Đánh giá và xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả khai thác của đại lý bảo hiểm nhân thọ

Lời nói đầu. Bảo hiểm ra đời từ xa xưa trong lịch sử văn minh nhân loại và cho đến tận ngày nay người ta vẫn chưa xác định được nó xuất hiện chính xác từ khi nào. Tuy nhiên, đến nay không ai có thể phủ nhận được vai trò của nó trong đời sống xã hội. Hãy thử hình dung cuộc sống sẽ như thế nào sau những rủi ro xảy ra mà hậu quả của nó thì mỗi cá nhân tự gánh chịu, hàng tỷ người lao động trên Thế giới sẽ lấy gì đảm bảo khi về già nếu không có BHXH... Sự phát triển của khoa học, công nghệ và thành

doc49 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1399 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá và xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả khai thác của đại lý bảo hiểm nhân thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tựu trong khoa học ứng dụng đã đưa đời sống của con người lên một tầm cao mới. Bên cạnh việc chăm chút cho các sinh hoạt hàng ngày người ta bắt đầu quan tâm hơn đến tương lai. Đây chính là tiền đề cho sự ra đời của BHNT- một nghành hết sức phát triển hiện nay. ở bình diện thế giới BHNT đã xuất hiện và phát triển từ rất lâu nhưng ở Việt Nam chỉ mãi đến khi Bộ Tài chính ký quyết định 256 TC/QD/TCCP cho phép thành lập Bảo Việt Nhân Thọ thì BHNT mới thực sự tồn tại theo đúng nghĩa là một nghành trong nền KTQD. Đến nay tuy mới phát triển được hơn 4 năm nhưng những thành quả mà nó mang lại là hết sức khả quan. Những khó khăn trước mắt chỉ là tạm thời, sẽ dần được khắc phục trong điều kiện mới và có thể khẳng định đây sẽ là một nghành phát triển trong tương lai gần. Những thành công to lớn đã đạt được và sự phát triển của BHNT trong tương lai phụ thuộc phần lớn vào khả năng khai thác của lực lượng đại lý. Chính vì ý nghĩa to lớn đó em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Đánh giá và xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả khai thác của đại lý BHNT”. Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở và phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng như duy vật biện biện chứng của học thuyết Mác-Lênin. Với yêu cầu là một đề án môn học thì phạm vi của đề tài được nghiên cứu đơn giản là nhằm xây dựng một cơ sở khoa học lý luận cho vẫn đề đặt ra, tuy vậy không phải đề tài không có tính hiện thực. Tính hiện thực của đề tài được thể hiện ở khả năng làm cơ sở khi tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác của các đại lý BHNT tại thị trường Việt Nam. Do điều kiện khó khăn về tài liệu tham khảo, thời gian cũng như khả năng có hạn nên chắc chắn đề tài còn có nhiều hạn chế. Để đề tài được hoàn thiện hơn rất mong có sự góp ý của thầy cô giáo cũng như các bạn sinh viên. Nội dung của đề tài bao gồm các phần cơ bản sau: Chương I: Khái quát chung về BHNT và đại lý BHNT. Khái quát chung về BHNT Khái quát chung về đại lý BHNT. Chương II. Các nhân tố tác động đến hiệu quả khai thác của đại lý BHNT. Công tác đào tạo đại lý BHNT. Công tác tổ chức và quản lý mạng lưới đại lý BHNT. Các chính sách đối với đại lý BHNT. Cuối cùng em xin trân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm và đặc biệt là PGS.TS Hồ Sĩ Sà đã giúp em hoàn thành đề tài nay. Sinh viện thực hiện. Trần Tuấn Hợp Chương I. Khái quát chung về BHNT và đại lý BHNT Bảo hiểm nhân thọ. I. Lịch sử hình thành và phát triển của BHNT Trên thế giới Cùng với sự ra đời của nghành bảo hiểm nói chung thì BHNT đã ra đời cách đây khá lâu tuy rằng có muộn hơn so với một số nghiệp vụ truyền thống như hàng hải, bảo hiểm tiền vay....Nhưng cho đến ngày nay có thể nói BHNT là một loại hình phát triển mạnh mẽ nhất, điều này có thể thấy rõ qua con số 57,7% trong tổng số phí toàn bộ các nghiệp vụ bảo hiểm mà BHNT chiếm năm 1997. Khó có thể nói chính xác là BHNT ra đời từ khi nào nhưng cho đến nay các nhà nghiên cứu trên thế giới vẫn cho rằng HĐ BHNT đầu tiên là của