Tài liệu Đánh giá về thành phần loài, năng suất, chất lượng của tập đoàn cây thức ăn gia súc huyện Yên Sơn - Tỉnh Tuyên Quang: ... Ebook Đánh giá về thành phần loài, năng suất, chất lượng của tập đoàn cây thức ăn gia súc huyện Yên Sơn - Tỉnh Tuyên Quang
131 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1888 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Đánh giá về thành phần loài, năng suất, chất lượng của tập đoàn cây thức ăn gia súc huyện Yên Sơn - Tỉnh Tuyên Quang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
MAI HOÀNG ĐẠT
ĐÁNH GIÁ VỀ THÀNH PHẦN LOÀI, NĂNG SUẤT,
CHẤT LƯỢNG CỦA TẬP ĐOÀN CÂY THỨC ĂN GIA SÚC
HUYỆN YÊN SƠN - TỈNH TUYÊN QUANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
Thái Nguyên – 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
MAI HOÀNG ĐẠT
ĐÁNH GIÁ VỀ THÀNH PHẦN LOÀI, NĂNG SUẤT,
CHẤT LƯỢNG CỦA TẬP ĐOÀN CÂY THỨC ĂN GIA SÚC
HUYỆN YÊN SƠN TỈNH TUYÊN QUANG
Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60-42-60
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG CHUNG
Thái Nguyên - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Sản lượng VCK và chất lượng những loài cỏ trên vùng đất thấp
vào 45 ngày cắt.
Bảng 1.2. Sản lượng VCK của cỏ Ghinê tía cắt sau 30 ngày
Bảng 1.3. Năng suất của các giống cỏ hoà thảo (tấn/ha/năm)
Bảng 1.4. Giá trị dinh dưỡng của một số cây thức ăn chăn nuôi được phân
tích, đánh giá tại Việt Nam
Bảng 1.5. Những dạng sống chính của thực vật đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam
Bảng 1.6. Thành Phần hoá học và giá trị dưỡng của một số loài cỏ chính
Bảng 1.7. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của cỏ voi
Bảng 1.8. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của cỏ Ghinê
Bảng 1.9. Giá trị dinh dưỡng cỏ Stylo theo tháng tuổi
Bảng 1.10. Giá trị dinh dưỡng của ngô trong các giai đoạn khác nhau.
Bảng1.11. Giá trị dinh dưỡng một số cây thức ăn chăn nuôi cơ bản
Bảng 2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện
Bảng 4.1. Thành phần loài tại các điểm nghiên cứu
Bảng 4.2. Năng suất của các nhóm thực vật tại các điểm nghiên cứu
Bảng 4.3. Chất lượng của cỏ tại các điểm nghiên cứu
Bảng 4.4. Thành phần loài, năng suất, diện tích cỏ trồng trên địa bàn huyện
Bảng 4.5. Thống kê diện tích, năng suất, sản lượng của một số cây trồng khác
có thể làm thức ăn gia súc năm 2008 của toàn huyện.
Bảng 4.6. Chất lượng cỏ Voi và cỏ VA 06 tại một số điểm nghiên cứu
Bảng 4.7. Giá trị dinh dưỡng đất tại các điểm nghiên cứu
Bảng 4.8. Giá trị dinh dưỡng đất tại các điểm nghiên cứu cỏ trồng
Bảng 4.9. Tổng hợp kết quả điều tra mô hình chăn nuôi bò sữa tại Hoàng Khai
Bảng 4.10. Số lượng đàn và biến động số lượng qua các năm tại gia đình ông Hoàn
Bảng 4.11. Đàn trâu, bò của huyện Yên Sơn tính đến 1/10/2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và ở
Việt Nam
4
1.1.1. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới 5
1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt Nam 9
1.2. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên 14
1.2.1. Vấn đề nguồn gốc và phân bố đồng cỏ trong đai nhiệt đới 14
1.2.2. Những nghiên cứu về khu hệ thực vật 15
1.2.3. Những nghiên cứu về dạng sống 17
1.2.4. Những nghiên cứu về năng suất 18
1.2.5. Giá trị chăn thả của tập đoàn cây cỏ trong đồng cỏ Bắc Việt
Nam
20
1.2.6. Vấn đề thoái hoá đồng cỏ do chăn thả 23
1.2.7. Những nghiên cứu về sử dụng đồng cỏ Việt Nam 25
1.3. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ trồng 26
1.3.1. Tình hình phát triển đồng cỏ trên thế giới 26
1.3.2. Tình hình phát triển đồng cỏ ở Việt Nam 26
1.3.3. Đặc điểm thành phần dinh dưỡng của cỏ, cây trồng làm thức
ăn gia súc
28
1.4. Nhận xét chung 38
Chƣơng 2: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – KINH TẾ XÃ HỘI
VÙNG NGHIÊN CỨU
39
2.1. Điều kiện tự nhiên 39
2.1.1. Vị trí địa lý 39
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2.1.2. Địa hình, địa mạo 39
2.1.3. Khí hậu, thời tiết 40
2.1.4. Thuỷ văn 42
2.2. Các nguồn tài nguyên 43
2.2.1. Tài nguyên đất 43
2.2.2. Các loại tài nguyên khác 45
2.3. Thực trạng môi trường 47
2.4. Phát triển kinh tế nông nghiệp 48
2.5. Đánh giá chung 50
Chƣơng 3: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 51
3.1. Đối tượng nghiên cứu 51
3.2. Phương pháp nghiên cứu 51
3.2.1. Các phương pháp nghiên cứu ngoài thiên nhiên 51
3.2.2. Các phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm 54
Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 63
4.1. Tập đoàn cây cỏ tự nhiên là thức ăn gia súc huyện Yên Sơn
– Tuyên Quang
63
4.1.1. Thành phần loài cỏ tự nhiên 63
4.1.2. Năng suất, chất lượng của tập đoàn cây cỏ tự nhiên là
thức ăn gia súc huyện Yên Sơn – Tuyên Quang
71
4.2. Thành phần loài, năng suất cây và cỏ trồng làm thức ăn gia
súc
76
4.2.1. Thành phần loài, năng suất cỏ trồng 76
4.2.2. Thành phần loài, năng suất các loài cây trồng khác được
sử dụng làm thức ăn gia súc
81
4.2.3. Chất lượng của cỏ trồng làm thức ăn gia súc tại các điểm
4.3. Đánh giá chất lượng đất tại các điểm nghiên cứu 89
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4.3.1. Đánh giá chất lượng đất cỏ tự nhiên 89
4.3.2. Đánh giá chất lượng đất trồng cỏ 90
4.4. Đánh giá một số mô hình kinh tế chăn nuôi trong địa bàn
huyện
92
4.4.1. Mô hình trồng cỏ Voi thương phẩm 92
4.4.2. Mô hình chăn nuôi bò sữa tại trại bò Hoàng Khai – Xã
Hoàng Khai – Yên Sơn
93
4.4.3. Mô hình trồng cỏ voi, nuôi bò thịt 97
4.4.4. Mô hình trồng cỏ Voi, VA 06 thương phẩm 98
4.4.5. Mô hình kết hợp trồng cỏ giống và thương phẩm 101
4.4.6. Mô hình trồng cỏ, nuôi bò kết hợp chăn thả 103
4.5. Đề xuất mô hình chăn nuôi 106
4.5.1. Mô hình chăn nuôi hộ gia đình 108
4.5.2. Mô hình chăn nuôi trang trại nhỏ 109
4.5.3. Mô hình trồng cỏ, ngô thương phẩm 110
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 112
1. Kết luận 112
2. Đề nghị 113
TÀI LIỆU THAM KHẢO 114
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
Việt Nam là nước có nền kinh tế nông nghiệp lâu đời với hai ngành
truyền thống là trồng trọt và chăn nuôi. Sản lượng xuất khẩu các mặt hàng
nông sản của Việt Nam luôn đứng hàng đầu thế giới.
Ngành chăn nuôi của Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ với số
lượng và chất lượng cao, đặc biệt là chăn nuôi đại gia súc. Xác định tầm quan
trọng của vấn đề này, Bộ NN&PTNT cùng với Cục chăn nuôi đã tổ chức
nhiều hội nghị về đẩy mạnh sản xuất, chế biến, bảo quản thức ăn thô xanh,
phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ, trong đó nêu rõ:
- Chăn nuôi gia súc ăn cỏ là một trong những thế mạnh của Việt Nam,
góp phần quan trọng để chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, tạo việc
làm, tăng thu nhập cải thiện đời sống cho nông dân.
- Phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ là một trong những định hướng ưu
tiên của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn từ nay đến 2015 và tầm
nhìn 2020 để đữa chăn nuôi lên quy mô trang trại sản xuất hàng hoá cung cấp
các sản phẩm chăn nuôi giá trị cao và an toàn vệ sinh cho nhu cầu của xã hội
- Muốn phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ có hiệu quả kinh tế cao cần
phát huy tiềm năng và thế mạnh các vùng sinh thái của các địa phương trong cả
nước, sử dụng hợp lý nguồn thức ăn thô xanh để phát triển chăn nuôi bền vững.
(Hội nghị đẩy mạnh sản xuất, chế biến, bảo quản thức ăn thô xanh phát
triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ tháng 7 năm 2007)
Ngày 26 tháng 6 năm 2008, tại Hội nghị triển khai chiến lược phát triển
chăn nuôi năm 2020 tại các tỉnh phía Bắc do Cục Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp
& PTNT tổ chức, Thủ tướng đã phê duyệt chiến lược, đến năm 2010, tỷ trọng
chăn nuôi sẽ chiếm khoảng 32%, đến 2015 là 38% và đạt trên 42% vào năm
2020. Như vậy, trong giai đoạn 2008-2010, ngành Chăn nuôi phải tăng bình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
quân 8%-9%/năm; giai đoạn 2010-2015 là 6% - 7%/năm và giai đoạn 2015-
2020 là 5% - 6%/năm.
Hình thức chăn thả tự nhiên theo cung cách truyền thống như trước ngày
nay không còn phổ biến. Ngày càng xuất hiện nhiều mô hình kinh tế đạt hiệu
quả cao với cách thức trồng cỏ và nuôi nhốt, mô hình chăn nuôi trang trại
ngày càng được nhân rộng và khuyến khích phát triển. Theo báo cáo của 64
tỉnh, thành phố (vào cuối năm 2006), toàn quốc có 17.721 trang trại chăn nuôi
(trong đó có 6.405 trang trại chăn nuôi bò), trong đó miền Bắc là 6.313 trang
trại , chiếm 35,6%; miền Nam là 11.408 trang trại, chiếm 64,4%. Theo báo
cáo của Tổng cục Thống kê năm 2001 toàn quốc có 1.761 trang trại chăn
nuôi, như vậy, sau 5 năm số lượng trang trại chăn nuôi tăng hơn 15.960 trang
trại, bình quân mỗi năm tăng 3.192 trang trại, tăng 58,7%/năm) [4].
Tuy nhiên, trong hình thức nuôi nhốt đại gia súc, nguồn thức ăn là một
vấn đề thiết yếu, quyết định tính thành hay bại của một mô hình.
Khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam là nơi có ngành chăn nuôi đại gia
súc phát triển mạnh, trong đó có tỉnh Tuyên Quang. Theo số liệu của Cục
Thống kê Tuyên Quang, tính đến thời điểm tháng 4/2009, toàn tỉnh
có đàn trâu 144.693 con, đàn bò 53.043 con. Đã có nhiều dự án lớn về chăn
nuôi đại gia súc được thực hiện tại Tuyên Quang, với trọng điểm là huyện
Yên Sơn. Trong đó có những mô hình thành công bước đầu, có mô hình gặp
phải thất bại. Một trong những nguyên nhân chính là do nguồn thức ăn không
đáp ứng đủ số lượng và chất lượng so với nhu cầu thực tế.
Với truyền thống làm nghề nông nghiệp lâu đời, nên huyện Yên Sơn –
Tuyên Quang vẫn rất trú trọng phát triển kinh tế nông nghiệp, với mục tiêu cụ
thể đến năm 2009: Về trồng trọt: Sản lượng lương thực đạt trên 71.000 tấn,
năng suất lúa bình quân đạt trên 59 tạ/ha (năng suất lúa lai đạt trên 63 tạ/ha)
và trồng 2.468,3 ha ngô, năng suất bình quân đạt 45,9 tạ/ ha. Về chăn nuôi:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Tiếp tục phát triển đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn phấn đấu đạt kế hoạch
năm 2009; đàn trâu 29.691 con; đàn bò 15.440 con; đàn lợn 103.100 con; đàn
gia cầm 1.102.552 con. Tiếp tục thực hiện có hiệu quá chương trình cải tạo,
nâng cao thể trạng, chất lượng đàn bò vàng địa phương bằng phương pháp
truyền giống nhân tạo và phối giống trực tiếp cho bò cái bằng giống bò đực
lai Sind; chọn lọc những trâu đực giống đủ tiêu chuẩn đưa vào quản lý và luân
chuyển giữa các vùng để phục vụ tráng đàn trâu khu vực thượng huyện ATK.
Xây dựng kế hoạch cụ thể để thực hiện các dự án, mô hình chăn nuôi
trên địa bàn huyện, khai thác thế mạnh của vùng quy hoạch tập trung chăn
nuôi, xây dựng các mô hình chăn nuôi và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ
thuật cho người chăn nuôi. [42]
Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về chăn nuôi và đồng cỏ
thực hiện tại Tuyên Quang, nhưng chưa có một công trình nào đánh giá một
cách đầy đủ về thực trạng tập đoàn cây thức ăn gia súc bao gồm cả cỏ trồng,
cỏ tự nhiên và những cây trồng khác tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
Chính vì những lí do trên, chúng tôi chọn thực hiện đề tài:” Đánh giá về
thành phần loài, năng suất, chất lượng của tập đoàn cây thức ăn gia súc
huyện Yên Sơn tỉnh Tuyên Quang”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và ở Việt Nam
Cây thức ăn xanh bao gồm sản phẩm cây mùa vụ còn lại, cây cỏ hoà
thảo, cây đậu, cây thân thảo hay thân gỗ mà có thể được sử dụng là thức ăn
cho gia súc. Những cây này cũng có thể được sử dụng vào những mục đích
khác nhau như bảo vệ đất, chống xói mòn, làm tăng độ màu mỡ của đất và
hạn chế cỏ dại [1].
Hòa thảo là loại thức ăn chủ yếu của trâu bò, vì trong cỏ có đầy đủ chất
dinh dưỡng như bột, đường, đạm, khoáng, vitamin mà các loại gia súc nhai lại
có khả năng sử dụng và hấp thụ tốt. Mặt khác, các chất dinh dưỡng trong cỏ
không những rất cần thiết mà lại có tỉ lệ thích hợp đối với nhu cầu sinh lý của
trâu bò. Ví dụ: nếu tỉ lệ đường - đạm thích hợp nhất cho khẩu phần thức ăn
của bò sữa là 1:1 thì tỉ lệ đó trong cỏ non thay đổi từ 1:1 đến 1.4:1 [2]. Cỏ còn
là loại cây thức ăn dễ sản xuất, có năng suất cao, tương đối ổn định và là
nguồn thức ăn rẻ tiền góp phần làm giảm giá thành sản phẩm chăn nuôi, chưa
kể ưu thế của các giống cỏ lâu năm là thường chỉ cần gieo trồng một lần mà
sử dụng được nhiều năm.
