Đánh giá về hoạt động quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thời gian qua và những kiến nghị

Mục lục Trang Lời mở đầu Đứng trước xu thế toàn cầu hoá và hội nhập nền kinh tế thế giới, không một quốc gia nào có thể phát triển một cách độc lập, khép kín mà đòi hỏi phải mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Để tiến hành các hoạt động kinh tế với nước ngoài thì mỗi quốc gia phải có dự trữ ngoại hối cần thiết, có được dự trữ ngoại hối rồi nhưng vấn đề quản lý ngoại hối đó ra sao lại là vấn đề đặt ra cho nhiều quốc gia. Việt nam cũng như nhiều quốc gia đang phát triển khác đang mở cửa nề

doc32 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1571 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá về hoạt động quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thời gian qua và những kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n kinh tế, hoà vào xu thế chung của toàn thế giới. Và vấn đề đặt ra cho các quốc gia là làm thế nào để ổn định giá trị đồng tiền của nước mình trên trường quốc tế. Trong thời gian qua, bằng việc ban hành hàng loạt các chính sách, quy định về quản lý ngoại hối và các hoạt động liên quan đến ngoại hối đã góp phần ổn định giá trị đồng tiền Việt nam, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tăng dự trữ ngoại hối tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Hiện nay Việt nam đang dần hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý ngoại hối của mình để tiến tới một cơ chế quản lý năng động phù hợp với nền kinh tế thị trường. Để đạt được những kết quả trên phải kể đến vai trò quản lý điều hành của Ngân hàng Nhà nước( NHNN). Với việc nắm dự trữ ngoại hối trong tay, NHNN đã áp dụng các biện pháp, chính sách tác động vào quá trình xuất nhập ngoại hối và sử dụng ngoại hối vào những mục tiêu nhất định. Bên cạnh những thành tựu đạt được thì quá trình quản lý ngoại hối ở nước ta cũng còn rất nhiều tồn tại cần khắc phục. Đánh giá được tình hình thực tế để giải quyết những khó khăn là điều rất cần thiết hiện nay.Vì vậy em đã chọn đề tài “Đánh giá về hoạt động quản lý ngoại hối của NHNN Việt nam thời gian qua và những kiến nghị”. Với hy vọng bằng vốn kiến thức của mình và đánh giá trên giác độ của môn học nghiệp vụ NHTW có thể đưa ra một số ý kiến về thực trạng hoạt động quản lý ngoại hối hiện nay. Bài viết của em gồm 3 phần: Phần I: Khái quát về hoạt động quản lý ngoại hối của NHTW. Phần II: Đánh giá thực trạng hoạt động quản lý ngoại hối của NHNN Việt nam. Phần III: Một số giải pháp và kiến nghị. Với tầm kiến thức còn hạn chế không tránh khỏi những sai sót trong bài viết. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo. Em xin thành cảm ơn. Hà nội ngày 10/4/2003 Sinh viên Vũ Thị Thanh Hiền Phần I: Khái quát về hoạt động quản lý ngoại hối của NHTW I- Mục đích của hoạt động quản lý ngoại hối 1. Ngoại hối và vai trò của ngoại hối Ngoại hối là phương tiện dùng để mua, dự trữ của cải, phương tiện thanh toán và hạch toán quốc tế và được các nước chấp nhận như là đồng tiền quốc tế. Ngoại hối có thể là tiền nước ngoài, vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá và các công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài. Vai trò của ngoại hối Ngoại hối trong đó đặc biệt là ngoại tệ có vai trò quan trọng, nó là phương tiện để mua, thanh toán và hạch toán quốc tế được các nước chấp nhận như đồng tiền quốc tế, nó là phương tiện dự trữ của các quốc gia và nó thể hiện vị trí và thế lực của một quốc gia trên trường quốc tế. Thứ nhất, ngoại hối là phương tiện để mua, để thanh toán và hạch toán quốc tế, được các nước chấp nhận như là đồng tiền quốc tế. Đứng trước xu thế mở cưả, các quốc gia đều tiến hành mở rộng quan hệ quốc tế, đặc biệt là quan hệ kinh tế. Trong quan hệ này tất yếu nảy sinh những nhu cầu chi trả, thanh toán giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau. Từ đó nảy sinh quan hệ thanh toán quốc tế. Để thực hiện được quan hệ này thì ngoại hối hay ngoại tệ là chủ yếu đã được sử dụng làm phương