ông William Gybbons được ký kết vào năm 1583 tức là cách đây hơn 400 năm tại Luân Đôn – Anh Quốc. Ông William đã phải trả số phí là 32 bảng Anh và khi ông chết vào năm đó người thừa hưởng đã nhận được số tiền bảo hiểm là 400 Bảng. Mặc dù HĐ BHNT đầu tiên được ký kết ở Anh nhưng công ty BHNT đầu tiên lại xuất hiện đầu tiên ở Philadelphia - Mỹ vào năm 1759, đây là công ty BHNT lớn và tồn tại lâu đời nhất trên thế giới. Ba năm sau đó (1762) ở Anh chính thức ra đời công ty BHNT với tên gọi Equitable, sự nổi tiếng của nó được khuyếch trương thông qua những chiến lược quảng cáo hết sức linh hoạt và phong phú, ở đâu bạn cũng có thể nhìn thấy các biển quảng cáo của Equitable. Trong gần 10 năm đầu kể từ khi công ty BHNT ở Mỹ ra đời, nghiệp vụ BHNT còn hết sức sơ khai, chưa có một chuẩn mực rõ ràng và lại chịu sự hạn chế của tôn giáo gây lên mà nó chưa thể phát triển được. Phải đến năm 1769 khi mà tư vấn kỹ thuật của Equitable, tiến sĩ Richard Riecee xuất bản cuốn sách tính phí BHNT đầu tiên hoàn chỉnh và năm 1774 vua George III cho phép hoạt động BHNT thì nghành này mới thực sự đi vào quỹ đạo và phát triển mạnh (đến năm 1782 ở Anh đã có 3000 hợp đồng BHNT). Nước tiếp theo BHNT ra đời là Pháp, với sự xuất hiện của công ty BHNT Hoàng gia vào năm 1875 thì thị trường BHNT Thế giới đã cơ bản hoàn chỉnh với hai trung tâm lớn là Mỹ và Tây âu, cho đến nay đây vẫn là hai trong ba trung tâm có nghành bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng phát triển mạnh mẽ nhất. Trung tâm cuối cùng là Nhật bản, phát triển muộn hơn gần 100 năm so với hai trung tâm là Mỹ và Tây âu. Vào năm 1882 ở Nhật xuất hiện duy nhất 1 công ty BHNT là Meiji, tình trạng độc quyền này được kéo dài 7 năm và vào năm 1889 xuất hiện thêm hai công ty lớn là Teikoko và Nippon. Phí BHNT của một số nước trên thế giới năm 1995 Tên nước Phí BHNT bình quân đầu người(USD/người) Tỷ lệ phí BHNT trên GDP (%) Nhật 1.909,9 5,61 Anh 1.141,5 7,00 Mỹ 838,3 3,41 Pháp 826,3 3,8 Singapore 358,6 1,89 Đài loan 325,4 3,14 Thái lan 19,5 0,92 Philippin 11,29 1,38 (Nguồn: Swiss Re 3/1995) ở các nước trên, BHNT đã trở nên rất thân quen với người dân. Họ xem việc tham gia BHNT cũng như tham gia các loại hình BH con người khác là một công việc thường xuyên. Điều này được thấy rõ qua các số liệu: “ở Nhật bình quân mỗi năm tiền đóng BHNT là 1909 USD/ng; tiếp đến là ở Anh: 1141USD/ng/năm. Các nước Châu á cũng không kém phần: năm 1990 phí BHNT của Châu á chiếm 33,8% tổng số phí BH toàn thế giới và năm 1993 chỉ riêng phí BHNT của các nước Đông á đã là 45,1tỷ USD trên tổng số phí bảo hiểm là 61,1 tỷ USD [Trích tạp chí tài chính - Số tháng 9 - 1997 ] . Ngày nay không những chỉ có người dân các nước có nền kinh tế phát triển mới tham gia BHNT nhiêù mà ngay cả những nước đang phát triển cũng tham gia loại hình hấp dẫn này khá nhiều. Điển hình là các nước như Trung Quốc, Malaixia, Philippin. ở một số nước Châu á tình hình tham gia BHNT bình quân đầu người năm 1995 như sau: Đơn vị: Dollar Nước Chi cho BHNT Nước Chi cho BHNT Nhật 4075,8 Thái Lan 32,2 Hàn Quốc 1042,1 Philippin 7,1 Singapo 826,1 Inđônêxia 4,8 Hồng Kông 495,5 ấn Độ 4,5 Malayxia 89,3 Trung Quốc 1,9 Đài loan 459,3 Pakistan 1,6 Như vậy Nhật, Hàn Quốc, Singapo là những nước có người dân tham gia BHNT rất cao nhất là Nhật Bản. Điều này cũng dễ dàng giải thích vì thu nhập của các nước này rất cao và cũng là nước có thu nhập cao nhất của Châu á. Riêng Nhật không những là nước có người dân tham gia BH cao nhất Châu á mà còn là nước tham gia cao nhất trên thế giới. Hiện nay 5 nước đứng đầu về bình quân tham gia BHNT bao gồm: Nhật, Mỹ, Anh,Pháp,Đức. Phí BHNT của 5 nước có doanh thu phí BHNT cao nhất Thứ tự Nước Phí trực tiếp BHNT Thị phần 1 Nhật 477,061 42,55% 2 Mỹ 251,419 22,42% 3 Anh 74,786 6,67% 4 Pháp 69,714 6,62% 5 Đức 51,400 4,58% . Nhìn khái quát toàn bộ quá trình lịch sử phát triển của BHNT và số liệu của bảng trên ta