LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nghèo đói là một trong những vấn đề xã hội mang tính toàn cầu đối với mọi quốc gia, kể cả các quốc gia phát triển cũng như các nước đang phát triển và kém phát triển, ở Việt Nam, đói nghèo là vấn đề được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế - xã hội nước ta nói chung và khu vực nông thôn nói riêng đã có những biến đổi sâu sắc. Nhịp độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế cao và tương đối ổn định từ
73 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1700 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đánh giá tổng kết dự án giảm nghèo tỉnh Sơn La giai đoạn 2002 - 2007. một số bài học kinh nghiệm rút ra từ dự án, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
7% - 10% tỷ lệ lạm phát giảm, sản lượng lương thực liên tục tăng trong nhiều năm qua, cuộc sống nhân dân ngày càng được cải thiện, bộ mặt nông thôn đã có những thay đổi, tiến bộ .
Từ thực tế sản xuất cùng với việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, các hộ nông dân biết sử dụng có hiệu quả về lao động, đất đai, tiền vốn cho nên ngày càng có nhiều những hội kinh doanh giỏi . Mặt khác, số hộ nông dân không biết bắt nhịp thời cơ, tiếp cận những tri thức sản xuất hay không đủ điều kiện đã trở thành hộ nghèo đói . Ranh giới giàu nghèo ngày càng trở nên rõ nét hơn , khi nền kinh tế thị trường ngày càng mở cửa , điều đó đã dẫn tới sự phân hoá sâu sắc về đời sống và thu nhập của nhóm người giàu và người nghèo trong xã hội, giữa thành thị và nông thôn . Thực trạng này nếu không được giải quyết sẽ nảy sinh ra những mâu thuẫn trong xã hội, là nguy cơ làm mất ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội .
Mặc dù được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm , ưu đãi trong công cuộc xoá đói giảm nghèo. Nhưng Sơn La vẫn còn có hộ nghèo, nằm trong danh mục các tỉnh có thu nhập bình quân đầu người thấp của cả nước.
Đây là một mối quan tâm lớn của cấp uỷ, các ban, ngành đoàn thể từ Tỉnh đến cơ sở . Vì vậy việc xoá đói giảm nghèo trong nông thôn ở đây được đặt ra như một yêu cầu cấp bách cần giải quyết với nhiều phương pháp tiếp cận cả trên bình diện vĩ mô và vi mô .
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên nên trong quá trình thực tập tại phòng Tài Chính&Kế hoạch huyện Mai Sơn tỉnh Sơn La tôi đã chọn đề tài nghiên cứu của mình :
“ Đánh giá tổng kết dự án giảm nghèo tỉnh Sơn La giai đoạn 2002 – 2007. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ dự án” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Nhằm đánh giá đúng đắn kết quả, thành tựu, những mặt còn hạn chế của dự án từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc triển khai những dự án giảm nghèo trong các giai đoạn tiếp theo tại tỉnh Sơn La
2 . Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Hệ thống hoá cơ sở lý luận và phương pháp luận nhằm xem xét, đánh giá các vấn đề nghèo đói ở nông thôn hiện nay .
Phản ánh thực trạng đói nghèo và tìm ra nguyên nhân dẫn đến đói nghèo
Đánh giá kết quả thực hiện dự án giảm nghèo tỉnh Sơn La nói riêng và các tỉnh miền núi phía Bắc núi chung. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, đề xuất để dự án giảm nghèo tỉnh Sơn La trong các giai đoạn tiếp theo đạt hiệu quả cao hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế xã hội Tỉnh Sơn La, đặc biệt là các huyện thuộc dự án giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc. Đồng thời nghiên cứu, đánh giá tổng kết toàn bộ dự án giảm nghèo tỉnh Sơn La
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chủ yếu tập trung nghiên cứu ở một số Huyện điển hình đại diện cho các Huyện thuộc dự án giảm nghèo tỉnh Sơn La trong đó có Huyện Mai Sơn nơi tôi thực tập.
Về không gian: nghiên cứu trong phạm vi địa bàn tỉnh Sơn La.
Về thời gian: nghiên cứu toàn bộ dự án từ 2002 - 2007
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp phương pháp nghiên cứu kết hợp với các phương pháp phân tích tổng hợp số liệu, thống kê, so sánh xử lý, bảng biểu.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được trình bày trong 3 chương:
Chương I: Sự cần thiết phải xóa đói giảm nghèo
Chương II: Đánh giá dự án giảm nghèo tỉnh Sơn La giai đoạn 2002-2007.
Chương III: Bài học kinh nghiệm rút ra từ dự án. Một số đề xuất, kiến nghị.
Để hoàn thành đề tài, ngoài sự nỗ lực nghiên cứu của bản thân, tôi cũng đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ nhiều phía. Tôi xin chân thành cảm ơn Phòng Tài chính-Kế hoạch Huyện Mai Sơn, bạn bè. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn TH.S Phạm Xuân Hoà đã hướng dẫn và động viên tôi rất nhiều trong thời gian qua. Do thời gian và trình độ còn hạn chế, đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của quý thấy cô giáo.
CHƯƠNG I
SỰ CẦN THIẾT PHẢI XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
I. CÁC QUAN NIỆM VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ CÁC THƯỚC ĐO NGHÈO ĐÓI.
1. Quan điểm về nghèo đói.
1.1. Các quan điểm về nghèo đói.
Theo quan điểm tiếp cận của WB, thì phạm vi của sự nghèo khổ ngày càng mở rộng. Nghèo khổ thường gắn với sự thiếu thốn trong tiêu dùng. Nhưng từ giữa năm 1970 và những năm 1980, nghèo khổ được tiếp cận theo nhu cầu cơ bản bao gồm: tiêu dùng, dịch vụ xã hội và nguồn lực. Từ giữa những năm 1980 đến nay tiếp cận theo năng lực và cơ hội, gồm: tiêu dùng, dịch vụ xã hội, nguồn lực và tính dễ bị tổn thương. Từ cách tiếp cận trên, khi đánh giá tình trạng nghèo khổ khổng chỉ dựa theo tiêu chí thu nhập mà còn gồm cả những tiêu chí không gắn với thu nhập.
Tuy nhiên ở những nước đang phát triển, việc phân tích và đánh giá nghèo khổ chủ yếu dựa trên tiêu chí thu nhập (hay chi tiêu). Phương pháp này cho phép so sánh tình trạng nghèo khổ giữa các nước, các vùng khác nhau theo thời gian nhằm cung cấp thông tin cho các chính sách công và đánh giá mức độ thành công của các chính sách đó. Nhưng làm thế nào để biểu thị “ nghèo khổ” bằng một con số có ý nghĩa? Các nhà kinh tế đã dựa trên khái niệm “nghèo khổ tuyệt đối”. Khái niệm này nhằm biểu thị một mức thu nhập (chi tiêu) tối thiểu cần thiết để đảm bảo những “nhu cầu vật chất cơ bản” như lương thực, quần áo, nhà ở để cho mỗi người có thể “tiếp tục tồn tại”. Tuy nhiên khi xem xét mức nghèo khổ theo khái niệm trên nảy sinh một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Việc xác định mức này là một vấn đề chủ quan gây khó khăn cho việc so sánh giữa các nước.
Thứ hai: Mức thu nhập tối thiểu cần thiết sẽ thay đổi theo tiêu chuẩn của mức sống theo thời gian và theo quốc gia (hay khu vực). Chẳng hạn, một người dân ở nước phát triển hiện nay được phân loại là nghèo thì thực ra họ lại còn có mức sống tốt hơn những người dân ở nước họ vào những năm 60 hoặc một số người dân ở các nước kém phát triển ngày nay mà họ không được coi là nghèo.
Do vậy một phương pháp đã được các nhà kinh tế sử dụng là xác định “giới hạn (ranh giới) nghèo khổ” hay còn gọi là “đường nghèo khổ”
Có hai cách tiếp cận “giới hạn nghèo khổ” là tiếp cận theo thu nhập và tiếp cận theo chi tiêu. Tuy nhiên phương pháp được sử dụng nhiều hơn là tiếp cận theo chi tiêu. Vì chi tiêu của hộ gia đình là chỉ số liên quan chặt chẽ đến phúc lợi hơn là thu nhập. Và số liệu về thu nhập thường là không chính xác đặc biệt ở các nước đang phát triển.
Có những phương pháp đánh giá “giới hạn nghèo khổ sau”
- Phương pháp của Ngân hàng Thế Giới:
Phương pháp mà WB đã sử dụng ở nhiều nước đang phát triển là dựa vào ngưỡng chi tiêu tính bằng USD mỗi ngày. Ngưỡng nghèo thường dùng hiện nay là 1 USD và 2 USD/ngày (theo sức mua tương đương). Đây là ngưỡng chi tiêu có thể đảm bảo cung cấp năng lượng tối thiểu cần thiết cho con người, mức chuẩn đó là 2100 calo/người/ngày.
Ngưỡng nghèo này gọi là ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm (nghèo đói ở mức thấp). Vì mức chi tiêu này chỉ đảm bảo mức chuẩn về cung cấp năng lượng mà không đủ chi tiêu cho những hàng hoá phi lương thực. Những người có mức chi tiêu cho những hàng hoá phi lương thực. Những người có mức chi tiêu dưới mức chi cần thiết để đạt được 2100 calo/ngày gọi là “nghèo về lương thực, thực phẩm”.