tiện hữu hiệu nhất để đáp ứng các nhu cầu trên. Hiện nay những ngoại tệ được chấp nhận như là đồng tiền quốc tế chủ yếu là ngoại tệ mạnh của những quốc gia có tiềm lực kinh tế lớn như: Đôla Mỹ( USD), đồng bảng Anh( GBP), đồng yên Nhật( JPY), Frăng Pháp(FPF)… Thứ hai, ngoại hối là phương tiện dự trữ của cải quốc gia. Dự trữ ngoại hối là một trong những mục tiêu kinh tế có ý nghĩa chiến lược quan trọng, có dự trữ ngoại hối cần thiết có nghĩa là NHTWđã nắm trong tay một công cụ quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Dự trữ ngoại hối để đảm bảo sự cân bằng về khả năng thanh toán quốc tế, thoả mãn nhu cầu nhập khẩu phục vụ phát triển nhu cầu đời sống trong nước, mở rộng đầu tư, hợp tác kinh tế với nước ngoài phục vụ mục tiêu chính sách kinh tế mở. Dự trữ ngoại hối là cơ sở để phát hành tiền đảm bảo cho mối tương quan giữa tiền hàng trong nước. Nhà nước có thể sử dụng ngoại hối một cách chủ động như là một lực lượng để can thiệp, điều tiết thị trường tiền tệ theo những mục tiêu đã định. Thứ ba, ngoại hối thể hiện vị trí và thế lực của một quốc gia trên trường quốc tế. Một đồng tiền được sử dụng trong thanh toán quốc tế có thể là nội tệ của nước này nhưng lại là ngoại tệ đối với quốc gia khác. Hay nói cách khác khi đồng tiền của một quốc gia được sử dụng trong trao đổi quốc tế có nghĩa là quốc gia đó phải có thế lực kinh tế lớn, có khả năng chi phối các hoạt động kinh tế của nền kinh tế thế giới. 2. Quản lý ngoại hối và mục đích của quản lý ngoại hối Quản lý ngoại hối là việc Nhà nước áp dụng các chính sách, biện pháp nhằm tác động vào quá trình xuất nhập ngoại hối( đặc biệt là ngoại tệ) và việc sử dụng ngoại hối theo những mục tiêu nhất định. Mục đích của quản lý ngoại hối Nói đến quản lý ngoại hối tức là chúng ta nhắc đến vai trò của NHTW trong việc quản lý, điều hành các hoạt động có liên quan đến ngoại hối nhằm đảm bảo các mục đích: - Điều tiết tỷ giá nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Tỷ giá có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Nó tác động đến khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường quốc tế, từ đó tác động đến thu nhập. Hơn thế nữa tỷ giá hối đoái là biến số quan trọng tác động đến sự cân bằng của cán cân thương mại và cán cân cân bằng của nền kinh tế. Cán nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá. Trong dài hạn: tỷ giá có thể bị ảnh hưởng bởi ba nhân tố: thứ nhất là mức giá tương đối tức là hàng hoá trong nước cùng chủng loại với hàng hóa nước ngoài thì chỉ số giá hàng hoá trong nước lớn hơn chỉ số giá nước ngoài khi đó dân chúng sẽ dùng hàng hoá nước ngoài do đó kích thích nhập khẩu làm cho tỷ giá tăng lên. Thứ hai là năng suất lao động. Khi năng suất lao động tăng thì sẽ kích thích xuất khẩu dẫn đến tỷ giá giảm. Thứ ba là do hàng rào thuế quan( thuế xuất nhập khẩu). Thuế cao không khuyến khích nhập khẩu mà khuyến khích tăng tiêu dùng trong nước tạo điều kiện ổn định tỷ giá, kích thích xuất khẩu. Các nhân tố ảnh hưởng tỷ giá trong ngắn hạn. Trong ngắn hạn tỷ giá có thể bị ảnh hưởng bởi các nhân tố như lãi suất nước ngoài, lãi suất trong nước và việc dự đoán tỷ giá trong tương lai. Khi tỷ giá biến động tăng hoặc giảm, nếu NHTW thấy không cần phải can thiệp thì tỷ giá sẽ tiếp tục biến đổi theo cung cầu thị trường. Nhưng nếu NHTW can thiệp ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế thì NHTW sẽ mua vào khi tỷ giá giảm giá và bán ra khi tỷ giá tăng. Từ đó nhằm ổn định tỷ giá, tác động đến lượng tiền cung ứng. - Bảo tồn quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước Là cơ quan quản lý tài sản quốc gia NHTW phải quản lý quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước, NHTW không chỉ bảo quản và cất giữ mà còn biết sử dụng để phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế, luôn đảm bảo an toàn không bị ảnh hưởng rủi ro về tỷ giá ngoại tệ trên thị trường quốc tế. Vì thế NHTW cần phải mua bán, chuyển đổi để phát triển, chống thất thoát, sói mòn quỹ dự trữ ngoại hối của Nhà nước, bảo vệ độc lập