Họ Hoà thảo quan trọng không những vì nó phân bố rộng rãi chiếm tỉ lệ
cao trong số thực vật trên đồng cỏ, có giá trị dinh dưỡng cao, nhất là lượng
hyđratcacbon và đặc biệt là các chất đinh dưỡng được bảo tồn, ít hao hụt khi
thu hoạch. Các cây họ đậu tuy chiếm tỉ lệ ít hơn trong số cây cỏ làm thức ăn
gia súc nhưng có vai trò quan trọng vì giá trị dinh dưỡng cao, nhất là lượng
Protein và khoáng thích hợp cho việc chế biến thức ăn tinh bổ sung.
Ở bãi cỏ tự nhiên với điều kiện thổ nhưỡng tốt thì 1kg cỏ tươi cung cấp
được 16g protein tiêu hoá và 32g lipit, 8 kg loại cỏ này tương đương 1 đơn vị
thức ăn [38].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Theo Meilroy (1972) cần chọn cỏ để làm thức ăn gia súc là khi thu
hoạch dưới dạng này hay dạng khác phải đảm bảo các yêu cầu sau [52]:
- Cỏ phải có khả năng tái sinh mầm chồi còn lại sau mỗi lần thu hoạch.
- Các tế bào sinh trưởng phải tập trung phần lớn ở các gốc là nơi thu
hoạch ít bị ảnh hưởng tới.
- Cần sinh trưởng liên tục với khả năng chịu hạn và chịu lạnh cao.
- Cần có thân ngầm để tạo điều kiện phát triển cả trên và dưới mặt đất.
- Có hệ thống rễ phát triển để cho phép chịu đựng sự thu hoạch và đảm
bảo lấy được dinh dưỡng đã được giải phóng hay phân huỷ từ dưới.
Tuy nhiên, để chọn làm cỏ chăn thả hay thu cắt cần phải dựa vào các nhân
tố sau để xét duyệt và quyết định hướng sử dụng cho từng loại cỏ như: độ ngon
miệng cao, nhất là cỏ thu cắt; phải có giá trị dinh dưỡng cao để đáp ứng nhu cầu
gia súc về các mặt; có khả năng cạnh tranh điều kiện sinh tồn và khả năng được
trồng kết hợp; có khả năng chịu đựng sự dẫm đạp liên tục của gia súc và cỏ thu
cắt phải chịu được sự cắt và nén của máy thu hoạch; cỏ chăn và cỏ cắt đều phải
có năng suất cao để đạm bảo nhu cầu gia súc và giảm diện tích gieo trồng;...
1.1.1. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới
1.1.1.1. Tình hình phát triển
Trên thế giới, ở các nước có nền chăn nuôi đại gia súc phát triển, vấn đề
thức ăn rất được quan tâm và đầu tư nghiên cứu như: Úc, Mỹ, Brazin,...chăn
nuôi là một bộ phận quan trọng trong hệ thống sản xuất vùng đồi núi ở vùng
Đông Nam Á, nên cũng đã có những quan tâm đầu tư cho lĩnh vực này.
- Ở Inđonexia, trong tình hình thức ăn của trâu, bò chiếm 56% là cỏ tự
nhiên, 21% là rơm, 16% là cây khác và 7% là phụ phẩm thì trong 4 giải pháp
để giải quyết thức ăn là thâm canh, trồng giống cỏ tốt (cỏ Voi và cây Đậu)
[30]. Ngoài ra còn có các chương trình về giống cây thức ăn với CIAT và
CSIRO để tìm ra những giống cây thích hợp với đất có độ PH thấp trong thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
trạng đa dạng các điều kiện canh tác nông hộ, 36 giống cây thức ăn từ úc
(CSIRO), Columbia (CIAT) và Philipin được đưa vào trồng ở vùng Cast
Kalimantan (Ibrahim 1994): Nhiều giống thể hiện thích hợp ở khu vực trong
đó có 18 giống cây đậu và 9 giống cỏ hoà thảo.
- Ở Thái Lan: Với 70% dân liên quan đến sản phẩm nông nghiệp, sản
phẩm trồng trọt có giá trị thấp, thịt bò và sữa dê chưa cung cấp được theo nhu
cầu tiêu dùng. Năm 1992 sản phẩm sữa nhập vào Thái Lan 114.012 tấn, chi
phí mất 2.222.81 triệu USD (nguồn: tài liệu thống kê nông nghiệp Thái Lan
1992 –1993). Chính phủ Thái Lan có chủ trương tăng thu nhập của người
nông dân bằng giải pháp: Giảm trồng lúa, sắn và đẩy mạnh phát triển chăn
nuôi đặc biệt là gia súc nhai lại. Nông dân nuôi bò trong dự án được cấp giống
cỏ để trồng. Thái Lan đã sản xuất được 418 tấn hạt cỏ (1991) và 1.336 tấn
(1994). Trong điều kiện d iện tích chăn thả hẹp, mùa khô kéo dài, đất dinh
dưỡng kém, chua, mặn, ngập nước, dự án cây nhập nội đã đánh giá: ở Khon
Kean 37 giống cây thức ăn trồng để chọn giống thích hợp với đất cát khô, đã
chọn được mười giống cây cỏ họ Đậu và Hoà thảo thích hợp thuộc chi
Andropogon, Brachiaria, Paspalum, Stylo, Leucoena. Ở Marathiwat với mục
đích chọn cây thức ăn chịu đất chua đã xác định được 8 giống cỏ triển vọng
trong số 26 giống nhập nội (Báo cáo dự án trồng cỏ Thái Lan-1994).
Nghiên cứu 19 giống của chi Brachiria thuộc bốn loài (Brachiaria
decubens, Brachiaria brizontha, Brachiria humidicola, Brachiria fubata) đã
xác định được bảy giống có năng suất hạt và năng suất chất xanh ở mùa khô
khá. Những giống này được tiếp tục khảo nghiệm và nhân ra diện rộng.
Giống Paspalum atratum nhập vào Thái Lan năm 1995 được đánh giá
trong mục tiêu là cây thức ăn cho đất thấp nó đã thể hiện là giống tốt, chịu đất
chua, ngập nước, sản xuất chất xanh và khả năng sản xuất hạt cao (Chaing
sang Phai Keow, 1999)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
- Ở Philippiin, với 90% gia súc nhai lại nuôi tại vườn nhà hoặc ở các
trang trại nhỏ được trồng các giống Stylo 184, Panicum maxinum, Paspalum
atratum...đều phát triển tốt cung cấp nguồn thức ăn cho gia súc. Ngoài ra, các
giống cỏ trên còn được trồng theo đường đồng mức ở đất dốc, cải tạo đất
trống đồi núi trọc, trồng dưới tán cây ăn quả. Hằng năm sản xuất được trên 1
tấn hạt cỏ (E.F.Lating, F.Gagunada, 1995).
Một số nước khác như Malaysia, Lào,...cũng đã chú trọng đầu tư phát
triển cây thức ăn cho gia súc từ những năm 1985. Cho đến nay một số giống
cỏ Hoà thảo và cỏ họ Đậu được chọn lọc, đang phát huy hiệu quả cao trong
sản xuất. Hằng năm sản xuất được 2 -3 tấn hạt cỏ các loại. Như vậy, phong
trào trồng cây thức ăn xanh để chăn nuôi gia súc đang được nhiều nước quan
tâm. Nó thực sự là động lực thúc đẩy ngành chăn nuôi đại gia súc phát triển.
1.1.1.2. Những kết quả nghiên cứu về nâng cao năng suất cây thức ăn gia
súc trên thế giới
Trên thế giới hiện nay ngoài việc tuyển chọn, lai tạo, di nhập các giống
cỏ tốt từ vùng này sang vùng khác, người ta còn tập trung giải quyết vấn đề
năng suất, chất lượng cỏ.
Tại Thái Lan, sản lượng vật chất khô của các giống cỏ Digitaria
decumbens, Paspalum atratum, Brachiaria mutica và Paspalum plicatulum
khoảng từ 15 – 20, 18 – 25, 9 – 15 và 6 – 10 tấn/ha (bảng 1.1).
B¶ng 1.1: S¶n l•îng VCK vµ chÊt l•îng nh÷ng loµi cá trªn vïng ®Êt
thÊp vµo 45 ngµy c¾t.
Tên khoa học Tên Việt Nam Năng suất (tấn/ha) Prôtêin (%)
Brachiaria mutica Cỏ lông Para 9 – 15 6 – 10
Digitaria decumbens Pangola 15 – 20 7 -11
Paspalum atratum Cỏ đắng 18 – 25 6 -7
Paspalum plicatulum 6 -10 5 - 6
Nguồn: Division of Animal Nutrition, Anon (2000) [46]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Ngoài ra, hai giống cỏ là cỏ đắng (Paspalum atratum) và Paspalum
plicatulum là những loài cho sản lượng hạt giống lớn, có thể tới trên
600kg/ha/ Do vậy, hai giống này đã được phân bố rộng rãi ở Thái Lan.
Tại Trung tâm nghiên cứu nuôi dưỡng động vật tỉnh Petchaburi (Thái
Lan) cỏ Ghinê tía được trồng và cắt 30 ngày một lần, với mật độ trồng là 50x
50cm và được bón phân hỗn hợp (15–15–15) trước khi trồng ở mức 300kg/ha
tương đương 18 tấn phân bón/1ha. Lượng cỏ thu hoạch khoảng 8,9 tấn/ha ở
lứa đầu (70 ngày sau trồng) và khoảng 2,6 tấn đến 7,1 tấn/ha cắt sau 30 ngày
[47]. Sản lượng này được thể hiện ở bẳng 1.2.
B¶ng 1.2. S¶n l•îng VCK cña cá Ghinª tÝa c¾t sau 30 ngµy
Thời gian cắt Năng suất VCK (tấn/ha)
11/8/2000 8,9
11/9/2000 7,1
11/10/2000 6,9
11/11/2000 6,8
11/12/2000 4,6
11/01/2001 2,6
11/02/2001 4,1
11/03/2001 4,3
11/04/2001 5,8
11/05/2001 3,7
Nguồn: Annual Report on Animal Nutrition Division (2001) [47]
Theo Quilichao (Colombia CIAT, 19780 [48], giống Brachiaria
decumbens có thể đạt năng suất chất khô trên 42.000 kg/ha/năm với thí
nghiệm không bón phân đạm nhưng bón đủ lân và nó là một giống cỏ tốt nhất
trong điều kiện bón lân và đạm thích hợp. Thí nghiệm cắt hàng năm cho năng
suất chất khô đạt 36.700 kg/ha, kết quả này cao hơn so với cỏ Pangola
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
(Digitaria decumbens), Para(Brachiaria mutica) và Ghinê (Panicum
maximum) (Barnard, 1969) [48].
Tại Purertorico, Vieente- Chandler Silva và Figarella (1959) [57] thông
báo năng suất giống Panicum maximum Cv Makueni đạt 26.846 kg VCK/ha
với mức bón 440kg đạm/ha và cứ 40 ngày cắt 1 lần khi trồng cỏ. Middleton
và Micosker, (1975) [54] cho biết vào năm 1973 và 1974 tại miền Nam
Johnstone, vùng Queensland, vẫn giống Panicum maximum Cv Makueni đã
sản xuất được 60.000kg VCK/ha với điềukiện cung cấp 300kg đạm/ha.Tại
Samford, Queesland năng suất hàng năm giống Paspalum rinâttum là
15.000kg VCK/ha (Davies, 1970) [51].
Đối với giống cỏ Setaria Sphacelata các kết quả nghiên cứu của Riveros và
Wilsson (1970) [55] tại Redlanbay, Queensland, thông báo năng suất đạt từ
23.500 – 28.000kg/ha qua mùa sinh trưởng 6 tháng trong điều kiện cỏ được tưới
nước và cung cấp 225 kg đạm/ha/năm trên nền đất đỏ Bazan mầu mỡ...
1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt Nam
1.1.2.1. Tình hình phát triển
Ở Việt Nam, trong thời gian 10 năm trở lại đây, thông qua hoạt động
hợp tác quốc tế và từ nhiều nguồn khác nhau, chúng ta đã nhập trên 100 giống
cây thức ăn hoà thảo và họ đậu có nguồn gốc nhiệt đới (CSIRO, CIAT,
Philippin, Inđônêsia, Thái Lan), nhằm phát triển khả năng sản xuất thức ăn
xanh cho chăn nuôi. Cụ thể như: Năm 1990 chương trình bò thịt VIE86/008
nhập 17 giống cây thức ăn họ đậu, hoà thảo khác nhau từ Autralia.
Năm 1995 chương trình cây thức ăn xanh cho nông hộ nhập vào 70
giống (51 giống đậu và 19 giống hoà thảo) từ CSIRO và CIAT chương trình
cây keo đậu nhập 22 giống keo dậu từ Australia.
Năm 1997 thông qua hoạt động hợp tác quốc tế đã nhập 10 giống Stylo
từ Trung Quốc và Philippin.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Năm 1998 chương trình “Phát triển thịt bò một cách hiệu quả ở Việt
Nam - ACIAR Projeet as 2/97/18”, nhập 55 loại cây thức ăn gồm 15 loại cây
họ đậu và 40 loại cây hoà thảo.
Thông qua hoạt động hợp tác quốc tế với trường Đại học Hohenhein
(Đức), 20 loại Flemingia được nhập vào nước ta. Ngoài ra một số giống cây
thức ăn được nhập thông qua con đường các chuyên gia đi lại công tác.
Một số giống cây cỏ nhập nội đã được đánh giá ban đầu và thu được kết
quả tốt, ứng dụng vào trong sản xuất ở một số vùng.
Tuy nhiên, do không có sự quản lý, chỉ đạo thống nhất cho nên một số
giống sau khi đánh giá đã bị thất lạc, mất đi hoặc chưa có điều kiện thử
nghiệm ở các vùng khác để có cơ sở chắc chắn mở rộng ra sản xuất.
1.1.2.2 Những kết quả nghiên cứu
Kết quả những công trình nghiên cứu về cây thức ăn chăn nuôi cũng
chưa nhiều. Trong những năm gần đây, một số nhà khoa học mới tập trung
vào nghiên cứu một số giống cây thức ăn hoà thảo, họ đậu nhập nội ở một số
vùng như: Lê Hoà Bình và cộng sự (1992), khảo sát năng suất cây thức ăn
mới nhập nội ở một số vùng và ứng dụng trong hộ chăn nuôi đã có kết quả
như trình bày ở bảng 1.3 [6].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Bảng 1.3. Năng suất của các giống cỏ hoà thảo (tấn/ha/năm)
TT Tên giống
Long Mỹ Sơn Thành Bà Vì Thụy Phƣơng
Xanh VCK Xanh VCK Xanh VCK Xanh VCK
1 Panicum maximum hamil 56.91 9.73 92.9 17.6 86.3 16.5 90.5 17.3
2 Pancium maximum Liconi 40.57 8.11 99.96 18.9 97.5 17.5
3
Panicum maximum
Trichoglumen
40.89 8.21 62.4 12.6 44 10.1 68.2 15.7
4 Panicum maximum Makueni 59.96 11.92 77.1 15.1 60.8 12.4 108 19.4
5 Pennisetum King grass 119 19.02 170.1 22.3 207 23.6
6 Pennisetum purpureum 99.73 16.95 176 22.9 169.5 20.4 198 21.8
7 Setaria splendida 28.13 5.56 75.1 14.1 80.4 12.6
8 Brachiaria mutica 28.42 7.61 68.9 12.7 42.6 10.2 86.6 15.9
9 Brachiaria decumbens 44.16 8.77 72.6 13.7 56.7 11.2 73.8 11.8
Nguồn: Lê Hoà Bình, Nguyễn Ngọc Hà và CTV,1992
Theo Nguyễn Thiện – Lê Hoà Bình (1994) trong năm 1990 chương trình
VIE/86/008 đã đưa vào nước ta 2 đợt cỏ giống với 25 giống cỏ hoà thảo gồm
11 loài khác nhau các cỏ trên được chuyển tới các vùng để đánh giá tuyển
chọn giống thích hợp. Một số kết quả trồng thử đã được ghi nhận như sau:
Các tác giả Lê Hoà Bình, Nguyễn Ngọc Hà, Hoàng Mạnh Khải và Ngô
Đình Giảng (1994) cho biết:
Tại Long Mỹ giống Makueni và Hamil cho năng suất chất xanh đạt
56,9-59,9 tấn/ha tương ứng với 9,7 – 11,9 tấn VCK.
