nhiễm nặng. Điều đó khiến cho hoạt động chăn nuôi kém phát triển dần..
IV.5.7. Tác động đến thu nhập của hộ gia đình
Những biến chuyển nghề nghiệp, việc làm của người nông dân cũng kéo theo sự thay đổi về mức thu nhập của một hộ gia đình sau khi bị thu hồi đất được thể hiện qua bảng biểu cụ thể như sau:
Bảng 18: Thu nhập bình quân của các hộ gia đình / tháng
STT
Mức thu nhập
(1000VNĐ/tháng/hộ)
Số hộ đạt mức thu nhập
Tỷ lệ % so với tổng số hộ được hỏi
1
>=6.000
12
7,89
2
5.000 – 5.990
28
18,42
3
4.000 – 4.990
38
25,0
4
3.00 - 3.990
61
40,13
5
<=2.000
11
7,23
Theo thống kê số liệu từ các phiếu điều tra, có thể thấy dễ nhận biết nhất là các hộ gia đình có mức thu nhập bình quân trên 5 triệu. có 12 hộ đạt mức thu trên 5 triệu, chiếm 7,89% số hộ, do các lao động của hộ đều làm những công việc ổn định và có thu nhập cao như mở cửa hàng bán đồ gỗ, ăn uống, hay mở cửa hàng sửa xe máy,...
Mức thu nhập từ 2-5 triệu/hộ/tháng chiếm đa số trong các hộ gia đình được hỏi , nhiều nhất là mức thu nhập từ 3-4 triệu/hộ/tháng, đây là mức cao hơn hẳn so với hộ gia đình thuần nông. Điểm chung giữa các hộ gia đình nông dân là mức thu nhập của các hộ đều có xu hướng gia tăng từ khi bắt đầu quá trình thu hồi đất và chuyển đổi nghề nghiệp đến nay, chủ yếu là nhờ vào hoạt động kinh doanh, dịch vụ, buôn bán. Các hoạt động dịch vụ, kinh doanh đem lại mức thu nhập cao hơn hẳn so với nghề nông. Một tháng một hộ cho thuê trọ cũng thu về 1-2,5 triệu tùy theo số lượng phòng và giá cho thuê, hàng ăn, hàng tạp hóa cũng cho lãi khoảng 1,5 đến 3 triệu/tháng, trong khi, chăn nuôi lợn cũng chỉ đem lại trung bình 400.000-600.000đ/tháng tiền lãi.
IV.5.8. Tác động của chuyển đổi đất nông nghiệp đến giá trị tài sản trong gia đình
Thu nhập hộ gia đình được nâng cao, một phần do được bồi thường về diện tích đất bị thu hồi đất và sự chuyển dịch chuyển đổi nghê nghiệp đã khiến cho đời sống của người nông dân đã có nhiều chuyển biến.
a. Thay đổi về nhà ở
Nếu như trước chuyển đổi, hầu hết các hộ gia đình đều chỉ sống trong những căn nhà mái ngói, một tầng. Chỉ có 3,29% trong số các hộ được hỏi đã có nhà 2 tầng từ trước năm 2000, nhưng không phải hộ nào cũng xây được nhà từ thu nhập của mình. Sau khi người dân khi cầm tiền bồi thường trong tay đều muốn xây nhà to. Chỉ còn 42,11% hộ chưa xây được nhà; còn lại, 2,63% hộ đã xây nhà 1,5 tầng; 30,92% hộ có nhà 2 tầng và 23,68% hộ xây nhà 3-4 tầng.
b. Thay đổi về các vật dụng trong gia đình
Sự thay đổi về tài sản của các hộ cũng rất dễ nhận thấy. Trước khi bị thu hồi đất, trong 150 hộ được hỏi thì 67,58% hộ có ti vi, 25,34% hộ có xe máy, Sau quá trình thu hồi đất nông nghiệp diễn ra ồ ạt, 100% số hộ đều đã có ti vi, 89,50% hộ có 1 xe máy, và Số hộ sắm được điện thoại cố định và tủ lạnh thời kỳ này tăng vọt, từ 12,5% lên đến 84,87% hộ có điện thoại cố định, điện thoại di động đã phổ biến hơn ở các hộ gia đình, và mua sắm máy vi tính trong nhà được thể hiện ở sơ đồ sau:
Hình 3. Biểu đồ so sánh sự thay đổi tài sản hộ gia đình trước và sau
bị thu hồi đất nông nghiệp của 3 dự án
Số hộ
0
20
40
60
80
100
120
140
160
Ti vi
Xe
máy
ĐT
cố
định
ĐT di
động
Vi
tính
Tủ
lạnh
Salon
Trước khi bị thu hồi
Sau khi bị thu hồi
Có thể nhận thấy, sau khi thị thu hồi đất, giá trị tài sản trong các gia đình đã tăng lên một cách rệt, điều đó khăng định việc chuyển đổi sử dụng đất của các Phường trên địa bàn Quận đã tạo điều kiện để nhũng hộ dân được nâng cao phần nào đời sống tinh thần, vật chất, ngoài ra cũng nâng cao trình độ nhận thức của người dân khi tiếp thu những sản phẩm hiện đại trong gia đình.