chủ quyền về tiền tệ. - Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế( CCTTQT) CCTTQT thể hiện thu chi quốc tế của một nước với một nước khác. Cán cân thanh toán phải phản ánh đầy đủ những xu hướng cung và cầu về ngoại tệ trong các giao dịch quốc tế cho nên nó tác dộng rất lớn đến tỷ giá hối đoái của đồng tiền. Khi CCTTQT bội thu, lượng ngoại tệ chảy vào trong nước dẫn đến khả năng cung về ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, trường hợp này tỷ giá vận động theo xu hướng giảm. Ngược lại khi CCTTQT bội chi, lượng ngoại tệ chảy ra nước ngoài dẫn đến nhu cầu về ngoại tệ lớn hơn cung ngoại tệ, trường hợp này tỷ giá vần động theo xu hướng tăng. Như vậy trong cả hai trường hợp nếu không có sự can thiệp của NHTW thì tỷ giá sẽ tăng, giảm theo cung cầu của thị trường. Tuy nhiên ở nhiều nước NHTW có vai trò điều tiết tỷ giá để thực hiện mục tiêu của chính sách kinh tế. Nếu NHTW muốn xác lập một tỷ giá ổn định thì NHTW phải bán ra một lượng ngoại tệ đáp ứng nhu cầu của thị trường khi có luồng ngoại tệ chảy ra ngoài làm quỹ dự trữ ngoại hối giảm một lượng tương ứng và NHTW phải mua vào một lượng ngoại tệ từ nước ngoài chuyển về làm tăng quỹ dự trữ ngoại hối lên một lượng tương ứng. Để đạt được mục đích đặt ra thì NHTW cần có những biện pháp, chính sách thích hợp phù hợp với từng thời kỳ. II- Cơ chế quản lý ngoại hối Các mục tiêu của chính sách quản lý ngoại hối có thực hiện được hay không, có hiệu quả không điều này phụ thuộc rất lớn vào cơ chế quản lý ngoại hối mà NHTW sử dụng. Hiện nay có hai loại cơ chế quản lý: cơ chế tự do ngoại hối và cơ chế quản lý 1. Cơ chế tự do ngoại hối Thực hiện cơ chế tự do ngoại hối có nghĩa là ngoại hối được tự do lưu thông trên thị trường, cân bằng ngoại hối do thị trường quyết định mà không có sự can thiềp của Nhà nước. Do vậy tỷ giá- giá cả ngoại hối sẽ phù hợp với sức mua của đồng tiền trên thị trường. Tỷ giá thả nổi dẫn đến lãi suất, luồng vốn vào và ra hoàn toàn do thị trường chi phối. 2. Cơ chế quản lý Hiện nay hầu hết các nước đều áp dụng cơ chế có sự quản lý của Nhà nước. Song tuỳ thuộc vào từng quốc gia mà mức độ quản lý và can thiệp có khác nhau. 2.1. Cơ chế quản lý hoàn toàn Theo cơ chế này, NHTW không can thiệp về ngoại hối cũng như tỷ giá mà ngoại hối hoàn toàn tự do trên thị trường theo quy luật cung cầu qua đó hình thành nên tỷ gía. Với cơ chế quản lý này Nhà nước thực hiện độc quyền ngoại thương và độc quyền ngoại hối. Nhà nước áp đặt các biện pháp hành chính nhằm tập trung tất cả các hoạt động ngoại hối vào tay mình. Tỷ giá do Nhà nước quy định mà tất cả các giao dịch ngoại hối phải chấp hành. Các tổ chức tham gia hoạt động xuất nhập khẩu nếu bị lỗ do tỷ giá thì sẽ được Nhà nước cấp bù và ngược lại nếu lãi thì nộp cho Nhà nước. Cơ chế này thích hợp với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Ưu điểm của cơ chế này là NHTW không phải tham gia quản lý và nó phản ánh trung thực, chính xác, khuyến khích sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên còn mặt hạn chế đó là khi tỷ giá biến động xấu thì chính bản thân thị trường khó khắc phục được. 2.2. Cơ chế quản lý có điều tiết Cơ chế quản lý hoàn toàn Nhà nước có thể áp đặt khống chế được thị trường, ngăn chặn được ảnh hưởng từ bên ngoài, chủ động khai thác được nguồn vốn bên trong. Nhưng trong nền kinh tế thị trường cách quản lý này sẽ không phù hợp, gây cản trở và khó khăn cho nền kinh tế. Để khắc phục sự áp đặt, Nhà nước đã tiến hành điều tiết nhưng đã gắn với thị trường, Nhà nước tiến hành kiểm soát một mức độ nhất định để phát huy tính tích cực của thị trường, hạn chế nhược điểm do thị trường gây ra, tạo điều kiện cho kinh tế trong nước phảt triển và ổn định, ngăn chặn ảnh hưởng từ bên ngoài. Bằng công cụ tỷ giá, dự trữ ngoại hối và các yếu tố khác mà NHTW có thể chủ động điều chỉnh theo các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô. Ưu điểm của cơ chế quản lý này là Nhà nước có thể nắm được lượng ngoại hối trong tay mình, có thể sử dụng theo những mục đích đặt ra. Nhưng