Tại Sơn Thành: Giống Hamil lại cho năng suất cao hơn cả, đạt 92,9 tấn
chất xanh tương ứng 17,6 tấn VCK/ha/năm.
Như vậy trong cùng một giống cỏ nhưng năng suất có sự khác nhau giữa
các vùng khá lớn do ảnh hưởng của khí hậu, đất đai và các yếu tố khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Phan Thị Phần và CTV (1998) [28]; Vũ Thị Kim Thoa, Khổng Văn
Đĩnh (2001) [34] khi nghiên cứu cỏ Ghinê TD58 ở khu vực miền Nam và
miền Bắc cho kết quả:
- Khu vực phía Bắc trên 2 loại đất của vùng đồng bằng và vùng đất đồi
trong điều kiện trung tính, đất tốt, hoặc đất chua nghèo. Lân và Kali cỏ đều có
tốc độ sinh trưởng khá tốt (1,96 – 2,01 cm/ ngày). Năng suất đạt 90 – 100
tấn/ha/năm, cỏ ghinê có khả năng cho hạt năng suất hạt đạt 450kg/ha, tỷ lệ, sử
dụng của gia súc đối với cỏ cao: Trâu 94%, bò sinh trưởng 100%, bò sữa
77%, ngựa 85%.
- Ở khu vực phía Nam: Địa điểm tại vùng đất xám Bình Dương với liều
lượng phân bón 20 tấn phân chuồng, 80kg K2O và 500kg vôi /ha/ năm, lượng
phân đạm bón từ 60 – 90 kg/ha. Năng suất chất xám cỏ TD 58 đạt 64,59 –
83,33 tấn/ha/lứa cắt thích hợp là 40 ngày/lứa/ Tỷ lệ tiêu hoá của dê đối với cỏ
TD 58 cao, khả năng sử dụng của gia súc như: Trâu sữa, bò sữa, bò thịt, dê
sữa đều tiêutốn từ 80 – 100%.
Tại trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi Thái
Nguyên, tác giả Nguyễn Văn Quang (2002) khi nghiên cứu so sánh về tốc độ
sinh trưởng, năng suất, chất lượng, tính ngon miệng của 5 giống cỏ nhập nội
cho biết: Cả 5 giống cỏ đều có tốc độ sinh trưởng khá cao từ 1,45 – 1,82
cm/ngày. Trong đó 2 giống cỏ Paspalum astratum và Panicum maximum TD
58 tốc độ sinh trưởng cao nhất (1,82 và 1,70 cm/ngày) [29].
Ở Việt Nam cây trồng làm thức ăn cho gia súc khá phong phú, ngoài cỏ
tự nhiên và cỏ trồng, rất nhiều loài cây trồng, cây mọc hoang dại hoặc các phụ
phẩm nông nghiệp khác cũng được sử dụng làm thức ăn gia súc: Bèo, thân lá
cây ngô, cây mía, rơm… Giá trị dinh dưỡng của một số loài và phụ phẩm
được phân tích ở Việt Nam được thể hiện ở bảng 1.4 [18].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Bảng 1.4. Giá trị dinh dưỡng của một số cây thức ăn chăn nuôi được
phân tích, đánh giá tại Việt Nam
TT Tên cây trồng
Vật
chất
khô
(%)
Protêin
thô
(%)
Lipid
thô
(%)
Xơ
thô
(%)
Dẫn suất
không
đạm (%)
Khoáng
tổng số
(%)
Can
xi
(%)
Phốt
pho
(%)
1 Bèo tấm 1.46 0.24 5.4 0.09 1.1 1.1 1.1
2 Bèo hoa dâu 7 1.3 0.3 0.7 3.2 1.5 0.05 0.02
3 Bèo lục bình 0.8 0.3 1.4 5.8 1.4
4
Cây ngô ngậm sữa
cả bắp và lá
21.4 2.5 0.7 4.4 12.9 0.9 0.09 0.07
5 Keo dậu 23.9 6.27 1.19 5.22 9.55 1.67 0.42 0.07
6 Rơm lúa mùa 90.81 5.06 1.67 30.61 37.23 16.24 0.56 0.41
7
Thân lá ngô sau
thu hoạch
73.2 2.5 1.2 9.9 10.11 3.09 0.12 0.06
8 lõi Bắp ngô 67 3.15 0.55 24.12 36.03 3.15 0.36 0.21
9 Ngọn,lá mía tuơi 29.61 0.78 0.54 8.52 18.52 1.25 0.06 0.06
10 Ngọn,lá mía khô 85.49 8.17 1.89 42.89 39.15 7.9 0.45 0.21
11 Rỉ mật mía 78 11 1.43 0 59.5 7.5 0.22 0.02
12 Ngọn, lá sắn đỏ 16.67 4.72 0.67 3.12 6.82 1.34 0.18 0.09
13 Ngọn, lá sắn trắng 15.48 4.77 0.6 3.07 5.35 1.7 0.16 0.09
14
Cây Keo dậu
(Leucaeana
Ieucocephala)
23.9 6.27 1.19 5.22 9.55 1.67 0.42 0.07
15
Cây chè khổng lồ
(Trichantera
Ghigantea)
13.68 2.08 0.6 1.72 6.07 3.21 0.86 0.04
16
Cây đậu Sơn Tây
(Flemingia
macrophilla)
28.5 17.3 1.76 37.9 5.76
17 Cây Mía (ngọn,lá tươi) 29.61 0.78 0.54 8.52 18.52 1.25 0.06 0.05
18 Cây lạc (thân,lá) 25.93 4.05 0.79 6.53 11.7 2.86 0.52 0.15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
1.2. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên
1.2.1. Vấn đề nguồn gốc và phân bố đồng cỏ trong đai nhiệt đới
Qua quá trình nghiên cứu nguồn gốc đồng cỏ trong đai nhiệt đới có
nhiều tác giả đưa ra các ý kiến khác nhau. Đa số tác giả cho rằng trong điều
kiện khí hậu nhiệt đới không có đồng cỏ tồn tại, các quần xã cỏ ở đây là lại
hình savan.
Tác giả J.Vidal (1958) khi phân chia thực bì ở Lào đã xếp các quần xã
cỏ vào savan: Trong đai dưới 1000m thì có savan cây bụi. Ở độ cao từ (1000-
1800m) với nhiệt độ trung bình là 200C, lượng mưa 2000mm thì có các kiểu
savan khác nhau như: savan bụi, savan gỗ, savan cỏ tranh và thảo nguyên giả.
Karbanop (1962) khi phân loại thực bì Nam Trung Quốc (tỉnh Vân Nam) đã
gọi các quần xã cỏ thứ sinh là savan; ông chia thành savan bụi và savan rừng
(savan điểm cây) chiếm diện tích lớn hơn, nó phân bố ở độ cao từ 250m trở
lên và phát triển trên đất rừng bị chặt phá. Kiểu này được chia thành 5 tầng,
trong đó tầng cỏ là liên tục và khép tán [58].
Nguyễn Đình Ngỗi và Võ Văn Chi (1964) khi nghiên cứu thành phần
loài cỏ vùng Hữu Lũng (Lạng Sơn) đã gọi loại hình này là savan cỏ [26].
Cooper, Taitôn (1968), Dương Hữu Thời (1981) khi nghiên cứu nguồn gốc
thứ sinh của các thảm cỏ trong các vùng nhiệt đới khác nhau đã đi đến kết
luận các quần xã rừng bị chặt hạ [10].
Thái Văn Trừng (1970, 1978) khi giải quyết những khó khăn về việc
phân chia các đơn vị nhỏ trong hệ thống phâm loại thảm thực vật và chia các
kiểu thảm cỏ, ông đã chia rừng nhiệt đới theo điều kiện của nới sống với sự
phân chia ra các kiểu ngoại mạo (kiểu nơi sống, kiểu đất rừng) và gọi các
thảm cỏ là "trảng", trảng cây bụi, trảng cỏ, theo ông “trảng” không phải là
savan cũng không phải đồng cỏ [39], [40].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Theo M. Numatta Bắc Việt Nam nằm trong vùng khí hậu gió mùa,
đông khô, hè ẩm. Trong điều kiện như vậy các kiểu quần xã cỏ thuộc kiểu
đồng cỏ, savan thuộc kiểu đồng cỏ, savan chỉ gặp ở các vùng có lượng mưa
thấp từ 200 - 800m, mùa khô kéo dài trên tháng 7 tháng [56]. Vì vậy Bắc Việt
Nam không có savan, Dương Hữu Thời (1981) cũng đưa ra kết luận tương tự.
Theo Hoàng Chung (1980) là: Trên thực tế Bắc Việt Nam tồn tại nhiều
kiểu savan, đồng cỏ và dạng trung gian. Trong đai nhiệt đới, trên những vùng
rừng bị phá, khi mà đất còn khá tốt, độ ẩm còn khá cao thì sẽ hình thành ở đây
loại hình đồng cỏ. Trong quá trình tác động tiếp theo của con người sẽ làm
cho tỉ lệ cây hạn sinh tăng lên, cuối cùng chỉ tồn tại ở đồng cỏ các loài cỏ, cây
bụi hạn sinh và cây đoản mệnh, hình thành savan cây bụi. Quá trình này trên
miền Bắc Việt Nam có thể tóm tắt như sau: rừng nguyên si._.nh → rừng thứ
sinh → đồng cỏ → savan cỏ → savan bụi → thảm cây bụi hạn sinh [10].
1.2.2. Những nghiên cứu về khu hệ thực vật
Nghiên cứu khu hệ thực vật có thể ở từng vùng hay trên từng thảm thực
vật khác nhau. Đối với loại hình đồng cỏ, thảo nguyên, ở Liên Xô (cũ), có
nhiều công trình nghiên cứu về thành phần loài thực vật trong đồng cỏ, thảo
nguyên đã công bố như: Alekhin (1904), Vưsotxki (1915), Graxits (1927),
Sennhicop (1938), Creepva (1978), ... [10]. Nói chung, theo các tác giá thì ở
mỗi một vùng sinh thái xác định sẽ hình thành các thảm thực vật đặc trưng, cơ
sở để phân biệt sự khác nhau giữa chúng là thành phần loài và dạng sống, đó
là chỉ tiêu quan trọng của các công trình nghiên cứu thực vật.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về khu hệ thực vật trong đồng cỏ, savan
hoặc một số loại hình thuộc thảo khác mới chỉ được tiến hành từ những năm 1950
trở về đây. Các tác giả đã tiến hành nghiên cứu khu hệ thực vật trong đồng cỏ như:
Hoàng Chung (1980) nghiên cứu thành phần loại và dạng sống của
đồng cỏ miền núi Bắc Việt Nam đã được ra bảng phân loại các kiểu đồng cỏ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
savan, thảo nguyên. Tác giả đã công bố thành phần loại thu được là 233 loại
thuộc 54 họ và 44 chi [10]. Trong cuốn “Đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam”
năm 2004 là 79 họ, 402 loài [11].
Đặc biệt là Dương Hữu Thời (1981) đã công bố công trình tổng hợp
“Đồng cỏ Bắc Việt Nam”, tác giá đã đề cập khá đầy đủ về loại hình đồng cỏ
của vùng này với sự phân chia 5 vùng đồng cỏ Bắc Việt Nam [36].
Dương Hữu Thời, Nguyễn Ngọc Chất, Hoàng Chung, Phạm Quang
Anh (1969), khi nghiên cứu thành phần loại đồng cỏ Ngân Sơn (Bắc Kạn) đã
gọi đây là đồng cỏ [35].
Khi nghiên cứu về loại hình savan, các tác giả: Nguyễn Đình Ngỗi, Võ
Văn Chi (1964), đã nghiên cứu thành phần loại của thảm thực vật ở Hữu Lũng
(Lạng Sơn) đã gọi loại hình này Savan cỏ [26].
Nguyễn Thế Hưng, Hoàng Chung (1997), nghiên cứu thành phần, dạng
sống của savan Quảng Ninh và các mô hình sử dụng, đã phát hiện được 60 họ
với 131 loại thực vật khác nhau [21].
Lê ngọc Công, Hoàng Chung (1997), nghiên cứu thành phần loại, dạng
sống của savan bụi ở vùng đồi trung du Bắc Thái (cũ) đã phát hiện được 123
loài thuộc 47 họ khác nhau [8] ...
Phạm Thị Hương Lam, Hoàng Chung (2007), điều tra, đánh giá tập đoàn
cây thức ăn gia súc hiện có ở xã Hà Hiệu huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn đã thống
kê được 72 loài thuộc 40 họ khác nhau dưới tán rừng trồng keo và rừng phục
hồi tự nhiên, 56 loài thuộc 21 họ ở soi bãi hoang hóa [24].
Nguyễn Anh Hùng, Hoàng Chung (2007), điều tra tiềm năng thức
ăn cho chăn nuôi đại gia súc của xã Bắc Sơn - Móng Cái đã thống kê
69 loài thuộc 35 họ có mặt ở thảm cỏ dưới tán rừng trồng và rừng
phục hồi tự nhiên [20].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
1.2.3. Những nghiên cứu về dạng sống
Dạng số là sự biểu hiện về thích nghi với môi trường sống của thực vật
nên đã được các nhà khoa học nghiên cứu từ rất sớm.
Theo E. warming (1884, 1908, 1909) khi nghiên cứu và phân chia dạng
sống của thực vật thuộc thảo vùng ôn đới đã sử dụng những đặc điểm sinh vật
học như: đặc điểm chồi, những phương thức sinh sản, sự kéo đời sống, sự phát triển ...
Drude (1913), Raunkiner (1905, 1934) khi phân chia dạng sống đã sử
dụng vị trí của chồi và khả năng tồn tại trong điều kiện bất lợi làm tiêu chuẩn
để phân chia [11].
I.K.Patrotxki (1915) chia thảm thực vật thành 5 nhóm: Thực vật thường
xanh, thực vật rụng lá và điều kiện bất lợi, thực vật có thời kỳ sinh trưởng và
phát triển ngắn, thực vật có thời kỳ sinh trưởng và phát triển lâu năm.