IV.5.9. Thực trạng sử dụng tiền bồi thường đất của các hộ dân:
Với 150 hộ gia đình được hỏi thì tính từ năm 2005 đến nay, có đến 62,97% tổng diện tích ruộng của họ đã bị thu hồi bởi nhiều dự án khác nhau và trong những năm khác nhau. Tính bình quân số tiền bồi thường đất nông nghiệp mà người dân được hưởng qua các dự án này là khoảng 137 triệu đồng/hộ. Số hộ nhận tổng số tiền đền bù từ 180-300 triệu là khoảng 168 hộ, ngoài ra đối với đất ở có hộ nhận 7 tỷ tiền bồi thường. Với số tiền này, phần lớn người nông dân đã sử dụng để sửa chữa, làm nhà, mua xe máy, điện thoại di động hoặc các vật dụng khác trong gia đình như ti vi, tủ lạnh, máy giặt, và các đồ dụng phục vụ trong sinh hoạt và một phần gửi tiền ở các ngân hàng để tính tiền lãi suất hàng tháng, số hộ đầu tư cho sản xuất và kinh doanh chiếm một tỷ lệ rất nhỏ.
Bảng 19: Thống kê tình hình sử dụng tiền bồi thường, hỗ trợ của các hộ gia đình vào việc mua sắm đồ dùng trong gia đình
Mua sắm
Số tiền bình quân sử dụng để mua sắm
(VND)
Tỷ lệ % so với số tiền đền bù bình quân các hộ được nhận
Số hộ
Tỷ lệ % trong 152 hộ được đền bù đất nông nghiệp
Xây nhà
212.717.000
202,06
78
51,49
Sửa nhà
30.625.000
29,09
12
7,92
Mua xe máy
18.478.300
17,55
63
41,58
Mua ĐTDĐ
2.229.000
2,12
26
16,83
Mua vật dụng lớn như tivi, tủ lạnh, máy giặt, salon,...
2.762.100
2,62
90
59,41
Sử dụng cho mục đích khác
47.615.800
45,23
21
13,86
Đầu tư cho sản xuất
39.851.000
37,86
72
47,52
a. Mua sắm vật dụng, kinh doanh
Số tiền mà các hộ gia đình đầu tư vào sản xuất, kinh doanh như mua máy cơ khí, dụng cụ để phục vụ sản xuất, đồ nghề, đầu tư cho xây nhà trọ hoặc mở cửa hàng nước, hàng tạp hóa,... chỉ đạt 15% số tiền được bồi thường mà họ nhận được, nhưng chỉ bằng 7% số tiền mà họ sử dụng cho chi tiêu, mua sắm và xây sửa nhà.
IV.6. Những giải pháp nhằm đẩy nhanh công tác GPMB các dự án:
IV.6.1.Hoàn thiện các quy định về thu hồi đất, bồi thường và hỗ trợ đối với đất nông nghiệp nói chung
Mục tiêu của giải pháp này là hoàn thiện ở tầm quản lý vĩ mô các quy định để đảm bảo hài hoà mối quan hệ về lợi ích và nghĩa vụ của Nhà nước, xã hội, chủ đầu tư, các doanh nghiệp và nông dân có đất bị thu hồi.
Trên thực tế, các chính sách pháp luật và các quy định về thu hồi đất hiện nay vẫn thiên lệch về quyền thu hồi đất của Nhà nước, nhấn mạnh việc tạo vốn từ quỹ đất để phát triển kinh tế mà chưa quan tâm đúng mức tới lợi ích đúng đắn của người sử dụng đất, đặc biệt là trong việc định giá đất bồi thường.
