A. LỜI NÓI ĐẦU
Có thể nói thị trường tài chính nước ta chưa bao giờ phát triển mạnh và đạt được những thành công tốc độ tăng trưởng cao vượt bậc trở thành " địa điểm ” đầu tư hấp dẫn trong con mắt các nhà tổ chức, nhà đầu tư nước ngoài. Thị trường tiền tệ phát triển mạnh với hệ thống ngân hàng 2 cấp và ngày càng xuất hiện nhiều các ngân hàng thương mại cổ phần và thương mại nước ngoài. Thị trường vốn vẫn tiếp tục được coi là một thị trường tiềm năng, thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Lượng v
41 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1395 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đánh giá về thị trường tài chính Việt Nam hậu WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốn đầu tư gián tiếp trong các năm qua liên tục tăng cao. Còn thị trường chứng khoán thì lại sôi động hơn bao giờ hết, không chỉ những nhà đầu tư mà ngay cả những người dân cũng quan tâm đến thị trường này. Tất cả những điều đó càng được thể hiện rõ nét sau sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO.
Mặc dù đã có những phát triển mạnh mẽ như vậy nhưng không thể không nhìn nhận sự tụt hậu của tài chính nước ta so với các nước trong khu vực và thế giới. Thị trường tài chính dù là vốn, tiền tệ hay chứng khoán đều đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế Việt Nam. Vì vậy thị trường tài chính được cọi là một trong những ưu tiên hàng đầu của nước ta hiện nay. Đó cũng chính là lí do em chọn đề tài :
“ Đánh giá về thị trường tài chính Việt Nam hậu WTO ”
Nhằm nghiên cứu về thị trường tài chính Việt Nam về thực trạng về các giải pháp phát triển thị trường tài chính của Việt Nam sau khi gia nhập WTO.
B. NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1:Lý luận chung về thị trường tài chính
Lịch sử xã hội cho thấy tài chính ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời của nhà nước và nền sản xuất hàng hóa. Tài chính là hệ thống quan hệ kinh tế biểu hiện trong lĩnh vực hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân nhằm xây dựng, bảo vệ và phát triển xã hội. Theo cách hiểu chung nhất đó là nơi diễn ra quá trình trao đổi mua bán các công cụ tài chính và các công cụ thanh toán.
1. Bản chất của thị trường tài chính
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay để tổ chức hoat động kinh tế cần phảI tạo lập các quỹ tiền tệ mà thực chất là các quỹ giá trị khác nhau và chia thành các phần để phân phối và sử dụng các quỹ đó. Vì vậy ngoài các quan hệ hàng hóa – tiền tệ thì hàng loạt cá quan hệ tiền tệ khác nảy sinh đó là các quan hệ tài chính. Khác với quan hệ hàng hóa tiền tệ tiền biểu hiện như một vật ngang giá, giá trị chỉ thay đổi hình thức tồn tại thì trong các quan hệ tài chính giá trị thực sự chuyển dịch từ chủ thể này hay bộ phận này sang chủ thể hay bộ phận khác.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay để tổ chức các hoạt động kinh tế cần phải tạo lập các quĩ tiền tệ mà thực chất là các quỹ giá trị khác nhau và chia thành các vấn đề phân phối và sử dụng các quỹ đó. Vì vậy ngoài các quan hệ hàng hóa – tiền tệ thì hàng loạt các quan hệ tiền tệ khác nảy sinh, đó là các quan hệ tài chính. Khác với quan hệ hàng hóa – tền tệ, tiền biểu hiện như một vật ngang giá, giá trị chỉ thay đổi hình thức tồn tại thì trong các quan hệ tài chính, giá trị thực sự chuyển dịch từ chủ thể này, bộ phận này sang chủ thể hay bộ phận khác. Chẳng hạn như quan hệ về thuế khi một doanh nghiệp nộp thuế cho Nhà nước, giá trị dịch chuyển từ quỹ tài chính doanh nghiệp sang ngân sách nhà nước. Với nền kinh tế thị trường định hướng xã hộI chủ nghĩa và hộI nhập vớI nền kinh tế quốc tế như hiện nay thì bản chất của tài chính biểu hiện qua các nhóm quan hệ :
Doanh nghiệp, dân cư, các tổ chức xã hội với Nhà nước
Doanh nghiệp, tổ chức xã hộI, dân cư vớI hệ thống ngân hàng
Chủ thể với thị trường
Quan hệ tài chính trong nộI bộ mỗI chủ thể ( doanh nghiệp , dân cư, tổ chức xã hội, …. )
Tổng thể các mối quan hệ tài chính cùng các tổ chức bộ máy thực hiện các chức năng tài chính của cá chủ thể trong nền kinh tế được gọI là hệ thống tài chính. Nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước và định hướng xã hộI chủ nghĩa trong đó hệ thống tài chính bao gồm các bộ phận hợp thành vớI tư cách là các tụ điểm tài chính. Các tụ điểm tài chính này gắn với chủ thể nhất định và thực hiện quá trình “ bơm ”, “ hút ” các nguồn lực tài chính dướI hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua thị trường tài chính. Như vậy vớI tư cách là nơi diễn ra các hoạt động trao đổI mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch, các công cụ và dịch vụ tài chính nhất định, thị trường tài chính có thể hiểu là tổng hào các quan hệ cung cầu về vốn.