thấy một xu hướng rõ nét là ở đâu tình trạng kinh tế phát triển thì ở đó BHNT cũng phát triển theo. Đặc điểm này mang tính quy luật, cần được xem xét kỹ và vận dụng vào tình hình thực tiễn khai thác, xây dựng chiến lược kinh doanh, đặc biệt là cơ sở để các công ty BHNT lựa chọn khách hàng mục tiêu và khách hàng tiềm năng. Với xu thế toàn cầu hoá trong quan hệ buôn bán, ngày nay BHNT không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà nó cũng đã vươn lên trên phạm vi toàn cầu. Có rất nhiều tập đoàn, nhiều công ty xuyên quốc gia với doanh thu khổng lồ hoạt động trong lĩnh vực BHNT. ở Việt Nam. Có thể nói những mầm mống về BHNT ở ta đã có từ khá lâu. Ngay từ thời kỳ Pháp thuộc, các nghiệp vụ BHNT đã được triển khai và đối tượng tham gia là các quan lại, quan chức chính phủ làm việc cho Pháp. Trước năm 1975 đã có công ty Hưng Việt ở miền Nam Việt Nam đã triển khai loại hình BHNT và chỉ hoạt động trong thời gian ngắn (1-2 năm). Năm 1987, Tổng công ty BHVN, Bảo Việt đã có đề tài “Lý thuyết về BHNT và việc vận dụng vào Việt Nam” và đã được Bộ Tài chính công nhận là đề tài cấp Bộ. Trong đề tài này nhóm nghiên cứu đã tổng hợp lý thuyết cơ bản mà nghành BHNT trên Thế giới đã áp dụng, đồng thời phân tích những điều kiện triển khai BHNT vào điều kiện KT-XH Việt Nam trong những năm cuối thập kỷ 80. Tuy nhiên việc triển khai BHNT lúc đó chưa thực hiện được bởi nền kinh tế nước ta khi đó đang gặp nhiều khó khăn: Tỷ lệ lạm phát cao (năm 1986 là 747,7%) Đất nước mới bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường nên thu nhập của người dân rất thấp, chỉ đủ cho tiêu dùng hàng ngày do vậy tỷ lệ dành cho tiết kiệm là rất thấp. Chưa có điền kiện để công ty BHNT hoạt động và môi trường hoạt động đầu tư chưa phát triển. Chưa có hành lang pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ giữa công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Bước sang thập kỷ 90 trong cơ chế mới, việc đa dạng hoá các loại hình kinh doanh bảo hiểm phục vụ cho nhu cầu phát triển KT-XH là một đòi hỏi thiết thực, xuất phát từ yêu cầu đảm bảo cho nền kinh tế thị trường được phát triển ổn định, góp phần khai thác mọi tiềm năng đất nước phục vụ đầu tư phát triển. Hơn nữa nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, thu nhập đầu người cũng như môi trường đầu tư đã tương đối ổn định, lạm phát giảm. Sự phát triển của nền kinh tế có thể nhìn nhận qua một vài số liệu sau: Năm 1994 1995 1996 1997 GDP (Triệu đồng) 19.100 22.000 24.000 26.160 Tốc độ tăng trưởng (%) 8.8 9.5 9.3 9.6 (Nguồn: Niên giám Thống kê năm 1997) Ngày 20/3/1996 Bộ Tài chính đã ký quyết định số 281/QĐTC cho phép Bảo Việt triển khai hai loại hình BHNT mang tính tiết kiệm là: BHNT có thời hạn 5, 10 năm. BHNT trẻ em (An sinh giáo dục). Ngày 22/6/1996 Bộ Tài chính ký quyết định số 568/QD/TCCB cho phép thành lập công ty BHNT trực thuộc Bảo Việt với tên gọi tắt là Bảo Việt Nhân thọ. Đây là sự kiện bước ngoặt đánh dấu sự ra đời của nghành BHNT non trẻ tại Việt Nam. Hiện nay kể từ sau Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 hướng dẫn về kinh doanh bảo hiểm nói chung, hàng loạt các công ty bảo hiểm ra đời: Bảo Minh, Bảo Long, PJICO, PVIC, VIA... Đặc biệt với luật đầu tư sửa đổi năm 1999 tạo cơ hội cho các công ty BHNT nước ngoài vào Việt Nam như Prudential, Chinfon-Manulife ..... đã cạnh tranh mạnh mẽ với Bảo Việt Nhân Thọ về tất cả các sản phẩm BHNT làm cho thị trường BHNT Việt Nam hứa hẹn một tương lai rộng mở. II. Vai trò của BHNT. BHNT có rất nhiều tác dụng trong cuộc sống KT-XH. Chính vì những tác dụng này đã giúp nó tồn tại và đạt được những thành công to lớn như ngày nay. Đối với đời sống nhân dân: Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển đặc biệt là việc áp dụng những tiến bộ của KHKT và Công nghệ vào cuộc sống thì những đe doạ đối với con người ngày một lớn mà không may ai đó gặp phải tai nạn rủi ro thì không phải một