Việc thu hồi đất nông nghiệp ở Long Biên, Hà Nội và cả các địa phương khác cho thấy sự nóng vội trong việc giải phóng mặt bằng để có được dự án đầu tư mà chưa chú ý tới tính khả thi của dự án, dẫn tới tình trạng không sử dụng đất ngay sau khi thu hồi, chưa chú ý thoả đáng tới những vấn đề xã hội nảy sinh sau khi thu hồi đất, dẫn tới thiếu phương án tích cực để giải quyết việc làm cho người dân có đất bị thu hồi.
Trong khi chính sách của Nhà nước nói chung và của thành phố Hà Nội nói riêng đã được đề ra một cách rõ ràng và hợp lý, nhưng việc thực thi vẫn thể hiện những sai phạm, có thể thấy rõ ở không chỉ quận Long Biên mà còn ở nhiều địa phương khác. Điều này cho thấy cơ quan quản lý hoặc buông lỏng, hoặc chưa có chế tài cụ thể để kiểm tra chặt chẽ các quy định của Nhà nước về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ; chưa có quy định cụ thể về việc kiểm soát, thanh tra việc sử dụng đất và việc thực thi nghĩa vụ của chủ đầu tư sau giải phóng mặt bằng dẫn tới việc tồn tại các kẽ hở pháp luật để xảy ra hiện tượng các phương án chi trả tiền bồi thường hoặc thiếu trách nhiệm với người có đất bị thu hồi từ phía nhà đầu tư và các cấp có thẩm quyền. ( Ví dụ như dự án xây dựng cầu Vĩnh Tuy, UBND Quận Long Biên đã hoàn thành công tác bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư cuối năm 2006 đến cuối năm 2008 mới tiến hành xây dựng. Trong khi đó khi tiến hành công tác GPMB, UBND Quận đã tuyên truyền vận động để sớm có mặt bằng thi công và được nhân dân đông tình ủng hộ, việc chủ đầu tư không thực hiện thi công để đất trống đã gây khó khăn trong công tác GPMB các dự án khác trên địa bàn).
Để khắc phụcTất cả các kẽ hở này cần có các giải pháp cụ thể, tạo mặt bằng pháp lý đầy đủ và thoả đáng.
- Trước hết, Nhà nước, Thành phố Hà Nội cũng như chính quyền địa phương phải xác định trách nhiệm chính là cân đối giữa quyền lợi của các hộ nông dân và doanh nghiệp tư nhân, giữa người bị thu hồi ruộng với người được xây dựng và thu lời trên những mảnh ruộng đó theo hướng hiệu quả, minh bạch và nhất quán.
- Các dự án bồi thường và thu hồi đất khi thực hiện phải được lấy ý kiến của dân, xem xét nguyện vọng của người dân, hoặc đưa ra những phương án khác nhau để người dân chọn lựa. Khi được tham gia vào quá trình quy hoạch, cảm thấy được tôn trọng, người nông dân sẽ dễ dàng chấp nhận những đề xuất hợp lý của dự án trong việc bồi thường và thu hồi ruộng đất. Đây là điều mà hầu hết các chủ dự án đầu tư, xây dựng trên địa bàn quận Long Biên vẫn còn hạn chế. ở đây, bản thân các cán bộ Phường, tổ trưởng tổ dân phố, bí thư chi bộ cũng là những người biết ít nhất về thông tin quy hoạch cụ thể, thông tin tuyển dụng và đầu tư của từng dự án, chứ chưa nói đến người dân. Điều bất hợp lý là rõ ràng, mà khi đã nhận ra, thì cần phải sửa đổi.
- Bên cạnh đó, chính quyền địa phương các cấp nói chung và Hà Nội nói riêng phải có kế hoạch sử dụng đất cả trước mắt và lâu dài, đảm bảo hài hoà lợi ích kinh tế và xã hội, tránh tình trạng quy hoạch treo trong khi người nông dân không có ruộng để sản xuất, hoặc quy hoạch không đồng bộ khiến cho các công trình dù chưa lấy hết diện tích ruộng của người dân, thì đã khiến cho phần ruộng còn lại không thể trồng cấy được như trường hợp đã xảy ra ở phường Thượng Thanh, Phúc Lợi, Long Biên.