Thị trường tài chính được phân thành 2 loại : Thị trường vốn ngắn hạn ( thị trường tiền tệ ) và thị trường vốn dài hạn
Thị trường vốn ngắn hạn : hay còn gọi là thị trường tiền tệ là các hoạt động về cung cấp vốn ngắn hạn ( dướI 1 năm ) diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng các cấp.
Thị trường vốn dài hạn là nơi diễn ra các hoạt động về cung cấp vốn dài hạn cho Chính Phủ , doanh nghiệp, hộ gia đình. Thị trường vốn dài hạn bao gồm thì trường vay nợ dài hạn và thị trường chứng khoán.
2. Vai trò và chức năng của thị trường tài chính
a/ Vai trò :
Thị trường tài chính ngày nay càng này càng mang tính mở và đóng góp vai trò quan trọng trong đờI sống kinh tế - xã hộI hiện đạI ở cấp quốc gia cũng như cấp quốc tế. Đó là những vai trò :
Tạo ra các kênh và công cụ huy động vốn cho đầu tư phát triển từ các nguồn trong và ngoài nước, từ trong doanh nghiệp và trong dân.
Cung cấp cho các nhà đầu tư những cơ hội và thách thức đầu tư đa dạng và phù hợp. Nhà nước trên cơ sở kiểm tra giám sát bằng đồng tiền, nắm được thực tế hoạt động của nền kinh tế có thể dung các biện pháp đầu tư them vốn, bổ sung thêm vốn để đẩy mạnh những ngày kém phát triển và các lĩnh vực trọng yếu cảu nền kinh tế quốc dân hay cũng có thể dung biện pháp giảm vốn đầu tư và hỗ trợ để hạn chế sự phát triển của những ngày những khâu chưa cần thiết. Đồng thờI nhà nước cũng có thể thông qua việc nâng cao hoặc hạ thấp thuế suất để điều tiết hoạt động đầu tư kinh doanh giữa các ngành.
Làm tăng khả năng thanh khoản của các công cụ tài chính và giúp đánh giá xác thực hơn giá trị cảu cá doanh nghiệp và nền kinh tế.
Và cuốI cùng là giúp thực hiện một cách có hiệu quả hơn các chính sách kinh tế vĩ mô theo hướng thị trường mở. Thông qua việc điều chỉnh các quan hệ thu – chi tài chính và phân phốI thu nhập theo nguyên tắc khuyến khích vật chất, xử lí chính xác mỗI quan hệ về lợI ích kinh tế giữa nhà nước, doanh nghiệp, ngườI lao động, tài hcinhs có thể nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh thong qua giám đốc tài chính mà có thể duy trì kỉ luật tài chính góp phần đẩy lùi lãng phí, tham ô ….
b/ Chức năng :
Chức năng cơ bản nhất của thị trường tài chính là khơi thông dòng chảy vốn từ ngườ đang dư thừa có nhu cầu đầu tư sang ngườI đang cần vốn. Hoạt động của thị trường tài chính diễn ra khẩn trương và sôi động xét về bản chất thì những ngườI kinh doanh trên thị trường tài chính là rất quan trọng vì hoạt động của họ làm nguồn vốn điều hòa có nghĩa là dòng chảy vốn chảy mạnh mẽ đến những ngày lĩnh vực kém hấp dẫn. Như vậy hoạt động trên thị trường tài chính sẽ góp phần lớn vào bình quân hóa tỉ suất lợI nhuận đưa nền kinh tế tới mô hình tối ưu hơn.
c/ Tổng quan về thị trường tài chính Việt Nam
Sau hơn 20 năm đổi mới hệ thống tài chính Việt Nam đã có những bước chuyển biến lớn, từ hành chính sang bao cấp vận hành theo cơ chế kinh tế thị trường. Ví dụ như : nhiều cảI cách về hệ thống thuế, đổI mớI hệ thống ngân hàng và tiền tệ, phát triển thị trường bảo hiểm, xây dựng thị trường chứng khoán,… Có thể nói cho đến nay nước ta đã có một cấu trúc thị trường tài chính tài chính khá đầy đủ. Tuy nhiên không chỉ hình thành một cách đầy đủ mà thị trường tài chính Việt Nam trong những năm gần đây đã phát triển mạnh và đạt được tốc độ tăng trưởng cao vượt bậc nhanh chóng trở thành “ địa điểm ” đầu tư hấp dẫn trong con mắt trong con mắt của các nhà đầu tư, tổ chức nước ngoài. Theo nhận định của các nhà chuyên môn, thị trường tài chính Việt Nam là một trong những thị trường tài chính phát triển nhanh nhất thế giới.