Đối với cây thuộc thảo có các bảng phân loại dạng sống đã được làm
do Cannon (1911), Markie (1917),… Ở Liên Xô (cũ) có G.N.Vưsoxki (1915),
Kadakêvich (1922), Laprenko (1935) ... Đặc biệt, trong phân loại dạng sống
thực vật của T.Isatrenko (1954), I.V.Brixôva (1960, 1961), ... đã sử dụng
những đặc điểm cấu trúc cả phần dưới đất của thực vật. Dôdulin (1969),
Xêbêbriacôp (1954, 1955, 1962, 1964) cũng đã đưa ra một số hệ thống dạng
sống tương tự. Như hệ thống dạng sống hoàn mỹ hơn cả cho hoà thảo có lẽ là
của Golubep (1957, 1962, 1968) [11].
Những công trình nghiên cứu về dạng sống thực vật thuộc thảo ở Việt
Nam cũng như ở Đông Dương hình như chưa có. Doãn Ngọc Chất (1969) đã
nghiên cứu dạng sống của một số loài thuộc họ hoà thảo. Hoàng Chung
(2004) dựa trên những nguyên tắc phân loại của Golubep (1962, 1968), thống
kê thành phần dạng sống cho loại hình đồng cỏ Bắc Việt Nam đã đưa ra 18
kiểu dạng sống cơ bản và bảng phân loại nó được trình bày ở bảng 1.5 [11].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
1.2.4. Những nghiên cứu về năng suất
Nghiên cứu về năng suất sinh vật học của các thảm thực vật đã bắt đầu từ
thế kỷ XIX, ban đầu chủ yếu là những công trình nghiên cứu có tính chất thống
kê trong kinh tế nông nghiệp. Sang đầu thế kỷ XX, Những công trình nghiên cứu
về năng suất sinh vật học của các quần xã cỏ tự nhiên và cỏ cho chăn nuôi đã
được nghiên cứu nhiều hơn, với những thí nghiệm trên các kiểu đất khác nhau.
Cuối thế kỷ XX, những công trình nghiên cứu tập chung chủ yếu và
nghiên cứu vào phần trên mặt đất, hoặc là số lượng các chất hữu cơ ở trạng
thái sống và chết, sự tăng trưởng của nó, phần chết hàng năm, thảm mục...
Những dạng sống chính của thực vật đồng cỏ miền núi Bắc Việt Nam được
thống kê ở bảng 1.5.
Bảng 1.5. Những dạng sống chính của thực vật đồng cỏ vùng núi Bắc
Việt Nam
(Không tính các loại cây trồng)
Stt Kiểu dạng sống
% loài trong
tổng số loài
chung của vùng
Đông Bắc
% loài trong
tổng số loài
chung của
vùng Tây Bắc
1 Cây gỗ 8.8 6.2
2 Cây bụi 9.3 9.3
3 Cây bụi thân bò 2.3 3.1
4 Cây bụi nhỏ 10.6 9.3
5 Cây bụi nhỏ thân bò 0.9 2
6 Cây nửa bụi 4.6 4.2
7 Cây thảo lâu năm có rễ cái 4.2 4.2
8 Cây có chồi mọc từ rễ 0.9 1
9 Cây thảo lâu năm có hệ rễ cái, có thân rễ ngắn 0.9 0
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
10 Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm 14.4 14.7
11 Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm có thân bò 2.3 4.2
12 Cây thảo mọc thành búi thưa, sống lâu năm 15.7 12.4
13 Cây thảo mọc thành búi dày, sống lâu năm 4.2 7.3
14 Cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài 4.2 5.2
15 Cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài và thân bò 5.1 7.3
16 Cây thảo một năm có rễ cái 6.5 5.2
17 Cây thảo một năm có hệ rễ cái, có thân bò 0.4 0
18 Cây thảo một năm có hệ rễ chùm 4.2 2
Tổng số
- Cây thuộc thảo, sống nhiều năm 51.9 56.3
- Cây thuộc thảo, sống một năm 11 7.2
- Cây có hệ rễ cái 49.1 44.5
Sau đó nhiều công trình nghiên cứu phần trên mặt đất được tiến hành
cùng với phần dưới đất trong sự phụ thuộc từ những điều kiện tạo thành nó
của các kiểu thực bì khác nhau: Balôchina (1950), Gorskova (1954), Salưt
(1950), Andreev, Lapverenko và Leonchiev (1955); Badilevich (1958)
Xưrokomskaia và Ponhiatopkaia (1960), Igơnachenkôn (1965), Xemen-Nova-
Chiansianskaia (1966), Alekxenko (1967), Hoàng Chung (1974), Alekxeev
(1975), Uchekhi (1977), ... Nghiên cứu riêng phần trên mặt đất có các tác giả:
Kalininna (1954); Xemennôva-Chian-Sanskia (1966) ...
Nghiên cứu riêng phần dưới mặt đất có các tác giả: Baranops - Kaia (1954);
Krưm (1960); Xemennop (1966); Kharitonôp (1967); Gawood (1968);
IgonachenKo, Kirillova và PonhiatopsKaia (1968); Hoàng Chung (1980).
Ivannop (1941), Odum (1968) và Rodin (1968); Mantranop và Siminop
(1967) ... có những công trình nghiên cứu quá trình tích luỹ chất hữu cơ, cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
như sự chuyển đổi sản phẩm và năng lượng trong các thực vật quần hay hệ
sinh thái. Nhật Bản có các công trình nghiên cứu về năng suất sinh học của
các thảm cỏ của các tác giả như: Iwaki (1979); Ogawa và cộng sự (1961);
Iwaki và cộng sự (1964, 1966). Ở Thái Lan, Ấn Độ đã có một số nghiên cứu
về năng suất của các quần xã trong rừng thường xanh vùng ôn đới.
Ở Việt Nam, đến 1955 hầu như không có công trình nào nghiên cứu về
năng suất đồng cỏ. Từ 1960 đến nay nhiều công trình nghiên cứu về năng suất
đã được tiến hành trong các quần xã cỏ tự nhiên và cỏ trồng (chăn thả hay
đồng cỏ cắt). Dương Hữu Thời (1981); Nguyễn Hữu Hiến (1985), ... chỉ
nghiên cứu một số cây có giá trị kinh tế cao trên đồng cỏ tự nhiên và chủ yếu
tính sản lượng có trong một số vùng nhằm phục vụ cho kế hoạch phát triển
chăn nuôi đại gia súc của một số vùng đó. Hoàng Chung (2004) đã tiến hành
nghiên cứu năng suất các quần xã cỏ của vùng Việt Bắc và vùng Tây Bắc trên
hai đai (nhiệt đới, á nhiệt đới). Trong công trình nghiên cứu của ông đã đề cập
những chỉ tiêu về khí hậu, thổ nhưỡng, phần trên mặt đất, phần dưới mặt đất
và đi tới kết luận về sự biến đổi năng suất trên đồng cỏ vùng núi phía Bắc
Việt Nam: “Trong các điều kiện thảm thực vật (savan - đồng cỏ) của Bắc Việt
Nam, năng suất sinh vật học giảm dần dần theo trình tự sau: Đồng cỏ á thảo
nguyên - Đồng cỏ – Savan” [11].
1.2.5. Giá trị chăn thả của tập đoàn cây cỏ trong đồng cỏ Bắc Việt Nam
Chất lượng của các giống cỏ được đánh giá bằng thành phần hoá học có
trong giống cỏ đó. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn xanh phụ thuộc vào
giống cây trồng, điều kiện khí hậu, kỹ thuật canh tác, giai đoạn sinh trưởng.
Đây là một chỉ tiêu hết sức quan trọng không thể thiếu khi nghiên cứu, đánh
giá một số cây thức ăn, trên cơ sở đó giúp các nhà chăn nuôi tính toán khẩu
phần ăn cho gia súc một cách hợp lý, để chúng sinh trưởng và phát triển tốt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
- Độ ăn được:
Những loài trong đồng cỏ Bắc Việt Nam có giá trị chăn khá tốt, theo
thành phần loài thì trên 95% Những loài trong đồng cỏ Bắc Việt Nam có giá
trị chăn khá tốt và thuộc nhóm hòa thảo. Ngoài ra, trong đồng cỏ tồn tại một
số loại cây bụi và cây thuộc thảo khác, phần lớn những loại cây này cũng
được gia súc ăn. Tuy nhiên, giá trị chăn thả của đồng cỏ cũng thay đổi theo
thời gian và theo từng kiểu thảm, điều này có quan hệ mật thiết với đặc điểm
sinh thái, với các giai đoạn sinh trưởng, với thành phần thực vật, với chiều
cao thảm cỏ và thành phần hoá học của nó cùng các hình thức tác động của
con người vào thảm cỏ.
Ở một số loài khi bị chăn thả hầu như không thay đổi trong suốt cả thời
kì dinh dưỡng như: Ischaemum indicum, Paspalum scrobiculatum, Paspalum
conjugatum và một số loài một năm. Một số loài khác thì giá trị chăn thả giảm
dần theo thời gian, ở những loài này tuổi càng tăng thì tỷ lệ phân thân tăng và
phần trăm chất xơ trong thân và lá tăng lên. Lá nhiều loài trở lên cứng và sắc
như cỏ tranh, Chè vè, ...
Thành Phần họ Đậu trong đồng cỏ Bắc Việt Nam rất ít, một số loài
trong đó giá trị chăn thả kém, lá cứng, có nhiều lông cứng như: Desmodium
triquetum, một số loài khác thì năng suất lại rất thấp – sinh khối tập trung chủ
yếu ở phần thân như: Desmodium microphyllum. Trong thành phần cỏ của
một số quần xã có nhiều cây họ Cói, những loại này lá cứng và sắc như
Carex, Rhynchospora, ... một vài loài khác năng suất rất thấp [11].
- Thành phần hoá học của thực vật:
Giá trị dinh dưỡng của các loài cây cỏ quan hệ mật thiết với thành phần
hoá học của nó và với hàm lượng của các chất chứa trong chúng, đó là những
chất rất cần thiết cho sự hoạt động bình thường của động vật, cũng như sự
vắng mặt của các chất có hại đến sức khoẻ của động vật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Thành phần hoá học có trong các giống cỏ tập trung chủ yếu vào 4 chỉ tiêu
đó là: vật chất khô, portein, đường, chất béo và xơ. Hoàng Chung và cộng sự (2004)
đã tiến hành nghiên cứu và theo dõi một số chỉ tiêu về thành phần hoá học của một
số loài chính trong đồng cỏ Bắc Việt Nam. Kết quả được thể hiện ở bảng 1.6 [11].
Những giống cây tức ăn tốt là giống cho năng suất vật chất khô,
protein, đường cao, tỉ lệ xơ trong thức ăn thấp, tỉ lệ lá/thân cao, trong đó chỉ
tiêu Protein được chú ý nhiều hơn cả.
Bảng 1.6. Thành Phần hoá học và giá trị dưỡng của một số loài cỏ chính
TT Tên khoa học Tên việt nam %Nƣớc
%Đạm
TS
%Protein
%Đạm
amin
%lipit
%
Chất
xơ
ĐVTA
1
Ischaemun
indicum
Cỏ lông 76.7 1.954 7.86 1.379 1 8.8 0.19
2
Arundinella
nepalensis
Cỏ xương 77.4 1.976 9.94 1.744 0.3 7.9 0.18
3
Cymbopogon
caesius
Cỏ sả 70.4 2.306 9.61 1.686 1.9 9.3 0.25
4
Imperata
cylinidrica
Cỏ tranh 74 1.945 9.747 1.71 1.1 8.8 0.25
5 Setaria viridis Cỏ sâu róm 67.5 2.1 1.6 10.3 0.27
6
Chrysopogon
aciculatus
Cỏ may 64.4 3.1 0.6 8.3 0.3
7
Digitaria
longiflora
Cỏ chỉ 73.6 3.4 0.5 7.4 0.21
8
Digitaria
decumbens
Pangôla 2.295 8.88 1.558
9
Paspalum
urvillei
Mộc Châu 2.6 10.48 1.839 0.1
10
Fimbrirtylis
annua
Họ cói 0.979 4.288 0.747
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
Trong thực tế khi chăn thả bình thường giá trị thực ăn cao nhất
trong thời gian đầu khi có mọc nhanh ra nhiều lá mới, giá trị thức ăn giảm khi
cỏ bắt đầu đâm bông và tiếp túc giảm khi cỏ càng già. Khi chăn thả liên tục
theo những khoảng thời gian liên tiếp gần nhau, giá trị dinh dưỡng của cỏ có
thể ở mức tương đối cao nhưng như vậy năng suất bị giảm nhiều.
1.2.6. Vấn đề thoái hoá đồng cỏ do chăn thả
Đồng cỏ là đối tượng trong hoạt động kinh tế nông nghiệp, do đó nó
luôn bị thay đổi dưới tác động thường xuyên của con người. Trên thế giới có
nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề thoái hoá của các đồng cỏ chăn thả
cũng như các thảo nguyên ở các vùng khác nhau.
Ở liên bang Nga đã tích luỹ nhiều tư liệu của đới thảo nguyên và bán
hoang mạc. G.I.Vư xốt xki (1915), đã xác định 4 giai đoạn thoái hoá của thực
bì thảo nguyên dưới tác động chăn thả. Patrôtxki (1917) nghiên cứu đới nam
của thảo nguyên Stipa longifolia, ông chia 5 giai đoạn thoái hoá trong đó có
cả giai đoạn không chăn thả, chăn thả và ngừng chăn thả. G.I.Popov (1931)
nghiên cứu thực vật trong đới phụ thảo nguyên Stipa, thảo nguyên nam
Varonhet, ông cũng nhận thấy có các giai đoạn thoái hoá của thảm thực vật do
chăn thả.
V.V.Alekhin (1934) nghiên cứu ở vùng Krusk thuộc đới phụ (phía bắc)
của thảo nguyên đồng cỏ đã xác định các giai đoạn thoái hoá do chăn thả ở
đây như sau: khi chăn thả nặng nề thì Stipa sẽ mất đi và thành phần hệ thực
vật trở nên nghèo nần hơn, đồng thời rất nhiều loài có số lượng cá thể không
nhiều, thường đơn độc và rồi cũng mất dần đi, bắt đầu trội hẳn lên là Bromus,
sau nữa còn lại chủ yếu là cây thuộc thảo và trên thảo nguyên phát triển mạnh
tầng trên là cây Bromus ripparius, tầng thấp là Festuca đồng thời trong vùng
đó biểu hiện hai tầng rõ rệt: Bromus-Poa; cuối cùng chỉ còn lại Festuca,
những sự chèn ép này của thảm cỏ qua hàng loạt những trạng thái nhỏ nhặt sẽ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
dẫn đến giai đoạn phân bố rộng rãi của bào tử thực vật trên thảo nguyên (theo
Hoàng Chung 1980) [10].
Abramtruk, Gortriakopski (1980) để đánh giá mực độ thoái hoá của các
quần xã cỏ do tác động của con người, các ông đã đề ra bảng thang bậc riêng
và đều gồm 3 mức, sự khác nhau giữa các mức là phụ thuộc vào mức thoái
hoá do con người tạo ra.