IV.6.2. Việc đào tạo nghề và tạo việc làm cho người nông dân bị mất đất
Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu của người nông dân. Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, cũng có nghĩa là các hộ nông dân mất tư liệu sản xuất. Thực tế cho thấy, tốc độ mất đất sản xuất là tức thì, trong khi tốc độ chuyển đổi lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp diễn ra một cách từ từ trong khoảng thời gian tương đối dài vì phải thông qua quá trình đào tạo nghề mới và điều kiện hoàn thiện cơ sở hạ tầng của khu sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp. Đại bộ phận nông dân bị thu hồi đất ở trên địa bàn Quận đều phải tự tìm kiếm cho mình nghề mới, cách thức sống mới mà không có sự trợ giúp của chính quyền và các chủ dự án đầu tư trên địa bàn. Nhiều người trong số họ gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với cơ hội mưu sinh ổn định và lâu dài bằng nghề mới. Việc cân chỉnh, điều tiết sao cho hợp lý giữa tốc độ phát triển kinh tế, tốc độ chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp với tốc độ chuyển đổi lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp, xoá bỏ tình trạng lãng phí đất và gia tăng nạn thất nghiệp sau giải phóng mặt bằng là nhiệm vụ quan trọng của các cấp chính quyền hiện nay. Một trong những biện pháp giải quyết vấn đề là tạo việc làm một cách hợp lý và có hiệu quả cho người nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp.
- Đã có ý kiến cho rằng các cấp chính quyền, các doanh nghiệp không nên trả chi phí hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp bằng tiền mặt cho người nông dân, mà có thể sử dụng thẻ đào tạo nghề. Điều này là hợp lý, vì như tình hình thực tế vì là một Quận vừa mới được Thành lập, người dân được hỗ trợ một khoản tiền để tự đi học nghề, nhưng phần lớn đều sử dụng số tiền đó vào những việc khác. Có thẻ đào tạo nghề trong tay, người dân được phép đăng ký miễn phí vào các lớp học nghề mà họ muốn học, trong một khoảng thời gian nhất định. Giải pháp này vừa khiến người dân đi học nghề mới để chuyển đổi việc làm một cách tự giác, vừa đảm bảo sử dụng hiệu quả và đúng mục đích số tiền hỗ trợ.
- Tuy nhiên, ngành nghề đào tạo phải được đa dạng hơn cho người nông dân, tránh tình trạng đào tạo quá ít nghề, thu nhập của nghề lại quá thấp, khiến cho các lớp học nghề được mở ra, nhưng người nông dân thì không đến học. Hiện nay xu hướng những hộ gia đình bị thu hồi đất trên địa bnà Quận thích đi học lái xe, nấu ăn, học sửa chữa xe máy, ô tô, máy tính...vì theo họ, đó là những nghề cho thu nhập cao, và tạo điều kiện dễ dàng cho họ khi xin việc hay tự kinh doanh hơn. Nhưng các lớp học nghề miễn phí cho người nông dân thì lại không đào tạo những nghề này. Việc mở rộng ngành nghề đào tạo của các lớp học nghề miễn phí cho những lao động bị thu hồi đất nông nghiệp theo mong muốn của họ sẽ tăng cường hiệu quả hoạt động hơn, đồng thời khiến cho người dân cảm thấy quyền lợi của mình được đảm bảo hơn.
- Các doanh nghiệp khi thu hồi đất của địa phương phải cam kết đào tạo nghề cho tầng lớp thanh niên của các hộ gia đình bị thu hồi ruộng khi họ thực hiện dự án, nhằm tuyển dụng chính tầng lớp trẻ đó vào làm việc cho họ. Chính sách của UBND Thành phố Hà Nội cũng có những quy định bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện tạo việc làm cho lao động bị mất ruộng, như mỗi ha đất nông nghiệp bị thu hồi tương ứng với 10 – 15 lao động trong độ tuổi được nhận vào làm việc. Tuy nhiên, chính sách này vẫn chưa được thực hiện chặt chẽ, hiện nay, lượng thanh niên có trình độ học vấn cấp III và trên cấp III chiếm đến gần 560% trong số các hộ bị thu hồi ruộng được hỏi, họ chỉ cần đào tạo thêm về nghề để có thể làm việc được trong các doanh nghiệp, khu công nghiệp,... Nhưng các doanh nghiệp vẫn cứ lấy lý do người lao động ở đây không đủ trình độ làm việc cho họ, dù chỉ ở vị trí công nhân, nhân viên hay bảo vệ. Về vấn đề này, chính quyền Thành phố cần siết chặt pháp luật hơn nữa để các chủ dự án không vi phạm cam kết về hỗ trợ đào tạo nghề và tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất.