- Phương pháp của Việt Nam:
Ở Việt Nam hiện nay, có phương pháp tiếp cận với ranh giới nghèo đói như sau:
+ Phương pháp dựa cả vào thu nhập và chi tiêu theo đầu người (phương pháp của Tổng cục thống kê).
Phương pháp này đã xác định 2 ngưỡng nghèo:
* Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua đựoc một số lương thực hàng ngày để đảm bảo mức độ dinh dưỡng. Như vậy, phương pháp này tiếp cận tương tự cách tiếp cận của WB.
* Ngưỡng nghèo thứ hai, thường được gọi là “ngưỡng nghèo chung” ngưỡng này bao gồm cả phần chi tiêu cho hàng hoá phi lương thực.
Ngưỡng nghèo Việt Nam được tính toán từ cuộc điều tra mức sống dân cư 1993 và 1998 như sau:
Bảng 1: Ngưỡng nghèo ở Việt Nam
Chi tiêu bình quân đầu người/năm
1993
(Tính vào thời điểm 1/1993)
1998
(Tính vào thời điểm 1/1998
Ngưỡng nghèo về lương thực, thực phẩm
750 nghìn đồng
1.287 nghìn đồng
Ngưỡng nghèo chung
1.116 nghìn đồng
1788 nghìn đồng
+ Phương pháp dựa trên thu nghập của hộ gia đình (phương pháp của Bộ Lao động-Thương binh xã hội). Phương pháp này hiện đang được sử dụng để xác định chuẩn nghèo đói của chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia (Chuẩn nghèo quốc gia).
Chuẩn nghèo áp dụng cho thời kỳ 2001-2005 được xác định dựa trên thu nhập theo 3 vùng. Cụ thể là:
* Vùng Hải đảo và vùng núi nông thôn: Bình quân thu nhập là 80 nghìn đồng/người/tháng.
* Vùng đồng bằng nông thôn: 100 nghìn đồng/người /tháng.
* Và khu vực thành thị là 1500 nghìn đồng/người /tháng.
Người được coi là nghèo khổ cả về thu nhập là những người mà thu nhập của họ nằm ở bên dưới các “giới hạn” đã được quy định nói trên:
Việc nhận diện ai là “người nghèo” luôn là một vấn đề khó khăn. Cách thông thường và đã được các nước đang phát triển và WB sử dụng là dựa vào kết quả các cuộc điều tra về thu nhập (chi tiêu) của hộ gia đình (phương pháp thống kê). Những người đang sống trong “nghèo khổ tuyệt đối” là những người mà 4/5 chi tiêu của họ dành cho nhu cầu về ăn mà chủ yếu là lương thực và một chút ít thực phẩm (thịt hoặc cá); tất cả đều thiếu dinh dưỡng; chỉ khoảng 1/3 số người lớn biết chữ; và tuổi thọ trung bình của người lao động khoảng 40 năm.
Một cách tiếp cận khác cũng thường được sử dụng để xem xét nghèo đói là chia dân cư thành các nhóm khác nhau (theo 5 nhóm). Nhóm 1/5 nghèo nhất là 20% dân số, những người sống trong các hộ gia đình có mức thu nhập (chi tiêu) thấp nhấp.
Bên cạnh sự “nghèo khổ tuyệt đối”, ở nhiều nước còn xét đến sự “nghèo khổ tương đối”. “Nghèo khổ tương đối” được xét trong tương quan xã hội, phụ thuộc địa điểm dân cư sinh sống và phương thức tiêu thụ phổ biến nơi đó. Sự nghèo khổ tương đối được hiểu là những người sống dưới mức tiêu chuẩn có thể chấp nhận được trong những địa điểm và thời gian xác định. Đây là những người cảm thấy bị tước đoạt một cái mà đại bộ phận những người khác trong xã hội được hưởng. Do đó chuẩn mực để xem xét nghèo khổ tương đối thường khác nhau giữa các nước hoặc giữa các vùng. Nghèo khổ tương đối là một hình thức biểu hiện sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.
1.2. Khái niệm về nghèo đói
Xuất phát từ những quan niệm về nghèo đói ở trên, có những khái niệm về nghèo đói như sau:
Nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện như: thu nhập bị hạn chế hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để bảo đảm tiêu dùng những lúc khó khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến, ít được tham gia vào quá trình ra quyết định. Như vậy nghèo khổ được định nghĩa trên nhiều khía cạnh khác nhau. Việc đo lường được từng khía cạnh đó một cách nhất quán là điều rất khó, còn gộp cả những khía cạnh đó vào một số chỉ số nghèo khổ hay thước đo nghèo khổ duy nhất là không thể.
Hội nghị chống đói nghèo khu vực châu Á- Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Bangkok – Thái Lan (9/1993) đã đưa ra định nghĩa chung như sau: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương”. Định nghĩa này hiện nay đang được nhiều quốc gia sử dụng trong đó có Việt Nam.
2. Các thước đo về nghèo đói.
Xuất phát từ các tiếp cận định nghĩa sự nghèo khổ nói trên, thước đo sử dụng phổ biến hiện nay để đánh giá nghèo khổ về thu nhập là đếm số người sống dưới chuẩn nghèo. Gọi là “chỉ số đếm đầu người” (HC-Headcount index). Từ đó xác định tỷ lệ nghèo đói (tỷ lệ đếm đầu-HCR)
Tỷ lệ nghèo được tính bằng tỷ lệ phần trăm của dân số. Việc sử dụng chỉ số này là cần thiết để đánh giá tình trạng nghèo và những thành công trong mục tiêu “giảm nghèo” của quốc gia và thế giới. Tuy nhiên, để phản ánh được tính chất gay gắt của nghèo đói và để có chính sách cần thiết hữu hiệu nhằm giảm nghèo cho mọi đối tượng là người nghèo, các nhà kinh tế đã xây dựng chỉ số: “Khoảng cách nghèo”. Khoảng cách nghèo là phần chênh lệch giữa mức chi tiêu của người nghèo và ngưỡng nghèo, tính bằng phần trăm so với ngưỡng nghèo. Khi so sánh các nhóm dân cư trong một nước, khoảng cách nghèo cho biết tính chất và mức độ của nghèo khổ khác nhau giữa các nhóm.
Ngoài ra còn có những thước đo khác để đánh giá nghèo đói như:
Chỉ số nghèo khổ (chỉ số nghèo nhân lực-HPI)
Chỉ số nghèo khổ là thước đo tổng hợp đánh giá sự nghèo đói đa chiều và sự thiệt thòi của con người. HPI xem xét vấn đề nghèo đói và thiệt thòi thông qua các khía cạnh : cuộc sống lâu dài, khoẻ mạnh; sự đảm bảo về kinh tế và sự hội nhập về xã hội.
Hai cách tiếp cận trình bày ở trên (PQLI và BNA) chỉ có ý nghĩa khi xem xét nền kinh tế của quốc gia đang phát triển; trong khi đó HPI đưa ra hai hệ thống chỉ tiêu riêng biệt cho các nước phát triển và đang phát triển.
Đối với các nước đang phát triển, HPI gồm có:
-Tỷ lệ người dự kiến không sống qua 40 tuổi.
-Tỷ lệ người mù chữ.
-Tỷ lệ người không được tiếp cận với các dịch vụ y tế, nước sạch.
Đối với các nước phát triển, HPI gồm có:
-Tỷ lệ người dự kiến sống không quá 60 tuổi.
-Tỷ lệ người chưa đạt tiêu chuẩn đọc, viết.
-Tỷ lệ số người nghèo về thu nhập.
-Tỷ lệ người thiệt thòi trong hoà nhập xã hội.
Chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống (PQLI)
Chỉ số này được tính căn cứ vào 3 yếu tố: tỷ lệ chết yểu, tỷ lệ biết chữ và tuổi thọ trung bình. Tỷ lệ trẻ em chết yểu thể hiện chất lượng của công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ của người mẹ, sự trong sạch của môi trường, mức độ sẵn có của nước sạch...Tuổi thọ trung bình phản ánh mức độ chăm sóc chung
Cách tiếp cận này đã đưa được một phần lớn hiệu quả các hoạt động phúc lợi xã hội và một chỉ số tổng hợp. Tuy nhiên, chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống chỉ có tác dụng trong việc so sánh trình độ phát triển của những nước có thu nhập trung bình trở xuống; nói cách khác, một khi dinh dưỡng, y tế và giáo dục đã đạt đến một trình độ nào đó thì chỉ số PQLI sẽ không còn thay đổi theo sự biến đổi của thu nhập nữa.
Các "Nhu cầu thiết yếu" (BNA)
Cách tiếp cận "các nhu cầu thiết yếu" nhằm vào việc cực tiểu hoá vấn đề nghèo đói thay vì tối đa hoá sản lượng. Những người theo hướng tiếp cận này cho rằng tăng trưởng kinh tế là không có hiệu quả nếu nó không có những chương trình tập trung trực tiếp vào đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của 40-50% dân số nghèo khổ nhất. Theo họ, những nhu cầu thiết yếu này gồm có:
- Nhu cầu dinh dưỡng: được tính thông qua chỉ số lượng calo/người/ngày.
- Nhu cầu về giáo dục: được tính thông qua (i) tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành (tính cho người từ 15 tuổi trở lên) (ii) tỷ lệ nhập học thô và ròng (iii) số năm đi học bình quân (iv) chi tiêu của Chính phủ dành cho giáo dục.
- Nhu cầu về sức khoẻ: được tính theo tuổi thọ bình quân.
