bộ giáo dục và đào tạo
trường đạI học nông nghiệp hà nội
Nguyễn Chí Thâm
đánh giá tình hình thực hiện chính sách giao đất, giao rừng tại huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang
luận văn thạc sĩ nông nghiệp
Chuyên ngành: QuảN lý đất đai
Mã số: 60.62.16
Người hướng dẫn khoa học: pgs.ts. nguyễn thanh trà
Hà Nội - 2009
lời cam đoan
Tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả nghiên cứu của tôi trong luận văn này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Cam đoan các thông ti
106 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2179 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Đánh giá tình hình thực hiện chính sách giao đất, giao rừng tại huyện Bắc Quang - Tỉnh Hà Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Nguyễn Chí Thâm
Lời cảm ơn
Trong thời gian thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình và sự đóng góp quý báu của nhiều cá nhân và tập thể, đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành bản luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc PGS.TS. Nguyễn Thanh Trà, là người trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Chân thành cảm ơn Viện đào tạo Sau đại học, Ban chủ nhiệm khoa Tài Nguyên và Môi trường, tập thể giáo viên và cán bộ trong khoa đã giúp tôi hoàn thành quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tôi trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của Sở Tài nguyên và Môi trường Tỉnh Hà Giang; UBND huyện Bắc Quang; phòng Tài nguyên - Môi trường; phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn; phòng Thống kê huyện Bắc Quang và UBND các xã đã tạo điều kiện cho tôi thu thập số liệu, những thông tin cần thiết để thực hiện nghiên cứu đề tài này.
Cảm ơn gia đình; các anh, chị, bạn bè đồng nghiệp đã cổ vũ và động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu học tập và thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn
Nguyễn Chí Thâm
Mục lục
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các chữ viết tắt vi
Danh mục các bảng vii
Danh mục các hình ảnh viii
Danh mục các bảng
Số bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 1. Tình hình khí hậu thời tiết huyện Bắc Quang 42
Bảng 2. Cơ cấu GTSX các ngành huyện Bắc Quang qua các năm 45
Bảng 3. Hiện trạng diện tích, năng suất, sản lượng một số cây trồng chính của huyện Bắc Quang 46
Bảng 4. Tình hình chăn nuôi của huyện Bắc Quang năm 2008 47
Bảng 5. Hiện trạng sử dụng đất của huyện Bắc Quang năm 2008 55
Bảng 6. Tình hình sử dụng đất 3 xã năm 1995 60
Bảng 7. Cơ cấu sử dụng đất của 3 xã năm 1995 61
Bảng 8. Tình hình sử dụng đất của 3 xã năm 2008 65
Bảng 9. Cơ cấu sử dụng đất của 3 xã năm 2008 66
Bảng 10. So sánh tình hình sử dụng đất của 3 xã trước và sau khi giao đất 67
Bảng 11. Diện tích các hộ gia đình sử dụng năm 2008 69
Bảng 12. So sánh diện tích đất nông lâm nghiệp giao cho hộ gia đình 71
Bảng 13. Tình hình đầu tư tư liệu sản xuất của các hộ gia đình (Trước và sau khi giao đất giao rừng) 73
Bảng 14. Tình hình vay vốn của các hộ gia đình ở 3 xã điều tra 76
Bảng 15. Hướng ưu tiên đầu tư của hộ gia đình 78
Bảng 16. Cơ cấu bình quân diện tích một số cây trồng của các hộ gia đình sau khi giao đất giao rừng 80
Bảng 17. So sánh năng suất một số loại cây trồng chính trước và sau khi giao đất 82
Bảng 18. Tình hình mua sắm tài sản của hộ gia đình ở 3 xã điều tra 83
Bảng 19. So sánh tình hình tranh chấp đất đai và sử dụng đất sai mục đích ở 3 xã điều tra sau khi giao đất 88
Bảng 20. ý kiến của nông hộ sau khi được giao đất giao rừng ở 3 xã điều tra 95
Danh mục hình ảnh
Số hình
Tên hình ảnh
Trang
Hình 1. Rừng keo 48
Hình 2. Đồi chè 48
Hình 3. Ruộng lúa 49
Hình 4. Ruộng ngô, lạc 49
1. Mở đầu
1.1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng. Việt Nam có 80% dân số cả nước, đặc biệt là đồng bào dân tộc những người sống ở miền núi, trung du chủ yếu là lao động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản. Vì thế, việc bảo vệ và sử dụng bền vững đất nông, lâm nghiệp giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Xác định được tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách đúng đắn, phù hợp trong công tác quản lý và khai thác sử dụng tài nguyên đất.
Giao đất nông - lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông - lâm nghiệp theo quy hoạch và kế hoạch là một chủ chương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước từ nhiều năm nay, nhằm gắn lao động với đất đai tạo động lực phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp, từng bước ổn định và phát triển tình hình kinh tế xã hội, tăng cường an ninh quốc phòng.
Năm 1968, Nhà nước đã tiến hành công tác giao đất lâm nghiệp cho các tổ chức khác nhau, cùng với đó là hệ thống chính sách về giao đất lâm nghiệp và khoán bảo vệ rừng cho các tổ chức, hộ gia đình cá nhân được Nhà nước ban hành thích hợp cho từng giai đoạn cách mạng.
Từ khi có Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/01/1981 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về cải tiến công tác khoán, mở rộng công tác khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, nhất là Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 5/4/1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp thì quyền sử dụng đất của nông dân mới được xác lập. Luật Đất đai sửa đổi năm 1993 được Quốc hội thông qua ngày 14/7/1993 đã thừa nhận 5 quyền cơ bản của người sử dụng đất, quan hệ sản xuất trong nông, lâm nghiệp được xác lập trên cơ sở giao đất cho các hộ gia đình cá nhân sử dụng ổn định lâu dài đã trở thành động lực thúc đẩy quá trình sản xuất nông, lâm phát triển, hiệu quả sử dụng đất đã được nâng lên so với giai đoạn trước. Sau khi có Luật Đất đai năm 1993, Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật Đất đai năm 1998, năm 2001 và Luật Đất đai năm 2003, Nghị định số 64/CP ngày 27/09/1993 và Nghị định số 85/1999/NĐ-CP ngày 28/8/1999 của Chính phủ: “Về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp” và Nghị định số 02/CP ngày 15/1/1994 quy định: “Về giao đất lâm nghiệp cho hộ gia đình cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất lâm nghiệp”, Nghị định số 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 về “Giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp”.
Các chính sách đất đai trên đã góp phần quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước, đặc biệt là các chính sách về giao đất nông - lâm nghiệp. Sau khi giao đất nông - lâm nghiệp cho các hộ gia đình theo các Nghị định trên, kinh tế nông nghiệp nói chung và kinh tế hộ gia đình nói riêng đã có bước phát triển vượt bậc, góp phần đáng kể vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Huyện Bắc Quang - Tỉnh Hà Giang là một trong những huyện đã thực hiện triển khai sớm chính sách giao đất, giao rừng đến các xã trên toàn huyện. Như vậy, đất nông - lâm nghiệp đến nay đã được giao xong cho các hộ, tuy nhiên với tỷ lệ ở các xã có sự khác nhau.