Thị trường tài chính Việt Nam được hình thành trong thời kì đổI mớI ngày càng gia tăng về qui mô, đồng bộ về cơ cấu, hiện đại hơn về công nghệ, nghiệp vụ và cũng ngày càng khẳng định đậm nét hơn vị thế mà không thể thiếu được trong tổng thể nền kinh tế thị trường trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan xét về tổng thể thị trường tài chính Việt Nam nổI lên một số đặc điểm sau :
Thứ nhất, thị trường tài chính chưa phát triển đồng bộ về cơ cấu, chưa đồng đều về trình độ giữa các bộ phận hợp thành. Các hoạt động tài chính ở nước ta mới chỉ tập trung vào thị trường vốn ngắn hạn chưa nhiều hoạt động trên thị trường vốn dài hạn. Hơn nữa trong thị trường vốn ngắn hạn cũng chủ yếu tập trung ở một số hoạt động huy động vốn và cho vay tín dụng thông thường của các ngân hàng thương mạI nhà nước, còn ở trong thị trường vốn dài hạn mớI tập trung ở các hoạt động vay nợ dài hạn của Chính Phủ hoặc doanh nghiệp nhà nước… Thị trường chứng khoán _ một định chế tài chính tiên tiến, thước đo trình độ phát triển thị trường của một quốc gia, một hình thức tổ chức trực tiếp giữa người có cung – cầu vốn, không có trung gian tài chính, một thị trường liên tục gần vớI thị trường cạnh tranh hoàn hảo – thì hầu như chưa hình thành vớI tư cách một thị trường cũng như chưa được mở rộng trên cả nước.
Thứ hai, qui mô thị trường còn nhỏ, các hàng hóa và dịch vụ tài chính còn nghèo nàn, đơn giản và tính chuyên nghiệp chưa cao. Mặc dầu còn thiếu số liệu đầy đủ để đánh giá tổng quát qui mô thị trường tài chính của nước ta cả về tổng thể cũng như từng bộ phận. Song có thể cảm nhận thấy sự “ khiêm tốn ” của chúng qua số lượng và qui mô vốn điều lệ cũng như khả năng thanh toán của các ngân hàng, công ty tài chính và các cơ sở kinh doanh khác đang hoạt động trong lĩnh vực tài chính. Hiện tạI trên địa bàn thủ đô Hà NộI có 113 các tổ chức tài chính , tín dụng hoạt động bao gồm hơn 67 ngân hàng và chi nhánh ngân hàng, 2 công ty tài chính, 6 công ty cho thuê tài chính, 9 công ty chứng khoán, 9 quỹ tín dụng nhân dân và 5 quĩ tài chính nhà nước. Các ngân hàng công ty bảo hiểm quốc doanh lớn nhất nước ta cũng chỉ cung cấp chừng 60 sản phẩm dịch vụ cho các khách hàng so vớI từ 200 – 600 sản phẩm dịch vụ hết sức đa dạng, linh hoạt của các ngân hàng và công ty bảo hiểm trung bình ở các nước phát triển trên thế giới. Đa số dân cư và phần lớn các hoạt động kinh tế - xã hộI của đất nước còn nằm ngoài “ vùng phủ song ” các dịch vụ thị trường tài chính; nhiều doanh nghiệp đang khát vốn kinh doanh trong khi thiếu cơ chế và công cụ hiệu quả khai thông nguồn vốn “ chết ” trong dân, trong các ngân hàng….
Thứ ba, thị trường tài chính còn tập trung vào sân chơi và các đốI tác thuộc khu vực kinh tế nhà nước chưa có sự liên thông mở rộng trong cả nước cũng như với nước ngoài. Có thể nhận thấy trong bức tranh chung về hoạt động tài chính ở nước ta, các điểm sang và đầu mốI cung – cầu lớn nhất, các công cụ tài chính quan trọng nhất dường như đều tập trung trong sân chơi giữa các đối tác thuộc khu vực kinh tế nhà nước với nhau hoặc huy động vốn từ xã hội nhưng lại đầu tư cho khu vực kinh tế này và ước tình có lẽ chiếm không dưới 80% tổng giá trị các giao dịch hiện hành trên thị trường tài chính nước ta. Các ngân hàng, cơ sở kinh doanh tài chính tư nhân và các đốI tượng vay vốn tư nhân còn chiếm tỉ lệ khiêm tốn. Rất nhiều doanh nghiệp tư nhân ở nước ta đang gặp khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ tài chính – ngân hàng do thiếu tài sản thế chấp, thiếu dự án kinh doanh “ khả thi ”, thiếu thông tin cần thiết, thiếu sự thấu hiểu và tận tụy của ngân hàng hoặc đơn giản chỉ là do chưa quen vì chưa được hưởng các dịch vụ tài chính này.