- Nhu cầu về vệ sinh: tính qua các chỉ tiêu (i) tỷ lệ chết yểu (trung bình 1000 trẻ em sinh ra) (ii) phần trăm dân số được hưởng các phương tiện vệ sinh.
- Nhu cầu về nước sạch: tính qua các chỉ tiêu (i) tỷ lệ chết yểu (trung bình 1000 trẻ em sinh ra) (ii) phần trăm dân số được hưởng các nguồn nước sạch.
- Nhu cầu về nhà ở: m2/người.
Cách tiếp cận từ các nhu cầu thiết yếu đưa ra một loạt các chỉ số thể hiện nhiều mặt của phúc lợi dành cho con người. Tuy nhiên, cách tiếp cận này chỉ phù hợp cho việc đánh giá một nền kinh tế đang phát triển vì nó nhấn mạnh vào việc giảm nghèo đói trên khía cạnh thoả mãn những nhu cầu thiết yếu đối với con người-những vấn đề không còn đặt ra với một nền kinh tế đã phát triển.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO.
Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo.
Xét tình hình thực tế, khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới thì sự phân hoá giàu nghèo diễn ra rất nhanh nếu không tích cực xoá đói giảm nghèo và giải quyết tốt các vấn đề xã hội khác thì khó có thể đạt được mục tiêu xây dựng một cuộc sống ấm no về vật chất, tốt đẹp về tinh thần, vừa phát huy được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu được yếu tố lành mạnh và tiến bộ của thời đại.
Do đó trong chính sách phát triển kinh tế -xã hội thời kỳ 1996-2000 nhà nước đã xây dựng được các chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó có chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia. Xoá đói giảm nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần, mà nó còn là vấn đề kinh tế -xã hội quan trọng, do đó phải có sự chỉ đạo thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
Xuất phát từ điều kiện thực tế nước ta hiện nay, xoá đói giảm nghèo về kinh tế là điều kiện tiên quyết để xoá đói giảm nghèo về văn hoá, xã hội .Vì vậy, phải tiến hành thực hiện xoá đói giảm nghèo cho các hộ nông dân sinh sống ở vùng cao, vùng sâu, hải đảo và những vùng căn cứ kháng chiến cách mạng cũ, nhằm phá vỡ thế sản xuất tự cung, tự cấp, độc canh, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế sản xuất nông nghiệp trên toàn quốc theo hướng sản xuất hàng hoá, phát triển công nghiệp nông thôn, mở rộng thị trường nông thôn, tạo việc làm tại chỗ, thu hút lao đông ở nông thôn vào sản xuất tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ là con đường cơ bản để xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn phải được xem như là 1 giải pháp hữu hiệu, tạo bước ngoặt cho phát triển ở nông thôn, nhằm xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay.
Tiếp tục đổi mới nền kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá trên cơ sở nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Đó là con đường để cho mọi người vượt qua đói nghèo, để nhà nước có thêm tiềm lực về kinh tế để chủ động xoá đói giảm nghèo. Đây là sự thể hiện tư tưởng kinh tế của Hồ Chủ Tịch:" Giúp đỡ người vươn lên khá, ai khá vươn lên giàu, ai giàu thì vươn lên giàu thêm".Thực hiện thành công chương trình xoá đói giảm nghèo không chỉ đem lại ý nghĩa về mặt kinh tế là tạo thêm thu nhập chính đáng cho người nông dân ổn định cuộc sống lâu dài, mà xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế nông thôn còn là nền tảng, là cơ sở để cho sự tăng trưởng và phát triển 1 nền kinh tế bền vững, góp phần vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Hơn thế nữa nó còn có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị xã hội. Xoá đói giảm nghèo nhằm nâng cao trình độ dân trí, chăn sóc tốt sức khoẻ nhân dân, giúp họ có thể tự mình vươn lên trong cuộc sống, sớm hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng, xây dựng được các mối quan hệ xã hội lành mạnh, giảm được khoảng trống ngăn cách giữa người giàu với người nghèo, ổn định tinh thần, có niềm tin vào bản thân, từ đó có lòng tin vào đường lối và chủ trương của Đảng và Nhà nước. Đồng thời hạn chế và xoá bỏ được các tệ nạn xã hội khác, bảo vệ môi trường sinh thái.
Ngoài ra còn có thể nói rằng không giải quyết thành công các nhiệm vụ và yêu cầu xoá đói giảm nghèo thì sẽ không chủ động giải quyết được xu hướng gia tăng phân hoá giàu nghèo, có nguy cơ đẩy tới phân hoá giai cấp với hậu quả là sự bần cùng hoá và do vậy sẽ đe doạ tình hình ổn định chính trị và xã hội làm chệch hướng XHCN của sự phát triển kinh tế -xã hội. Không giải quyết thành công các chương trình xoá đói giảm nghèo sẽ không thể thực hiện được công bằng xã hội và sự lành mạnh xã hội nói chung. Như thế mục tiêu phát triển và phát triển bền vững sẽ không thể thực hiện được. Không tập trung nỗ lực, khả năng và điều kiện để xoá đói giảm nghèo sẽ không thể tạo được tiền đề để khai thác và phát triển nguồn lực con người phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước nhằm đưa nước ta đạt tới trình độ phát triển tương đương với quốc tế và khu vực, thoát khỏi nguy cơ lạc hậu và tụt hậu.
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xoá đói giảm nghèo.
Công tác xóa đói giảm nghèo là một công tác rất khó khăn và quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia, khu vực và toàn thế giới. Việc xét các yếu tố ảnh hưởng đến việc xóa đói giảm nghèo là tiền đề quan trọng trong chiến lược xóa đói giảm nghèo của mỗi quốc gia cũng như trong công tác triển khai các dự án xóa đói giảm nghèo
2.1. Yếu tố khách quan.
2.1.1. Điều kiện tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên là một yếu tố đầu tiên và quan trọng ảnh hưởng đến công tác xóa đói giảm nghèo. Nếu điều kiện tự nhiên ưu đãi: như khí hậu tốt, địa hình bằng phẳng, giàu tài nguyên, nằm trong khu vực kinh tế mạnh … thì việc xóa đói giảm nghèo sẽ thuận lợi hơn rất nhiều kể cả về tiến độ và chi phí cho việc xóa đói giảm nghèo
2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội.
Điều kiện kinh tế xã hội là yếu tố do lịch sử đem lại. Quá trình lịch sử của một quốc gia đưa lại những xuất phát điểm khác nhau như kinh tế kém phát triển do hậu quả của chiến tranh kéo dài…, nền văn hóa Phương Đông hay phương Tây… làm ảnh hưởng đến tác phong, hiệu quả lao động, sang tạo làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển của một quốc gia, quyết định nhiều đến tình trạng nghèo đói
2.1.3. Các yếu tố tác động khác:
- Hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế.
Hỗ trợ từ các quốc gia khác.
Đây là hai yếu tố tác động tích cực làm giảm tình trạng nghèo đói của mỗi quốc gia và làm giảm sự nghèo đói, bất bình đẳng về thu nhập giữa các quốc gia, khu vực trên thế giới
2.2. Yếu tố chủ quan.
2.2.1. Năng lực quản lý của Nhà nước.
Hiện nay năng lực của các quốc gia quyết định nhiều đến công tác xoá đói giảm nghèo của các quốc gia đó. Một nhà nước có năng lực quản lý tốt dẫn đến hiệu quả công tác quản lý và triển khai công tác xóa đói giảm nghèo cao. Đồng thời làm tăng sự tin tưởng của các tổ chức, quốc gia phát triển khác trên thế giới trong việc hỗ trợ công tác xóa đói giảm nghèo.Có thể nhanh chóng giảm được tình trạng nghèo đói của quốc gia đó.
2.2.2. Các quan điểm, chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước.
Mỗi quốc gia có một chiến lược phát triển kinh tế xã hội khác nhau trong từng thời kỳ và giai đoạn khác nhau. Một phần dẫn đến sự khác nhau này là do chế độ chính trị, tầm nhận thức của Nhà nước cũng như điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia đó. Dẫn đến các quan điểm về xóa đói giảm nghèo của mỗi quốc gia là khác nhau làm ảnh hưởng đến công tác xóa đói giảm nghèo của quốc gia đó.
III. NGUYÊN NHÂN XOÁ ĐÓI NGHÈO
1. Nguyên nhân đói nghèo của Việt nam.
Ở Việt Nam nguyên nhân chính gây ra đói nghèo có thể phân theo 3 nhóm:
- Nhóm nguyên nhân điều kiện tự nhiên: khí hậu khắc nghiệt, thiên tai, bão lụt, hạn hán, sâu bệnh, đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp, giao thông khó khăn đã và đang kìm hãm sản xuất, gây ra tình trạng đói nghèo cho cả một vùng, khu vực.
- Nhóm nguyên nhân chủ quan của người nghèo: thiếu kiến thức làm ăn, thiếu vốn, đông con, thiếu lao động, không có việc làm, mắc các tệ nạn xã hội, lười lao động, ốm đau, rủi ro...
- Nhóm các nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách: Thiếu hoặc không đồng bộ về chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu vực khó khăn, chính sách khuyến khích sản xuất, vốn tín dụng, hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông,lâm, ngư,chính sách trong giáo dục đào tạo, y tế, giải quyết đất đai, định canh định cư, kinh tế mới và nguồn lực đầu tư còn hạn chế.
Kết quả điều tra về xã hội học cho thấy:
- Thiếu vốn: 70-90% tổng số hộ được điều tra.
- Đông con: 50-60% tổng số hộ được điều tra.