hạn chế là nó ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế bởi vì ngoại hối không xuất phát từ cung cầu trên thị trường. III- Hoạt động ngoại hối của NHTW 1. Hoạt động mua, bán ngoại hối NHTW tham gia vào hoạt động mua, bán ngoại hối với tư cách là người can thiệp, giám sát, điều tiết nhưng đồng thời cũng là người mua, bán cuối cùng. Thông qua việc mua, bán NHTW thực hiện giám sát và điều tiết thị trường theo mục tiêu của chính sách tiền tệ, đồng thời theo dõi diễn biến của tỷ giá đồng bản tệ để chủ động quyết định hoặc phối hợp với NHTW các nước khác củng cố sức mua đồng tiền này hay đồng tiền khác để đảm bảo trật tự trong quan hệ quốc tế có lợi cho mình. Chủ thể tham gia mua, bán trên thị trường ngoại hối có thể là NHTW, NHTM, nhà môi giới… NHTW tham gia với tư cách là người tổ chức, quản lý, điều tiết thị trường (bằng pháp luật) và NHTW tham gia trực tiếp mua, bán trên thị trường( bằng các nghiệp vụ) nhằm ổn định tỷ giá. NHTM tham gia mua, bán trực tiếp trên thị trường nhằm mục tiêu lợi nhuận. NHTM có thể tiến hành mua, bán hộ cho các nhà xuất nhập khẩu để hưởng phí hoặc mua, bán cho chính mình để hưởng lãi. Còn các nhà môi giới tham gia vào thị trường làm cho quá trình mua, bán trên thị trường diễn ra nhanh chóng và thuận tiện và cũng nhằm mục tiêu lợi nhuận. 1.1. Mua, bán trên thị trường trong nước NHTW thực hiện mua, bán ngoại hối ở thị trường trong nước với tư cách là người mua, bán cuối cùng và tiến hành mua, bán với các NHTM có thể giao dịch trực tiếp hoặc gián tiếp, thông qua đó hình thành nên tỷ giá. Việc mua,bán NHTW thực hiện cung ứng tiền tệ hoặc rút bớt tiền từ lưu thông trên cơ sở đó ổn định tỷ giá hối đoái của đồng tiền bản tệ. Việc giao dịch mua, bán của NHTW với các NHTM trên thị trường hối đoái chủ yếu được thực hiện thông qua hệ thống điện thoại, telecx, hoặc hệ thống computer nối mạng giữa NHTW và NHTM. NHTW còn ấn định tỷ giá mua vào, bán ra hoặc áp dụng biên độ riêng cho mỗi đồng tiền. Trường hợp đặc biệt, NHTW cũng có thể mua, bán trực tiếp với khách hàng không phải là các TCTD như các doanh nghiệp, cơ quan hoặc các tổ chức khác. 1.2. Mua, bán trên thị trường quốc tế Với nhiệm vụ quản lý quỹ dự trữ ngoại hối, NHTW thực hiện mua, bán trên thị trường quốc tế nhằm bảo tồn và phát triển quỹ dự trữ ngoại hối. NHTW phải tính toán gửi ngoại hối ở nước nào là an toàn nhất và có lợi nhất, nghiên cứu lãi suất thực tế và xu hướng tăng lên của lãi suất ngoại tệ để kinh doanh có lãi. NHTW thực hiện việc mua, bán ngoại hối sẽ tác động trực tiếp vào lượng tiền trung ương( MB). Cụ thể: khi NHTW mua ngoại hối trên thị trường quốc tế kết quả làm MB tăng và ngược lại khi NHTW bán ngoại hối trên thị trường sẽ làm MB giảm. Nghiệp vụ mua, bán ngoại hối làm ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái, ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối. Như vậy, thông qua mua, bán ngoại hối NHTW có thể can thiệp nhằm đạt được tỷ giá mong muốn. 2. Hoạt động quản lý ngoại hối của NHTW Ngoài việc can thiệp bằng cách mua, bán ngoại tệ trên thị trường, NHTW còn thực hiện các hoạt động về ngoại hối như: - Quản lý,điều hành thị trường ngoại hối, thị trường tiền tệ liên ngân hàng, bằng cách đưa ra các quy chế gia nhập thành viên, quy chế hoạt động, giới hạn tỷ giá mua, bán ngoại tệ trên thị trường. - Tham gia xây dựng các dự án pháp luật và ban hanh các văn bản hướng dẫn thi hành luật về quản lý ngoại hối. Khi Chính phủ ban hành quy chế về quản lý ngoại hối, NHTW được giao nhiệm vụ ban hành các thông tư hướng dẫn cụ thể để phục vụ cho việc quản lý của mình được thống nhất. - Cấp giấy phép và thu hồi giấy phép hoạt động. Dựa vào pháp luật và điều kiện cụ thể trong từng thời gian, NHTW đưa ra các quy định cần thiết để cấp giấy phép cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân có hoạt động ngoại hối. - Kiểm tra, giám sát việc xuất nhập khẩu ngoại hối, kiểm soát các hoạt động ngoại hối của các TCTD. - Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác về quản lý ngoại hối. - Biên