Nhằm tổng kết và đánh giá lại hiệu quả của công tác giao đất, giao rừng trên địa bàn huyện, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý Nhà nước về đất đai nói chung và công tác giao đất nông - lâm nghiệp nói riêng trên địa bàn huyện, tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá tình hình thực hiện chính sách giao đất, giao rừng tại huyện Bắc Quang - tỉnh Hà Giang”
1.2. Mục tiêu - yêu cầu của đề tài.
1.2.1. Mục tiêu.
- Tìm hiểu quá trình giao đất nông - lâm nghiệp trên địa bàn huyện Bắc Quang - tỉnh Hà Giang.
- Đánh giá ảnh hưởng của công tác giao đất nông - lâm nghiệp đến hiệu quả sử dụng đất nông - lâm nghiệp trên địa bàn huyện.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý Nhà nước về đất đai nói chung và công tác giao đất nông - lâm nghiệp nói riêng trên địa bàn huyện.
1.2.2. Yêu cầu.
- Tìm hiểu các loại đất đai, các văn bản chính sách liên quan đến giao đất giao rừng.
- Tài liệu, số liệu thu thập phải đảm bảo độ chính xác, tin cậy.
- Các giải pháp đưa ra có tính khả thi, phù hợp với địa bàn nghiên cứu.
1.3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi không gian đề tài được nghiên cứu trên địa bàn 3 xã đã tiến hành giao đất giao rừng địa diện của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang.
2. Tổng quan nghiên cứu
2.1. Chính sách đất đai của một số nước châu á.
2.1.1. Chính sách đất đai của Trung Quốc.
Trong những năm qua việc khai thác và sử dụng đất đai, tài nguyên rừng ở Trung Quốc được điều chỉnh bởi hàng loạt các văn bản chính sách pháp luật đất đai. Do vậy, quá trình sản xuất nông, lâm nghiệp ở Trung Quốc đã phát triển và đạt được những kết quả tốt {20}:
Đã cải thiện được môi trường sinh thái và nâng cao sản xuất gỗ. Đất canh tác được Nhà nước bảo hộ đặc biệt, khống chế nghiêm ngặt việc chuyển đổi mục đích đất nông nghiệp sang đất khác. Mỗi hộ nông dân chỉ được dùng một nơi làm đất ở với diện tích giới hạn trong định mức quy định tại địa phương. Đất thuộc sở hữu tập thể thì không được chuyển nhượng, cho thuê vào mục đích phi nông nghiệp. Đối với đất lâm nghiệp trước những năm 1970, Chính phủ Trung Quốc đã chỉ đạo nông dân trồng cây bằng biện pháp hành chính, nên hiệu quả trồng rừng thấp, giữa lợi ích cộng đồng và lợi ích của người dân chưa có sự phối kết hợp. Bước sang giai đoạn cải cách nền kinh tế, Chính phủ Trung Quốc đã quan tâm khuyến khích hỗ trợ nông dân kinh doanh lâm nghiệp. Trung Quốc luôn coi trọng việc áp dụng luật pháp để phát triển lâm nghiệp, bảo vệ rừng và làm cho lâm nghiệp hoạt động có hiệu quả. Hiến pháp Trung Quốc đã quy định "Nhà nước phải tổ chức thuyết phục nhân dân trồng cây bảo vệ rừng". Kể từ năm 1984 Luật Lâm nghiệp quy định “…xây dựng rừng, lấy phát triển rừng làm cơ sở, phát triển mạnh mẽ việc trồng cây mở rộng phong trào bảo vệ rừng, kết hợp khai thác rừng trồng...”. Từ đó ở Trung Quốc toàn xã hội tham gia công tác lâm nghiệp, Chính phủ chỉ đạo cán bộ có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo mỗi cấp hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch của cấp mình, quá trình thực hiện chính sách này nếu tốt sẽ được khen thưởng, ngược lại sẽ bị xử lý.
Giai đoạn từ năm 1979-1992 Trung Quốc đã ban hành 26 văn bản về Pháp luật, Nghị định, Thông tư và Quy định liên quan đến công tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng.
Đầu năm 1980 Trung Quốc ban hành Nghị định về vấn đề bảo vệ tài nguyên rừng, một trong những điểm nổi bật của Nghị định này là thực hiện chủ trương giao cho chính quyền các cấp từ TW đến cấp tỉnh, huyện, tiến hành cấp chứng nhận quyền chủ đất rừng cho tất cả các chủ rừng là những tập thể và tư nhân. Luật Lâm nghiệp đã xác lập các quyền của người sử dụng đất (chủ đất) quyền được hưởng hoa lợi trên đất mình trồng, quyền không được phép xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp và lợi ích của chủ rừng, chủ đất rừng. Nếu tập thể hay cá nhân hợp đồng trồng rừng trên đất đồi trọc của Nhà nước hay của tập thể, cây đó thuộc về chủ cho hợp đồng và được xử lý theo hợp đồng.
Bên cạnh đó quá trình quy hoạch đất nông, lâm nghiệp, chăn nuôi bảo vệ nguồn nước, phát triển công nghiệp, dân số và giao thông nhằm sử dụng đất có hiệu quả ở miền núi được Chính phủ Trung Quốc quan tâm. Trung Quốc từng bước đưa sản xuất nông, lâm nghiệp vào hệ thống phát triển nông thôn để tăng trưởng kinh tế, loại bỏ nghèo nàn. Bắt đầu từ năm 1987, Nhà nước đã thực hiện chương trình giúp đỡ nhân dân thoát khỏi nghèo nàn trong những huyện nghèo, có thu nhập bình quân đầu người dưới 200 nhân dân tệ. Các huyện nghèo ở miền núi là đối tượng quan trọng thích hợp để phát triển lâm nghiệp.
Trung Quốc đã thực hiện chính sách phát triển trại rừng, kinh doanh đa dạng, sau khi thực hiện cấp GCNQSDĐ (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Từ đó các trại rừng kinh doanh hình thành bước đầu đã có hiệu quả. Lúc đó ngành lâm nghiệp được coi như công nghiệp có chu kỳ dài nên được Nhà nước đầu tư hỗ trợ các mặt như:
- Vốn, khoa học kỹ thuật, tư vấn xây dựng các loại rừng, hỗ trợ dự án chống cát bay.
- Mỗi năm Chính phủ trích 10% kinh phí để đầu tư cho quá trình khai khẩn đất phát triển nông, lâm nghiệp, hỗ trợ các hộ nông dân nghèo.
- Quy định trích 20% tiền bán sản phẩm lại để làm vốn phát triển nông, lâm nghiệp.
2.1.2. Chính sách đất đai ở Nhật Bản.
Tháng 12 năm 1945 Nhật Bản đã ban hành Luật cải cách ruộng đất lần thứ nhất với mục đích là xác định quyền sở hữu ruộng đất cho người dân và buộc địa chủ chuyển nhượng ruộng đất nếu có trên 5 ha.
Quá trình cải cách ruộng đất lần thứ nhất tại Nhật Bản ban đầu đã mang lại kết quả đáng kể, song lúc đó vai trò kiểm soát của Nhà nước đối với đất đai chưa được chặt chẽ. Do vậy, Nhật Bản tiến hành cải cách ruộng đất lần thứ hai với nội dung:
- Nhằm xác lập vai trò kiểm soát của Nhà nước đối với việc thực hiện chuyển nhượng quyền sở hữu ruộng đất là thuộc thẩm quyền của Chính phủ.
- Xác lập quyền sử hữu ruộng đất của nông dân nhằm giảm địa tô.