- Rủi ro, ốm đau: 10-15% tổng số hộ được điều tra.
- Thiếu kinh nghiệm làm ăn: 40-50% tổng số hộ được điều tra.
- Neo đơn, thiếu lao động: 6-15% tổng số hộ được điều tra.
- Lười lao động, ăn chơi hoang phí: 5-6% tổng số hộ được điều tra.
- Mắc tệ nạn xã hội: 2-3% tổng số hộ được điều tra.
IV. TỔNG QUAN KINH NGHIỆM XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.
1. Bức tranh chung về nghèo đói trên thế giới.
Theo bản báo cáo được gửi cho Tổng thư ký LHQ Kofi Annan, hơn 500 triệu người có thể thoát khỏi cảnh đói nghèo, 250 triệu người sẽ không bị đói kéo dài và 30 triệu trẻ em có thể được cứu sống nếu các nước giàu tăng gấp đôi viện trợ phát triển của mình trong 10 năm tới.
Ông Kofi Annan nói: “Lãnh đạo của các nước phát triển sẽ gặp nhau tại New York vào tháng 9 tới để xem xét lại những kết quả đã đạt được trong việc thực hiện các mục tiêu đặt ra trong tuyên bố thiên niên kỷ. Tôi hy vọng tại cuộc họp này, các nhà lãnh đạo sẽ đạt được những quyết định quan trọng để chúng ta có thể cùng nhau xây dựng một thế giới an toàn hơn và tốt đẹp hơn”.
Cũng trong bản cáo này, 265 chuyên gia đã đưa ra những dự án dài hạn cũng như những biện pháp trước mắt như cung cấp màn chống muỗi hay lập ra các chương trình cung cấp bữa trưa miễn phí tại trường học nhằm đạt được mục tiêu thiên niên kỷ đặt ra tại cuộc họp của LHQ năm 2000. Trong đó có việc giảm đói nghèo trên toàn thế giới, chống lại căn bệnh AIDS và tạo điều kiện cho các em nhỏ được đến trường.
Theo ước tính của các chuyên gia của LHQ, trợ giúp phát triển phải đạt 195 tỷ USD vào năm 2015 thì cộng đồng quốc tế mới hy vọng đạt được mục tiêu thiên niên kỷ đặt ra năm 2000. Theo bản báo cáo, các nước giàu nên tăng viện trợ phát triển từ 0,25% GDP của mình năm 2003 thành 0,44% năm 2006 và 0,7 % vào năm 2015.
3. Những bài học kinh nghiệm rút ra trong công cuộc xoá đói giảm nghèo hiện nay.
Một thực tế cho thấy rằng hầu hết những người nghèo đều tập trung ở khu vực nông thôn. Bởi vì đây là khu vực hết sức khó khăn về mọi mặt như: Điện, nước sinh hoạt, đường, trạm y tế … ở các nước đang phát triển với nền kinh tế sản xuất là chủ yếu thì sự thành công của chương trình xoá đói giảm nghèo phụ thuộc vào chính sách của nhà nước đối với chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn của các quốc gia. Thực tế cho thấy rằng các con rồng châu Á như: Hàn Quốc, Singapo, Đài Loan, các nước Asean và Trung Quốc đều rất chú ý đến phát triển nông nghiệp và nông thôn. Xem nó không những là nhiệm vụ xây dựng nền móng cho quá trình CNH-HĐH, mà còn là sự đảm bảo cho phát triển bền vững của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên không phải nước nào cũng ngay từ đầu và trong suốt quá trình vật lộn để trở thành các con rồng đều thực hiện sự phát triển cân đối, hợp lý ở từng giai đoạn, từng thời kỳ giữa công nghiệp với nông nghiệp. Dưới đây là kết quả và bài học kinh nghiệm của một số nước trên thế giới.
3.1. Hàn quốc
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, chính phủ Hàn Quốc không chú ý đến việc phát triển nông nghiệp nông thôn mà đi vào tập trung phát triển ở các vùng đô thị, xây dựng các khu công nghiệp tập trung ở các thành phố lớn, thế nhưng 60% dân số Hàn Quốc sống ở khu vực nông thôn, cuộc sống nghèo đói, tuyệt đại đa số là tá điền, ruộng đất tập trung vào sở hữu của giai cấp địa chủ, nhân dân sống trong cảnh nghèo đói tột cùng. Từ đó gây ra làn sóng di dân tự do từ nông thôn vào thành thị để kiếm việc làm, chính phủ không thể kiểm soát nổi, gây tình trạng mất ổn định chính trị-xã hội. Để ổn định tình hình chính trị-xã hội, Chính phủ Hàn Quốc buộc phải xem xét lại các chính sách kinh tế-xã hội của mình, cuối cùng đã phải chú ý đến việc điều chỉnh các chính sách phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn và một chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn được ra đời gồm 4 nội dung cơ bản:
Mở rộng hệ thống tín dụng nông thôn bằng cách tăng số tiền cho hộ nông dân vay.
Nhà nước thu mua ngũ cốc của nông dân với giá cao
Thay lúa giống mới có năng suất cao
Khuyến khích xây dựng cộng đồng mới ở nông thôn bằng việc thành lập các HTX sản xuất và các đội ngũ lao động để sửa chữa đường xá, cầu cống và nâng cấp nhà ở.
Với những nội dung này, Chính phủ Hàn Quốc đã phần nào giúp nhân dân có việc làm, ổn định cuộc sống, giảm bớt tình trạng di dân các thành phố lớn để kiếm việc làm. Chính sách này đã được thể hiện thông qua kế hoạch 10 năm cải tiến cơ cấu nông thôn nhằm cải tiến cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, từng bước đưa nền kinh tế phát triển nhằm xóa đói giảm nghèo cho dân chúng ở khu vực nông thôn.
Tóm lại, Hàn Quốc đã trở thành một nước công nghiệp phát triển nhưng chính phủ vẫn coi trọng những chính sách có liên quan đến việc phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn nhằm xoá đói giảm nghèo cho dân chúng ở khu vực nông thôn, có như vậy mới xoá đói giảm nghèo cho nhân dân tạo thế ổn định và bền vững cho nền kinh tế.
3.2. Đài Loan.
Đài Loan là một trong những nước công nghiệp mới (NICs), nhưng là một nước thành công nhất về mô hình kết hợp chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp với phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn (mặc dù Đài Loan không có các điều kiện thuận lợi như một số nước trong khu vực). Đó chính là Chính phủ Đài Loan đã áp dụng thành công một số chính sách về phát triển kinh tế xã hội như:
- Đưa lại ruộng đất cho nông dân, tạo điều kiện hình thành các trang trại gia đình với quy mô nhỏ, chủ yếu đi vào sản xuất nông phẩm theo hướng sản xuất hàng hoá.
- Đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn, mở mang thêm những ngành sản xuất kinh doanh ngoài nông nghiệp cũng được phát triển nhanh chóng, số trang trại vừa sản xuất nông nghiệp vừa kinh doanh ngoài nông nghiệp chiếm 91% số trang trại sản xuất thuần nông chiếm 9%. Việc tăng sản lượng và tăng năng suất lao động trong nông nghiệp đến lượt nó lại tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp phát triển.
- Đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để phát triển nông thôn. Đài Loan rất coi trọng phát triển mạng lưới giao thông nông thôn cả về đường bộ, đường sắt và đường thuỷ.
Trong nhiều thập kỷ qua, Đài Loan coi trọng việc phát triển giao thông nông thôn đều khắp các miền, các vùng sâu vùng xa, công cuộc điện khí hoá nông thôn góp phần cải thiện điều kiện sản xuất, điều kiện sinh hoạt ở nông thôn. Chính quyền Đài Loan cho xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp ngay ở vùng nông thôn để thu hút những người lao động nhàn rỗi ở khu vực nông nghiệp, tăng thu nhập cho những người nông dân nghèo, góp phần cho họ ổn định cuộc sống. Đài Loan áp dụng chế độ giáo dục bắt buộc đối với những người trong độ tuổi, do đó trình độ học vấn của nhân dân nông thôn được nâng lên đáng kể, cùng trình độ dân trí được nâng lên và điều kiện sống được cải thiện, tỷ lệ dân số đã giảm từ 3.2%/năm (1950) xuống còn 1.5%/năm (1995). Hệ thống y tế, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân cũng được quan tâm đầu tư thích đáng
Ngoài Hàn Quốc, Đài Loan còn 1 số nước Asean cũng có những chương trình phát triển kinh tế xã hội bằng con đường kết hợp giữa những ngành công nghiệp mũi nhọn với việc phát triển kinh tế nông thôn vơi mục đích xoá đói giảm nghèo trong dân chúng nông thôn. Điều đặc trưng quan trọng._. của các nước Asean là ở chỗ những nước này đều có nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, bước vào công nghiệp hoá có nghĩa là vào lúc khởi đầu của quá trình công nghiệp hóa. Tất cả các nước Asean (Trừ Singapor) đều phải dựa vào sản xuất nông nghiệp, lấy phát triển nông nghiệp là một trong những nguồn vốn cho phát triển công nghiệp. Điển hình là những nước như Thái Lan, Indonexia, Philipin và Malaxia. Tất cả những nước này phần lớn dân cư sống ở khu vực nông thôn, đời sống kinh tế nghèo nàn lạc hậu, thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy mà chính phủ các nước này trong quá trình hoạch định các chính sách kinh tế-xã hội họ đều rất chú trọng đến các chính sách nhằm phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, giành cho nông nghiệp nông thôn những ưu tiên cần thiết về vốn đầu tư để tiến hành cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp. Tuy nhiên khi bước vào giai đoạn 2 của quá trình công nghiệp hoá, tất cả các nước Asean đều nhận thấy rằng không thể đi lên bằng con đường nông nghiệp mà phải đầu tư cho các ngành công nghiệp, dịch vụ. Chính vì lẽ đó mà các chính sách về phát triển nông nghiệp nông thôn cũng như các chương trình phát triển khác như chương trình xoá đói giảm nghèo không được chú trọng như ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá. Do vậy, khoảng cách về thu nhập của những người giàu với những người nghèo là rất lớn. Sự phân tầng xã hội là rõ rệt, gây mất ổn định về tình hình chính trị xã hội, từ đó làm mất ổn định trong phát triển kinh tế.