Thứ tư, Thị trường tài chính hoạt động chưa mang tính thị trường cao và chưa gắn đồng bộ vớI các thị trường khác trong nền kinh tế. Rất nhiều ngân hàng, công ty tài chính vẫn còn mang dáng dấp và phong cách kinh doanh của thờI bao cấp. Hơn nữa do còn một số bất cập trong khung pháp lí về hoạt động do tập trung và các đốI tác thuộc khu vực kinh tế nhà nước nên các nguyên tắc kinh doanh thị trường nhiều khi được thực hiện một cách ước lệ, hình thức. Dòng vốn xã hộI thông qua thị trường tài chính vẫn chưa được thực sự chảy đến những nơi cần đến và tuân theo tín hiệu nguyên tắc thị trường. Tính cạnh tranh thị trường giữa các ngân hàng mớI được khởI động gần đây, từ khi ngân hàng nhà nước áp dụng chế độ lãi suất cơ bản và bãi bỏ kiểm soát lãi suất… Nợ quá hạn khó đòi của nhiều ngân hàng còn cao do ngân hàng chịu sức ép “ cho vay chính sách ”, còn các đốI tác được vay thì sẵn tâm lí xin hỗ trợ chính sách càng nhiều càng tốt…Hơn nữa thị trường tài chính dường như còn hoạt động một cách đơn độc, thiếu gắn kết đồng bộ vớI nhiều thị trường và các hoạt động kinh tế - xã hộI lớn khác. Ví dụ, thị trường chứng khoán còn thờ ơ vớI quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; hoặc thị trường tiền tệ trong nước còn quá “ lãnh đạo” vớI thị trường tài chính quốc tế.
Thứ năm, thị trường tài chính đang từng bước được xây dựng, củng cố và phát triển phù hợp vớI quá trình chuyển đổI cơ chế và đáp ứng các cam kết hộI nhập và thông lệ quốc tế. Đây đã, đang và sẽ còn là đặc điểm lớn nhất bao trùm xuyên suốt chi phốI và định hướng toàn bộ quá trình vận động của thị trường tài chính Việt Nam. Cùng vớI sự chuyển biến về nhận thức và sự hoàn thiện cơ chế thị trường mở nói chung, hệ thống pháp lí kinh tế nói riêng, thị trường tài chính Việt Nam sẽ ngày càng được củng cố và phát triển vững chắc, an toàn và hiệu quả hơn cả về bề rộng lẫn bề sâu. Các bộ phận thị trường trong hệ thống thị trường tài chính sẽ tiếp tục mở rộng về quy mô, tăng thêm các công cụ, dịch vụ chuyên nghiệp, phân nhánh chi tiết và rõ nét hơn các bộ phận thị trường chuyên biệt ( thị trường cổ phiếu doanh nghiệp sẽ phân thành thị trường cổ phiếu của nhóm doanh nghiệp cơ khí, nhóm doanh nghiệp may mặc, nhóm doanh nghiệp giày, …). Kiến thức, tâm lí và thông tin về thị trường tài chính sẽ đc cũng cố, cảI thiện cả về phía bên cung và cầu, cũng như bên trung gian và toàn xã hộI, tạo thuận lợI cho hoạt động của thị trường tài chính. Đặc biệt, thị trường tài chính Việt Nam sẽ ngày càng được kết nốI đồng bộ vớI các thị trường khác trong nền kinh tế, được liên thông vớI thị trường tài chính quốc tế và thu hút ngày càng nhiều, rộng rãi hơn và phục vụ ngày càng có chất lượng, hiệu quả hơn mọI thành viên, đốI tác và các hoạt động kinh tế - xã hộI đất nước.
Chương 2:Thực trạng thị trường tài chính Việt Nam hậu WTO
1. Thị trường tiền tệ
Trước những diễn biến của kinh tế thế giới, chính sách tiền tệ Việt Nam đang chuyển từ thắt chặt sang nới lỏng linh hoạt.
Đây được dự báo là xu thế tất yếu, vì nếu chậm trễ, Việt Nam có thể sẽ phải trả một chi phí cao hơn khi nền kinh tế bước sâu hơn vào giảm phát.
Có vài yếu tố làm cơ sở cho nới lỏng tiền tệ. Đầu tiên là lạm phát. Có thể nói lạm phát về cơ bản đã được kiềm chế, và có thể không còn là mối lo ngại chính trong thời gian tới.
·) Lạm phát trong 4 tháng gần đây chỉ tăng trung bình 0,67%/tháng. Quan trọng hơn, lạm phát “lõi” (yếu tố loại bỏ ảnh hưởng của lương thực thực phẩm và năng lượng) đã giảm. Lạm phát “lõi” giảm là dấu hiệu cho thấy lạm phát đã giảm dưới tác động của chính sách thắt chặt tiền tệ.