lập cán cân thanh toán. 3. Nội dung cơ bản của các quy chế về quản lý ngoại hối Thông thường các quy chế quản lý ngoại hối gồm các nội dung sau: Những quy định chung gồm: Đối tượng và phạm vi quản lý, tổ chức, cá nhân có hoạt động ngoại hối. Cơ quan quản lý. Quy định về nội dung quản lý ngoại hối, người cư trú, người không cư trú, các hoạt động ngoại hối. Quy định về mở tài khoản, sử dụng ngoại tệ của người cư trú và ngưới không cư trú. Quy định về các giao dịch vãng lai. Quy định về các giao dịch vốn. Các điều khoản khác. Tất cả các quy định đặt ra nhằm đảm bảo hoạt động ngoại hối được thực hiện tốt. Phần II: Thực trạng hoạt động quản lý ngoại hối của NHTW Việt nam Trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, công tác quản lý dự trữ ngoại hối được đánh giá là lĩnh vực nhạy cảm và có nhiều biến động. Lĩnh vực này thu hút sự chú ý không chỉ của các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp trong nước mà còn là sự quan tâm của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các chính phủ nước ngoài có quan hệ kinh tế với Việt nam, các tổ chức quốc tế mà Việt nam là thành viên hoặc đang có kế hoạch gia nhập. Đây cũng là điều dễ hiểu vì quản lý ngoại hối mà nội dung của nó gồm các chính sách liên quan đến ngoại tệ trong các lĩnh vực tỷ giá, vay nợ nước ngoài, đầu tư trực tiếp( FDI), đầu tư gián tiếp (FPI) của nước ngoài, kiều hối, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài…Đó cũng là vấn đề liên quan trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và quyền lợi của các cá nhân, đặc biệt là trong giai đoạn mở cửa, hội nhập, khi các mối quan hệ với nước ngoài đã trở thành yếu tố không thể thiếu trong đời sống kinh tế- xã hội. ở Việt nam trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, NHNN Việt nam đã ban hành các quy định về quản lý dự trữ ngoại hối nhằm thu hút nguồn thu về ngoại hối và hạn chế chi ngoại hối ra nước ngoài. Quản lý dự trữ ngoại hối tập trung vào tay Nhà nước, chỉ có doanh nghiệp quốc doanh mới được tham gia xuất nhập khẩu hàng hoá theo tỷ giá ấn định. Nếu lãi thì phải nộp phần dôi ra đó vào Ngân sách Nhà nước, còn nếu lỗ thì Nhà nước sẽ bù phần thiếu hụt. Sau khi thực hiện chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trường và thực hiện pháp lệnh Ngân hàng, Nhà nước ban hành các quy chế về quản lý dự trữ ngoại hối. Nhưng cho đến năm 1994, khi thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ra đời mới đánh dấu một bước ngoặt lớn trong quản lý dự trữ ngoại hối ở nước ta. Nhìn lại tình hình thực hiện chính sách quản lý dự trữ ngoại hối thời gian qua cho thấy Nhà nước ta đã đạt được khá nhiều thành tựu tạo điều kiện thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên trong quá trình điều hành và quản lý ngoại hối cũng còn không ít những tồn tại và hạn chế cần khắc phục. Theo báo cáo thường niên năm 2000, chính sách quản lý ngoại hối của Việt nam tiếp tục đổi mới theo hướng nới lỏng các giao dịch vãng lai, khuyến khích thu hút vốn đầu tư ngoại tệ vào Việt nam thông qua việc cho phép được nhận tiền chuyển từ nước ngoài về bằng ngoại tệ hoặc bằng VND, không phải đóng thuế, cho phép người cư trú là cá nhân được gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ không kể nguồn gốc tại các TCTD được phép, được hưởng lãi suất bằng ngoại tệ, được rút cả gốc và lãi bằng ngoại tệ, bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh… Việc NHNN tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối cùng với điều hành tỷ giá linh hoạt đã tăng cường tính minh bạch trong hoạt động quản lý ngoại hối của NHNN, tác động tích cực đến sự phát triển của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Điều này góp phần giảm sự mất cân đối cung cầu ngoại tệ trên thị trường, giải quyết các khó khăn về cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp, giảm sức ép lên tỷ giá hối đoái, từ đó đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ từ kiều hối. I- Các chính sách liên quan đến quản lý dự trữ ngoại hối của NHNN Việt nam