Sự phồn vinh của Băng Cốc, Manila được xây dựng trên nghèo khổ của các vùng nông thôn như Đông Bắc Thái lan, miền trung đảo Ludon. Cho đến nay sự bất bình đẳng về thu nhập ở Thái Lan vẫn tiếp tục gia tăng, các thành phố lớn, các khu công nghiệp vẫn có tỷ lệ tăng trưởng cao, năm 1981 Băng Cốc đóng góp cho GDP ở các vùng khác lại giảm xuống như ở miền Bắc và miền Nam Thái Lan phần đáng góp đã giảm xuống 14.7% năm 1981 xuống còn 10% năm 1989
Ở Malaixia, Chính phủ đã thực hiện chính sách phân phối lại trong nền kinh tế quốc dân, nhưng việc phân phối lại thì lợi ích vẫn chủ yếu tập trung cho tầng lớp giàu có, những người nghèo khổ đặc biệt là nông dân hầu như không được chia sẻ lợi ích đó. Khái niệm công bằng ở đây là sự công bằng giữa tầng lớp giàu có.
Vào năm 1985 ở Malayxia có tới 82.000 hộ gia đình ở khu vực nông thôn thuộc diện nghèo đói.
Tình trạng nghèo khổ ở Philipin còn tồi tệ hơn, năm 1988 tỷ lệ nghèo đói ở Philippin lên tới 49,5% dân số trong 3,1 triệu hộ gia đình đói nghèo thì tới 2.2 triệu gia đình (72,8%) sống ở khu vực nông thôn, đời sống chủ yếu dựa vào nghề nông, còn 843.000 hộ (27.2%) sống ở khu vực phi nông nghiệp. Điều này cho thấy đa số những người nghèo Philippin sống tập trung ở khu vực nông thôn.
Tình trạng nghèo khổ ở các nước ASEAN vẫn tiếp tục gia tăng, cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này, điều này cho thấy do sự tăng trưởng kinh tế không theo kịp sự tăng trưởng dân số, mặt khác là do quá trình chuyển dịch cơ cấu sang những ngành sản xuất công nghệ cao của một số nước ASEAN hiện nay làm cho nạn thất nghiệp ngày càng trầm trọng hơn.Để giải quyết tình trạng đói nghèo, chính phủ các nước ASEAN có rất nhiều cố gắng.
Chính phủ Inđônêxia trong kế hoạch 5 năm lần năm đã tăng chỉ tiêu cho các hoạt động tạo ra những việc làm mới cho những người chưa có việc làm, nhằm tạo thu nhập ổn định cho người lao động, góp phần tích cực cho công cuộc xoá đói giảm nghèo cho nhân dân.
Ở Thái Lan, một trong những biện pháp chống nghèo khổ mà nước này đã áp dụng là phân bố cơ sở sản xuất công nghiệp xây dựng mới về khu vực nông thôn, nơi có sẵn tài nguyên thiên nhiên nhằm thu hút số lao động dôi dư ở khu vực nông nghiệp( để khắc phục tình trạng dân lao động di cư vào thành phố kiếm việc làm) làm tăng thu nhập cho người dân và gia đình họ. Biện pháp này còn nhằm mục đích đô thị hoá nông thôn, đưa những vùng nông thôn hẻo lánh xa xôi vào dòng phát triển chung của đất nước.
Những nỗ lực trong các giải pháp chống nghèo khổ của các nước ASEAN đã đem lại những kết quả đáng kể, song để khắc phục tình trạng đói nghèo có tính lâu dài bền vững thì chính phủ các nước này phải duy trì và đẩy mạnh nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Khi nền kinh tế phát triển tạo nên cơ sở vật chất dể phân phối lại thu nhập qua sự điều tiết của chính phủ và khi nền kinh tế phát triển thì tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế được nâng cao, từ đó chính phủ đầu tư cho việc xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng và giải quyết các vấn đề xã hội, nhất là chương trình xoá đói giảm nghèo một cách hiệu quả nhất.
3.3 Trung Quốc.
Ngay từ khi Đại Hội Đảng XII của Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1984, chính phủ Trung Quốc đã thực hiện cải cách trên nhiều lĩnh vực, nhung cái chính là cải cách cơ cấu nông nghiệp nông thôn.Mục đích của nó là làm thay đổi các quan hệ chính trị, kinh tế ở nông thôn, giảm nhẹ gánh nặng về tài chính đã đè quá nặng lên những người nghèo khổ ở nông thôn trong nhiều năm qua, phục hồi ngành sản xuất nông nghiệp.
Năm 1985 Đặng Tiểu Bình đã nói:" Sự nghiệp của chúng ta sẽ không có ý nghĩa gì nhiều nếu không có sự ổn định ở nông thôn..". Sau khi áp dụng một loạt các chính sách cải cách kinh tế ở khu vực nông thôn, Trung Quốc đã thu được những thành tựu đáng kể, đã tạo ra những thay đổi quan trọng trong thể chế chính trị , thay đổi về căn bản về cơ cấu kinh tế nông thôn, chuyển đổi phương thức quản lý, thay đổi căn bản phương thức phân phối, phân phối theo lao động đóng vai trò chính, và Trung Quốc đã thực hiện thành công việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước , thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Trong những năm Trung Quốc thực hiện chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường thì sự phân hoá giàu nghèo đã tăng lên rõ rệt trong xã hội .Do chính sách mở cửa nền kinh tế , các thành phố lớn thì tập trung các nhà máy sản xuất công nghiệp , tuy có phát triển một số nhà máy công nghiệp ở một số vùng nông thôn, song vùng giàu có thì ngày càng giàu có, vùng nghèo đói thì vẫn nghèo đói nhất là vùng sâu,vùng xa. Để khắc phục tình trạng nghèo khổ cho khu vực nông thôn chính phủ đã đưa ra một loạt các giải pháp cơ bản nhằm xoá đói giảm nghèo cho nhân dân, trong đó có các giải pháp về tập trung phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, xây dựng các vùng định canh, định cư, khu dân cư mới, chính sách này đã đem lại những thành công đáng kể cho nền kinh tế -xã hội Trung Quốc trong những năm qua.
CHƯƠNG II
ĐÁNH GIÁ DỰ ÁN GIẢM NGHÈO TỈNH SƠN LA GIAI ĐOẠN 2002-2007
I. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH SƠN LA.
1. Đặc điểm về vị trí địa lý và điều kiện Tự nhiên-Xã hội.
1.1 Vị trí địa lý.
Sơn La là một tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam, có diện tích tự nhiên 14.125 km2 chiếm 4,27% tổng diện tích cả nước, đứng thứ 3 trong số 64 tỉnh thành phố trong cả nước. Toạ độ địa lý: 20039’ - 22002’ vĩ độ Bắc và 103011’ - 105002’ kinh độ Đông. Phía bắc giáp các tỉnh Yên Bái, Lai Châu; phía đông giáp các tỉnh Phú Thọ, Hoà Bình; phía tây giáp với tỉnh Điện Biên; phía nam giáp với tỉnh Thanh Hoá và nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào; có chung đường biên giới Việt - Lào dài 250 km, có chiều dài giáp ranh với các tỉnh khác là 628 km. Sơn La có 11 đơn vị hành chính (1 thị xã, 10 huyện) với 12 dân tộc.
1.2. Điều kiện tự nhiên.
Sơn La cách Hà Nội 320km về phía Tây bắc, nằm trong khư vực miền núi khí hậu gió mùa nhiệt đới với những đặc điểm: nhiệt độ thấp, lương mưa thấp và nhiều sương muối vào mùa đông nhưng vào mùa hè lại có lượng mưa lớn và nhiệt độ cao. Ảnh hưởng của bão mùa hè và gió mùa mùa đông hạn chế do nằm sâu trong nội địa và đặc điểm địa hình. Lượng mưa trung bình 1.200mm/năm, nhiệt độ trung bình 20-22oC. (Hà Nội 24oC, Huế: 25 oC, TP Hồ Chí Minh: 27 oC).
Địa hình của Sơn La chủ yếu là đồi núi với độ cao trung bình hơn 500m. Hai bình nguyên là Mộc châu và Mai Sơn. Dân cư tập trung tại các thung lũng nhỏ ven suối và sông. Các sườn dốc trên các dãy núi thấp (700-800m), gần các thung lũng thường được dùng làm đất canh tác.