Đồng cỏ vùng núi miền Bắc Việt Nam được hình thành do kết quả tác
động lâu dài của con người, chủ yếu do khai thác bừa bãi, đốt phá rừng mà
hình thành. Đồng cỏ phân bố chủ yếu ở vùng núi và trung du, có độ dốc khá
lớn; do đó vấn đề thoái hoá đồng cỏ trong quá trình sử dụng là một trong
những vấn đề cần đề cập của các nhà nghiên cứu đồng cỏ Việt Nam. Những
công trình nghiên cứu sự thoái hoá của đồng cỏ do chăn thả ở Việt Nam cho
đến nay vẫn còn rất ít. Dương Hữu Thời (1981) trong cuốn "Đồng cỏ Bắc
Việt Nam" khi phân tích thành phần loài và điều kiện sinh thái của đồng cỏ,
đã đề cập đến hai nguyên nhân gây thoái hoá của đồng cỏ miền Bắc Việt Nam
là do cường độ chăn thả và điều kiện khí hậu [36].
Hoàng Chung (1981, 1983, 2002, 2003) đã phân tích ảnh hưởng của
chăn thả không có kế hoạch lên sự thay đổi thành phần loài, cấu trúc và chức
năng của thảm cỏ vùng Thôm Luông (Ngân Sơn), ông thấy những tác động
của con người trên lớp phủ thực vật vùng nhiệt đới đã bước đầu dẫn đến hình
thành kiểu thực bì cỏ, một trong những loại hình thứ sinh. Sau đó do chăn thả
và tác động khác nhau đã làm đồng cỏ bị thoái hoá dần và biểu thị bằng 5 giai
đoạn của thoái hoá cuối cùng của nó đó là trên mảnh đất của đồng cỏ sẽ xuất
hiện savan cây bụi hay savan cỏ (hay một kiểu thảm thứ sinh nào đó của cây
bụi rồi có thể tiến tới rừng).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
1.2.7. Những nghiên cứu về sử dụng đồng cỏ Việt Nam
Đồng cỏ phía Bắc Việt Nam chủ yếu là có nguồn gốc thứ sinh do hoạt
động khai phá rừng mà thành, nên diện tích đồng cỏ được sử dụng với nhiều
mục đích khác nhau như làm bãi chăn thả, trồng cây lương thực, cây ăn quả, cây
công nghiệp, trồng rừng...
Trong thực tế hiện nay, tại các vùng có sử dụng đồng cỏ vào mục đích
chăn nuôi, hầu như chưa có phương thức sử dụng hợp lý, khai thác một cách
cạn kiệt làm cho thảm cỏ ngày càng thoái hoá mạnh. Cho đến nay, những
nghiên cứu về sử dụng hợp lý đồng cỏ vẫn còn mới mẻ, tài liệu còn quá ít.
Những công trình nghiên cứu dành cho việc sử dụng hợp lý đồng cỏ rải
rác ở một số công trình như: Nguyễn Vũ Hùng, Bùi Văn Minh (1968), có
nghiên cứu về sử dụng luân phiên đồng cỏ ở Ba Vì và đề nghị chia thành 6 ô,
mùa hè sử dụng 5 ô. Trong một đàn gia súc số lượng nên là 100 – 150 con,
diện tích đồng cỏ là 50 – 80ha.
Võ Văn Trị (1983) đã chia đồng cỏ trồng ra thành những ô nhỏ, sự luân
phiên mùa hè theo ông có khoảng cách 40 -50 ngày, mùa đông là 60 ngày.
Dương Hữu Thời (1981) có đề cập đến một số vấn đề sử dụng hợp lý
như: luân phiên đồng cỏ, trồng cỏ, diệt trừ cây bụi.
Hoàng Chung (1988) nghiên cứu về vấn đề sử dụng hợp lý đồng cỏ Bắc
Việt Nam.Trên cơ sở tương đối đầy đủ những tư liệu về đồng cỏ vùng này đã
chia đồng cỏ Bắc Việt Nam thành 3 hệ thống (3 loại theo độ dốc):
Loại 1: Đồng cỏ có độc dốc sườn dao động từ 0 – 70
Loại2: Đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 7 - 250
Loại 3: Đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 25 – 300 trở lên
Từ việc phân chia này ông đã đề xuất các biện pháp sử dụng hợp lý
đồng cỏ ở từng nhóm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
Vấn đề cải tạo đồng cỏ Bắc Việt Nam ông đã đề cập đến 2 vấn đề lớn:
cải tạo điều kiện môi trường sống, cải tạo lớp đất mặt. Qua những nghiên cứu
trên ông đề xuất một số ý kiến về vấn đề sử dụng hợp lý đồng cỏ của vùng núi
phía Bắc Việt Nam.
1.3. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ trồng
1.3.1. Tình hình phát triển đồng cỏ trồng trên thế giới
Sau cuộc “Cách mạng về thức ăn gia súc” ở Tây Âu mà đặc biệt là ở
Anh đã tạo điều kiện thuận lợi cho chăn nuôi phát triển, đồng cỏ ngày càng
được chú ý và sử dụng đúng với vai trò của nó. Nếu như trước kia ở Pháp
(1842) chỉ có 4 triệu ha trồng cỏ và 15 triệu ha ngũ cốc thì hiện hay tỷ số ấy
đã thay đổi: 12 triệu ha trồng cỏ và 8 triệu ha ngũ cốc [21].
Ở Anh diện tích ngũ cốc giảm đi và diện tích trồng cỏ cùng các loại cây
thức ăn gia súc khác tăng lên và được thâm canh một cách đáng kể.
Ở Liên Xô, diện tích trồng cỏ năm 1913 là 2,1 triệu ha và đến năm
1961 diện tích này đã lên tới 51,9 triệu ha [15]. Không những diện tích trồng
cỏ tăng lên, việc nghiên cứu chọn lọc các giống cỏ có năng suất và giá trị dinh
dưỡng cao đã được chú trọng, nhiều loại cỏ như cỏ Voi, cỏ Ghinê, cỏ
Bermuda, cỏ Pangola, v.v… đã được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới. Ở
các nước nhiệt đới khả năng phát triển đồng cỏ rất lớn, nếu được sử dụng một
cách hợp lý có thể cung cấp Prôtêin động vật không những cho vùng nhiệt đới
mà cho cả vùng lân cận.
1.3.2. Tình hình phát triển đồng cỏ trồng ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nếu như năm 1960, miền Bắc chỉ có 96 ha trồng cỏ thì
sang năm 1963, theo số liệu ở 6 tỉnh đồng bằng, diện tích trồng cỏ và ngô để
làm thức ăn cho trâu bò đã đạt tới 3.585 mẫu Bắc bộ (1290,6 ha) [15].
Năm 1976 Bộ Nông nghiệp đã ban hành bản dự thảo “Quy phạm, xây
dựng, sử dụng, dự trữ và quản lý đồng cỏ” từ đó đến nay diện tích đồng cỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
trồng có tới 5000–6000 ha, nhiều cơ sở như Mộc Châu, Sao Đỏ, Đồng Giao,
Phú Mãn,… đã xây dựng được hàng nghìn ha đồng cỏ chăn nuôi tập thể, đã
tiến hành cải tạo bãi cỏ thiên nhiên, đồng cỏ cho trâu bò và lợn, nhiều HTX đã
sử dụng đất ven bờ sông nhỏ, ven đê trồng cỏ cung cấp cho gia súc.
Nông trường Mộc Châu với sự giúp đỡ tận tình, toàn diện của Chính
phủ và chuyên gia Cu Ba đã xây dựng thành công nghệ hệ thống đồng cỏ kết
hợp chặt chẽ với kết cấu chuồng trại thể hiện rõ một phương thức chăn nuôi
đồng bộ trên đồng cỏ thâm canh.
Ở Nông trường Đồng Giao, nếu năm 1969 ở đây chỉ có 3 ha cỏ trồng
thì tới năm 1975 đã có tới 1179 ha (Báo cáo của nông trường Đồng Giao,
1976). Bên cạnh việc xây dựng và cải tạo đồng cỏ, vấn đề về dự trữ, phơi khô
và ủ xanh và thực hiện có kế hoạch, có chất lượng như ở Sao Đỏ, Mộc Châu.
Song song với những cố gắng trên việc nghiên cứu các giống cỏ nhập nội và
cỏ địa phương có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao đã được chú ý, nhiều
giống cỏ tốt đã được đưa vào sử dụng ở các cơ sở nghiên cứu và trung tâm
chăn nuôi trong cả nước như Mộc Châu, Ba Vì, Đồng Giao, Tân Sơn Nhất,
Hưng Lộc, Thủ Đức, Khánh Dương, Nha Bố…
Cỏ cao sản ngoại nhập ngày càng được quan tâm một cách toàn diện
hơn. Trong những năm gần đây nước ta đã nhập nhiều đợt các giống cỏ đậu
và cỏ thảo nhiệt đới (chủ yếu từ Ôxtrâylia và CuBa), đã tiến hành trồng khảo
nghiệm ở một số địa phương. Một số giống đã được đưa vào sản xuất như cỏ
Pangola (Digitaria decumbes) cỏ đậu Stylo (Stylosanthes)…Nhiều nông
trường và hợp tác xã cũng đã trồng cỏ Voi, cỏ Xuđăng, cỏ Pangola… Kết quả
thu hoạch các loại cỏ đó cho biết, nếu mỗi năm cắt được 3-4 lứa thì có thể đạt
năng suất 50 – 60 tấn/ha, trồng qua 3-4 năm cỏ vẫn phát triển tốt [2].
Nguyễn Ngọc Hà và CTV (1985) đã tiến hành nghiên cứu, tuyển chọn
tập đoàn cỏ nhập nội và đưa ra nhận xét: Nhóm cỏ thân cụm Panicum
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
maximum Liconi và K280 cho năng suất trung bình 17 – 18 tấn VCK/ha/năm
với 7 – 8 lứa cắt [17].
Tháng 7/2004, viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp và phát triển nông
thôn đã triển khai thực hiện dự án “Trồng thử nghiệm tập đoàn giống cỏ
nhập nội nuôi bò” tại xã Cẩm Sơn, An Thạch (Mỏ Cày), Hữu Định (Châu
Thành) và An Đức (Ba Tri) đã đưa ra kết luật: Cỏ Voi chiếm ưu thế hơn cả,
nếu trồng chuyên canh trên nền đất trống, năng suất đạt 29,04 tấn/ha/lứa; trồng
xen vườn dừa là 15,18 tấn/ ha, trồng xen vườn ăn trái là 25 – 27 tấn/ha. Đứng
thứ hai là cỏ Sả lá lớn, trồng thâm canh là 23,11 tấn/ha, trồng xen vườn dừa là
11,77 tấn/ha, trồng xen vườn dứa là 11,77 tấn/ha, trồng xen vườn cây ăn trái là
20,4 – 21,4 tấn/ha. Tiếp theo là cỏ Ruzi, cỏ sả lá nhỏ và cỏ lông tây… [3].
1.3.3. Đặc điểm và thành phần dinh dƣỡng của cỏ, cây trồng làm thức
ăn gia súc
1.3.3.1. Cỏ hoà thảo
Khí hậu nhiệt đới gió mùa của nước ta ảnh hưởng rất lớn đến khả năng
sinh trưởng, phát triển của cỏ Hoà thảo. Hầu hết cỏ Hoà thảo đều sinh trưởng
nhanh vào mùa hè, ra hoa kết quả vào vụ thu và hầu như ngừng sinh trưởng
vào mùa đông. Đến mùa xuân lại phát triển nhanh và cho nhiều lá. Cỏ Hoà
thảo có ưu điểm là sinh trưởng nhanh, năng suất cao nhưng nhược điểm cơ
bản là hàm lượng xơ cũng tăng nhanh khi cây cỏ già, do đó giá trị dinh dưỡng
theo đó cũng giảm nhanh.
Lượng Prôtêin thô tính trong chất khô của cỏ Hoà thảo ở nước ta trung
bình 9,8% (75 -145 g/kg chất khô), tương tự với giá trung bình của cỏ Hoà thảo
ở nhiệt đới. Hàm lượng xơ khá cao (269 – 372g/kg chất khô ). Khoáng đa lượng
và vi lượng đều thấp, đặc biệt là nghèo canxi và phốtpho. Trong 1 kg chất khô,
lượng khoáng trung bình ở cỏ Hoà thảo là: Ca: 4,7 ± 0,4g; P: 2,6 ± 0,1g;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
N: 2,0 ± 0,1g; K: 19,5 ± 0,7g; Zn : 24 ± 1,8mg; Mn: 110 ± 9,9 mg;
Cu: 8,3 ± 0,07 mg; Fe: 450mg [38].
Một số giống cỏ Hoà thảo chính:
* Varisme số 6 (viết tắt là VA06)
Giống cỏ Varisme số 6 (VA06) là giống cỏ được lai tạo giữa giống cỏ voi
(Pennisetum americanum X.P.purpureum) và cỏ đuôi sói của châu Mỹ, được
đánh giá là “Vua của các loại cỏ”, được Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa
ngành nghề nông thôn Việt Nam (VARISME) trồng khảo nghiệm ở Việt Năm
năm 2006, được hiệp hội chính thức đặt tên là Varisme số 6 (VA06) từ
20/7/2006 và được Bộ NN&PTNT công nhận, cho sản xuất thử ngày 2/10/2007.
Cỏ VA 06 dạng như cây mía (còn gọi là cỏ mía), thân thảo, cao lớn, họ
hoà thảo, dạng bụi, mọc thẳng, năng suất cao, chất lượng tốt, phiến lá rộng,
mềm, rễ chùm, phiến là dài 60-80 cm. Chiều cao của cây có thể đạt đến 3,5-4
mét, đường kính tối đa thân đạt 2-3 cm, viền lá thô, mặt lá trơn nhẵn hoặc có
lông tơ phủ, gân nổi rõ, bẹ lá tròn không có lông. Hoa tự hình bông, màu vàng
nâu, chiều dài 20 – 30 cm.
Cỏ có hàm lượng dinh dưỡng cao, nhiều nước, khẩu vị ngon, hệ số tiêu
hoá cao, là thức ăn tốt cho các loại gia súc ăn cỏ, gia cầm, và cá trắm cỏ.
Trong cỏ có 17 loại axit amin và nhiều loại vitamin. Trong cỏ tươi, hàm lượng
protein thô 4,6%, protein tinh 3%, đường 3,02%; Trong cỏ khô, hàm lượng
protein thô 18,46%, protein tinh 16,86%, đường tổng số 8,3%, năng suất
trung bình đạt 400-500 tấn/ha/năm. (Theo Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa
ngành nghề nông thôn Việt Nam (VARISME,2008)).
Cỏ VA06 vừa có thể làm thức ăn tươi, làm thức ăn ủ chua, thức ăn
hong khô hoặc làm bột cỏ khô dùng để nuôi bò thịt, bò sữa, dê, cừu, thỏ, gà
tây, cá trắm cỏ, mà không cần hoặc về cơ bản không cần cho thêm thức ăn
tinh vẫn đảm bảo vật nuôi phát triển bình thường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Hiệu quả về chăn nuôi hơn hẳn các loại cỏ khác, chẳng hạn, cứ 14 kg
cỏ tươi thì sản xuất được 1 kg trắm cỏ, 18 kg cỏ tươi thì sản xuất được 1 kg
thịt ngỗng. Không những vậy, giống cỏ này có hàm lượng đường cao, giàu
dinh dưỡng được các loại vật nuôi như bò, dê, cừu, lợn, lợn rừng, gà tây, cá
trắm cỏ rất thích ăn, vật nuôi chóng lớn, khoẻ mạnh.