thời gian qua. 1. Các chính sách về quản lý dự trữ ngoại hối Do nền kinh tế phát triển nhanh và có nhiều biến động phức tạp, nhất là sau cuộc khủng hoảng tiền tệ tài chính khu vực đã xuất hiện yêu cầu phải có sự sửa đổi hệ thống văn bản chính sách về QLDTNH. Từ năm 1999 đến nay, hầu hết các chính sách về quản lý dự trữ ngoại hối. Từ năm 1999 đến nay, nhiều quyết định của Thủ tướng Chính phủ và văn bản hướng dẫn của NHNN. Sự thay đổi này đã bước đầu phù hợp với yêu cầu khách quan của quá trình cải cách theo chiến lược phát triển phát triển kinh tế của Đảng và được dư luận đánh giá cao. Bắt đầu từ Nghị định số 63/1998/NĐ- CP về quản lý dự trữ ngoại hối thay thế Nghị định số 161/ NĐ- HĐBT của Chính phủ ban hành từ năm 1988, các chính sách về quản lý dự trữ ngoại hối đã được xây dựng theo hướng minh bạch hoá, xác định rõ quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp, tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho các đối tượng liên quan áp dụng. Để thực hiện nghiêm túc có hiệu quả quyết định 396/ TTg ngày 4/8/1994 của Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 37/ 1998/ QĐ- TTg về một số biện pháp quản lý ngoại tệ. Trong đó đã nêu ra các quy định về nguồn thu ngoại tệ của các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác được thành lập và họat động theo pháp luật Việt nam, quy định về việc mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ, quy định về việc mua, bán ngoại tệ… Tiếp đó là quyết định 170/1999/QĐ- TTg ngày 19/8/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc khuyến khích người Việt nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước và Thông tư 02/2000/TT- NHNN7 ngày 24/2/2000 của NHNN hướng dẫn thi hành quyết định 170/ 1999/QĐ- TTg, Nhà nước đã cho phép nhận tiền từ nước ngoài chuyển về Việt nam không giới hạn số lượng bằng ngoại tệ hoặc bằng đồng Việt nam ( trước đây gọi là kiều hối). Đây là một quy định thông thoáng nhằm thu hút ngoại tệ từ kiều bào ở nước ngoài, tiến đến việc thu hút đầu tư nước ngoài. Vì thế người nhận tiền được quyền cất trữ, gửi tiết kiệm ngoại tệ hay làm các công việc khác được pháp luật cho phép… Năm 2002, chính sách QLNH tiếp tục được đổi mới với một số nội dung chính là: Giảm tỷ lệ kết hối từ 40% xuống còn 30%. Mở rộng biên độ tỷ giá từ +/- 0,1% lên +/- 0, 25%. Quy định về QLNH đối với việc mua, bán chứng khoán của tổ chức và cá nhân nước ngoài tại trung tâm giao dịch chứng khoán. Quy định mới về trạng thái ngoại hối. Như vậy, cho đến nay các giao dịch vãng lai đã được tự do hoá, các giao dịch vốn vẫn được kiểm soát tốt trên cơ sở bước đầu có sự nới lỏng hơn phù hợp với thông lệ quốc tế. Số lượng các loại giấy phép đã giảm nhiêu tinh thần của luật doanh nghiệp. Việc mở rộng biên độ tỷ giá đã giúp cho các NHTM có điều kiện yết giá cạnh tranh, cùng với quy định mới về trạng thái ngoại tệ đã làm tăng tốc độ chu chuyển vốn ngoại tệ, đáp ứng tốt hơn nhu cầu nhập khẩu và trả nợ nước ngoài, hạn chế hiện tượng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ, qua đó góp phần bình ổn tỷ giá và hỗ trợ cho vị thế của đồng Việt nam, khắc phục dần tình trạng đô la hoá trên con đường hướng tới mục tiêu “Trên lãnh thổ Việt nam chỉ sử dụng đồng Việt nam”. Với hệ thống văn bản, chính sách về QLNH tiếp tục được hoàn thiện đã góp phần đáng kể vào việc bình ổn tỷ giá hối đoái- cơ sở quan trọng để thực hiện các hoạt động có liên quan đến ngoại hối. Tựu chung lại có một số quy định về QLNH ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay. Nội dung chủ yếu là: Về phạm vi QLNH: Mọi việc kinh doanh ngoại hối đều phải thực hiện theo quy định của NHNN Việt nam. Ngân hàng Ngoại thương Việt nam là cơ quan được phép kinh doanh ngoại hối. Ngoài ra các Ngân hàng chuyên doanh khác, các Ngân hàng liên doanh với nước ngoài, các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt nam, các tổ chức kinh tế trong nước muốn kinh doanh ngoại hối đều phải được NHNN Việt nam cho phép. Việc lưu thông ngoại tệ trong nước chỉ được thông qua các Ngân hàng