Tổng diện tích của Sơn La là 1.405.500 ha. Khoảng 11,3 % (chủ yếu là đất đồi) diện tích tự nhiên là đất nông nghiệp trồng lúa, ngô và sắn. Bảng dưới đây trình bày cơ cấu sử dụng đất của tỉnh:
Đơn vị tính: ha
Tổng diện tích đất
Đất Nông nghiệp
Đất có rừng
Đ ất Forest land without forest
Đất khác
1.405.500
156.200
363.024
856.227
30.049
100%
11,1 %
25,7 %
60,9
2,9%
Nguồn: Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội Việt Nam năm 2002
Độ che phủ rừng của Sơn La là 25,7 % trong đó có 363.027 ha là rừng tự nhiên và 39.275ha rừng trồng (năm 1999 độ che phủ rừng là 21.6% với 239.870ha rừng tự nhiên và 31.130ha rừng trồng). Phần lớn diện tích đất, khoảng 779,119 ha tương đương 55,3%, vẫn thuộc diện đất chưa sử dụng hay đất lâm nghiệp chưa có rừng, mặc dù đã có biến chuyển lớn so với con số 917,115 ha (65.3%) đất chưa sử dụng năm 1999. Đây là diện tích đất có cây bụi, cây phân tán hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng và có tiềm năng lớn về tái sinh tự nhiên.
1.3. Tiềm năng.
Điều kiện thiên nhiên ưu đãi đã tạo cho Sơn La tiềm năng để phát triển các sản phẩm nông - lâm sản, hàng hoá có lợi thế với quy mô lớn mà ít nơi có được như chè đặc sản chất lượng cao trên cao nguyên Mộc Châu, Nà Sản. Là tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, đặc biệt Sơn La đã được các nhà khoa học đánh giá là một trong những địa bàn lý tưởng để phát triển bò sữa, bò thịt chất lượng cao. Bên cạnh đó tiềm năng khí hậu, đất đai còn cho phép tỉnh phát triển các loại giống cây ăn quả ôn đới, nhiệt đới, á nhiệt đới với quy mô trên 30.000 ha.
Sơn La có lợi thế rất lớn về tiềm năng thuỷ điện, đặc biệt công trình thủy điện Sơn La lớn nhất cả nước với tổng công suất 2.400MW được khởi công xây dựng. Đây chính là cơ hội tốt nhất để thúc đẩy nền kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển nhanh chóng, tạo ra sự đột biến về tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp kéo theo sự phát triển của kết cấu hạ tầng và dịch vụ. Khi đó, Sơn La có nguồn điện lưới quốc gia đi qua là điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành kinh tế.
Đất đai chưa khai thác còn nhiều, độ phì tự nhiên khá, khả năng tái sinh thảm thực vật lớn. Nếu coi rừng và tỷ lệ gia tăng độ che phủ của rừng, cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả là sản phẩm hàng hoá thì giá trị sử dụng của loại hàng hoá này được thể hiện ở hiệu quả sử dụng thủy điện sông Đà, điều hoà nước cho Đồng bằng sông Hồng và được trả lại cho Sơn La một phần, qua đấy có khoản đóng góp vào ngân sách nhà nước; mặt khác nếu dựa trên giá trị thực có của rừng, cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày, thì rừng và cây dài ngày là lợi thế vượt trội để chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với đặc thù tự nhiên và con người của Sơn La.
Cao nguyên Mộc Châu ở độ cao 1.050m, đất tốt và tương đối bằng phẳng, khí hậu ôn hoà phù hợp với phát triển tập đoàn cây trồng, vật nuôi có nguồn gốc ôn đới như chè, bò sữa cao sản, cây ăn quả… Cao nguyên này nằm trên trục QL 6, gần cảng sông Vạn Yên và ở trung độ giữa Hà Nội - Sơn La - Điện Biên, chỉ cách Hà Nội 200 km. Tương lai sẽ hình thành một thành phố cao nguyên sản xuất VLXD, du lịch nghỉ mát mùa hè, trung chuyển hàng hoá cho cả vùng Tây Bắc và nước bạn Lào.
Nguồn tài nguyên khoáng sản tuy trữ lượng nhỏ, phân bố rải rác song rất phong phú, đa dạng, chưa khai thác được bao nhiêu, có triển vọng phát triển công nghiệp sản xuất VLXD, đáp ứng về nhu cầu xi măng, gạch, ngói cho xây dựng cơ bản trong tỉnh. Khai thác than, bột sắn, bột tan, đồng, chì, vàng… cũng là một lợi thế của tỉnh. Trong thời kỳ này nổi lên khai thác than ở Suối Bàng, niken, đồng ở bản Phúc và đá vôi, sét làm xi măng, VKXD…
Điều kiện phát triển du lịch thuận lơi do có nhiều danh lam thắng cảnh, hang động kỳ thú, các mỏ suối nước khoáng nóng, vùng hồ sông Đà, các di tích lịch sử cách mạng như bảo tàng nhà tù Sơn La, cây đào Tô Hiệu, văn bia Lê Thánh Tông… có thể kết hợp với các tỉnh bạn để phát triển du lịch tổng hợp, nhất là vùng cao nguyên Mộc Châu có khí hậu mát mẻ giống như Đà Lạt.
Nhân dân các dân tộc Sơn La có truyền thống đoàn kết, yêu nước, cách mạng, tuyệt đối trung thành, kiên trì đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Tỉnh luôn đảm bảo giữ vững sự ổn định chính trị, trật tự an ninh, quốc phòng.
Những cơ hội để tỉnh Sơn La có thể phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao là nắm bắt và thực hiện tốt các chương trình trồng 5 triệu ha rừng và các chương trình, dự án, chính sách khác của Đảng và Nhà nước đã ban hành, tích cực chuẩn bị cho công trình xây dựng thuỷ điện Sơn La.
Tình hình phát triển Kinh tế-Xã hội của Tỉnh.
Sơn La có 10 huyện với 201 xã, phường và số dân 881.400 người. Mật độ dân số là khoảng 64người/km2. Mức tăng dân số hàng năm là 2,9% (so với tỷ lệ tăng dân số trung bình cả nước là 1,7 %). Ở Sơn La có 12 dân tộc anh em sinh sống, đa số là người Thái (55,6%), Kinh (17,29 %), H’mong (14,4%), và Mường (8,3 %). Các dân tộc phân bố khác nhau theo huyện và đặc điểm địa hình. Người Kinh chủ yếu sinh sống tại Thị xã và các huyện, các trung tâm kinh tế như Mộc Châu và Mai Sơn. Người H’mong sống ở vùng cao trong khi người Thái sống ở các vùng tương đối thấp.
Sản phẩm nông nghiệp chính là ngô, đậu tương, chè, hoa quả, mía, sữa bò, thịt trâu bò.
Công nghiệp chủ yếu là sữa và xi-măng.
2.1. Sản xuất nông, lâm nghiệp
2.1.1. Nông nghiệp
2.1.1.1. Trồng trọt
Thu hoạch cây trồng: Đến ngày 10/11/2007 toàn tỉnh đã thu hoạch xong 17.712 ha lúa nương với sản lượng 20.070 tấn; thu hoạch lúa mùa ruộng 9.403 ha đạt 57,9% so với diện tích cấy; thu hoạch 4.013 ha ngô hè thu bằng 46,4% diện tích gieo trồng, sản lượng 10.656 tấn; thu hoạch đậu tương 5.183 ha, sản lượng 6.331 tấn; thu hoạch mía 47 ha, sản lượng 647 tấn; thu hoạch cà phê 10.995 tấn. Nhìn chung tiến độ thu hoạch các loại cây trồng: lúa mùa ruộng, ngô hè thu, đậu tương so với cùng kỳ năm trước chậm hơn (diện tích lúa mùa ruộng đã thu hoạch bằng 86,12%; ngô hè thu bằng 80,26%; đậu tương bằng 93,76%). Dự ước đến hết tháng 11/2007 toàn tỉnh thu hoạch xong lúa mùa ruộng, 4.618 ha ngô hè thu, 5.201 ha đậu tương.
Chuẩn bị đất và gieo trồng cây vụ đông: Theo báo cáo của các huyện, thị đến ngày 10/11 toàn tỉnh đã chuẩn bị được 1.011,3 ha đất trồng rau; 17,2 ha đất trồng khoai tây; 400 ha trồng ngô đông trong đó đã trồng 879,5 ha rau các loại; 10,5 ha khoai tây; 400 ha ngô; 100 ha đậu tương và 250 ha cải lấy hạt ở Yên châu. So với cùng kỳ năm trước tiến độ làm đất trồng khoai tây và rau vụ đông năm nay nhanh hơn. Dự ước đến 30/11 toàn tỉnh trồng được 1.153 ha rau các loại; 21,2 ha khoai tây và 300 ha cải lấy hạt.
2.1.1.2 Chăn nuôi
Đàn gia súc gia cầm của tỉnh tiếp tục phát triển. Trong tháng bệnh tụ huyết trùng rải rác phát sinh ở đàn trâu, bò, lợn tại các huyện Quỳnh nhai, Phù yên, Sông mã, Mai sơn, Thị xã, Bắc yên làm 74 con trâu, bò và 46 con lợn bị mắc bệnh trong đó có 32 con trâu, bò, 11 con lợn bị chết. Ngành thú y đã phối hợp chặt chẽ với các địa phương triển khai tiêm phòng chống dịch cho gia súc trên địa bàn toàn tỉnh, đã tiêm phòng nhiệt thán trâu, bò được 737 liều; tụ huyết trùng trâu, bò được 59.534 liều; lở mồm long móng trâu, bò, lợn được 57.386 liều; THT lợn được 3.145 liều; dịch tả lợn được 2.489 liều; cúm gia cầm 97.513 liều. Công tác kiểm soát giết mổ và kiểm dịch gia súc, gia cầm được thực hiện chặt chẽ trên địa bàn toàn tỉnh.