Đối với vấn đề bảo đảm lãi suất thực dương, nếu có thể đưa ra dự báo lạm phát trong năm 2009 dưới 10%, thì với lãi suất tiền gửi hiện nay các kỳ hạn 6 tháng đến 1 năm từ 12% đến 14%, những người gửi tiền đã có mức lãi thực dương.
Việc duy trì mức lãi suất huy động cao như hiện nay sẽ chỉ lợi người gửi tiết kiệm. Xu thế hạ lãi suất sẽ được giảm nhanh dưới áp lực của thị trường.
Trước tình hình như vậy, người viết xin dự báo một số hệ quả sau có thể xảy ra đối với diễn biến tiền tệ từ nay về cuối năm:
+ Lãi suất tiếp tục xu hướng giảm. Lãi suất huy động dự báo hạ xuống còn khoảng 10% vào thời điểm cuối năm.
+ Các hoạt động tín dụng sẽ được chủ động nới lỏng trở lại. Dự báo đến quý 1/2009 các kênh cho vay vốn sẽ được “khơi thông” mạnh mẽ hơn với mặt bằng lãi suất thấp, tăng trưởng tín dụng đạt trung bình 3%-5% tháng.
+ Nới lỏng tiền tệ sẽ làm thay đổi tỷ giá theo xu hướng tăng USD/VND. Tuy nhiên có thể tỷ giá cũng sẽ được chủ động điều chỉnh để phù hợp với tình hình. Dự báo tỷ giá có thể dao động trong mức 17.000-17.500 vào cuối năm.
Biểu đồ diễn biến tình hình lạm phát từ năm 2000 đến nay - Nguồn: GSO, BVSC.
Tham gia là thành viên của các dạng thị trường tiền tệ có 5 Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng chính sách xã hội, 36 Ngân hàng thương mại cổ phần, 4 Ngân hàng liên doanh, 27 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Qũy tín dụng TW, 900 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, một số công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm, Quỹ đầu tư... Tuy nhiên tham gia là thành viên của thị trường liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc nhà nước, thị trường mở... thì không phải tất cả các tổ chức trên, hầu như chỉ có các Ngân hàng Thương MạI Nhà nước, Ngân hàng Thương mạI cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, một số công ty bảo hiểm...
Về cơ chế tác động và can thiệp trên thị trường tiền tệ, được thể hiện tập trung ở các công cụ điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương. Theo đó, dần dần phù hợp với thông lệ quốc tế, từ tháng 6 -2002, Ngân hàng Nhà nước chuyển sang thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản trước đó. Hàng tháng Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản, vẫn quy định lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu; cùng với lãi suất nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ Swap, lãi suất thị trường mở, lãi suất thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước tác động vào lãi suất thị trường, lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của các Tổ chức tín dụng.
Tác động vào lãi suất còn có công cụ dự trữ bắt buộc. Khi Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, có tác động làm tăng chi phí đầu vào của các tổ chức tín dụng. Do đó hoặc là các tổ chức tín dụng giữ nguyên lãi suất huy động vốn thì phải tăng lãi suất cho vay; hoặc là đồng thời vừa phải tăng lãi suất cho vay, vừa phải tăng lãi suất huy động vốn.
Công cụ điều hành tỷ giá cũng có tác động vào lãi suất của các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ, nhưng không rõ nét.
Mặc dù xu thế xác định được xu thế nới lỏng tín dụng, song nới lỏng như thế nào đang là bài toán khó ngay cả khi ngân hàng đang chủ động nguồn vốn. Theo trần dự kiến tăng trưởng tín dụng 30% trong năm nay, “room” còn lại khá nhiều. Tuy nhiên, các ngân hàng vẫn chưa mạnh dạn cho vay. Có hai nguyên nhân cơ bản, đó là do độ tín nhiệm của doanh nghiệp thấp và xu thế sụt giảm sức cầu tín dụng của nền kinh tế.
Một nguồn tiêu thụ tín dụng lớn trước đây là các dự án đầu tư công. Với xu thế giảm phát, Chính phủ có lẽ sẽ phải là đầu tầu trong việc thúc đẩy trở lại nhu cầu tiêu dùng. Các dự án bị cắt giảm trong giai đoạn thắt chặt tiền tệ có thể sẽ là được đánh giá lại tính hiệu quả và tiếp thục thực hiện các dự án cần thiết để thúc đẩy tổng cầu. Như vậy chúng ta có thể mong chờ một “cú hích” đến từ Chính phủ trong việc sử dụng hiệu quả và linh hoạt hơn chính sách tài khóa.
Vai trò của đầu tư công trong giai đoạn tới rất quan trọng, không chỉ là phục vụ tạo ra các sản phẩm của việc đầu tư đó, mà còn thực hiện nhiệm vụ tạo thị trường và sức cầu cho các ngành khác (chẳng hạn khu vực đầu tư công là nguồn tiêu thụ sắt thép khổng lồ cho các doanh nghiệp thép).