* Cỏ Voi (Pennisetum pupureum)
Cỏ Voi có nguồn gốc ở Nam Phi, phân bố rộng ở các nước nhiệt đới
trên thế giới ở miền Nam Việt Nam được Nguyễn Văn Tuyền (1973) coi là 1
trong 4 loại cỏ tốt.
Cỏ Voi là cỏ lâu năm, thân đứng có thể cao 4 – 6m, có khả năng thâm
canh cao. Trong điều kiện thuận lợi có thể đạt 25 – 30 tấn chất khô/ha; một
năm cắt 7 -8 lứa. Đôi khi có thể đạt năng suất cao hơn nếu đáp ứng đủ phân
bón và nước. Hàm lượng Prôtêin thô ở cỏ Voi trung bình 100g/kg chất khô.
Khi thu hoạch ở 30 ngày tuổi, hàm lượng Prôtêin thô đạt tới 127g/kg chất
khô, lượng đường trung bình 70-80g/kg chất khô. Thường thì cỏ Voi thu
hoạch 28 – 30 ngày tuổi, trong trường hợp làm nguyên liệu ủ chua có thể cắt
ở 50 ngày tuổi. Ở Việt Nam thường sử dụng các giống cỏ Voi thân mềm như
cỏ Voi Đài Loan, Solectioni, các giống Kinggrass.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
Bảng 1.7. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của cỏ voi
(Theo Fao – Thức ăn gia súc nhiệt đới 1993)
Chỉ tiêu
Đặc điểm mẫu
Chất
khô
% Chất khô
Protein
thô
Xơ
thô
Tro
Mỡ
khô
Dẫn xuất
không đạm
Tươi, độ cao 80 cm
(Tanzania)
20,0 9,0 28,6 14,8 1,1 46,5
Tươi, độ cao 240 cm
(Tanzania)
25,0 7,2 36,1 12,4 1,0 43,3
Tươi, 8 tuần tuổi
(Malaysia)
19,5 9,7 33,3 16,4 1,5 39,1
Tươi, 8 tuần tuổi 135cm
(Thailand)
18,3 8,7 32,8 10,9 3,3 44,3
Tươi, 10 tuần tuổi 150cm
(Thailand)
18,5 6,5 33,0 11,4 2,7 46,4
* Cỏ Ghinê (Panicum maximum)
Cỏ Ghinê có nguồn gốc ở Châu phi và phân bố rộng rãi ở các nước
nhiệt đới, cận nhiệt đới, ở nước ta cỏ Ghinê đã được đưa vào Nam bộ từ năm
1975 và trồng ở Thủ Dầu Một cùng với cỏ Para. Từ đó đến nay, nhiều giống
cỏ Ghinê đã tiếp tục được nhập vào nước ta từ Cuba, Australia, Thái lan như
Panicum maximum Liconi, Panicum maximum TD 58. Cỏ Ghinê được trồng ở
nhiều vùng nước ta, một số nơi còn gọi nó là cỏ Tây Nghệ An hay cỏ sữa.
Năng suất từ 50 – 100 tấn chất xanh/ha và có thể lên tới 30 – 180 tấn/ha
(Nguyễn Danh Kỷ, 1970); ở miền Nam, theo Nguyễn Văn Tuyền (1973) cho
năng suất chất xanh là 80-150 tấn/ha. Tại Khánh Dương năng suất chất xanh
là 180 tấn/ha và khô là 43 tấn/ha/năm (Vũ Ngọc Bình, 1962). Tại Trung tâm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
nghiên cứu dê và thỏ Sơn Tây, có thể cắt được 6-8 lứa/năm, năng suất đạt từ 75-
85 tấn/ha. Là loài cỏ phát triển nhanh trong mùa mưa, vào mùa này cứ 20 -25
ngày là có thể cắt được một lứa và đây là một trong những loài cỏ có thể thay thế
cỏ Pangola, vì giữ được năng suất đáng kể, mặc dù độ ngon miệng có kém hơn
[37]. Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của cỏ được thể hiện ở bảng 1.8.
Bảng 1.8. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của cỏ Ghinê
(Theo Fao – Thức ăn gia súc nhiệt đới 1993)
Chỉ tiêu
Đặc điểm mẫu
Chất
khô
% Chất khô
Protein
thô
Xơ
thô
Tro
Mỡ
khô
Dẫn xuất
không đạm
Tươi, không hoa 40cm
(Tanzania)
25,0 8,8 29,9 11,2 1,6 48,5
Tươi, không hoa 80cm
(Tanzania)
25,0 8,8 32,8 12,9 1,5 44,0
Tươi, bắt đầu có hoa
(Tanzania)
28,0 5,3 39,6 10,6 1,4 43,0
Tươi, 4 tuần tuổi
(Malaysia)
23,0 11,7 30,9 13,0 1,3 43,1
Tươi, 5 tuần tuổi
(Malaysia)
24,5 10,2 30,6 13,9 0,8 44,6
Tươi, 6 tuần tuổi
(Malaysia)
25,0 9,6 31,2 13,2 1,2 44,8
Cỏ khô, mùa khô 6 tuần
(Thailand)
88,6 11,9 31,7 12,0 3,2 41,2
Cỏ khô, mùa khô 8 tuần,
70cm. (Thailand)
89,7 6,6 35,5 13,2 1,8 42,9
Ủ xilô (Tanzania) 20,0 6,3 39,7 19,6 2,7 31,7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
1.3.3.2. Cây bộ đậu
Điều kiện khí hậu, đất đai nhiệt đới nhìn chung ít thuận lợi cho các
giống đậu ._.huyến ngư Quốc gia, trung
tâm Khuyến nông Tuyên Quang phối hợp với các Trạm Khuyến nông Yên
Sơn, thị xã Tuyên Quang triển khai thực hiện mô hình trồng và thâm canh
giống cỏ VA06 với diện tích 12,5 ha).
Như vậy, có thể nói anh Thắng là người đầu tiên đưa giống cỏ VA 06 về
trồng để nhân giống.
Thời gian cắt lứa đầu: Tháng 1 năm 2008. Năng suất: 4,5 tấn/5000 m2,
không dùng làm giống, bán với giá 250 vnđ/kg. Thu được 1.125.000.
Thời gian cắt lứa 2: 27/7/2008 (sau khoảng 6 tháng): Để bán làm giống. Anh
thu được 84.600 hom, bán giống với giá 1200 vnđ/hom, thu được: 101,52 triệu đồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
Thời gian cắt lứa 3: 7/11/08
Thu được: 59.400 hom, giá bán 1200 vnđ/hom, thu được: 71,28 triệu đồng.
Như vậy, sau khoảng 1 năm từ khi bắt đầu trồng đến khi cắt lứa thứ 3, anh
Thắng thu về 173.925.000/0,5ha/năm tương đương với 347.850.000/ha/năm.
Chi phí sản xuất được hạch toán: Tiền mua giống + phí vận chuyển: 10,5
triệu. Tiền làm đất, trồng, phân bón: 3,13 triệu. Vận chuyển bán giống: 16
triệu. Tổng chi phí là 29,63 triệu. Tiền lãi khoảng 144,295 triệu/0,5 ha tương
đương 288,59 triệu/ha.
Tháng 7 năm 2008, anh trồng thêm 2,5 ha, nâng diện tích cỏ VA 06 lên
3ha, vừa để bán giống, vừa để bán cỏ thịt: năng suất bán giống: 600 kg/sào,
năng suất bán cỏ thịt: 1 – 1,2 tấn/sào (thời gian trung bình 50 ngày/lứa cắt).
Năm 2009 anh đã ký một hợp đồng bán cỏ giống với khối lượng 44.800
kg, giá 2500 vnđ/kg, ước tính thu được khoảng 112 triệu đồng.
Kết luận: Trong thời điểm giống cỏ mới xuất hiện và có nhiều ưu
điểm, có thể nhân rộng trên nhiều địa phương, anh Thắng đã nhạy bén nắm
bắt và mạnh dạn đầu tư nên mô hình trồng cỏ bán giống cho lợi ích kinh tế
rất cao. Sau một thời gian, khi thị trường giống đã bão hòa, diện tích cỏ
trên lại được chuyển sang bán cỏ thịt cao sản. Đây là một mô hình và cách
làm rất hiệu quả, có thể vận dụng tốt tại những địa phương đang mới bắt
đầu khảo nghiệm mô hình.
4.4.6. Mô hình trồng cỏ, nuôi bò kết hợp chăn thả
4.4.6.1. Quy mô gia đình
Chủ hộ: Nguyễn Trọng Oánh, Địa chỉ: Thôn Cây Trám – Xã Phú Lâm -
Huyện Yên Sơn.
Cỏ trồng: cỏ voi; diện tích: 2 sào, trên đất soi bãi, có điều kiện để chăm
sóc tốt, năng suất: 8 tạ - 1 tấn/1 sào/lứa cắt, cắt 4 lứa/năm, Xấp xỉ 3,3 tấn/2
sào/lứa cắt tương đương 13,2 tấn/2 sào/năm. Khối lượng này chỉ dùng để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
cung cấp thức ăn thô xanh cho đàn bò của ông ăn thêm và dự trữ cho mùa
đông. Giá trị của cỏ trồng đâu tư nuôi bò là 3.300.000 vnđ/2sào/năm.
Cây trồng khác làm thức ăn gia súc: Cây ngô có bắp non với diện tích
khoảng 4 sào, năng suất bình quân 1 tấn/sào/vụ, một năm trồng 3 vụ, năng
suất bình quân là 12 tấn/4 sào/năm. 50% để bán cho trại bò với giá 450-550
vnđ/kg, 50% còn lại để làm thức ăn thêm và thức ăn dự trữ trong mùa đông
cho đàn gia súc. Giá trị của sản lượng ngô là 6.600.000 vnđ/4sào/năm.
Ngoài ra còn có rơm rạ, cây sắn, mùa đông có cho ăn thêm bột sắn.
Nguồn thức ăn thô xanh chủ yếu của đàn bò là cỏ tự nhiên trên đồi keo 1 năm
tuổi, 3 năm tuổi và 6 năm tuổi thuộc đồi Pháo gần nhà. Vì ông Oánh nuôi theo
hình thức chăn thả là chính.
Như vậy, số tiền đầu tư cho nuôi bò hằng năm là: 3.300.000 +
6.600.000/2 = 6.600.000 vnđ/năm
Ông Oánh bắt đầu nuôi gia súc: từ 1997, số lượng 2 con bò vàng, 1 con
trâu. Vốn đầu tư: 4,5 triệu. Hiện tại: 17 con bò: với 15 bò vàng (13 bò + 2
bê), 2 bò Laisind, 4 con trâu (trong đó có 2 nghé). Ông đã mua: 2 bò vàng + 1
bò lai: 12 triệu, đã bán: 2 bê đực + 1 bò loại thải: 13 triệu.
Sau 11 năm, đàn trâu bò của ông đã tăng từ 3 con trâu bò lên 21 con
(thời điểm điều tra tháng 4/2009 có một con bê con chết khi vừa mới sinh,
nếu không đàn trâu bò là 22 con). Trung bình mỗi năm ông có thêm 2 con, đa
số là bò lai Sind.
Sử lí phân trâu bò và lợn: Đánh đống cho hoai ải để làm phân
chuồng sử dụng và bán, thu được 3-4 triệu/năm (nếu không sử dụng bán
được 7-8 triệu/năm).
Như vậy, trong mô hình này, số tiền đầu tư hằng năm rất thấp: khoảng
6,5 triệu/năm, nhưng thu được 2 con trâu bò/năm, giá khoảng hơn 10 triệu,
làm tăng số lượng và khối lượng đàn, tiền bán phân chuồng khoảng 7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
triệu/năm. Trừ chi phí, tiền lãi hằng năm của ông từ nuôi trâu bò khoảng hơn
10 triệu. Mô hình nuôi bò chăn thả kết hợp với trồng cỏ và một số loài cây
khác làm thức ăn gia súc của ông Oánh tỏ ra phù hợp với hộ gia đình có ít
diện tích đất, chăn nuôi quy mô nhỏ. Ông Oánh đã sử dụng được hiệu quả
nguồn thức ăn sẵn có ngoài tự nhiên và cỏ trồng trên diện tích nhỏ hẹp để phát
triển đàn trâu bò của mình. Và đến thời điểm này, khi đàn bò là 21 con thì hệ
số nhân đàn chắc chắn sẽ nhanh hơn nhiều lần.
4.4.6.2. Quy mô trang trại
Mô hình chăn nuôi tại trại bò quân đội, thuộc Cụm kho CK 28 - Cục KT
Quân khu 2 thuộc Phú Lâm và Kim Phú, Yên Sơn.
Quản lý chính của trại bò: anh Phạm Văn Thủ.
Bắt đầu nuôi bò từ năm 1997 với số lượng ban đầu: 23 con bò vàng, mua
với số tiền 80 triệu, hình thức mua chủ yếu là mua gom trong dân. Từ 1997
đến nay, trung bình mỗi năm đàn bò đẻ thêm 9 con, số lượng bê con chết là 3
con. Như vậy, về lý thuyết đàn bò sau 11 năm sẽ có tổng số là 122 con.
Nhưng do đơn vị thường xuyên giết thịt nên tổng đàn hiện nay là: 30 con bò
vàng (12/4/2009), đến tháng 8/2009 còn 23 con. Tính theo lý thuyết, tổng thu
từ chăn nuôi là 122 con x 3,5 triệu/con = 427 triệu, trừ 80 triệu tiền vốn còn
347 triệu, trong vòng 11 năm. Như vậy bình quân một năm thu khoảng 31,5
triệu, chưa trừ đầu tư các loại thức ăn.
Tổng diện tích khu vực quản lý của trại bò là 45,5 ha, trong đó diện tích
bãi cỏ tự nhiên là 4-5 ha. Là bãi chăn thả chính cho đàn bò, cung cấp thức ăn
thường xuyên cho đàn bò trong các mùa trong năm.
Trồng cỏ voi làm thức ăn cho đàn bò với diện tích: 5 sào trên bãi bằng
phẳng. Sản lượng cỏ thu được không đủ để cung cấp cho đàn bò.
Trồng ngô lấy bắp với diện tích 1-1,5 mẫu (3600 – 5400 m2), trồng 2
vụ/năm, thân lá tận dụng để làm thức ăn xanh cho đàn bò.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
106
Trồng sắn với diện tích khoảng 5 mẫu, lấy củ bán, thân, lá cho bò và cho
cá ăn. Trồng 3 mẫu lúa, rơm được tận dụng cho bò ăn. Thức ăn mùa đông chủ
yếu là thức ăn xanh gồm cỏ và cây rừng mọc trong mùa đông, tinh bột sắn,
không có thức ăn ủ chua dự trữ.
Tính về lý thuyết, tổng diện tích đang dùng cho đàn bò (cỏ tự nhiên + cỏ
trồng + ngô + sắn + lúa) là 8,1 ha. Nếu trồng cỏ VA 06 hoặc cỏ voi cho năng
suất bình quân 200 tấn/ha/năm sẽ được khoảng 1.620 tấn/năm. Nếu một con
bò vàng ăn một ngày khoảng 25 kg thức ăn xanh, một năm ăn hết khoảng 9
tấn cỏ, thì số lượng cỏ trên có thể cung cấp cho 180 con bò vàng/năm.