2.1.2. Lâm nghiệp
Trong tháng không có vụ cháy rừng nào xảy ra, nhưng vẫn có 145 vụ vi phạm lâm luật, trong đó lấn chiếm đất rừng làm nương rẫy 95 vụ với diện tích rừng bị chặt phá là 11,04 ha; khai thác lâm sản trái phép 7 vụ, lượng gỗ vi phạm 5,9 m3 ; buôn bán vận chuyển lâm sản trái phép 35 vụ, lượng gỗ vi phạm là 64,57 m3 ; tàng trữ chế biến lâm sản trái phép 8 vụ với lượng gỗ vi phạm là 4,41m3.
2.2. Sản xuất công nghiệp
a. Giá trị sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp (giá cố định 1994) tháng 11 năm 2007 ước thực hiện 45.775 triệu đồng trong đó: khu vực doanh nghiệp nhà nước 29.698 triệu đồng chiếm 64,88%; khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh 3.873 triệu đồng chiếm 8,46%; cơ sở cá thể 12.204 triệu đồng chiếm 26,66%. Ngành công nghiệp khai thác mỏ 3.090 triệu đồng chiếm 6,75%; công nghiệp chế biến 39.985 triệu đồng chiếm 87,35%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước 2.700 triệu đồng chiếm 5,90%.
So với tháng trước giá trị sản xuất công nghiệp tăng 5,6% trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 3,4%; khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 5%; cơ sở cá thể tăng 11,5%. Ngành công nghiệp khai thác mỏ tăng 6,8%; công nghiệp chế biến tăng 5,8%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước tăng 0,8%.
So với cùng kỳ năm trước giá trị sản xuất công nghiệp tháng 11/ 2007 tăng 36,2% trong đó: khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 46,7%, khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 3,3%; cơ sở cá thể tăng 30,4%. Ngành công nghiệp khai thác mỏ giảm 0,3%, công nghiệp chế biến tăng 41,7%, công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước tăng 18,3%.
b. Sản phẩm chủ yếu
Có 11/13 sản phẩm chủ yếu sản xuất ra tăng so với tháng trước: Đá dăm các loại tăng 3,1%; đá hộc tăng 5,4%; sữa tươi tiệt trùng tăng 0,2%; trà xanh nguyên chất tăng 6,9%; các loại chè khác tăng 67,5%; trang in tăng 22,5%; gạch xây tăng 5,3%; xi măng tăng 2,7%; bê tông trộn sẵn tăng 3,7%; điện thương phẩm tăng 0,7%; nước máy thương phẩm tăng 4%. 1 sản phẩm có khối lượng sản xuất giảm là bia hơi giảm 16,7%.
So với cùng kỳ năm trước có 10/13 sản phẩm chủ yếu sản xuất ra tăng đó là: Đá dăm các loại tăng 0,2%; sữa tươi tiệt trùng tăng 114,1%; trà xanh nguyên chất tăng 22,8%; các loại chè khác tăng 54%; trang in tăng 19,9%; gạch xây tăng 9%; xi măng tăng 7,4%; bê tông trộn sẵn tăng 218,2%; điện thương phẩm tăng 26,1%; nước máy thương phẩm tăng 2,9%. Có 2 sản phẩm chủ yếu sản xuất giảm là đá hộc giảm 42,2% và bia hơi giảm 5,4%.
Nhìn chung các sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ thuận lợi. Riêng xi măng tồn kho 1.898 tấn, gạch tuy nel còn tồn 1.576 ngàn viên.
1.3.1.3. Vốn đầu tư phát triển
Dự ước tháng 11 năm 2007 tổng mức vốn đầu tư phát triển do địa phương quản lý thực hiện là 134.102 triệu đồng. Trong đó: vốn ngân sách nhà nước thực hiện 101.602 triệu đồng đạt 10,54% kế hoạch (vốn ngân sách trung ương thực hiện 100.102 triệu đồng đạt 10,60% KH, vốn ngân sách địa phương thực hiện 1.500 triệu đồng đạt 7,89% KH). Vốn vay thực hiện 30.000 triệu đồng đạt 11,92% KH, vốn tự có của các doanh nghiệp nhà nước 2.500 triệu đồng.
2.3 Thương mại, giá cả và dịch vụ
a. Tổng mức bán lẻ hàng hóa
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tháng 11/ 2007 ước đạt 334,94 tỷ đồng. Trong đó: kinh tế nhà nước ước đạt 32,32 tỷ đồng chiếm 9,65%; kinh tế tập thể 0,28 tỷ đồng chiếm 0,09%; kinh tế cá thể 244,08 tỷ đồng chiếm 72,88% và kinh tế tư nhân 58,26 tỷ đồng chiếm 17,38%. So với tháng trước tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tháng 11 tăng 2,74%, trong đó kinh tế nhà nước giảm 3%, kinh tế tập thể tăng 7,69%, kinh tế cá thể tăng 3,88% và kinh tế tư nhân tăng 1,37%. So với cùng tháng năm trước tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tháng 11/2007 tăng 31,84%, trong đó kinh tế nhà nước tăng 21,65%, kinh tế tập thể tăng 86,67%, kinh tế cá thể tăng 35,44% và kinh tế tư nhân tăng 25,83%.
b. Giá tiêu dùng
Giá cả thị trường tháng 11 tiếp tục tăng, trong đó tăng cao nhất là nhóm hàng lương thực, thực phẩm. Chỉ số giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng (CPI) chung tháng 11/ 2007 là 101,16%, tăng 1,16% so với tháng trước. 5/10 nhóm hàng có chỉ số giá tăng là: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,14%, trong đó lương thực tăng 3,88%, thực phẩm tăng 1,23%; may mặc mũ nón giày dép tăng 0,28%; nhà ở vật liệu xây dựng tăng 0,99%; thuốc và dụng cụ y tế tăng 1,13%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,46%. 5 nhóm hàng có mức giá như tháng trước là: đồ uống và thuốc lá; thiết bị và đồ dùng gia đình; giao thông, bưu chính viễn thông; giáo dục; văn hóa, giải trí và du lịch.
Giá vàng tháng này tiếp tục tăng cao (+ 8,61%); giá USD giảm 0,29% so với tháng trước.
c. Kim ngạch xuất, nhập khẩu
Kim ngạch xuất khẩu tháng 11 ước đạt 528,3 ngàn USD tăng 13,4% so với tháng trước và tăng 6,29 lần so với cùng kỳ năm trước. Nhập khẩu ước đạt 14 ngàn USD bằng 2,99% so với tháng trước và tăng 16,6% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch nhập khẩu đều là nhập khẩu tiểu ngạch với nước bạn Lào.
d. Giao thông vận tải
Giao thông vận tải trên các tuyến cơ bản đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất, xây dựng, đời sống và đi lại của các tổ chức và nhân dân. Khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng 11 ước đạt 182,3 ngàn tấn; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 20.273,7 ngàn tấn.km. So với tháng trước khối lượng hàng hóa vận chuyển tăng 1,25%, khối lượng hàng hóa luân chuyển tăng 1,33%. So với cùng kỳ năm trước khối lượng vận chuyển hàng hóa tăng 12,14%, luân chuyển tăng 7,55%.
Khối lượng hành khách vận chuyển dự ước đạt 189,6 ngàn lượt người; khối lượng hành khách luân chuyển đạt 14.879,5 ngàn lượt người.km. So với tháng trước khối lượng hành khách vận chuyển tăng 0,8%, khối lượng hành khách luân chuyển tăng 1,1%. So với cùng kỳ năm trước khối lượng hành khách vận chuyển tăng 4%, khối lượng hành khách luân chuyển tăng 2,8%.
2.5. Một số vấn đề xã hội
a. Đời sống dân cư
Khu vực nông thôn đã thu hoạch ngô xong và đang thu hoạch lúa mùa, do được mùa ngô và lúa, đời sống khu vực nông thôn ổn định, đời sống dân cư khu vực thành thị bị ảnh hưởng do giá cả tăng nhưng cơ bản ổn định, không có biến động lớn. Các địa phương bị ảnh hưởng bão số 5 đã cơ bản được khắc phục.
b. Văn hóa thông tin thể dục thể thao
Tiếp tục tổ chức tốt công tác tuyên truyền về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Tập trung tuyên truyền sâu rộng cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ”. Tuyên truyền về phòng chống ma túy, an toàn giao thông, di dân tái định cư thủy điện Sơn la và các ngày lễ lớn trong tháng 11 (ngày thành lập Mặt trận tổ quốc Việt nam, ngày Nhà giáo Việt nam, kỷ niệm lần thứ 55 ngày giải phóng Sơn la), chuẩn bị tham dự ngày hội văn hóa thể thao dân tộc Mường tại tỉnh Hòa bình, chuẩn bị tốt mọi điều kiện tổ chức thành công giải đua thuyền toàn tỉnh tại huyện Phù yên. Tiếp tục tuyển chọn và huấn luyện các vận động viên tham gia thi đấu các giải khu vực và toàn quốc theo kế hoạch.
c. Y tế, giáo dục
- Y tế
Tiếp tục chỉ đạo chặt chẽ công tác phòng chống dịch bệnh thu - đông, tăng cường giám sát phát hiện phòng chống, khống chế các bệnh dịch, đặc biệt là viêm đường hô hấp do vi rút (SARS) dịch cúm A (H5N1), bệnh tiêu chảy cấp không để phát sinh và lan rộng. Đến 14/11/2007 toàn tỉnh không có bệnh xảy ra thành dịch. Chỉ đạo các cơ sở y tế thực hiện tốt công tác khám chữa bệnh, đặc biệt là công tác khám chữa bệnh cho người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi.