·) Bằng việc nới lỏng tín dụng, các dự án đầu tư công cũng sẽ được cung cấp vốn với chi phí thấp hơn. Chính phủ cũng cần tạo điều kiện khuyến khích thêm các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các dự án đầu tư công này với mục đích thúc đẩy tổng cầu.
Đối với khối xuất nhập khẩu, trước viễn cảnh xuất khẩu sẽ gặp khó khăn, và dự kiến tăng trưởng kim ngạch dự kiến khó vượt qua 10% trong năm 2009, nhu cầu vốn đối với doanh nghiệp xuất khẩu sẽ giảm. Thị trường sụt giảm và sức cầu thế giới giảm sẽ là yếu tố khó khăn đối với tăng trưởng sản xuất và nhu cầu tín dụng đối với đối tượng này. Các doanh nghiệp nhập khẩu cũng sẽ đối diện với tình trạng tương tự khi hơn 80% giá trị hàng hóa nhập khẩu là dành cho sản xuất và xuất khẩu.
Xuất khẩu giảm sẽ kéo nhập khẩu giảm theo. Nhập khẩu tiêu dùng có thể tăng song hiện chỉ chiếm hơn 10% giá trị nhập khẩu.
Đối với lĩnh vực xây dựng bất động sản, tăng trưởng tín dụng sẽ khó khăn do 2 nguyên nhân: giải quyết vấn đề nợ xấu trong quý 4 đối với các khoản vay bất động sản trước đây và thị trường bất động sản tiếp tục suy thoái.
Hiện nay gần như ngân hàng vẫn nói “không” với cho vay bất động sản. Bất động sản đã từng là đối tượng tạo tăng trưởng tín dụng chủ lực của ngân hàng trong năm 2007. Rõ ràng ngân hàng đã mất đi một nguồn tiêu thụ tín dụng lớn. Người viết cho rằng bản thân ngành xây dựng bất động sản và cho vay bất động sản sẽ khó có thể triển khai ít nhất đến hết quý 1/2009.
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, năm 2008 là năm vô cùng khó khăn đối với các doanh nghiệp do thắt chặt tiền tệ. Tình thế có thể sẽ thay đổi trong thời gian tới, khi chính sách tiền tệ chuyển sang dần nới lỏng. Việc các doanh nghiệp vừa và nhỏ được tạo điều kiện hơn trong tiếp cận nguồn vốn nhằm nâng sức sản xuất trong nước là điều có thể được dự đoán trước.
Tiêu dùng cá nhân có thể được các ngân hàng đẩy mạnh hơn trong thời gian tới để kích thích tiêu dùng. Đây là nhóm khá dễ trong việc thúc đẩy dư nợ tín dụng nhất vì vấn đề lãi suất không ảnh hưởng quá nhiều đến nhu cầu vốn. Người viết cho rằng trong thời gian tới các ngân hàng sẽ chú trọng nhiều hơn đến sản phẩm bán lẻ.
Trong khi chưa tìm được đầu ra khi lãi suất vẫn còn cao, rất nhiều ngân hàng trong thời gian qua đã dùng nguồn vốn đầu tư vào trái phiếu. Chỉ tính riêng trong tháng 10, khối nước ngoài đã bán ròng gần 1 tỷ USD, chủ yếu là trái phiếu, và đối tượng mua chủ yếu là các ngân hàng thương mại do dự đoán lãi suất sẽ giảm. Nếu thực sự lãi suất giảm nhanh trong thời gian tới, các ngân hàng sẽ thu được một khoản lợi nhuận không nhỏ.
Tuy nhiên, một rủi ro có thể xuất hiện là một số ngân hàng sẽ có thể dùng nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư trái phiếu khiến việc đầu tư trái phiếu mang tính đầu cơ cao. Về dài hạn, ngành kinh doanh chính của ngân hàng sẽ vẫn là tìm cách tăng trưởng tín dụng. Áp lực giải ngân vốn và bài toán tìm lợi nhuận sẽ buộc các ngân hàng phải tìm thị trường giải ngân cho mình. Nếu còn tiếp tục khó khăn, các ngân hàng sẽ buộc phải giảm nhu cầu huy động vốn.
Trước khi bài toán tăng trưởng tín dụng được giải, trước mắt mặt bằng lãi suất sẽ còn tiếp tục giảm sâu nữa.
Tăng/giảm giá của VND so với một số đồng tiền chủ chốt - Nguồn: Bloomberg.
Với sự phát triển của các tổ chức trung gian tài chính, đặc biệt là các tổ chức tín dụng, với cơ chế điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương tiến dần tới phù hợp với thông lệ quốc tế, các Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng được chủ động trong các hoạt động huy động vốn và cho vay của mình, tham gia tích cực, năng động và cạnh tranh mạnh mẽ với nhau trên thị trường tiền tệ, theo đó, nó cũng có điều kiện thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển.