- Nhà nước đứng ra mua và bán đất phát canh của địa chủ nếu vượt quá 1 ha. Ngay cả với tầng lớp phú nông, có diện tích quá 3 ha nếu sử dụng không hợp lý Nhà nước cũng trưng thu một phần.
Như vậy, qua hai lần cải cách ruộng đất bằng những chính sách cụ thể đã làm thay đổi quan hệ sở hữu cũng như kết cấu sở hữu ruộng đất ở Nhật Bản đó là: Nhà nước đã khẳng định được vai trò kiểm soát đối với việc quản lý và sử dụng đất đai, người dân đã thực sự làm chủ đất để yên tâm đầu tư phát triển sản xuất{20}:
2.1.3. Chính sách đất đai ở Thái Lan.
Tại Thái Lan bước sang chế độ quân chủ, luật ruộng đất được ban hành năm 1954 đã thúc đẩy mạnh mẽ chính sách kinh tế xã hội của đất nước. Luật ruộng đất đã công nhận toàn bộ đất đai bao gồm đất khu dân cư đều có thể được mua, tậu lại từ cá thể. Các chủ đất có quyền tự do chuyển nhượng, cầm cố một cách hợp pháp, từ đó Chính phủ có được toàn bộ đất trồng (có khả năng trồng trọt được) và nhân dân đã trở thành người làm công trên đất ấy. Tuy nhiên, trong giai đoạn này luật ruộng đất quy định chế độ lĩnh canh ngắn, chế độ luân canh vừa. Bên cạnh đó việc thu địa tô cao, dân số tăng nhanh, tình trạng thiếu thừa đất do việc phân hoá giàu nghèo, đã dẫn đến việc đầu tư trong nông nghiệp thấp. Từ đó, năng suất cây trồng trên đất phát canh thấp hơn trên đất tự canh. Bước sang năm 1974 Chính phủ Thái Lan ban hành chính sách cho thuê đất lúa, quy định rõ việc bảo vệ người làm thuê, thành lập các tổ chức người địa phương làm việc theo sự điều hành của trại thuê mướn, Nhà nước tạo điều kiện cho kinh tế hộ gia đình phát triển. Luật cải cách ruộng đất năm 1975 quy định các điều khoản với mục tiêu biến tá điền thành chủ sở hữu ruộng đất, trực tiếp sản xuất trên đất. Nhà nước quy định hạn mức đối với đất trồng trọt là 3,2 ha (50 rai), đối với đất chăn nuôi 6,4 ha (100 rai), đối với những trường hợp quá hạn mức Nhà nước tiến hành trưng thu để chuyển giao cho tá điền, với mức đền bù hợp lý.
Đối với đất rừng, để đối phó với vấn đề suy thoái đất, xâm lấn rừng. Bắt đầu từ năm 1979, Thái Lan thực hiện chương trình giấy chứng nhận quyền hoa lợi, trong rừng dự trữ Quốc gia. Theo chương này, mỗi mảnh đất được chia làm hai miền. Miền từ phía dưới nguồn nước là miền đất có thể dùng để canh tác nông nghiệp, miền ở phía trên nguồn nước thì lại hạn chế và giữ rừng, còn miền đất phù hợp cho canh tác mà trước đây những người dân đã chiếm dụng (dưới 2,5 ha) thì được cấp cho người dân một giấy chứng nhận quyền hưởng hoa lợi. Đến năm 1976 đã có 600.126 hộ nông dân có đất được cấp giấy chứng nhận quyền hưởng hoa lợi. Cùng với chương trình này, đến năm 1975 Cục Lâm nghiệp Hoàng gia Thái Lan đã thực hiện chương trình làng lâm nghiệp nhằm giải quyết cho những hộ gia đình được ở trên đất rừng, quá trình thực hiện chương trình này đã thành lập được 98 làng lâm nghiệp với 1 triệu hộ gia đình tham gia.
Chương trình làng lâm nghiệp được quy định một cách chặt chẽ, mỗi hộ gia đình trong làng được cấp từ 2- 4 ha đất và được hưởng quyền sử dụng, thừa kế, nhưng không được bán, mua hay chuyển nhượng diện tích đất đó. Quá trình sản xuất của làng được sự hỗ trợ của Nhà nước về điều kiện cơ sở hạ tầng, tiếp thị và đào tạo nghề. Đi cùng với chương trình này là việc thành lập các hợp tác xã nông, lâm nghiệp hoạt động dưới sự bảo trợ của ban chỉ đạo HTX (Hợp tác xã). Cục Lâm nghiệp Hoàng gia sẽ ký hợp đồng giao đất dài hạn cho các HTX yêu cầu và thành lập nhóm chuyên gia đánh giá hiệu quả đầu tư trên đất được giao đó. Thái Lan tiến hành giao được trên 200.000 ha đất gắn liền với rừng cho cộng đồng dân cư sống gần rừng, diện tích mỗi hộ gia đình được nhận trồng rừng từ 0,8 ha đến 8 ha.
Bước sang thời kỳ những năm 90, Chính phủ Thái Lan tiếp tục chính sách ruộng đất theo dự án mới. Trên cơ sở đánh giá, xem xét khả năng của nông dân nghèo, giải quyết khâu cung cầu về ruộng đất theo hướng sản xuất hàng hoá và giải quyết việc làm. Dự án này có sự thoả thuận giữa Chính phủ, chủ đất và nông dân nhằm chia sẻ quyền lợi trong giới kinh doanh và người sử dụng ruộng đất. Theo dự án này Chính phủ giúp đỡ tiền mua đất, mặt khác khuyến khích đầu tư trong sản xuất nông nghiệp, giải quyết việc làm cho nông dân nghèo [12]:
2.1.4. Chính sách đất đai ở Inđônêxia.
Nhà nước Inđônêxia quy định mỗi hộ nông dân ở gần rừng được nhận khoán 2500 m2 đất để trồng cây, hai năm đầu được phép trồng lúa cạn, hoa màu trên diện tích đó và được quyền hưởng toàn bộ sản phẩm, không phải nộp thuế. Quá trình sản xuất của nông dân được Công ty Lâm nghiệp hỗ trợ giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật dưới hình thức cho vay. Sau khi thu hoạch người nông dân phải hoàn trả lại giống đã vay, còn phân bón và thuốc bảo vệ thực vật chỉ phải trả 70%, nếu mất mùa thì không phải trả vốn vay đó [12]: Bên cạnh đó, thông qua các hoạt động khuyến nông khuyến lâm Nhà nước còn tổ chức hướng dẫn kỹ thuật, tập huấn làm nghề cho người dân, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng tại nơi họ sinh sống. Từ đó, việc quản lý rừng và đất rừng ở Inđônêxia bước đầu đã thu được những kết quả đáng kể [12]:
2.1.5. Chính sách đất đai ở Đài Loan.
Chính phủ Đài Loan tiến hành cải cách ruộng đất theo phương pháp Hà Giang, thực hiện khẩu hiệu "người cày có ruộng" từng bước theo phương thức thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Quá trình cải cách ruộng đất của Đài Loan được thực hiện theo từng giai đoạn phát triển của từng thời kỳ mà họ có những chính sách điều chỉnh cụ thể cho phù hợp với từng thời kỳ đó [28]:
- Bắt đầu từ 1949 và đến nay họ đã tiến hành giảm địa tô để giảm gánh nặng về kinh tế cho nông dân đó là: Giảm tô 37,5%, thực hiện với tính toán rằng 25% sản lượng nông nghiệp là dùng cho chi phí sản xuất, phần thặng dư (75%) được chia đôi cho tá điền và địa chủ.