- Giáo dục
Đầu tháng 11/2007 đã tuyển dụng được 182 giáo viên trung học phổ thông bổ sung cho các trường trong tỉnh. Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ học kỳ I năm học 2007- 2008 theo chỉ đạo của Bộ giáo dục và đào tạo, thực hiện cuộc vận động
“ Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong ngành giáo dục ”. Tiến hành thống kê về số học sinh “ Ngồi nhầm lớp ” ở các cấp học, triển khai các hoạt động về phòng chống ma túy, an toàn giao thông và các tệ nạn xã hội trong trường học.
d. An toàn giao thông
Các cơ quan chức năng: Thanh tra giao thông, Cảnh sát giao thông, Ban an toàn giao thông phối kết hợp tổ chức triển khai thực hiện xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực TTATGT đường bộ theo Nghị quyết 32 của Chính phủ, tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát, chấn chỉnh và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm luật giao thông, đảm bảo an toàn giao thông trên các tuyến đường bộ và đường sông; tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân tham gia giữ gìn TTATGT, tăng cường công tác kiểm định các phương tiện tham gia giao thông đảm bảo đủ tiêu chuẩn kỹ thuật mới cho hoạt động.
Tuy vậy trong tháng 10/2007 trên địa bàn toàn tỉnh vẫn xảy ra 12 vụ tai nạn làm 15 người chết và 12 người bị thương./.
II. THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO CỦA TỈNH SƠN LA.
1. Thực trạng đói nghèo.
Tổng số hộ vùng dự án năm 2001 của Sơn La là 27.168 hộ, trong đó số hộ nghèo (theo tiêu chí cũ) là 7.983 hộ, chiếm tỷ lệ 29.38%, trong khi đó toàn tỉnh tỷ lệ nghèo là 29.4%.
Năm 2005 bằng nhiều chương trình, giải pháp Sơn La đã giảm tỷ lệ nghèo xuống còn 18%, trong đó có phần đóng góp không nhỏ của Dự án giảm nghèo, như Huyện Mai Sơn các xã dự án đã giảm tỷ lệ nghèo từ 25.7% năm 2001 xuống 12.7% năm 2005; Huyện Bắc Yên giảm từ 25.51% năm 2001 xuống 18.51% năm 2005
Tỷ lệ nghèo theo các tiêu chí mới toàn tỉnh là 37.93% trong khi đó vùng dự án là 35.37% điều này cho thấy còn nhiều việc phải làm để cải thiện cuộc sống cho người dân vùng dự án để giảm tỷ lệ nghèo của vùng này xuống, giảm khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng trong tỉnh.
2. Nguyên nhân đói nghèo.
* Nguyên nhân của các hộ nghèo đói
Thứ nhất, do nguồn lực bị hạn chế. Thiếu nguồn lực nên người nghèo bị rơi vào vòng luẩn quẩn nghèo đói không thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực làm cản trở họ thoát nghèo, các hộ nghèo có ít đất, thiếu khả năng tiếp cận nguồn tín dụng do không có tài sản thế chấp, sử dụng sai mục đích. Nguồn thu nhập bấp bênh, tích luỹ kém nên khó chống đỡ với mọi biến cố xảy ra.
Thứ hai, do trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định: người nghèo trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt nên mức thu nhập thấp, không có khả năng để nâng cao trình độ. Từ đó ảnh hưởng đến các vấn đề giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái, …
Do trình độ thấp nên người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ sản xuất đã làm tăng chi phí, giảm thu nhập trên một đơn vị sản phẩm…
Thứ ba, do bệnh tật sức khoẻ yếu kém và bất bình đẳng giới: bệnh tật ảnh hưởng đến thu nhập và chi tiêu của người nghèo, hộ mất đi thu nhập và tăng thêm chi phí cho y tế do đó họ phải vay mượn dẫn đến khó có thể thoát nghèo. Bất bình đẳng làm sâu sắc hơn tình trạng nghèo đói, phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận với khoa học, kỹ thuật công nghệ mới, họ phải gánh nặng việc gia đình, thu nhập thấp hơn nam giới, tỷ lệ trẻ em tử vong do bà mẹ không hiểu biết về sinh sản sức khoẻ.
Thứ tư, do các nguyên nhân về nhân khẩu, quy mô hộ gia đình: đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của đói nghèo.
Thứ năm, do những tác động của đổi mới chính sách: tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong thời gian qua là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn tới mức giảm nghèo.
Tóm lại: Đói nghèo do nhiều nguyên nhân gây nên, có cả chủ quan và khách quan. Để nhận biết một cách đầy đủ chúng ta có thế chia thành 3 nhóm nguyên nhân:
Nhóm 1: Gồm những nguyên nhân chủ quan thuộc về bản thân người lao động.
Kém hiểu biết về cách thức làm ăn hộ sản xuất lạc hậu.
Thiếu hoặc không có vốn để sản xuất.
Đông con, ít lao động.
Rủi ro, ốm đau, bệnh tật.
Thiếu tư liệu sản xuất cần thiết.
Thiếu việc làm.
Ăn tiêu không có kế hoạch, lười biếng, mắc tệ nạn xã hội.
Nhóm 2: Thuộc về điều kiện tự nhiên.
Đất đai dùng cho thâm canh cây lúa, diện tích BQ đầu người thấp.
Đất đai cằn cỗi, chưa chủ động hoàn toàn về nước.
- Thời tiết khí hậu khắc nghiệt gây khó khăn cho sản xuất, cụ thể như hạn hán, bão lụt thường xuyên xảy ra kèm theo gió Lào, mưa phùn kéo dài,…
- Xa trung tâm kinh tế của tỉnh, giao thông đi lại khó khăn cách trở.
Nhóm 3: Gồm những yếu tố xã hội tác động.
- Hậu quả của chiến tranh để lại gây ảnh hưởng đến sản xuất phát triển kinh tế.
- Nhà nước chưa có biện pháp đầu tư đúng mức để xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng cần thiết phục vụ sản xuất trong khi đó địa phương không có đủ khả năng để tự làm như cầu đường giao thông.
- Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội chưa có biện pháp hữu hiệu để chuyển những thông tin cần thiết đến tận người dân, cụ thể như: các biện pháp kỹ thuật sản xuất, chăn nuôi, cách thức làm ăn, mở rộng ngành nghề mới, các chủ trương chính sách nhất là chính sách kinh tế…
III. NỘI DUNG CỦA DỰ ÁN GIẢM NGHÈO TỈNH SƠN LA GIAI ĐOẠN 2002-2007
1. Giới thiệu Dự án giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc.
Dự án giảm nghèo Sơn La nằm trong tổng thể dự án giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc do WB tài trợ.
1.1 Tên dự án: “Dự án Giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc”
1.2 Mục tiêu dự án:
Tăng cường cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho người dân vùng dự án nâng cao khả năng tiếp cận thị trường, các dịch vụ xã hội, đặc biệt là giáo dục, y tế.
Xây dựng các mô hình nông, lâm, ngư nghiệp, công nghệ sau thu hoạch, áp dụng tiến bộ kỹ thuật tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, tạo nguồn thu nhập trực tiếp cho người dân.
Nâng cao năng lực cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp huyện, xã, thôn, bản.
1.3. Phạm vi và quy mô dự án:
Thực hiện trên địa bàn 368 xã, chủ yếu là các xã đặc biệt khó khăn thuộc 44 huyện của 6 tỉnh: Hoà Bình, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ và Bắc Giang.
Nguyên tắc lựa chọn các tỉnh tham gia dự án: thực hiện theo văn bản số 942/CPQHQT ngày 4 tháng 9 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ.
1.4. Thời gian thực hiện dự án: 5 - 6 năm, bắt đầu từ năm 2001.
1.5. Cơ quan quản lý chung dự án: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
1.6. Cơ quan thực hiện đầu tư: UBND các tỉnh Hoà Bình, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái,
Phú Thọ và Bắc Giang.
1.7. Nội dụng đầu tư: gồm các hợp phần sau đây:
Đường giao thông và chợ:
Đầu tư xây dựng mới, nâng cấp hệ thống đường giao thông từ huyện đến trung tâm xã, đường từ trung tâm xã đến thôn, bản, đường liên thôn, bản, công trình cầu, cống ngầm, bến phà, bến thuyền;
Xây dựng mới và nâng cấp các chợ nông thôn quy mô nhỏ.
Nông nghiệp:
Xây dựng mới, nâng cấp các công trình thủy lợi, hồ chứa, phai, đập, kênh dẫn quy mô nhỏ có năng lực tưới dưới 30 ha;
Xây dựng mới, nâng cấp các công trình cấp nước sinh hoạt tập trung, nhóm hộ, hoặc từng hộ riêng lẻ;
Hỗ trợ xây dựng mô hình các hộ gia đình ứng dụng nông, lâm, ngư nghiệp, bảo quản sau thu hoạch, chế biến nhỏ;
Đầu tư nghiên cứu tại chỗ một số đề tài thiết thực đối với vùng dự án.
Giáo dục, Y tế:
Giáo dục: xây dựng mới, nâng cấp các trường trung học cơ sở, tiểu học, lớp cắm bản, nhà ở giáo viên, nhà bán trú, trang thiết bị đồ dùng giảng dạy, đào tạo mới, nâng cấp c._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33306.doc