·) Diễn biến tỷ giá sau một thời gian ổn định đang có xu hướng tăng lên mặt bằng mới trước những động thái nới lỏng tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Quyết định mới đây của Ngân hàng Nhà nước trong việc nâng biên độ từ giá từ +/-2% lên +/-3% đã phần nào cho thấy xu thế tăng tỷ giá được khẳng định.
Hiện nay tỷ giá được giao dịch dao động ở mức xung quanh 17.000 VND/USD. Xu thế tăng này đến từ một số nguyên nhân chủ yếu sau:
+ Kích thích xuất khẩu chống giảm phát: Lạm phát giảm và tỷ giá danh nghĩa tăng sẽ góp phần kích thích xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Dự báo về việc xuất khẩu sẽ gặp khó khăn và nguy cơ giảm phát kinh tế thế giới trong thời gian tới là nguyên nhân chính để chính sách tỷ giá có những bước đi thích hợp.
+ VND đã lên giá nhiều so với các đồng tiền khác: VND neo vào USD với một tỷ giá khá ổn định trong thời gian qua, trong khi đồng USD tăng giá mạnh so với các đồng tiền chủ chốt khác. Điều này dẫn tới việc VND lên giá so với các đồng tiền này, làm tăng khó khăn cho xuất khẩu Việt Nam.
+ Xu thế cung cầu ngoại tệ: Nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu gặp khó khăn và dòng vốn đầu tư nước ngoài có khả năng sụt giảm dẫn tới cung cầu ngoại tệ đang dần nghiêng về phía cầu. Trong thời gian cuối năm nhu cầu nhập khẩu có thể tăng trở lại.
Sau một thời gian ổn định, tỷ giá trở lại xu thế tăng với giao dịch chạm biên giới hạn - Nguồn: SBV, Bloomberg.
Nhập siêu trong 3 tháng gần nhất vẫn ở mức dưới 1 tỷ USD nhưng doanh thu xuất khẩu đang sụt giảm ngay trong quý 4 đang gây nên những lo ngại tiềm ẩn về sự biến động của tỷ giá nếu không có những điều chỉnh kịp thời đón trước.
Trước tình hình như vậy, người viết cho rằng tỷ giá từ nay đến cuối năm sẽ tiếp tục tăng nhẹ, nhiều khả năng dao động xung quanh mức 17.000 - 17.500 VND/USD. Ngoài ra, cũng không nên lo ngại về sức khỏe của đồng VND.
Mặc dù nhập siêu đang có xu hướng tăng trong những tháng cuối năm do xuất khẩu đang gặp khó khăn, song nhập khẩu có lẽ cũng sẽ không quá đột biến do sức cầu đã giảm mạnh, cả về đầu tư lẫn tiêu dùng bán lẻ. Ngoài ra, thị trường ngoại hối nhiều khả năng sẽ không có đột biến bất thường.
2. Thị trường vốn
Việt Nam đã gia nhập WTO được hơn 1 năm, đây là “vùng đất” từ trước đến nay Việt Nam chưa khai phá sau khi tham gia vào nền kinh tế quốc tế 1 luồng vốn chảy vào nước ta rất lớn Chưa bao giờ các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội huy động vốn để thực hiện các chương trình đầu tư và phát triển như lúc này. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế phát triển và hội nhập nhanh như hiện nay cũng đang đặt ra những thách thức. Đó là nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc nhiều vào biến động của nền kinh tế thế giới như những diễn biến về giá cả các nguyên liệu, những bất ổn của chính trị thế giới và những biến động của thị trường tài chính thế giới. Điều đó đòi hỏi Việt Nam phải sẵn sàng thích ứng với một bối cảnh như vậy.
Trong nước, với tốc độ phát triển kinh tế và thị trường tài chính tăng nhanh, đương nhiên tiềm ẩn rủi ro. Đó là những vấn đề về hệ thống pháp lí chưa đồng bộ, nguồn nhân lực, tính cạnh tranh và quản trị của doanh nghiệp đang tiếp tục phải trải qua giai đoạn thay đổi. Nhìn nhận những thách thức nhưng đó cũng là động lực để thúc đẩy nền kinh tế cũng như bản thân các nhà đầu tư, các doanh nghiệp cũng như Chính phủ.
Xem xét bầu không khí đầu tư của Việt Nam sau một năm gia nhập WTO, ông Si Foong Wong, Giám đốc công ty tài chính IFC, cho rằng cảm quan chung của doanh nghiệp là tích cực. 90% doanh nghiệp được hỏi trong cuộc điều tra mới đây của IFC nói rằng sẽ mở rộng kế hoạch đầu tư ở Việt Nam trong vòng 1-2 năm tới. Các doanh nghiệp đã có tầm nhìn tích cực với WTO ở chỗ: WTO ép họ phải đẩy mạnh cạnh tranh.