- Sau khi hoàn thành việc giảm tô, đến năm 1951 họ có chính sách bán đất công cho nông dân với giá bằng 2,5 lần sản lượng hàng năm của thửa đất và thanh toán trong 10 năm. Nông dân cũng có thể thanh toán sớm hơn nếu muốn, từ đó Nhà nước lập được quỹ cải cách ruộng đất.
- Đến năm 1953 họ tiếp tục cải cách ruộng đất đó là chính sách cho người cày có ruộng. Địa chủ được giữ lại 3 ha lúa nước và 6 ha đất màu, còn số diện tích dư thừa còn lại thì Nhà nước sẽ tiến hành trưng mua và bán lại cho nông dân. Giá trưng mua và giá bán lại đều bằng 2,5 lần sản lượng hàng năm của thửa đất, tính theo sản phẩm thu được sau sản xuất (bằng gạo) để không chịu ảnh hưởng của lạm phát và được thanh toán 20 lần trong 10 năm, giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất được cấp ngay sau lần thanh toán đầu tiên. Địa chủ được nhận 70% bằng trái phiếu đất đai để lấy hiện vật (gạo hoặc khoai lang) với lãi suất 4%/năm, 30% còn lại được chuyển thành cổ phần của doanh nghiệp Nhà nước (công ty phát triển nông - lâm nghiệp, công ty giấy và bột giấy, công ty công nghiệp mỏ và công ty xi măng).
Kết quả là 139.250 ha đã được bán cho 194.820 hộ nông dân và 4 công ty của Nhà nước đã được bán cho các địa chủ.
Trong nông nghiệp, ngay những năm 50, kinh tế trang trại được hình thành và được Nhà nước tạo điều kiện cho mô hình kinh tế trang trại ở nông thôn được phát triển, thông qua các biện pháp tích cực để hiện đại hoá nông nghiệp. ở các làng xã, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp được mở mang.
Trong quá trình công nghiệp hoá nông thôn, công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm vừa đáp ứng nhu cầu phục vụ nông nghiệp tại chỗ, vừa thu hút lao động địa phương, tạo nhiều việc làm mới. Công nghiệp hoá nông thôn ở Đài Loan đã thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu lao động (ví dụ năm 1952, lao động nông nghiệp chiếm 56,1%, lao động công nghiệp chiếm 16,9%, lao động dịch vụ chiếm 27%. Đến năm 1992, các chỉ số đó là 12,9%; 40,2% và 46,9%).
* Nhận xét:
Nhìn chung các chủ trương chính sách về đất đai của các nước châu á đều hướng tới mục đích xác lập quyền sở hữu hoặc sử dụng đất cho người sử dụng đất. Để từ đó người dân an tâm đầu tư sản xuất, bên cạnh đó quá trình sản xuất của người dân trên đất luôn được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, nhằm mục đích tăng cường hiệu quả sử dụng đất về các mặt kinh tế xã hội và môi trường. Do đó, việc xem xét, đánh giá hiệu quả sử dụng đất của người dân, từ đó cho ta đánh giá được hiệu quả của công tác giao đất, giao rừng của Nhà nước.
2.2. Chính sách giao đất, giao rừng ở Việt Nam.
Nhà nước đã ban hành nhiều Luật; Nghị định; Quyết định; Chỉ thị vv... về giao đất, giao rừng nhằm gắn lao động với đất đai, tạo động lực phát triển sản xuất nông lâm nghiệp, từng bước ổn định kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng. Đặc biệt từ năm 1988 đến nay với sự ra đời của Nghị quyết 10; Luật Đất đai 1988; Luật Đất đai 1993, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật Đất đai 2001; Luật Đất đai 2003; Luật bảo vệ và phát triển rừng 1991; Luật bảo vệ và phát triển rừng 2004; Nghị định 02/CP; Nghị định 64/CP; Nghị định 163/1999/NĐ-CP vv... đã thực sự trao quyền quản lý và sử dụng lâu dài về đất đai cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân. Người sử dụng đất có các quyền: Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được xác định trong Luật Đất đai. Những quyền này tạo cơ sở pháp lý về những lợi ích cụ thể để người sử dụng đất thực sự làm chủ về việc sử dụng và kinh doanh trên đất được giao, từng bước khắc phục tình trạng manh mún ruộng đất, tạo điều kiện tích tụ ruộng đất phù hợp, thúc đẩy sản xuất nông lâm nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, thâm canh đất đai, đổi mới cơ cấu sản xuất, đa dạng hoá cây trồng, sử dụng và bảo vệ tốt tài nguyên môi trường theo hướng một nền nông lâm nghiệp bền vững.
2.2.1. Chính sách giao đất nông - lâm nghiệp trước thời kỳ đổi mới (1968- 1986).
Trước thời kỳ đổi mới nền kinh tế của nước ta vận hành theo kế hoạch hoá, tập trung quan liêu bao cấp và có những đặc trưng sau [10],[11]:
- Chỉ có hai thành phần kinh tế đó là kinh tế quốc doanh và HTX. Trong lâm nghiệp là quốc doanh và HTX có kinh doanh nghề rừng; trong nông nghiệp thường là nông trường quốc doanh và HTX nông nghiệp.
- Kế hoạch hoá tập trung, cấp phát giao nộp.
- Cơ chế thị trường có tổ chức.
Các văn bản của Đảng và Nhà nước đã ban hành có liên quan đến vấn đề giao đất nông, lâm nghiệp trong thời kỳ này bao gồm [19]:
1. Nghị định 36/CP ngày 12/03/1968 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) "Về công tác vận động định canh, định cư kết hợp với HTX đối với đồng bào còn du canh du cư".
2. Quyết định số: 179/CP ngày 12/11/1968 của Hội đồng Bộ trưởng "Về một số chính sách đối với HTX có kinh doanh nghề rừng".
3. Quyết định số: 129/CP ngày 25/05/1974 của Hội đồng Bộ trưởng "Về một số chính sách đối với HTX, mở rộng diện tích phát triển nông, lâm nghiệp ở trung du và miền núi".
4. Chỉ thị 257/TTg ngày 16/7/1975 của Thủ tướng Chính phủ "Về đẩy mạnh trồng rừng và đất rừng cho HTX kinh doanh".
5. Quyết định số 272/CP ngày 03/10/1977 của Hội đồng Chính phủ "Về chính sách đối với HTX mở rộng diện tích phát triển nông, lâm nghiệp, xây dựng vùng kinh tế mới, thực hiện định canh, định cư".
6. Chỉ thị 100/CT-TW ngày 13/1/1981 của Ban chấp hành Trung ương Đảng "Về cải tiến công tác khoán mở rộng các công tác khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp".
7. Quyết định số: 184/HĐBT ngày 06/11/1982 của Hội đồng Bộ trưởng "Về đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho tập thể nông dân trồng cây rừng".
8. Chỉ thị 29/CT-TW ngày 12/11/1983 của Ban chấp hành Trung ương Đảng "Về đẩy mạnh công tác giao đất, giao rừng và tổ chức kinh doanh theo phương thức nông lâm kết hợp".