- Chính quyền cũng cần nhấn mạnh rằng ngay từ khi lấy đất, doanh nghiệp phải thoả thuận với chính quyền địa phương về số lượng người cần tuyển dụng, chuyên môn kỹ thuật và cụ thể hơn là xác định lao động cần phải đi học ở đâu, nghề gì để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp sau khi xây dựng cơ sở xong. Chính vì việc không rõ ràng trong yêu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp nên người dân bị thu hồi đất không thể định hướng cụ thể việc học ngành nghề mới sao cho phù hợp với công việc mà các doanh nghiệp trên địa bàn yêu cầu. Cam kết thực hiện của ba bên: doanh nghiệp, chính quyền và người lao động phải rõ ràng, cụ thể. Những doanh nghiệp vi phạm sẽ bị xử lý nghiêm minh. Bên cạnh đó việc lấy đất của các địa phương, các doanh nghiệp cũng phải có sự đóng nghiệp về mặt cơ sở hạ tầng cho các địa phương để tạo điều kiện cho những địa phương bị thu hồi đất phát triển.
IV.6.3.Mức giá đất bồi thường:
- Mức giá bồi thường hiện nay mà các chủ đầu tư trả cho người dân bị thu hồi đất quá thấp, đặc biệt là chênh lệch giữa giá vùng nội thành và vùng ngoại thành, khiến cho người nông dân ở đây rất bất bình.
- Ngoài việc bồi thường bằng tiền, thì việc cấp đất dịch vụ cũng là một trong những giải pháp khả thi. Rất nhiều người dân Long Biên khi chưa bị thu hồi đất thì ngoài việc tham gia sản xuất trong thời kỳ vụ mùa, còn tham gia buôn bán các sản phẩm mình làm ra, tuy nhiên, để thực hiện việc này, chính quyền phải mở rộng và nâng cấp hệ thống chợ phù hợp, đặt vị trí chợ ở gần các khu trung tâm và tạo điều kiện cho các hộ gia đình bị thu hồi ruộng. Điều đó sẽ vừa tạo điều kiện để người dân sau khi bị thu hồi đất có chỗ buôn bán ổn định, vừa góp phần thúc đẩy hoạt động dịch vụ và duy trì, ổn định cuộc sống.
- Để đẩy nhanh tiến độ GPMB cũng như tránh những khiếu nại của nhân dân về giá đất bồi thường thấp. Giải pháp tốt nhất là Lãnh đạo Thành phố khi ban hành giá đất để bồi thường phải theo sát giá đất của Thị trường và khi định giá đất cần có sự tham gia của cơ quan hoạt động dịch vụ định giá đất. Hiện nay, tất cả các trường hợp bồi thường về đất trong cơ chế chuyển đổi đất đai bắt buộc đều được các tổ chức cung cấp dịch vụ định giá bất động sản thực hiện giá và đó là cơ sở để UBND Thành phố quyết định về giá đất bồi thường.
- Giá đất bồi thường phải được tính theo cơ chế định giá đất phù hợp với thị trường trước khi được UBND Thành phố quyết định giá để tính bồi thường là cách triển khai rất khách quan, bảo đảm được tính đồng thuận giữa cơ quan Nhà nước và người bị thu hồi đất.
- Giá đất nông nghiệp định theo phương pháp thu nhập không phù hợp với giá đất trên thị trường, nhất là trường hợp đất nông nghiệp đã có quy hoạch chuyển sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp.
- ủng hộ việc chuyển nhượng đất giữa người dân và chủ đầu tư dự án nằm trong quy hoạch sử dụng đất.
- áp dụng phương pháp so sánh để định giá đất phi nông nghiệp khi đã có dự án đầu tư cũng gặp nhiều khó khăn thực tế vì khó tìm ra được đất phi nông nghiệp tương tự với dự án đầu tư tương tự.
- Bên cạnh giá đất bồi thường, cần cho phép các Công ty, doanh nghiệp ngoài Nhà nước tham gia cung cấp dịch vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng vì đây là mô hình mới có nhiệm vụ làm cầu nối giữa cơ quan hành chính và người dân trong cơ chuyển đổi đất đai bắt buộc.
- Khuyến khích các nhà đầu tư nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất hoặc bằng giá trị bồi thường về đất và tài sản gắn liền trên đất, thuê đất của người đang sử dụng đất, mô hình này bảo đảm thu nhập lầu dài của người bị thu hồi đất, gắn liền lợi ích lâu dài của người bị ảnh hưởng với các dự án đầu tư.