mình anh ta gánh chịu mà đôi khi cả người thân trong gia đình anh ta cũng phải gánh chịu, điều này gây khó khăn về mặt tài chính cho gia đình anh ta. Vì vậy BHNT ra đời nhằm hạn chế những khó khăn về tài chính cho người tham gia khi họ gặp rủi ro thiệt hại điều đó được thể hiện: Giúp gia đình (những người phụ thuộc )vượt qua những nỗi bất hạnh do người được bảo hiểm bị chết. Nó để lại một khoản tiền cho gia đình nhằm bù đắp những khoản thu nhập thường xuyên bị mất đi - giúp gia đình tiếp tục ổn định cuộc sống trả được những khoản nợ nần góp phần giúp con em tiếp tục được học tập. Đặc biệt người bị chết là những người chủ chốt trong gia đình. Góp phần giúp gia đình thực hiện tiết kiệm một cách có kế hoạch để đáp ứng những nhu cầu tài chính tronh tương lai (nhu cầu phụ cấp vào tiền hưu trí, nhu cầu học hành của con em, nhu cầu sắm sửa những phương tiện đắt tiền, nhu cầu về khởi nghiệp kinh doanh, nhu cầu về cưới hỏi..). Tham gia BHNT thể hiện sự quan tâm lo lắng của người chủ gia đình đối với những người phụ thuộc, của cha mẹ đối với con cái và ngược lại. Vì vậy nó góp phần tạo lập một nếp sống tiết kiệm lành mạnh thể hiện sự quan tâm lẫn nhau giữa mọi người. Vậy BHNT là một loại hình BH rất thiết thực và hiệu quả đối với cuộc sống hàng ngày của nhân dân vì nó vừa mang tính rủi ro vừa mang tính tiết kiệm. Điều này cho thấy rằng BHNT quả là người bạn đồng hành lớn nếu mỗi chúng ta hiểu được điều đó. 2. Đối với cơ quan doanh nghiệp: BHNT ra đời góp phần ổn định sản xuất kinh doanh giúp hoạt động sản xuất kinh doanh tiếp diễn ổn định tránh những xáo trộn đột xuất bởi vì nếu tham gia BHNT cho những người chủ chốt trong công ty, trong doanh nghiệp, cho những nhân viên quan trọng.. sẽ giúp cho họ yên tâm công tác và nếu không may họ bị chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn doanh nghiệp sẽ có một khoản tiền lớn đủ khả năng để đào tạo và thuê mướn một nhân viên khác tương tự đồng thời giải quyết được những hậu quả ngay sau khi người chủ chốt hoặc nhân viên quan trọng bị chết. Đối với nền kinh tế: Trong giai đoạn hiện nay không chỉ ở Việt Nam mà ở bất kì quốc gia nào vốn vẫn là một nhân tố quan trọng trong quá trình sản xuất. Xá hội càng phát triển, yêu cầu lắp đặt công nghệ hiện đại càng tăng lên và kéo theo là nhu cầu về vốn cũng tăng lên mà không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tự đáp ứng được cho mình. Chính vì lẽ đó BHNT ra đời góp phần to lớn trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong nước cũng như nước ngoài để tập trung cho đầu tư phát triển kinh tế góp phần giải quyết được một số vấn đề xã hội, như giải quyết việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống cho quần chúng nhân dân, thực hiện tiết kiệm chống lạm phát.. Vậy có thể nói, BHNT ra đời sẽ được coi như là những nhà tài chính tín dụng lớn góp phần quan trọng trong việc huy động vốn và đầu tư chúng cho nền kinh tế. Chẳng hạn: Tổng đầu tư của công ty nhân thọ Mỹ lên tới 1408 tỷ USD năm 1990, 1551 tỷ USD năm 1991, 1839 tỷ USD năm 1993, 1977 tỷ USD năm 1994, đứng thứ 3 sau các ngân hàng thương mại và các quỹ tương hỗ. Mỹ có 92 triệu lao động thì 1,97 triệu người làm ở các công ty BHNT. ở Hàn Quốc có 82000 người làm việc ở các công ty BHNT trong khi đó dân số Hàn Quốc là hơn 20 triệu dân. ở Nhật bản có 143000 người làm đại lý BHNT. Đối với xã hội: Khi BHNT chưa ra đời thì rủi ro mất mát không chỉ đối với người bị tai nạn gánh chịu mà xã hội cũng phải gánh chịu một phần. BHNT ra đời đã gánh vác phần trách nhiệm này cho xã hội, làm giảm gánh nặng cho xã hội. Giúp đỡ những người gặp khó khăn, giải quyết việc làm, từ đó làm giảm tệ nạn xã hội, góp phần phát triển xã hội phồn vinh. III. Các loại hình BHNT cơ bản. Một số khái niệm cơ bản. Khái niệm BHNT. Hiện nay có rất nhiều khái niệm về BHNT: Trên phương diện pháp lý: BHNT là một bản hợp đồng trong đó để nhận được phí BH của người tham gia BH (người kí kết hợp đồng) người BH cam kết sẽ trả cho một hay nhiều người thụ hưởng BH một số tiền nhất định (số tiền BH hay một khoản trợ cấp định kỳ) trong trường hợp người được BH bị tử vong hoặc người được BH sống đến một thời điểm đã được ghi rõ trong hợp đồng. Trên phương diện kỹ thuật: BHNT là nghiệp vụ bao hàm những cam kết, mà sự thi hành những cam kết này phụ thuộc vào tuổi thọ của con người. Tuy vậy có một khái niệm chung nhất được sử dụng khá phổ biến đó là: BHNT là sự cam kết giữa công ty BH với người tham gia BH (người được BH) trong đó công ty BH có trách nhiệm trả cho người tham gia BH một khoản tiền ấn định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra (người được BH bị chết, thương tật toàn bộ vĩnh viễn hoặc người được BH còn sống đến một thời điểm chỉ rõ trong hợp đồng) còn người tham gia có trách nhiệm nộp phí BH đầy đủ và đúng hạn. Một số khái niệm khác. Đối tượng của BHNT: Bao gồm tất cả người từ 1 tuổi đến 60 tuổi. Tai nạn: Là bất kỳ thiệt hại thân thể nào đối với hậu quả duy nhất trực tiếp của một lực mạnh bất ngờ từ bên ngoài tác động lên thân thể của người được BH, loại trừ ốm đau hay bệnh tật hay bất cứ trạng thái nào xảy ra tự nhiên hay quá trình thoái hoá. Thương tật toàn bộ hoặc vĩnh viễn: Là khi người được BH bị mất hoàn toàn hoặc không thể phục hồi được chức năng của: Hai tay Hoặc hai chân Hoặc 1 tay và 1 chân Hoặc hai mắt Hoặc 1 tay và 1 mắt Hoặc 1 chân và 1 mắt Giá trị hoàn lại: Là một số tiền mà người được BH có thể nhận lại khi có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng trước khi kết thúc thời hạn BH. Hợp đồng BH có giá trị hoàn lại khi đã nộp đủ phí ít nhất là 2 năm. Giá trị hoàn lại ứng với mỗi năm hợp đồng vào ngày kỷ niệm của hợp đồng BH được quy định tại phụ lục 2. Ngày kỷ niệm của hợp đồng BH: Là ngày kỷ niệm hàng năm của ngày bắt đầu BH (như đã ghi trong hợp đồng) trong thời hạn BH. Số tiền BH giảm: Khi hợp đồng đã có giá trị hoàn lại, người được BH có thể ngừng đóng phí nhưng hợp đồng này vẫn tiếp tục duy trì với số tiền BH mới. Số tiền BH này được gọi là số tiền BH giảm. Số tiền BH giảm ứng với mỗi năm hợp đồng vào ngày kỷ niệm của hợp đồng BH được qui định tại phụ lục 3. Các loại hình BHNT BH trong trường hợp tử vong: Có nghĩa là nếu người được BH bị chết do các nguyên nhân thuộc phạm vi BH công ty BH sẽ thanh toán số tiền BH cho người thụ hưởng bảo hiểm đã được quy định trong hợp đồng. BH trong trường hợp tử vong có 3 loại: BH tử vong tạm thời: Đảm bảo việc thanh toán một số tiền BH cho người thụ hưởng BH được chỉ định. Nếu người được BH chết trước một thời điểm được ấn định trên hợp đồng. Nếu người được BH sống và hết hạn hợp đồng người BH được giải phóng mọi nghĩa vụ. Như vậy BH tử vong tạm thơì không cho phép tạo nên một khoản tiết kiệm. Nhưng các khoản phí đống góp lại rất nhỏ. BH tử vong tạm thời chỉ bảo đảm thuần tuý chống lại một rủi ro là sự tử vong.Đây là một nghiệp vụ dự phòng cho gia đình của người được BH hay đảm bảo cho những chủ nợ về những khoản vay của người được. Trên thực tế loại BH này có thể biến thành những loại hợp đồng sau: BH tử vong tạm thời có số tiền BH giảm dần. BH tử vong tạm thời có số tiền BH tăng dần BH tử vong tạm thời có thể tái tạo. BH tử vong tạm thời có thể chuyển đổi. Hợp đồng BH thu nhập gia đình. Hợp đồng BH thu nhập gia đình tăng lên. BH tử vong vô thời hạn: Trong loại BH này người BH cam kết thanh toán một số tiền được ấn định trên hợp đồng khi người được BH tử vong vào bất kỳ thời điểm nào kể từ ngày ký kết hợp đồng. BH tử vong vô thời hạn không đơn thuần chống lại rủi ro tử vong mà nó tạo nên một khoản tiết kiệm cho người thụ hưởng BH bởi lẽ chắc chắn nhà BH sẽ trả số tiền BH. BH tử vong vô thời hạn có thể có 2 loại hợp đồng sau: BH tử vong vô thời hạn không chia lời. BH tử vong vô thời hạn có tham gia chia lời. BH tử vong có điều kiện: Bảo hiểm này là loại bảo hiểm tử vong tạm thời, việc thanh