Như vậy, trại bò quân đội chưa khai thác hết tiềm năng về diện tích đất,
khu vực chăn nuôi để tập trung đầu tư cho đàn bò. Đàn bò được nuôi với số
lượng ít, theo cung cách truyền thống là tận dụng bãi chăn và những phụ
phẩm nông nghiệp. Với những yếu tố tự nhiên rất thuận lợi, hoàn toàn có thể
đầu tư để xây dựng mô hình chăn nuôi lý tưởng tại đây để phát triển đàn bò.
Giải đáp vấn đề này, anh Thủ cho biết nhiệm vụ của trại bò quân đội không
chỉ là chăn nuôi mà còn cung cấp một phần lương thực (Ngô, sắn, lúa) cho
đơn vị và nhiều nhiệm vụ quan trọng khác.
4.5. Đề xuất mô hình chăn nuôi
Với nền tảng là kinh tế nông nghiệp thì chăn nuôi vẫn là một ngành chủ
lực của nhân dân huyện Yên Sơn nói riêng và nhân dân các tỉnh miền núi phía
Bắc nói chung. Giai đoạn 2001-2007, đàn trâu khu vực miền núi phía Bắc
tăng trưởng 1,16%/năm (cao hơn tốc độ trung bình của cả nước
1,03%/năm), đàn bò tăng 4,88%/năm, đàn bò sữa tăng 14,42%/năm, đàn dê
tăng 15,78%/năm, đặc biệt là đàn ngựa ở khu vực này chiếm tới 88,60%
tổng đàn cả nước, đàn trâu chiếm 58,84% và đàn dê chiếm 34,81% tổng
đàn cả nước. Tổng sản lượng thịt năm 2007 đạt 503,6 nghìn tấn, tổng sản
lượng trứng đạt 445,4 nghìn tấn, tổng sản lượng sữa đạt 11,5 nghìn tấn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
107
tổng sản lượng mật đạt 1,5 nghìn tấn và 805,9 tấn kén tằm. Tiềm năng đất
đai ở miền núi phía Bắc còn rất dồi dào. Hiện toàn khu vực mới đưa vào sử
dụng 38,9% diện tích (khoảng 1.285.000 ha), còn tới 61,1% diện tích đất
chưa sử dụng (khoảng 2.023.000ha). Trong đó có 240.000ha có thể sử
dụng vào sản xuất nông nghiệp.
Tuyên Quang cũng là một trong các tỉnh có nghề chăn nuôi gia súc phát
triển mạnh với số lượng đàn lớn, trong đó tập trung chủ yếu ở huyện Yên
Sơn. Đàn trâu bò của huyện Yên Sơn năm 2008 được thống kê theo Bảng 4.11.
Bảng 4.11. Đàn trâu, bò của huyện Yên Sơn tính đến 1/10/2008
TT Xã
Đàn trâu
(con)
Đàn bò
(con)
TT Xã
Đàn trâu
(con)
Đàn bò
(con)
1 Đội bình 1075 948 16 Quý Quân 549 13
2 Nhữ khê 651 823 17 Trung Trực 755 98
3 Nhữ hán 965 343 18 Kiến Thiết 1158 121
4 Mỹ Bằng 1381 980 19 Xuân Vân 1809 204
5 Phú Lâm 1216 957 20 Tân Long 1158 819
6 Hoàng Khai 511 142 21 Tân Tiến 1068 521
7 Kim Phú 874 346 22 Thái Bình 867 484
8 Trung Môn 551 68 23 Tiến Bộ 1148 392
9 Chân Sơn 943 225 24 Phú Thinh 484 310
10 Lang Quán 975 271 25 Đạo Viện 735 239
11 Thắng Quân 988 777 26 Công Đa 988 270
12 Tứ Quận 985 977 27 Trung Sơn 806 501
13 Chiêu Yên 1101 16 28 Kim Quan 896 579
14 Phúc Ninh 1197 171 29 Hùng Lợi 1283 1334
15 Lực Hành 749 6 30 Trung Minh 880 406
Tổng: 28.746 con bò; 13.341 con trâu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
108
Diện tích đất dành cho nông nghiệp theo cơ cấu sử dụng đất ở huyện là
khá lớn: riêng đất trồng cỏ là 223,76 ha, chiếm 71,28% tổng diện tích đất
trồng cỏ của tỉnh. Chính vì vậy, việc xây dựng một mô hình phù hợp với điều
kiện của địa phương có ý nghĩa rất lớn để phát triển ngành chăn nuôi đại gia
súc bền vững, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Từ những nghiên cứu trên, chúng
tôi đề xuất một số mô hình như sau:
4.5.1. Mô hình chăn nuôi hộ gia đình
Chăn nuôi hộ gia đình có đặc điểm là số lượng đàn trâu bò ít, thường 4-5
hoặc xấp xỉ 10 con, quy mô chăn nuôi nhỏ, không đầu tư nhiều để phát triển
có chiều sâu. Thức ăn cho gia súc chủ yếu là cỏ tự nhiên và tận dụng các phụ
phẩm nông nghiệp khác. Mô hình chăn nuôi nhỏ hợp với những hộ gia đình
có diện tích đất nhỏ hẹp và hiện vẫn là mô hình chủ yếu trong nhân dân.
Chăn nuôi hộ gia đình không yêu cầu cao về kỹ thuật, phù hợp với nuôi
bò thịt. Mỗi hộ gia đình có thể đầu tư mua 4-5 con bò, giống được quan tâm
chủ yếu hiện nay là bò đực lai Sind, có kích thước và trọng lượng tối đa lớn,
khả năng sinh trưởng mạnh, tỷ lệ thịt xẻ cao. Giá bò giống loại 100-
120kg/con có giá 5 – 7 triệu đồng, bò sinh sản giá 11- 12 triệu đồng/con, Mỗi
con cần khoảng 25-30 kg thức ăn xanh/ngày, khoảng 9 tấn cỏ/năm. Nên có
thể trồng khoảng 4 sào (1440 m2) cỏ VA 06 là đủ thức ăn xanh cung cấp cho
đàn bò. Mùa mưa có thể sử dụng cỏ dưới tán rừng, cho ăn thêm một phần cỏ
trồng, các phụ phẩm nông nghiệp như rơm, thân ngô, sắn… Lượng lớn cỏ
trồng mùa mưa được ủ chua hoặc làm cỏ khô dự trữ để cho ăn trong mùa
đông. Thức ăn xanh trong mùa đông là cỏ trồng và cỏ ủ chua. Đảm bảo cung
cấp đầy đủ nhu cầu thức ăn cho bò. Khác với phương thức truyền thống là
chăn thả, phương thức này quan tâm nhiều đến vấn đề xây dựng chuồng trại
để nuôi nhốt, giảm lượng năng lượng mất đi trong quá trình đi ăn trên đồi
hoặc bãi chăn thả. Trồng cỏ, nuôi nhốt bò thịt là một mô hình phù hợp với hộ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
109
gia đình có ít diện tích đất, không nhiều nhân công, chỉ cần một nhân công là
đủ có thể chăm sóc đàn bò chu đáo.
4.5.2. Mô hình chăn nuôi trang trại nhỏ
Kinh tế trang trại bao gồm kinh tế Nông – Lâm – Ngư trại, là hình thức tổ
chức kinh tế bao gồm chủ trang trại và một số lượng lao động nhất định được
trang bị tư liệu sản xuất để tiến hành một hoạt động sản xuất kinh doanh phù
hợp với nhu cầu của thị trường [41].
Trang trại kinh tế gia đình được hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ
XVII. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tính đến
ngày 1/10/2002, cả nước đã có 60,758 trang trại, trong đó số trang trại trồng
trọt là 38,412 (63,2%), chăn nuôi có 1,762 (2,9%), lâm nghiệp có 1,630
(2,7%), nuôi trồng thủy sản có 16,951 (27,9%) và kinh doanh tổng hợp có
2,006 (3,3%), bình quân mỗi trang trại sử dụng 6,08 ha đất đai.
Trang trại chăn nuôi gia súc nhỏ được tính là trang trại có dưới 40 con
trâu bò. Mô hình này phù hợp với những hộ gia đình có không quá nhiều diện
tích nuôi trồng. Có đủ vốn và nhân lực để đầu tư chăn nuôi theo chiều sâu.
Trung bình mỗi con trâu bò ăn 30 kg thức ăn xanh một ngày, thì một đàn 40
con cần 1200 kg/ngày, một năm cần 432 tấn thức ăn xanh. Nếu trồng cỏ VA
06 với năng suất trung bình 300 tấn/ha/năm thì cần khoảng 1,5 ha cỏ trồng.
Ngoài ra có thể kết hợp cho ăn thêm các phụ phẩm nông nghiệp khác: thân lá
cây ngô, ngọn mía, rơm rạ. Mùa mưa vẫn có thể tận dụng các loài cỏ tự nhiên
tuy có năng suất thấp nhưng chất lượng và độ ngon cao hơn cỏ trồng.
Với số lượng 40 con bò có thể xây dựng hầm Biogas, cung cấp chất đốt
và điện năng tiêu thụ cho cả trang trại. Từ đó làm giảm ô nhiễm môi trường
và tiết kiệm được tiền điện. Nuôi bò với quy mô trang trại cần có một số thiết
bị hỗ trợ cho chăn nuôi như máy băm cỏ. Giúp cho gia súc dễ ăn hơn, tỷ lệ
tiêu hóa cao hơn, ăn được nhiều hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
110
Nuôi gia súc quy mô lớn thì vấn đề quan trọng nhất vẫn là nguồn thức ăn
cho mùa đông. Cần dành một lượng cỏ xanh để làm cỏ khô, ủ chua dự trữ
trong mùa đông. Cỏ ủ chua để được lâu, dễ ăn nhưng gia súc không thể chỉ sử
dụng cỏ ủ chua mà phải ăn xen kẽ với thức ăn xanh. Nên để đảm bảo lượng thức
ăn xanh trong mùa đông, cần tập trung chăm sóc và bón thúc nhiều đạm hơn cho
cỏ trồng trong mùa đông. Đồng thời dành một diện tích đất để trồng ngô.
Giống bò thịt nuôi nhốt cho hệ số chăn nuôi cao hiện nay là bò lai Sind, là bò
lai giữa bò Red Sindhi (Pakistan) với bò vàng Việt Nam, con cái trưởng thành
nặng trên 250 kg, con đực nặng trên 450 kg. Tăng trọng một ngày đạt 500–
700g/ngày, giai đoạn vỗ béo có thể đạt xấp xỉ 1000 g/ngày, tỷ lệ thịt xẻ 50% [25].
Ngoài ra ở Yên Sơn hiện nay còn nuôi bò Bradman, có thể kiêm nhiệm
thịt sữa, khối lượng trưởng thành: Bò cái 380kg, bò đực 600-650kg, năng suất
sữa thấp: 600-700kg/chu kỳ. Khối lượng bê sơ sinh 23-24kg. Tỷ lệ xẻ 52,5%.
Vấn đề chuồng trại cần được quan tâm đúng mức vì nuôi nhốt đòi hỏi
chuồng xây dựng đúng yêu cầu kỹ thuật, đảm bảo vệ sinh, thoáng mùa hè, ấm
vào mùa đông.
4.5.3. Mô hình trồng cỏ, ngô thƣơng phẩm
Huyện Yên Sơn hiện tại có 2 trại bò sữa lớn: Phú Lâm, Hoàng Khai và
trại Tiền Phong ở huyện Sơn Dương. Nhu cầu thức ăn xanh của các trại bò là
rất lớn. Các trại bò vẫn hợp đồng mua cỏ trồng của nhân dân với giá 220 vnđ -
250 vnđ/kg và ngô có bắp non với giá 450 – 550 vnđ/kg. Nên hiện nay ở Yên
Sơn, đặc biệt là xã Phú Lâm, Hoàng Khai, Mỹ Bằng đang hình thành nhiều
mô hình trồng cỏ thương phẩm. Giống cỏ hiện được trồng với diện tích nhiều
nhất là cỏ voi, giống cỏ đang được ưa chuộng và nhân rộng, có khả năng thay
thế cỏ voi trong thời gian tới là cỏ VA 06. Nếu chăm sóc tốt, cỏ VA 06 có thể
đạt năng suất 450 tấn/ha/năm, bán với giá 250 vnđ/kg, một năm có thể thu
được 112,5 triệu đồng/ha/năm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
111
Nếu trồng lúa, chăm sóc tốt một vụ có thể đạt 50 tạ/ha, cả 3 vụ đạt xấp
xỉ 1,5 tấn/ha, lúa bán được giá 3800 đ/kg (giá cao năm 2009), cả năm có thể
thu về khoảng 57 triệu đồng.
So về công chăm sóc, dịch bệnh, phân bón… trồng lúa đều tốn kém hơn
nhiều so với trồng cỏ. Chưa tính đến trồng lúa mất nhiều công khi thu hoạch,
hệ thống thủy lợi, tưới tiêu phải đảm bảo, phụ thuộc nhiều vào thời tiết, tần
suất rủi ro cao hơn. Nhưng số tiền lãi thu được trên một đơn vị diện tích đất
thì trồng cỏ lại cho lãi suất gấp 2 lần. Số tiền lợi nhuận từ trồng lúa khi trừ đi
các khoản chi phí còn lại không đáng bao nhiêu, lãi suất của người nông dân
chỉ khoảng 15,33% (Theo TTXVN). Còn nếu trồng cỏ thương phẩm có thể cho
lợi nhuận tới 440,10%. Trồng cỏ một lần có thể khai thác 4-5 năm.
Như vậy, trồng cỏ cao sản cho giá trị kinh tế cao hơn nhiều so với trồng
lúa. Đây là một hướng đi mới cho nông dân huyện Yên Sơn chuyển đổi cơ
cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng cho phù hợp, sử dụng được tối đa hiệu quả kinh
tế trên một đơn vị diện tích đất. Đồng thời phát triển được tiềm lực chăn nuôi
là thế mạnh của địa phương.
Nếu trồng ngô đến khi có bắp non làm thức ăn gia súc, giá trị kinh tế đạt
được có thể đến gần 40 triệu/ha/năm (mô hình tại gia đình anh Vỹ). Giá trị
kinh tế trên một đơn vị diện tích đất không những rất lớn mà còn giải quyết
được bài toán về thức ăn cho gia súc trong mùa khô. Có thể trồng ngô thâm
canh trên đất trồng lúa để thu được sản lượng cao nhất, hoặc có thể trồng xen
canh 2 vụ lúa một vụ ngô đông. Trồng ngô làm thức ăn gia súc nên trồng
những giống có thời gian sinh trưởng ngắn, thân mập, lá to thẳng, trồng với
mật độ dầy. Các giống LVN-184, VN-8960, SSC-557, PAC 963, NK4300,
NK66 … là các giống phù hợp với mô hình này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
112
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận
1.1. Huyện Yên Sơn có tiềm năng lớn về chăn nuôi đại gia súc với tập
đoàn cây thức ăn gia súc phong phú, đa dạng. Huyện có diện tích cỏ trồng lớn
nhất tỉnh (223,76 ha, chiếm 71,28% tổng diện tích đất trồng cỏ của tỉnh) và
hiện đang tiếp tục đưa thêm giống cỏ cao sản VA 06 vào sản xuất thâm canh
trên diện rộng.