và các tổ chức kinh doanh, dịch vụ được phép thu ngoại tệ nói trên. Về kế hoạch ngoại tệ: Nhà nước quản lý ngoại tệ theo kế hoạch. Các ngành, các địa phương, các đơn vị kinh tế có thu chi ngoại tệ phải lập kế hoạch gửi các cơ quan theo quy định của uỷ ban kế hoạch Nhà nước. Uỷ ban này sẽ tổng hợp các ngoại tệ cuả cả nước và lập bảng cân đối thu chi ngoại tệ trình lên Chính phủ. Ngân hàng có trách nhiệm chi ngoại tệ theo lệnh của chủ tài khoản đúng với quy định của Nhà nước. Ngân hàng Ngoại thương được uỷ quyền thực hiện kế hoạch thu chi ngoại tệ phương diện quỹ và thanh toán quốc tế giữa nước ngoài với nước ta. Đối với các Ngân hàng khác thực hiện thanh toán quốc tế giữa nước ngoài với nước ta. Đối với các Ngân hàng khác khi thực hiện thanh toán quốc tế phải được NHNN Việt nam cho phép. Về tỷ giá: Thống đốc NHNN Việt nam xác định và công bố tỷ giá chính thức giữa VND với USD và các ngoại tệ chuyển đổi khác phù hợp với tỷ giá thị trường trên cơ sở tỷ giá mua, ban tại các thị trường giao dịch ngoại tệ. Các Ngân hàng được phép mua, bán ngoại tệ căn cứ theo tỷ giá chính thức để định tỷ giá mua, bán ngoại tệ trong biên độ cho phép của NHNN Việt nam. Vấn đề sử dụng ngoại tệ của công dân Việt nam : Công dân Việt nam có ngoại tệ không kể nguồn gốc đều có thể sử dụng theo nhiều cách. Hoặc bán cho các Ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ, chi trả các dịch vụ cho các tổ chức, cá nhân được phép thu ngoại tệ, hoặc gửi tiết kiệm tại tài khoản tiền gửi ngoại tệ và được hưởng lãi suất bằng ngoại tệ do các Ngân hàng công bố trong khung lãi xuất do NHTW quy định. Ngoài ra, ngoại tệ gửi tại Ngân hàng còn có thể được sử dụng để chuyển nhượng, để thanh toán cho các tổ chức, cá nhân khác có tài khoản ngoại tệ tại Ngân hàng và khi cần thiết có thể rút ra tiền mặt ngoại tệ theo quy định của Ngân hàng nơi mở tài khoản. Về sử dụng ngoại tệ của các tổ chức kinh tế( TCKT), cơ quan hành chính sự nghiệp( CQHCSN), tổ chức chính trị XH( TCKT- XH). Các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ từ bán hàng hoá, dịch vụ phải chuyển ngay số ngoại tệ đó vào tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại Ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ. Các TCKT được sử dụng các số dư ngoại tệ vào ngày, TCCT- XH trên chỉ được phép mở một tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại một TCTD hoạt động ở Việt cuối tháng để đáp ứng nhu cầu chi ngoại tệ trong tháng tới. Số dư còn lại phải bán hết cho các TCTD. Đối với các TCTC- XH, CQHCSN của Việt nam khi có nguồn thu ngoại tệ phải bán ngay số ngoại tệ đó cho các TCTD. Những đối tượng có nguồn thu ngoại tệ thường xuyên thì được giữ lại số ngoại tệ tối thiểu để duy trì tài khoản. Việc bán ngoại tệ này không áp dụng đối với nguồn ngoại tệ thu được từ vốn góp pháp định của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vốn hỗ trợ phát triển chính thức… Ngoại ra các TCKT, CQHCSN, trường hợp có nhu cầu cần thiết mở thêm một tài khoản nữa phải được sự cho phép của NHNN. Quyền mua ngoại tệ của các TCKT, TCCT- XH, CQHCSN: Các cơ quan, tổ chức trên được các TCTD có trách nhiệm đáp ứng nhu cầu hợp lý về ngoại tệ. Hơn nữa khi có nhu cầu chi ngoại tệ các tổ chức này có quyền được ký hợp đồng mua ngoại tệ kỳ ạan với TCTD theo tỷ giá trong biên độ do NHNN quy định. Nếu các tổ chức trên đã bán ngoại tệ cho các TCTD trong thời gian 6 tháng khi có nhu cầu chi trả ngoại tệ cho các giao dịch phù hợp với quản lý ngoại hối được quyền mua laị tại TCTD đó số ngoại tệ tối thiểu tương ứng vơi số ngoại tệ đã bán. Quy định về trạng thái ngoại tệ đối với các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ: Đối với các TCTD trong nước, tổng trạng thái ngoại tệ dư thừa hay dư thiếu ngoại tệ vào cuối ngày không được vượt quá 30% vốn tự có của TCTD. Trạng thái dư thừa hay dư thiếu của USD cuối ngày không quá 15% vốn tự có của TCTD. Hàng ngày trước 10h sáng, các TCTD này phải gửi báo cáo doanh số mua, bán ngoại tệ của ngày hôm trước về NHNN và hàng tháng vào các ngày 15 