toán trợ cấp chỉ được thực hiện khi người được BH chết, nhưng người được thụ hưởng được chỉ định trong hợp đồng phải còn sống. Nói cách khác nghĩa vụ của nhà BH tuỳ thuộc vào 2 điều kiện: tử vong của người được BH và sự sống của người thụ hưởng được chỉ định. BH trong trường hợp sống: Nếu người được BH còn sống đến một thời điểm được ấn định trước trên hợp đồng họ sẽ nhận một số tiền BH mà mình đăng kí tham gia. Khi tham gia BH, người được BH không sợ rằng mình có thể chết mà có mục đích tạo ra cho mình một số tiền bảo hiểm hoặc 1 khoản trợ cấp thường niên đến trọn đời khi ở một độ tuổi nào đó. Bảo hiểm trong trường hợp sống có 3 dạng hợp đồng cơ bản sau: BH có số tiền BH được trả sau: Theo hợp đồng nhà BH cam kết trả cho người được BH một số tiền BH được ấn định, nếu người được BH sống đén kỳ hạn đã được xác định tại ngày kí kết hợp đồng. Phí BH có thể được trả một lần vào thời điểm kí hợp đồng hoặc có thể trả nhiều lần. Nếu phí BH được thanh toán định kỳ, về nguyên tắc những lần nộp có thể kéo dài đến ngày kết thúc hợp đồng. Trong giả thiết này nếu người được BH chết trong thời kỳ nộp phí thì việc thanh toán phí BH sẽ ngừng lại. Tuy nhiên hầu hết các hợp đồng có thêm điều khoản phí BH trong trường hợp người được BH “nửa đường đứt gánh” để đảm bảo quyền lợi phí cho những người tham gia BH. BH trợ cấp trả sau: Trong BH trợ cấp trả sau thay vì cam kết trả một số tiền, nhà BH có thể cam kết thanh toán trả một số tiền trợ cấp định kỳ thường niên hoặc định kỳ hàng tháng cho người được BH. Nếu khoản trợ cấp được thanh toán cho hết đời của người được BH đó gọi là “ BH niên kim trọn đời”. Nếu chỉ được thanh toán trong một thời kỳ nhất định, đó gọi là “BH niên kim tạm thời”. Các khoản niên kim bắt đầu được thanh toán vào một ngày ấn định và chỉ được trả chi người được BH sống. Thông thường ngày bắt đầu thanh toán niên kim là ngày về hưu của người được BH. Mức độ của các niên kim thông thường là không đổi. Song cũng có thể tăng hay giảm tuỳ theo sự thoả thuận của hợp đồng BH. Các khoản trợ cấp có thể được thanh toán hàng năm, hàng quý hay nửa năm. Chúng luôn được trả cuối kỳ hạn. BH trợ cấp trả ngay: Người được BH nộp một khoản phí BH duy nhất khi kí kết hợp đồng BH. Số phí BH này là một số tiền BH, nó tạo nên một khoản trợ cấp. Nhà BH thanh toán cho người được BH trong một khoản thời gian hay trọn đời trợ cấp một khoản nhất định. Những hợp đồng BH hỗn hợp nhân thọ: Loại này kết hợp 2 loại hình nói trên. Cụ thể nếu người được BH bị chết trong thời hạn hợp đồng, người thừa kế hợp pháp được nhân số tiền BH. Nếu họ sống đến một thời hạn nhất định trong hợp đồng thì bản thân họ được nhận số tiền BH. Bảo hiểm hỗn hợp thông thường: Đây là loại BH tử vong tạm thời có số tiền trả sau. Theo hợp đồng BH này nhà BH cam kết trả một số tiền ấn định cho người được chỉ định bởi người tham gia BH. Nếu tại một thời điểm ấn định trong hợp đồng, người được BH còn sống sẽ được nhà BH trả tiền BH. Trường hợp này giống như trong BH có số tiền BH trả sau. Nếu người được BH bị tử vong trước thời hạn hợp đồng, nhà BH sẽ thanh toán tiền BH cho người thụ hưởng BH. Và đây là BH tử vong tạm thời BH hợp đồng là 1 hợp đồng mang tính lưỡng diện nó dựa trên 2 rủi ro để thiết lập hợp đồng: tử vong và sống sót đến kỳ hạn hợp đồng. BH hỗn hợp có thời hạn cố định: ở loại BH này nhà BH cam kết trả một số tiền tại một ngày xác định nếu người được BH sống hay chết. Nếu người được BH sống đến thời điểm ấn định, anh ta sẽ nhận được các khoản trợ cấp. Nếu người được BH chết trước thời điểm này, người thụ hưởng của anh ta sẽ được nhận các khoản trợ cấp, nhưng chỉ được nhận vào thời điểm ấn định mà không phải là thời điểm chết của người được BH dĩ nhiên, việc trả phí BH sẽ ngưng lại khi người được Bh bị chết. Các loại hình bổ sung: Không phải nộp phí bảo hiểm nếu người được BH không thể tiếp tục công việc bình thường đối với thương tật ốm đau. Vì vậy họ không phải nộp phí nhưng vẫn được nhận số tiền BH trong thời hạn còn hiệu lực hợp đồng. Trợ cấp tai nạn lao động: Nếu người được BH bị chết đối với tai nạn lao động sẽ được nhận trợ cấp gấp đôi số tiền BH. Trợ cấp mất khả năng lao động nếu người được BH bị mất khả năng lao động vĩnh viễn họ sẽ được nhận số tiền BH như khi bị chết (có khả năng nhận 2 lần ). Trong số các loại hình BH nói trên thì các loại hình bảo hiểm cơ bản vẫn là trụ cột của BHNT nhưng trên thực tế thời gian tham gia khác nhau cho nên nó ảnh hưởng đến 1 loạt vấn đề trong mỗt hợp đồng BH. Chính vì vậy các công ty BHNT trên thế giới đã chia làm 2 loại: BHNT có thời hạn. BHNT trọn đời. BHNT có thời hạn: BHNT có thời hạn là loại hình cơ bản nhất của BHNT bởi vì nó đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng của nhiều đối tượng tham gia. Loại hình này có những đặc điểm sau: Số tiền BH được trả một lần khi người được BH bị chết trong thời hạn hợp đồng. Nếu cái chết không xảy ra trong thời hạn BH người tham gia không được nhận lại số tiền BH. Thời hạn BH xác định trước. Phí BH đóng một lần hay định kỳ: Nếu số phí BH đóng định kỳ thì nó không thay đổi trong suốt thời hạn BH. Phí BH thấp hơn loại hình BH hỗn hợp và trọn đời bởi vì thực chất ở đây chỉ BH cho những rủi ro chứ không mang tính tiết kiệm. BHNT trọn đời: Loại này thường phù hợp với những tầng lớp có thu nhập cao trong xã hội. Đặc điểm của no được thể hiện: Số tiền BH được trả một lần khi người được BH bị chết bất cứ lúc nào (trong thời hạn còn lại cuả cuộc đời mình ). Thời hạn BH không xác định. Vì vậy đơn BH không bị giới hạn bởi ngày hết hạn. Phí BH cao hơn rất nhiều so với BHNT có thời hạn bởi vì người được BH chắc chắn bị chết. Đơn BH là 1 hợp đồng dài hạn cho nên số tiền nhận được thường được cộng thêm một phần lãi đối với hoatj động đầu tư của các nhà BH. Người tham gia có thể được nhận 1 khoản tiền hoàn lại vì 1 lý do nào đó mà họ không thể tiếp tục tham gia nhưng muốn nhận được giá trị hoàn lại phải tham gia nộp phí ít nhất một khoản thời gian nhất định. BHNT hỗn hợp (có thời hạn ): Loại hình này được áp dụng khá rộng rãi ở tất cả các nước trên thế giới. Nó có đặc điểm là: Số tiền BH được trả trong 2 trường hợp đó là sống đến một thời hạn đã được ấn định trong hợp đồng và bị chết trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng. Thời hạn xác định. Phí BH đóng định kỳ và số phí phải đóng không thay đổi trong suốt thời hạn có hiệu lực hợp đồng. Loại hình BH này có mức phí cao nhất do nó vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro. Loại hình BH này cũng có thể được chia lãi đối với đầu tư mang lại và cùng thực hiện hoàn lại phí khi người tham gia có khả năng với điều kiện người tham gia phải nộp phí được một khoản thời gian nhất định do 2 bên cùng thoả thuận. Các loại hình BH khác. BH trợ cấp hưu trí: Loại này có đặc điểm: Là trả trợ cấp định kỳ cho người được BH từ lúc họ về hưu đến khi chết. Thời hạn không xác định bởi vì người về hưu bị chết lúc nào không biết. Phí đóng một lần khi về hưu. BH học phí: Khi cha mẹ còn khoẻ mạnh trong quá trình công tác có thu nhập cao lúc này họ phải nghĩ đến chi phí học hành cho con cái trong tương lai bởi vì biết đâu đến lúc con cái được vào ĐH cha mẹ già yếu thu nhập lại thấp. Vì vậy người ta đã tham gia BH tiền học phí cho con cái sau này. Đây thực chất là chương trình an sinh giáo dục. Nó có đặc điểm giống đặc điểm của BHNT có thời hạn. BHNT cho trẻ em: Nó giống BH học phí. BH cưới xin: Loại hình BH này sẽ đóng phí định kỳ đến khi kết hôn sẽ được nhận số tiền BH. Đại lý BHNT. Đại lý BHNT. Khái niệm đại lý bảo hiểm. Đại lý bảo hiểm: là một cá nhân hay tổ chức đại diện cho một công ty bảo hiểm, vì quyền lợi của công ty bảo hiểm, thay mặt công ty bảo hiểm để bán các “sản phẩm” của công ty cho người mua (khách hàng). Theo dự thảo luật kinh doanh bảo hiểm lần thứ 13 điều 80 mục 2 chương IV thì tổ chức, cá nhân