1.2. Thành phần cỏ tự nhiên đa dạng, có chất lượng cao hơn cỏ trồng,
đặc trưng là thảm cỏ ở bãi bằng và thảm cỏ dưới tán rừng trồng. Năng suất cỏ
tự nhiên không phụ thuộc nhiều vào dinh dưỡng đất mà phụ thuộc chủ yếu
vào kiểu thảm thực vật. Bãi chăn thả tự nhiên hiện còn không nhiều và cỏ tự
nhiên có năng suất thấp. Tuy nhiên có thể sử dụng thảm có dưới tán rừng
trồng làm nơi chăn thả gia súc trong mùa mưa (tháng 4 đến tháng 10).
1.3. Cỏ trồng trên địa bàn huyện chủ yếu là cỏ Voi và VA 06, có năng
suất cao gấp khoảng 41,36 lần cỏ tự nhiên và là nguồn thức ăn chủ đạo cho
gia súc. Cỏ trồng thâm canh và được trồng trên diện tích lớn. Cỏ VA 06 là cỏ
trồng có năng suất và chất lượng cao hơn cả, có thể thâm canh trên diện rộng.
Năng suất cỏ trồng phụ thuộc nhiều vào chế độ chăm sóc và dinh dưỡng đất.
1.4. Các cây trồng khác làm thức ăn gia súc trên địa bàn huyện có diện
tích và sản lượng lớn tuy nhiên chưa được sử dụng một cách hợp lí. Trồng
ngô có bắp non để làm thức ăn cho gia súc là một mô hình vừa cho hiệu quả
kinh tế cao vừa giải quyết được vấn đề thức ăn cho gia súc trong mùa đông.
1.5. Mô hình chăn nuôi bò sữa theo cung cách truyền thống không đem
lại hiệu quả kinh tế cao vì phụ thuộc nhiều vào sự biến động của thị trường.
Mô hình trồng cỏ thương phẩm và trồng cỏ cao sản kết hợp nuôi nhốt bò thịt
là 2 mô hình phù hợp để địa phương phát triển kinh tế chăn nuôi và làm tăng
nhanh số lượng đàn bò, đem lại giá trị kinh tế tối ưu trên một đơn vị diện tích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
113
đất và phát triển ổn định, không phụ thuộc nhiều vào sự biến động của thị
trường.
1.6. Mô hình trồng 2 vụ lúa một vụ ngô làm thức ăn gia súc trên một đơn
vị diện tích đất đem lại hiệu quả kinh tế cao khi sử dụng được tối đa quỹ đất
và giải quyết được vấn đề thiếu thức ăn cho gia súc trong mùa đông.
2. Đề nghị
2.1. Cần tiếp tục tìm hiểu thành phần loài cỏ tự nhiên và các kiểu thảm
thực vật trên địa bàn huyện để có thể đánh giá một cách toàn diện về năng
suất và thành phần loài cỏ tự nhiên ở các kiểu thảm khác nhau, tiềm năng thức
ăn từ cỏ tự nhiên cho đàn bò.
2.2. Do năng suất cỏ tự nhiên thấp nên có thể trồng xen kẽ một số loài cỏ
trồng cao sản dưới tán rừng để tận dụng diện tích đất, làm bãi chăn thả lý
tưởng cho trâu bò nuôi theo hình thức chăn thả.
2.3. Chính quyền địa phương cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ
chuyển đổi diện tích đất trồng trọt sang trồng cỏ VA 06 và trồng ngô làm thức
ăn gia súc, giải quyết nhu cầu thức ăn thô xanh trong cả năm cho đàn gia súc.
2.4. Khảo nghiệm và đánh giá một cách toàn diện, chi tiết hiệu quả kinh
tế của mô hình trồng cỏ, trồng ngô thương phẩm thâm canh trên đất trồng lúa
và trồng cỏ cao sản kết hợp nuôi nhốt để có chiến lược nhân rộng mô hình
theo chiều sâu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
114
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Lê Văn An và Tôn Nữ Tiên Sa, Phát triển kỹ thuật cây thức ăn xanh với
nông hộ, do ACIAR và CIAT xuất bản, ACIAR chuyên khảo số 93.
2. Đoàn Ẩn, Võ Văn Trị (1976), Gây trồng và sử dụng một số giống cỏ năng
suất cao, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội.
3. Báo Lao động (2005), số 59, “ Tìm cỏ tốt cho nghề nuôi bò”.
4. Bộ NN&PTNT, Cục chăn nuôi (2006), Theo báo cáo tổng kết chăn nuôi
trang trại, tập trung giai đoạn 2001-2006, định hướng và giải pháp phát
triển giai đoạn 2007-2015, Hà Nội.
5. Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2001, 2003, 2005), Danh lục các loài thực
vật Việt Nam, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội.
6. Lê Hòa Bình và cộng sự (1992), Khảo sát năng suất cây thức ăn mới nhập
nội ở một số vùng và ứng dụng trong hộ chăn nuôi, Công trình nghiên
cứu KHKT chăn nuôi 1991-1992, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội.
7. Phạm Thị Trân Châu, Nguyễn Thị Hiền, Phùng Gia Tường (1997), Thực
hành Hóa sinh học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Lê Ngọc Công, Hoàng Chung (1997), Nghiên cứu cấu trúc một số mô hình
phục hồi rừng trên savan cây bụi ở Bắc Thái, Tạp chí khoa học và công
nghệ - Đại Học Thái Nguyên, số 2.
9. Quang Chính - Quang Tiến, Báo Lao Động số 182.
10. Hoàng Chung (1980), Đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam, Công trình nghiên
cứu khoa học – Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc.
11. Hoàng Chung (2004), Đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam, Nxb Nông
Nghiệp, Hà Nội.
12. Hoàng Chung (2006), Tập bài giảng đồng cỏ học, Tài liệu nội bộ của
Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, tr.6.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
115
13. Hoàng Chung (2006), Tập bài giảng các phương pháp nghiên cứu quần
xã thực vật, Tài liệu nội bộ của trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
14. Davies V. (1960), Quá trình phát triển của kỹ thuật nghiên cứu đồng cỏ.
Đồng cỏ nhiệt đới, tập 1, Nxb Khoa học, Hà Nội.
15. Thái Đình Dũng, Đặng Đình Liệu (1979), Đồng cỏ nhiệt đới. Nxb Hà Nội.
16. Nguyễn Lam Điền (2005), Giáo trình ứng dụng sinh học trong trồng trọt,
Tài liệu nội bộ Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
17. Nguyễn Ngọc Hà, Lê Hòa Bình, Bùi Xuân An, Ngô Văn Mận (1985), Kết
quả nghiên cứu tuyển chọn tập đoàn cỏ nhập nội, Nxb Khoa học và kỹ
thuật nông nghiệp tháng 8, tr.347.
18. Đào Lệ Hằng, " Kỹ thuật sản suất thức ăn thô xanh ngoài cỏ", Nxb Nông
nghiệp, 2007
19. Phạm Hoàng Hộ (1993), Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam, Montreal.
20. Nguyễn Anh Hùng, Hoàng Chung (2007), Điều tra tiềm năng thức ăn
cho chăn nuôi đại gia súc của xã Bắc Sơn - Móng Cái và đề xuất mô
hình khai thác nguồn thức ăn. Luận văn Thạc sĩ Sinh học.
21. Điền Văn Hưng (1974), Cây thức ăn gia súc miền Bắc Việt Nam, Nxb
Nông Thôn, In lần thứ 2.
22. Lê Khả Kế và các tác giả (1969, 1975), Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam,
Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 6 tập.
23. Lê Văn Khoa (Chủ biên), “Cây keo dậu và cây keo dậu lai KX2 trong hệ
thống nông nghiệp Việt Nam”, Nxb Nông Nghiệp, 2000.
24. Phạm Thị Hương Lam, Hoàng Chung (2007), Điều tra, đánh giá tập đoàn
cây thức ăn gia súc hiện có ở xã Hà Hiêu huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn,
Luận văn Thạc sĩ Sinh học.
25. Anh Linh, Báo Nông thôn Ngày nay, số 102, ngày 24/5/2005, tr.7.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
116
26. Nguyễn Đình Ngỗi, Võ Văn Chi (1964), Sơ bộ điều tra thảm thực vật
savan trên một vùng đồi phía Nam Hữu Lũng (Lạng Sơn), Tập san sinh
vật địa học–số 1.
27. Nhiều tác giả (1969), Đồng cỏ nhiệt đới, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
28. Phan Thị Phần, Lê Thị Hòa Bình và các cộng sự (1999), Tính năng suất
và một số biện pháp kỹ thuật tăng năng suất chất xanh và hạt của cỏ
Ghinê TD 58, Báo cáo khoa học phần thức ăn và dinh dưỡng vật nuôi,
trình bày tại hội đồng khoa học Bộ NN&PTNT, 28-30 tháng 6/1999.
29. Nguyễn Văn Quang (2002), Đánh giá khả năng sản xuất và nghiên cứu
Biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất một số giống cỏ hòa thảo
nhập nội là thức ăn gia súc tại Bá Vân – Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ
trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
30. Dr.Sochadji (1994), Phát triển chăn nuôi ở Indonexia, Trình bày tại Hà
Nội lần thứ 3 của chương trình giống cỏ ở Đông Nam Á.
31. Tiêu chuẩn Việt Nam 4326 – 1986.
32. Tiêu chuẩn Việt Nam 4329 – 1993.
33. Phạm Văn Thiều, “Cây Đậu Tương - Kỹ thuật trồng và chế biến sản
phẩm), Nxb Nông Nghiệp).
34. Vũ Thị Kim Thoa, Khổng Văn Đĩnh (2001), Khả năng sinh trưởng và
phát triển của cỏ sả Panicum maiximum CvTD 58 trên vùng đất xám
Bình Dương, Báo cáo khoa học phần thức ăn và dinh dưỡng vật nuôi,
trình bày tại hội đồng khoa học Bộ NN&PTNT, 10-12 tháng 4 năm 2001.
35. Dương Hữu Thời, Nguyễn Ngọc Chất, Hoàng Chung, Phạm Quang Anh
(1969), Kết quả công tác điều tra đồng cỏ Ngân Sơn (Bắc Kạn), Thông
báo khoa học trường Đại học Tổng hợp – Khoa Sinh vật.
36. Dương Hữu Thời (1981), Đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam, Trong
quyển “Nghiên cứu cây thức ăn gia súc Việt Nam”, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
117
37. Nguyễn Thiện,“Trồng cỏ nuôi bò sữa”, Nxb Nông Nghiệp, 2004.
38. Trịnh Văn Thịnh, Hoàng Phương, Nguyễn An Tường, Borget M., Boudet
G., Cooper J.P.,…(1974), Đồng cỏ và cây thức ăn gia súc nhiệt đới, tập
2, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội.
39. Thái Văn Trừng (1970), Thảm thực vật rừng Việt Nam, Nxb KH&KT Hà Nội
40. Thái Văn Trừng (1978), Thảm thực vật rừng Việt Nam, Nxb KH&KT Hà Nội
41. Lê Trọng (1994), Phát triển và quản lý trang trại trong kinh tế thị trừờng,
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.)
42. UBND huyện Yên Sơn (2009), Báo cáo kết quả hoạt động thực tiễn của
già làng, người có uy tín trong cộng đồng dân cư trên địa bàn huyện.
43. UBND huyện Yên Sơn (2005), Báo cáo Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
đến năm 2010 huyện Yên Sơn – Tỉnh Tuyên Quang.
44. UBND huyện Yên Sơn, Phòng NN&PTNT (2008), Báo cáo chính thức
diện tích – năng suất – sản lượng cây trồng năm 2008.
45. Viện chăn nuôi Quốc gia (2001), Thành phần và giá trị dinh dưỡng thức
ăn gia súc – gia cầm Việt Nam, Nxb Nông Nghiệp.
Tiếng Anh
46. Anon (2000), Yields and chemical composition of pasture species in
lowland areas, Animal Nutrition Division, Deparment of livestock
Development, Ministry of Agriculture and Cooperatives, pp.27.
47. Animal Nutrition Division (2001), Intensive cultivation of Purple guinea
for dairy cows in Petchburi Province, Animal report in 2001, Department
of livestock Development, Ministry of Agriculture and Cooperatives.
48. Barnard, C. (1969), Herbage plant species, Aust, Herbage plant
Registration Authority, Can-berra, CSIRO Aust, Divn of plant Tnd,
pp.23-35.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
118
49. CIAT (1979), Beef programe, Rept cali, Colombia, Centro Internaiton de
Agriculture tropical.
50. CGIAR (2000), Priorities and Strategies for Resource Allocation during
1998-2000 and Centre Proposals and TAC Recommendations, June 2000
51. Davies, J.G (1970), Pasture development in the sub – tropics, with special
reference to Taiwan, Throp-Grassl, pp.4,7–16.
52. Food And Agricultural Organization of United Nations: Economic And
Social Department: The Statistical Devision)
53. Meilroy R.J (1972), An introduction to tropical grassland Husbandry.
Oxford University Press. Second edition, 1972, pp.3-7.
54. Middleton, C.H&Micosker, T.H. Makueni (1975), Anew Guiea grass for
north Queens-Land, Queensl, Agri.J, pp.101, 351–355.
55. Riveros, F&Wilson, G.L (1970), Responses of a Setaria sphacelata,
Desmodium intortum mix-ture to height and frequency of Cutting, Proc,
11
th
Int, Grass, Congr, Surfers, Paradise. Australia, pp 666-668.
56. Numata M. (1979)
1) Climate and solis in Asian Grassi and Areas
2) Sistribition of Grasses and Grassland in Asia, Ecology of Grassland
and Bamboolands in the World.
57. Vieente-Chandler, J.Silva.S & Figarella (1959), The effect of nitrogen
fertilization and frequency of cutting on the Yield and composition of
three tropical grasses, Argon.J, pp.202–206.
Tiếng Nga
58. Kabanop N.E (1962), savan tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), trong quyển:
Những vấn đề của thực vật học, Tập 6, Nxb viện Hàn lâm khoa học Liên
Xô M.L (Tiếng Nga).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
PHỤ LỤC
Ảnh 1.1. Bản đồ huyện Yên Sơn - Tuyên Quang
Ảnh 4.1. Một phần của Bãi Hủy– Cụm kho CK28 - Cục Kỹ thuật Quân
khu 2 thuộc 2 xã Phú Lâm và Kim Phú – Yên Sơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ảnh 4.2. Đồi keo 1 năm tuổi thuộc khu đồi Pháo
Xóm cây Trám - Phú Lâm -Yên Sơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ảnh 4.4. Đồi keo 6 năm tuổi – xóm Cây Trám – Phú Lâm
Ảnh 4.3. Đồi keo 3 năm tuổi – xóm Đát nước nóng – Phú Lâm – Yên Sơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ảnh 4.5. Bãi cỏ Voi nhà anh Thắng – Thôn Quyết Thắng - Xã Mỹ Bằng
Ảnh 4.6. Bãi cỏ VA 06 nhà ông Cáng-Xóm Hang Hươu-Phú Lâm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ảnh 4.7. Bãi cỏ VA 06 nhà anh Vỹ-Thôn Ngòi Xanh–Phú Lâm–Yên Sơn
Ảnh 4.10. Đàn bò của trại bò quân đội tại bãi Huỷ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ảnh 4.8. Đàn bò nuôi nhốt nhà ông Hoàn – Xóm Tiền Phong – Xã Phú Lâm
Ảnh 4.9. Bãi trồng ngô làm thức ăn cho gia súc tại
xóm Ngòi Xanh – Phú Lâm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9397.pdf