Tuy nhiên, ông Si Foong Wong cũng lưu ý: “Trong viễn cảnh kinh doanh, chúng ta thường tính tới những công ty lớn nhưng làm thế nào để phát triển những doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo cho họ tinh thần kinh doanh, đấy mới là điểm nhấn mà Việt Nam cần tập trung vào”.
Đến từ “tâm bão”, nơi tin tốt - xấu trên thị trường chứng khoán hiện nay đều hướng vào đó, ông Nguyễn Ngọc Cảnh, Trưởng ban Hợp tác Quốc tế, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nhận định: “Trở thành thành viên đầy đủ của WTO vào tháng 1/2007 là một trong những yếu tố khuyến khích Việt Nam nhận được luồng vốn chảy vào lớn từ các nhà đầu tư nước ngoài lên đến hơn 20 tỉ USD. Những công ty niêm yết mới trên thị trường đã thúc đẩy quá trình cổ phần hoá đi nhanh hơn.
Một số công ty nhà nước lớn đã được cổ phần hóa xong làm cho thị trường mở rộng không chỉ về lượng mà cả về chất. Thị trường vốn đã trở thành kênh quan trọng để huy động vốn cho phát triển kinh tế”.
Tuy vậy gia nhập WTO có nghĩa là nền kinh tế Việt Nam đã có bước hội nhập kinh tế thế giới. Khi đó Việt Nam sẽ phải đón nhận những tác động trực tiếp hơn từ thị trường bên ngoài. Nhưng ông Cảnh tin tưởng năm 2008 này, Chính phủ vẫn giữ chính sách mở và khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường Việt Nam thì thị trường vốn sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ.
Ý kiến này của ông Cảnh khá tương đồng với quan điểm của ông Martin Rama - quyền Giám đốc WB - và một số nhà đầu tư trong hội nghị cho rằng năm 2008 sẽ tiếp tục thấy nhiều hơn luồng vốn từ nước ngoài và nội địa đổ vào thị trường vốn của Việt Nam, sẽ có thêm những công ty lớn niêm yết và mở rộng quy mô thị trường.
Tuy nhiên, ông Rama lo ngại: “Phải chăng sẽ diễn ra cuộc đua giữa cổ phiếu mới được niêm yết và nguồn đầu tư vào ai sẽ là người đến trước? Khi thị trường trồi sụt sẽ đạt được mức cân bằng không về tốc độ cổ phần hóa cũng như lượng vốn đổ vào?”.
Trả lời cho vấn đề được ông Rama nêu ra, ông Nguyễn Ngọc Cảnh cho rằng Chính phủ đang làm việc chặt chẽ với các cơ quan chức năng để đưa ra được chính sách tốt. Nhưng trong việc giám sát thị trường, đảm bảo được tính ổn định, nhất quán và minh bạch là điều quan trọng hơn cả, chứ không chỉ số lượng công ty niêm yết lần đầu ra công chúng hay lượng vốn rót vào từ bên ngoài.
Một mối quan tâm khác cũng được các đại biểu đề cập, đó là việc các tập đoàn kinh tế của Việt Nam đang có xu hướng đa dạng hoá trong kế hoạch tăng trưởng bằng việc tham gia vào nhiều lĩnh vực khác nhau. Rất nhiều tập đoàn đã mở ra các công ty tài chính, bất động sản, thành lập ngân hàng... Việc tham gia nhiều lĩnh vực như vậy, theo ông Cảnh là do các công ty Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức: thiếu kỹ năng quản lý, công nghệ thông tin... và cần có nguồn tài chính để đáp ứng được những yêu cầu này. Khi các công ty tài chính nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam đã buộc các công ty của Việt Nam cải thiện khả năng cạnh tranh của mình. Một số công ty tài chính đã tham gia vào thị trường vốn Việt Nam, thị trường nhỏ nhưng nhiều đối tượng tham gia nên có khả năng dẫn đến cạnh tranh không bình đẳng. Một số công ty lớn sẽ thống trị thị trường. Điểm tốt là môi trường sẽ cạnh tranh hơn. Nếu công ty nào có thể tồn tại được, phát triển được công ty đó sẽ lớn mạnh lên. Nhưng điều quan trọng hơn là Chính phủ, Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước phải đóng vai trò quan trọng trong giám sát thị trường để môi trường tài chính lành mạnh hơn.
Năm 2008, thị trường tài chính Việt Nam chịu ảnh hưởng, tác động của khủng hoảng tài chính thế giới, qua đó đã ảnh hưởng đến việc huy động nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển. Theo đánh giá của Bộ Tài chính, tình hình phát triển thị trường vốn năm 2008 cho thấy, trên tất cả các thị trường (trái phiếu, chứng khoán, bảo hiểm, kế toán - kiểm toán) đều có sự phát tr._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22900.doc