hoạt động đại lý bảo hiểm cần phải đáp ứng các điều kiện sau: Đối với cá nhân Là công dân Việt Nam cư trú thường xuyên tại Việt Nam. Từ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Có chứng chỉ đào tạo đại lý bảo hiểm. Không có tiền án. Đối với tổ chức. Được thành lập hợp pháp và có tư cách pháp nhân. Các thành viên của tổ chức đại lý trực tiếp điều hành hoạt động đại lý bảo hiểm phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện như quy định đối với cá nhân (điều kiện trên). Phân loại đại lý. Việc phân chia các loại đại lý được dựa trên rất nhiều tiêu thức khác nhau. ở đây em xin đưa ra một số tiêu thức cơ bản. Theo thời gian hoạt động: Đại lý chuyên nghiệp: Là loại hình đại lý mà là những cá nhân hay tổ chức chuyên làm việc cho công ty BHNT, họ không thực hiện hoạt động kinh doanh nào khác, lấy việc hưởng thu nhập từ bán các sản phẩm BHNT làm nguồn thu chính. Đại lý bán chuyên nghiệp: Là loại hình đại lý bên cạnh việc làm đại lý cho các công ty họ còn tiến hành các hoạt động kinh doanh khác. Theo quan hệ kinh tế: Đại lý hoa hồng: Là đại lý hoạt động dưới sự uỷ quyền của công ty bảo hiểm và hưởng hoa hồng theo doanh số bán, đại lý này có thể bán sản phẩm của nhiều công ty bảo hiểm khác nhau. Đại lý độc quyền: Là đại lý chỉ bán sản phẩm của một công ty bảo hiểm duy nhất. Theo phạm vi quyền hạn của đại lý: Đại lý đặc biệt: Là người được uỷ thác chỉ thực hiện một giao dich hay một công việc đặc biệt trong quá trình khai thác chẳng hạn như đại lý chuyên khai thác, đại lý chuyên thu. Tổng đại lý: Là người được uỷ quyền làm một số công việc trong phạm vi quyền hạn mà người uỷ thác đã giao cho, ví dụ như ký kết hợp đồng, thu phí... Trên thực tế, tổng đại lý thường sử dụng những đại lý độc lập để thực hiện những công việc như giới thiệu dịch vụ, thu phí bảo hiểm.... Đại lý toàn quyền: Đây là loại đại lý có quyền hạn rộng nhất, họ có thể đảm nhận tất cả các công việc từ giới thiệu, tư vấn khách hàng, ký kết hợp đồng đến việc quản lý hợp đồng. Yêu cầu đối với đại lý loại này rất cao phải có từ kỹ năng bán hàng, nghiệp vụ đến quản lý. Vai trò của đại lý bảo hiểm nhân thọ. Xã hội ngày càng phát triển các công việc ngày càng được chuyên môn hoà sâu sắc hơn, những nghành nghề kiểu như môi giới hay trung gian dần được xã hội thừa nhận với tư cách nghề độc lập. Chính trong hoàn cảnh như vậy và cùng với sự ra đời và phát triển của nghành BHNT thì nghề đại lý BHNT đang ngày càng quan trọng đối với sự thành công hay thất bại của các công ty BHNT. Vai trò của các đại lý có thể được đánh giá qua mọt số nét chính sau đây: Thứ nhất: Đại lý là người hữu hình hoá sản phẩm bảo hiểm nhân thọ cho khách hàng. Thông qua việc tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, đại lý bằng hiểu biết của mình giới thiệu những lợi ích và các điều khoản bảo hiểm cho khách hàng, từ đó khách hàng dần định hình về sản phẩm BHNT. Thứ hai: Đại lý là người bảo vệ danh tiếng và chữ tín của công ty bảo hiểm. Bằng cách giải thích, thuyết phục khách hàng tiêu dùng loại sản phẩm của mình, đại lý đã cho khách hàng thấy rõ lợi ích của sản phẩm cũng như khả năng, uy tín của công ty đủ để họ tin tưởng bỏ ra một khoản tiền không nhỏ để đổi lấy lời cam kết trên giấy tờ của công ty bảo hiểm. Thứ ba: Đại lý là người giả quyết mọi rắc rối trong quan hệ của công ty với khách hàng. Thông qua đại lý, khách hàng có thể thực hiện mọi công việc giao dich với công ty bảo hiểm từ khâu ký kết hợp đồng cho đến khâu bồi thường. Do đó nếu đại lý có trình độ cao và có lòng yêu nghề thì có thể giả quyết được mọi băn khoăn, thắc mắc của khách hàng. Ngược lại, đại lý không khéo léo trong hoạt động và thái độ không đúng mực có thể gây ra những khó chịu không đang có cho khách hàng. Thứ tư: Đại lý cũng chính là người bảo vệ lợi ích của khách hàng. Trong quá trình khai thác, một mặt đại lý là đạ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35010.doc