và cuối tháng, tổng giám đốc các TCTD cũng phải báo cáo trạng thái ngoại tệ tại thời điểm báo cáo trạng thái ngoại tệ tại thời điểm báo cáo của toàn bộ hệ thống chậm nhất 3 ngày kể từ ngày báo cáo. 2. Các chính sách về điều hành tỷ giá hối đoái. Bắt đầu từ tháng 9/2000 đến nay, tỷ giá VND/USD đã liên tục tăng cao có ngày tăng đến 10 đồng. Nếu so với đầu năm 2000 đến nay tỷ giá VND/USD đã tăng 2- 2.65%. Trên các bản tin về giá ngoại tệ và giá vàng trong nước trên báo đài ta thấy giá USD tăng liên tục. Điều này không khỏi làm cho các đơn vị, tổ chức băn khoăn, lo lắng. Việc thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá và điều hành lãi suất, một bước tiến mới có tính đột phá của Chính phủ và NHTW để đưa hệ thống Ngân hàng Việt nam từng bước hội nhập quốc tế. Trước tháng 2/1999, cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt nam là cơ chế can thiệp trực tiếp bằng cách ấn định tỷ giá chính thức với biên độ giao dịch ở thời điểm tương ứng có khi lên đến +/- 10%. Nhưng từ tháng 2/1999, bằng hai quyết định 64/1999/QĐ- NHNN7 và 65/1999/QD- NHNN7 ngày 25/2/1999, NHNN đã bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức nói trên và thay vào đó là công bố tỷ gía giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng. Các NHTM được phép xác định tỷ giá mua và tỷ giá bán đối với đôla Mỹ không được vượt quá biên độ 0.1% so với tỷ giá giao dịch thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN công bố hàng ngày. Có thể nói đây là bước đổi mới rất quan trọng, không những trong quan niêm,trong tư duy mà cả trong thực tiễn quản lý, với cơ chế này làm cho tỷ giá hối đoái trên thị trường vận động một cách khách quan, phản ánh đúng hơn các quan hệ cung cầu về ngoại tệ ở trên thị trường, đồng thời cũng phù hợp với cơ chế điều hành tỷ giá của nhiều nước trên thế giới. Song song với việc thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá, NHNN Việt nam cũng đã có quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất theo QĐ số 241/2000/QĐ- NHNN1 ngày 2/8/2000 bằng việc bãi bỏ cơ chế điều hành lãi suất trần thay bằng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản. Theo đó các Ngân hàng, các TCTD có quyền ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng nhưng không được vượt quá lãi suất cơ bản và biên độ quy định cho từng thời kỳ. Trong đó cho vay bằng USD lấy SIBOR- lãi suất trên thị trường liên ngân hàng Singapore làm lãi suất cơ bản. Trong năm tháng đầu năm 2001, NHNN tiếp tục điều hành lãi suất cho vay bằng đôla Mỹ dựa trên cơ sở lãi suất SIBOR 3 tháng cộng 1%/ năm đối với cho vay ngắn hạn, còn đối với cho vay trung, dài hạn là lãi suất SIBOR cộng 2.5%/năm. Từ 1/6/2001 NHNN đã bỏ quy định khống chế biên độ, cho phép các TCTD dựa trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu nguồn vốn ngoại tệ trong nước mà thoả thuận với từng khách hàng mức lãi suất cho vay phù hợp, hay còn gọi là tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ. Riêng đối với lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các pháp nhân tại TCTD, NHNN vẫn khống chế ở mức thấp nhằm hạn chế việc găm giữ đôla trên tài khoản và khống chế đôla hoá trong điều kiện tỷ lệ kết hối 80% giảm xuống 50% và hiện nay còn 40%. Do đó, lãi suất USD ở nước ta giảm mạnh theo xu hướng thị trường quốc tế, hiện nay mức phổ biến đối với tiền gưỉ không kỳ hạn: 1- 1,2%/năm, kỳ hạn 3 tháng: 1,5- 2%/ năm , kỳ hạn 6 tháng: 2,2- 2,5%/ năm, 12 tháng: 2,6- 3%/ năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn:5,5- 6%/ năm, trung dài hạn; 6,05- 6,5%/ năm. Diễn biến lãi suất USD ở nước ta cho thấy đã chịu ảnh hưởng trực tiếp của thị trường quốc tế, nhất là tác động của 9 lần giảm lãi suất của cục dự trữ liên bang Mỹ, đồng thời chịu ảnh hưởng bởi NHNN Việt nam điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ. Do thực hiện các giải pháp đồng bộ, việc thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản đã đi vào nề nế._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35412.doc
Tài liệu liên quan