Phần V: kết luận và đề nghị
Qua nghiên cứu đề tài:"Đánh giá việc thực hiện giá đất bồi thường ở một số dự án trên địa bàn quận Long Biên, Thành phố Hà Nội", chúng tôi rút ra một số kết luận- Đề nghị sau:
V.1. Kết luận:
+ Trong quá trình thực hiện công tác GPMB, rất nhiều địa phường đã có thời kỳ thả lỏng công tác quản lý đất đai. Vì vậy trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật vào các trường hợp cụ thể đã gặp rất nhiều bất cập, do đó việc thực hiện GPMB phải xây dựng và trình Thành phố bổ sung những chính sách mới cho phù hợp với tình hình thực tế làm cho mất nhiều thời gian( như nhà đất của các khu tập thể do các cơ quan, tổ chức tự thanh lý, giao đất, tự phân......).
+ Về chính sách hỗ trợ đối với các hộ dân bị thu hồi đất chưa đảm bảo để ổn định cuộc sống ngay sau khi Nhà nước thu hồi, các hộ dân bị thu hồi đất sau khi bị thu hồi thường không thích ứng kịp thời với một số công việc mới, chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm vẫn chỉ dừng lại ở việc trả tiền, chưa có các quy định về chương trình đào tạo, dạy nghề.
+ Các mức hỗ trợ chi chuyển còn thấp chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Hộ dân mất đất ở khi bị thu hồi nếu được tái định cư thì phải di chuyển ít nhất là 2 lần, lần 1 phải di chuyển đến chỗ tạm cư để chờ xây dựng nhà ở, lần 2 di chuyển đến chỗ ở tái định cư, ngoài ra một số lượng không nhỏ khi các hộ di chuyển gặp rất nhiều khó khăn trong việc thuê nhà ở tạm.
Việc áp dụng giá đất bồi thường cho đất ở và đất nông nghiệp ở đây là hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, giá đất ở của các dự án trên so với giá đất chuyển nhượng trên thị trường thì chêch lệch từ 1,22 đến 1,62 lần, do vậy, làm hạn chế rất nhiều trong công tác tuyên truyền, vận động thực hiện GPMB của dự án.
Đối với những hộ thu hồi đất ở hiện đang kinh doanh, thì cũng được hỗ trợ kinh phí tạm ngừng kinh doanh do thay đổi vị trí cũng rất thấp( bằng tiền) mà chưa có quy định nào về chương trình đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp vì phần lớn các hộ khi chuyển đến khu tái định cư thì không thể tiếp tục kinh doanh được nữa.
Ngoài chính sách hỗ trợ, chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm rất thấp so với việc thực tế khi học nghề mới, bên cạnh đó việc tính tiền và trả trực tiếp cho người dân đã gây ra phổ biến là người dân không tự mình hoặc không biết học nghề gì, học ở đâu và đã giành số tiền đó vào mục đích mua sắm đồ dùng trong gia đình hoặc xây dựng nhà cửa...
Quá trình tuyên truyền, vận động là một khâu hết sức quan trọng, bởi vì khi công tác vận động từ các cấp Đảng uỷ, các đoàn thể, chi uỷ, tổ dân phố được thông thì công tác GPMB sẽ được người dân ủng hộ cao.
Từ thực tế trên cho thấy, việc áp dụng đơn giá đất trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên thường thấp hơn so với thực tế chuyển nhượng của thị trường, điều này dẫn đến những khó khăn nhất định trong việc thực hiện , ảnh hưởng đến tiến độ giải phóng mặt bằng cuả dự án.
Bên cạnh đó việc bố trí tái định cư bằng đất hoặc nhà chung cư chất lượng còn thấp và vị trí nơi tái định cư không phù hợp với hoàn cảnh sống của người dân được di chuyển đến, hiện vấn đề này đang là một trong những vướng mắc lớn nhất trong công tác GPMB trên địa bàn Thành phố.
V.2. Đề nghị:
1. Hoàn thiện các quy định về thu hồi đất, bồi thường và hỗ trợ đối với đất nông nghiệp nói chung.
2. Việc đào tạo nghề và tạo việc làm cho người nông dân bị mất đất.
3. Xây dựng mức giá đất bồi thường phải sát với giá chuyển nhượng trên thị trường:
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHQL09022.doc