Như vậy trong vòng 19 năm (1968-1986) từ khi xác định chủ trương giao đất rừng cho HTX những văn bản được Nhà nước ban hành đã chứng tỏ chính sách nhất quán và kiên trì chủ trương giao đất, giao rừng của Đảng và Nhà nước cho HTX.
Quyết định số: 179/CP ngày 12/11/1968 của Chính phủ là văn bản đầu tiên quy định chính sách giao rừng cho từng đối tượng. Tại văn bản này đã đưa ra hướng chung như: Trên diện tích đất rừng và rừng đã được Nhà nước giao cho HTX kinh doanh toàn diện thì cây cối và hoa lợi của rừng đó kể cả sản phẩm đã có đều do HTX có nghĩa vụ bán cho Nhà nước những lâm sản chính (gỗ, củi, tre, nứa) theo đúng chỉ tiêu kế hoạch thu mua và giá thu mua như đối với cây công nghiệp. Đối với sản phẩm chính của rừng đã có thì quy định như sau: "Trên diện tích rừng và đất rừng giao cho HTX kinh doanh từng phần theo quy hoạch và kế hoạch của Nhà nước như trồng rừng tu bổ, cải tạo, khai thác, làm đường... thì khi HTX làm xong công việc giao lại cho Nhà nước theo nhiệm vụ chỉ tiêu kế hoạch phải có kiểm kê nghiệm thu. Nhà nước trả công khoán cho HTX căn cứ theo hao phí của từng khâu, có phân biệt nơi xa, gần".
Văn bản này đã xác định hai hình thức giao đất, giao rừng:
- Giao cho HTX quản lý kinh doanh toàn diện.
- Giao cho HTX làm khoán từng khâu công việc.
Song song với đó thì quyền lợi của HTX được hưởng tương ứng như: bán theo giá thu mua lâm sản chính do HTX trồng rừng và nhận khoán của từng khâu kinh doanh. Điều đó đã khuyến khích sản xuất của HTX, nhiều HTX đã nhận rừng để kinh doanh khai thác lâm sản phần lớn dưới hình thức nhận giao khoán từng khâu công việc cho các lâm trường quốc doanh, một số nơi đã hình thành HTX chuyên làm nghề rừng. Về hoạt động lâm sinh các HTX thường thực hiện việc tu bổ cải tạo rừng, việc trồng rừng trên đất trống, đồi núi trọc rất hạn chế vì HTX không có vốn mà Nhà nước chưa có chính sách cụ thể. Tuy nhiên, hạn chế ở việc giao đất, giao rừng ở các địa phương vẫn là dựa vào lực lượng quốc doanh làm lâm nghiệp.
Năm 1974 tại Quyết định số 80-129/CP ngày 25/05/1974 của Chính phủ “Về chính sách đối với các HTX mở rộng diện tích phát triển nông lâm nghiệp ở trung du và miền núi”, chính sách giao đất, giao rừng đã được cụ thể hoá thêm một bước.
- Quy định hạn mức đất đồi núi hoặc diện tích đất rừng giao cho HTX bình quân mỗi lao động nông, lâm nghiệp được sử dụng từ 1 - 4 ha.
- Mỗi hộ xã viên được giao từ 700 m2 - 1000 m2 đất để làm nhà ở, trồng trọt và chăn nuôi thêm.
- Quy định thời hạn 3 - 7 năm phải đưa hết diện tích đất và rừng vào sản xuất theo kế hoạch, không được bỏ hoang hoá đất đai hoặc làm thiệt hại đến rừng.
- Giúp cho HTX có đủ vốn để kinh doanh trên đất rừng được giao.
Đối với cây dài ngày (cây lấy gỗ) thì sau khi trồng rừng mới hoặc cải tạo tốt thì Nhà nước sẽ xoá 50% số nợ tiền đã vay, số còn lại tiếp tục được Nhà nước xoá dần khi có sản phẩm bán cho Nhà nước theo kế hoạch. Lâm sản hàng hoá do hợp tác xã sản xuất ra phải bán cho Nhà nước và Nhà nước thu mua theo giá cả hợp lý do Nhà nước quy định và công bố.
Ngày 16/07/1975 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số: 257/TTg về việc đẩy mạnh trồng rừng, bảo vệ rừng, giao đất và giao rừng cho HTX kinh doanh, văn bản này có một ý nghĩa rất quan trọng, xác định trách nhiệm cho các ngành cụ thể là:
- Đẩy mạnh phân vùng và quy hoạch vùng nông lâm nghiệp làm căn cứ cho việc giao đất, giao rừng cho HTX kinh doanh.
- UBND (Uỷ ban Nhân dân) hành chính các huyện tiến hành việc phân phối đất rừng cho từng HTX hiện có; giao đất giao rừng đến người dân phải hướng dẫn kiểm tra chặt chẽ việc kinh doanh đó, nhất thiết không để xảy ra nạn phá rừng và huỷ hoại màu mỡ đất đai.
Đến năm 1977 Chính phủ lại ban hành quyết định số: 272/CP cũng đề cập đến chính sách giao đất, giao rừng và hỗ trợ vốn vay cho HTX kinh doanh nghề rừng tương tự Quyết định 129/CP năm 1974.
2.2.1.1. Tình hình giao đất, giao rừng trong giai đoạn 1968-1980.
Đây là những năm thực hiện chủ trương đẩy mạnh trồng rừng, bảo vệ rừng và giao đất, giao rừng cho HTX sản xuất kinh doanh việc trồng rừng, bảo vệ rừng đã trở thành một ngành sản xuất quan trọng, là nhiệm vụ của HTX. Nhờ vậy, mà rừng ngày càng mở rộng, diện tích rừng bị phá làm nương rãy ngày càng được giảm đi.
Tuy nhiên số HTX làm đúng theo chủ trương chính sách còn ít, phần lớn các HTX chỉ muốn nhận rừng để khai thác lâm sản, không muốn nhận đất để trồng cây gây rừng, công tác bảo vệ rừng chưa thành một ngành, nạn phá rừng vẫn chưa được ngăn chặn.
Trong giai đoạn này Nhà nước mới khuyến khích và công nhận sự tồn tại của hai thành phần kinh tế chủ yếu trong kinh doanh rừng đó là quốc doanh lâm nghiệp và HTX. Sau khi giao đất, giao rừng cho các HTX một số tỉnh đã có biện pháp tích cực tăng cường chỉ đạo các HTX phát triển nghề rừng, ra Nghị quyết chuyên đề về lâm nghiệp quy định về tổ chức quản lý và chế độ chính sách đối với các HTX kinh doanh nghề rừng, xác định loại hình HTX, tập đoàn sản xuất (lâm nông hay nông lâm).
Về trình độ quản lý (nơi mạnh, nơi yếu) điều kiện kinh doanh nghề rừng (nơi khó, nơi dễ) về quan hệ chỉ đạo (nơi quan tâm thực sự, nơi chỉ đạo buông xuôi), nên trong thời kỳ này có 3 loại hình HTX sau [11]:
* Loại hình thứ nhất: Bao gồm các HTX đã thực sự đưa rừng và đất rừng vào dạng tư doanh. Các HTX thuộc loại này là HTX bước đầu đã thực hiện sản xuất rừng tốt, thực sự coi trọng nghề rừng, có đầu tư thích đáng cho nghề rừng (lao động, vốn, giống...), các HTX này đều có tổ chuyên trách gieo ươm, khai thác. Việc trồng rừng cơ động chủ lực làm hạt nhân, kết hợp với toàn bộ lao động theo thời vụ, tuy nhiên loại hình HTX này còn quá ít.
* Loại hình thứ hai: Là loại hình HTX được giao đất, giao rừng, nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên chưa đảm bảo tư doanh, vẫn hợp đồng làm khoán trồng rừng hoặc khai thác lâm sản cho lâm trường quốc doanh trên diện tích đất và rừng được giao. Tình trạng này có, vì nhiều HTX trình độ quản lý có hạn cho ràng làm khoán vẫn có thu nhập cao mà quản lý đỡ phức tạp. Hợp tác xã chỉ điều hành lao động, giải quyết tốt việc ăn chia phân phối nội bộ, còn mọi việc từ thiết kế, đến giống, vốn, vật tư kỹ thuật đều do lâm trường đảm nhiệm.
* Loại hình thứ ba: Là loại hình HTX đã nhận đất, nhận rừng nhưng chưa đưa vào sản xuất, kinh doanh, do nhiều nguyên nhân: phải tập trung lao động vào sản xuất lương thực, phương hướng trồng rừng và kinh doanh lâm nghiệp chưa rõ ràng, chưa xin được vốn hỗ trợ của Nhà nước, trình độ quản lý còn kém. Loại hình này chiếm đại đa số các HTX được giao đất, giao rừng. Hiện tượng phổ biến nhất ở các HTX là mới chỉ g._.iữ rừng để lợi dụng khai thác gỗ, củi, khai thác lâm sản, nhiều nơi còn chặt phá rừng bừa bãi gây thiệt hại to lớn về tài nguyên rừng.
Kết quả trong thời gian từ năm 1968 đến năm 1980 đã giao được 5 triệu ha cho 3998 HTX và tập đoàn sản xuất (theo số liệu thống kê của Bộ Lâm nghiệp nay là Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn).
2.2.1.2. Tình hình giao đất, giao rừng giai đoạn 1980-1986.
Trong thời kỳ này Nhà nước đang nghiên cứu thử nghiệm, cải cách quản lý kinh tế. Trong nông nghiệp có cải tiến quản lý HTX nhằm bảo đảm phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế trên cơ sở lôi cuốn được mọi người hăng hái lao động, kích thích tăng năng suất lao động, sử dụng tốt đất đai và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có. Tuy nhiên, về đất đai vẫn chưa giao cho người nông dân mà chỉ "khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong HTX nông nghiệp" giao cho người lao động một số khâu như trồng cây, chăm sóc... Điều này được nêu trong Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/01/1981 của Ban chấp hành Trung ương Đảng "khoán với nội dung khoán 3 khâu: khoán chi phí, khoán công điểm và khoán sản phẩm. Mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong HTX nông nghiệp, quy định về việc tổ chức ruộng đất cho đội sản xuất, cho nhóm người lao động để thực hiện sản lượng khoán, tránh để đồng ruộng chia cắt manh mún. Diện tích giao khoán cho người lao động phải hợp lý và ổn định trong vòng 3 năm để họ yên tâm canh tác trên diện tích đó". Đây là một bước chuyển biến có ý nghĩa về chính sách ruộng đất [15]:
Trong lâm nghiệp, Hội đồng Bộ trưởng đã đề ra Quyết định số 184/HĐBT ngày 06/11/1982 có những nét mới hơn: đối tượng được giao đất, giao rừng thì mở rộng hơn trước, các hộ gia đình cá nhân cũng được Nhà nước giao đất cho, với mức đất và diện tích rừng cụ thể:
- Giao đất cho tập thể kinh doanh thì không hạn chế khả năng sử dụng được bao nhiêu thì giao bấy nhiêu, mỗi hộ gia đình ở miền núi được cấp từ 2000 - 2500 m2 cho mỗi lao động để làm vườn rừng, ngoài ra còn có thể nhận khoán đất trống đồi trọc để trồng rừng theo quy hoạch.
- Về quyền lợi của tập thể, cá nhân được quy định như sau: Rừng của tập thể trồng hoặc cải tạo bằng vốn và sức lao động tự có của mình thì khi khai thác có thể sử dụng 20 - 30% sản phẩm chính đối với rừng trồng hoặc 10 - 20% sản phẩm chính đối với rừng cải tạo, số còn lại phải bán cho Nhà nước theo giá thoả thuận.
- Rừng của cá nhân trồng khi thu hoạch phải nộp cho HTX 20% sản phẩm chính, trong số 80% còn lại cá nhân được sử dụng 30% còn 70% phải bán lại cho Nhà nước theo giá thoả thuận.
- Sản phẩm nông, lâm nghiệp kết hợp thì cá nhân được hưởng toàn bộ.
Thực hiện Quyết định trên một số địa phương đã giao đất, giao rừng cho HTX và nhân dân kinh doanh, nhưng chưa có nhận thức đúng tầm quan trọng và chưa có kinh nghiệm chỉ đạo nên chưa phát huy được tác dụng tích cực của chính sách này. Nếu không có biện pháp khắc phục thì sẽ dẫn đến hậu quả rất nghiêm trọng về môi trường và nhiều mặt khác nữa. Vì vậy ngày 12/11/1983 Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 290-CT/TW về đẩy mạnh giao đất, giao rừng, xây dựng rừng và tổ chức kinh doanh theo phương pháp nông lâm kết hợp.
Chỉ thị này đã xác định rõ giao đất, giao rừng gắn liền với việc tổ chức bảo vệ và kinh doanh rừng, sử dụng có hiệu quả các diện tích đất trống, đồi núi trọc theo phương thức nông lâm kết hợp, coi việc giao đất, giao rừng là một cuộc vận động cách mạng mang nội dung kinh tế chính trị sâu sắc, một nhiệm vụ cụ thể của từng người sử dụng đất trên từng khu đất, chuyển lâm nghiệp từ trạng thái tự nhiên sang kinh doanh có tổ chức, có kế hoạch. Chỉ thị đã nêu ra một số định hướng chính sách quan trọng như: Nhà nước hỗ trợ một phần vốn, giống, công cụ chuyên dùng, vật tư... cho HTX và nhân dân; Nhà nước bán đối lưu lương thực theo giá đảm bảo kinh doanh cho những nơi thực sự không có đủ điều kiện để sản xuất đủ lương thực.
Ngày 18/01/1984 Ban Bí thư TW Đảng ban hành Chỉ thị 35/CP - TW về việc khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình. Nhà nước cho phép các hộ gia đình nông dân tận dụng mọi nguồn phát triển đất mà HTX, nông trường chưa sử dụng hết để đưa vào sản xuất. Nhà nước không đánh thuế sản xuất kinh doanh đối với kinh tế hộ gia đình, chỉ đánh thuế tái sinh, đất phục hoá được miễn thuế trong vòng 5 năm, hộ gia đình nông dân được tiêu thụ các sản phẩm làm ra.
Kết quả giao đất, giao rừng trong thời kỳ 1980-1986 đã giao được 1.934.000 ha cho 1.724 HTX, 610 cơ quan đơn vị trường học và 349.750 hộ gia đình.
* Tổng kết quá trình giao đất, giao rừng tính đến năm 1986 như sau:
Đất có rừng là: 1.758.356 ha, đất đồi núi trọc là: 2.685.474 ha.
- Số HTX được giao là: 5.722 HTX.
- Số tập đoàn sản xuất đã được giao là: 2.271 tập đoàn.
- Số cơ quan, trường học được giao là: 610 tổ chức.
- Số hộ được giao đất, giao rừng là: 770.785 hộ.
Diện tích đất đã đưa vào kinh doanh là: 1.283.112 ha, trong đó:
Đất trồng rừng 860.028 ha, vườn rừng: 342.084 ha.
(Theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) [2],[7],[19].
2.2.2. Chính sách giao đất nông - lâm nghiệp trong thời kỳ đổi mới (1986 đến nay).
Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam tháng 12/1986 đã đánh dấu thời kỳ đổi mới ở Việt Nam với tư tưởng chỉ đạo là triệt để xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp,... chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối này ngày càng được hoàn chỉnh trong các Nghị quyết Đại hội Đảng các lần tiếp theo.
Luật Đất đai được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII thông qua ngày 28/12/1987 đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình xây dựng các chính sách đất đai ở nước ta, tiếp đó Hiến pháp 1992, Luật Đất đai 1993, Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật Đất đai 1998, 2001 cũng lần lượt ra đời. Vai trò kinh tế nông hộ của nông dân vẫn còn hạn chế trong Chỉ thị 100-CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng nên vào tháng 4/1988 Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khoá VI) đã đề ra Nghị quyết 10-NQ/TW "Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp" và sau đó là Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ VI (khoá VI) với yêu cầu là giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất nhằm khai thác hợp lý tiềm năng lao động, đất đai, tăng nhanh sản luợng nông sản hàng hóa, lấy hộ xã viên làm kinh tế tự chủ (khoán hộ), thực hiện chính sách một giá, thương mại hoá vật tư, nông dân chỉ có một nghĩa vụ nộp thuế.
Với chính sách đúng đắn này, Nghị quyết 10 đã làm cho sản xuất nông nghiệp và nông thôn có những chuyển biến tích cực, làm nền móng cho chính sách đổi mới trong nông nghiệp và nền kinh tế quốc dân.
2.2.2.1. Giai đoạn 1986 -1993.
Chủ trương của Nhà nước trong giai đoạn này là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, ngoài thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể, Nhà nước có chủ trương giao đất cho hộ gia đình và cá nhân, điều này đã khuyến khích rất nhiều người nhận diện tích đất trống, đồi núi trọc để đầu tư vốn trồng rừng. Các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh bằng nhiều hình thức thích hợp tuỳ điều kiện cụ thể theo từng vùng như vườn rừng, trại rừng, vườn cây công nghiệp, cây ăn quả, lương thực, thực phẩm, dược liệu kết hợp với cây rừng (nông lâm kết hợp).
Song song với việc thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 05/04/1988 của Bộ Chính trị, ngày 19/08/1991 Luật bảo vệ và phát triển rừng đã được Nhà nước công bố, Điều 1 của luật đã xác định: “… Nhà nước giao rừng, đất trồng rừng cho tổ chức và cá nhân để phát triển và sử dụng ổn định, lâu dài theo quy hoạch và kế hoạch của Nhà nước”; Tổ chức và cá nhân đang sử dụng hợp pháp đất trồng rừng được tiếp tục sử dụng theo quy định của luật, Điều 3: “Nhà nước bảo hộ quyền lợi hợp pháp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đầu tư lao động, tiền vốn, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật công nghệ vào các việc gây trồng rừng, bảo vệ rừng, khai thác, chế biến”.
Ngày 15/09/1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định 327/CT (gọi tắt là Chương trình 327): “Về việc ban hành một số chủ trương, chính sách sử dụng đất trống đồi núi trọc, rừng, bãi bồi, ven biển và mặt nước hoang”. Nội dung chủ yếu của Chương trình 327 là tập trung để cải tạo mới rừng phòng hộ và rừng đặc dụng gồm: bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh, trồng rừng gắn nông nghiệp với lâm nghiệp vừa khôi phục lại môi trường sinh thái, giải quyết một số việc làm, tăng thu nhập, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc, tham gia tích cực vào chương trình xoá đói, giảm nghèo, điều chỉnh lại lao động dân cư giữa các vùng. Qua đây nhận thức về bảo vệ và chăm sóc rừng, lâm nông kết hợp , tiếp thu kỹ thuật thâm canh, ý thức về sản xuất hàng hoá của đồng bào dân tộc vùng núi đã được nâng lên một bước.
2.2.2.2. Giai đoạn từ 1993 đến 2003.
Trong giai đoạn này Đảng và Nhà nước đã đưa ra rất nhiều các chính sách về quản lý và sử dụng đất.
Tại kỳ họp Quốc hội khoá IX, Luật Đất đai được thông qua ngày 14/07/1993 và có hiệu lực ngày 15/10/1993. Đây là một bộ luật quan trọng thể hiện chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta về đất đai cụ thể hoá Điều 17 và 18 Hiến pháp 1992 Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thể chế hoá đường lối cơ bản của Đảng mà trực tiếp là Nghị quyết hội nghị lần thứ V của Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 6 năm 1993.
Luật Đất đai năm 1993 được Quốc hội thông qua đã đánh dấu kết quả một quá trình nghiên cứu, vận dụng thực tiễn để thể chế hoá các chính sách mới về đất đai, vừa đảm bảo phát huy quan hệ sở hữu toàn dân, phù hợp với cách vận hành mới của một nền kinh tế hàng hoá bắt đầu tiếp cận với cơ chế thị trường. Bên cạnh đó, Luật Đất đai năm 1993 trong quá trình thực hiện vẫn còn bộc lộ một số bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội, do đó luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và 2001 đã có những vấn đề nổi bật đáng lưu ý như:
- Hộ gia đình cá nhân là đối tượng được giao đất sản xuất nông, lâm nghiệp, thay vì giao cho HTX và tập đoàn nông, lâm nghiệp như trước đây.
- Người sử dụng đất có quyền sử dụng ổn định, lâu dài, ngoài ra còn có các quyền "Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, góp vốn" tạo cơ sơ pháp lý về những lợi ích cụ thể để người sử dụng đất thực sự làm chủ về sử dụng và kinh doanh trên đất được giao.
- Đã khẳng định đất có giá và Nhà nước xác định giá đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi giao đất, tính giá trị tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt hại khi bị thu hồi đất.
Ngoài ra, Luật Đất đai năm 1993, Luật sửa đổi bổ sung năm 1998, 2001 còn đề cập nhiều vấn đề đổi mới khác như: quy định mức hạn điền, thời hạn sử dụng đất, đất dành cho nhu cầu công ích. Đây là những quy định cụ thể hoá bằng các Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993, Nghị định 85/CP ngày 28/08/1999 của Chính phủ ban hành quy định về giao đất nông nghiệp và Nghị định số 02/CP ngày 15/01/1994, Nghị định 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 về việc giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp [6],[7],[8],[9]:
a. Những quy định về giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân
Chủ trương giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp được quy định tại điều 18 Hiến pháp 1992, Điều 1, Điều 12 Luật Đất đai năm 1993, Nghị định 64/CP ngày 27/09/1993, Nghị định 85/CP ngày 28/08/1999 của Chính phủ ban hành quy định về giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích nông nghiệp, được thể hiện bằng các quy định về đối tượng được giao, quỹ đất được giao, nguyên tắc giao, thời hạn và hạn mức giao [6]:
* Đối tượng được giao đất nông nghiệp để sử dụng ổn định, lâu dài
- Các nhân khẩu thường trú tại địa phương kể cả những người đang làm nghĩa vụ quân sự.
- Những đối tượng có nhu cầu sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp thì UBND xã, phường, thị trấn căn cứ vào quỹ đất của địa phương, xét đề nghị UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giao đất.
+ Những người sống bằng nghề nông nghiệp cư trú tại địa phương nhưng chưa có hộ khẩu thường trú mà được UBND xã phường xác nhận.
+ Con của cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước và bộ đội nghỉ mất sức hoặc nghỉ việc do sắp xếp lại sản xuất, tinh giảm biên chế chỉ được hưởng trợ cấp một lần.
+ Xã viên HTX nông nghiệp trước đây đã chuyển sang làm ở HTX tiểu thủ công nghiệp hoặc HTX khác nay không có việc làm, trở lại làm nông nghiệp.
* Quỹ đất nông nghiệp để giao cho hộ gia đình, cá nhân
- Đất nông nghiệp đang sử dụng được giao toàn bộ cho hộ gia đình, cá nhân, trừ đất giao cho các tổ chức, đất dùng cho nhu cầu công ích xã. Gồm có [3]: đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, lâu năm, nuôi trồng thuỷ sản, đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá được xác định vào sản xuất nông nghiệp. Đối với những loại đất nông nghiệp mà không thể giao cho từng hộ gia đình, cá nhân, tổ chức thì tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đó phải thuê đất sản xuất vào mục đích nông nghiệp.
* Nguyên tắc để giao đất, sử dụng đất vào mục đích nông nghiệp
- Giao đất trên cơ sở đảm bảo hiện trạng, đảm bảo đoàn kết, ổn định nông thôn, thúc đẩy sản xuất phát triển, thực hiện chính sách người làm nông nghiệp có đất để sản xuất.
- Người được giao đất, phải sử dụng đúng mục đích trong thời hạn được giao, phải bảo vệ, cải tạo, bồi bổ, sử dụng tiết kiệm, hợp lý để tăng khả năng sinh lợi từ đất và chấp hành đúng pháp luật đất đai.
- Đất giao cho hộ gia đình, cá nhân là giao chính thức và cấp GCNQSDĐ ổn định lâu dài.
- UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh xét và cấp GCNQSDĐ trên cơ sở đề nghị của UBND xã, phường, thị trấn [19]:
* Thời hạn giao đất nông nghiệp
- Đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản thì thời hạn giao là 20 năm.
- Đất nông nghiệp trồng cây lâu năm thì thời hạn giao là 50 năm.
* Thời điểm giao đất
- Hộ gia đình và cá nhân được giao đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 trở về trước thì được tính thống nhất tính từ ngày 15/10/1993.
- Đối với hộ gia đình, cá nhân được giao đất sau ngày 15/10/1993 thì được tính từ ngày giao đất.
* Hạn mức giao đất nông nghiệp
- Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm:
+ Các tỉnh Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long thì hạn mức giao đất không quá 3 ha.
+ Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương không quá 2 ha.
- Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm:
+ Các xã đồng bằng giao không quá 10 ha.
+ Các xã trung du, miền núi giao không quá 30 ha.
- Đối với đất trống, đồi núi trọc, khai hoang, lấn biển thì hạn mức của hộ gia đình cá nhân thì căn cứ vào quỹ đất của địa phương và khẳ năng sản xuất của họ mà UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định.
Qua việc thực hiện giao đất nông nghiệp theo NĐ 64/CP và NĐ 85/CP đã làm cho người sử dụng đất yên tâm đầu tư vốn và sức lao động vào sản xuất để đáp ứng nhu cầu của họ phù hợp với cơ chế thị trường và các điều kiện kinh tế xã hội. Công việc sản xuất được duy trì một cách ổn định và bền vững, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật phù hợp với điều kiện sản xuất và đầu tư của họ [16]:
b. Những quy định về giao đất lâm nghiệp
1). Giao đất lâm nghiệp cho tổ chức gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp
Những quy định về giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hô gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp được thể hiện ở Điều 18 Hiến pháp 1992, Điều 1, Điều 20 Luật Đất đai năm 1993, các Điều 2, 28, 33, 36 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991, Luật Đất đai năm 1993 và luật sửa đổi bổ sung năm 1998, 2001. Nghị định 02/CP ngày 15/01/1994, Nghị định số 163/1999/NĐ - CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ và một số văn bản dưới luật có liên quan khác, đã được thể hiện bằng các quy định cụ thể về: Quỹ đất được giao, căn cứ quyết định giao, thời hạn giao và hạn mức được giao [17].
* Đối tượng giao đất lâm nghiệp để sử dụng ổn định, lâu dài
- Các tổ chức như: Ban quản lý các khu rừng phòng hộ, khu rừng đặc dụng, các doanh nghiệp lâm nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, các trạm trại, xí nghiệp giống lâm nghiệp, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, trường học, trường dạy nghề.
- Các hộ gia đình, cá nhân trực tiếp lao động nông nghiệp, lâm nghiệp mà nguồn sống chủ yếu là thu nhập có được từ các hoạt động sản xuất đó, được UBND xã nơi có đất lâm nghiệp xác nhận.
- Các hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất theo Nghị định 02/CP từ trước ngày 15/1/1994 thì được tiếp tục sử dụng cho đến hết thời hạn đã được giao và được cấp GCNQSDĐ.
* Quỹ đất lâm nghiệp để giao, cho thuê
- Gồm toàn bộ đất có rừng tự nhiên, đất có rừng trồng và đất chưa có rừng đã được quy hoạch để trồng cây gây rừng khoanh nuôi, bảo vệ thảm thực vật, không phân biệt độ dốc được tính vào quỹ đất lâm nghiệp để giao cho hộ gia đình, cá nhân quản lý, sử dụng ổn định lâu dài.
- Tuỳ thuộc vào từng mục đích sử dụng đất lâm nghiệp, từng loại rừng đã quy hoạch để giao đất, cho thuê đất cho từng đối tượng cụ thể:
+ Nhà nước giao cho các tổ chức (ban quản lý, các doanh nghiệp lâm nghiệp, nông nghiệp) quản lý sử dụng ổn định lâu dài: Toàn bộ đất lâm nghiệp là rừng đặc dụng và rừng phòng hộ đầu nguồn xung yếu và rất xung yếu; Rừng phòng hộ đầu nguồn ít xung yếu và các loại rừng phòng hộ khác tập trung, xa khu dân cư; Đất lâm nghiệp là rừng sản xuất tập trung, xa khu dân cư; Đất lâm nghiệp dự trữ quốc gia.
+ Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài những loại đất lâm nghiệp sau: Đất có rừng tự nhiên, rừng trồng, đất để trồng rừng mà hộ gia đình, cá nhân đang trực tiếp quản lý sử dụng hợp pháp, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã giao trong những năm trước đây; Đất có rừng hoặc chưa có rừng thuộc phòng hộ đầu nguồn ít xung yếu, rừng chắn gió, chắn cát, chắn sóng lấn biển đã ổn định, rừng sản xuất nằm xen kẽ trong các khu dân cư, gần vùng dân cư, đất chưa có rừng của rừng bảo vệ sinh thái.
+ Nhà nước giao cho các Chi cục kiểm lâm trực tiếp quản lý các vùng đất lâm nghiệp chưa giao được cho các chủ cụ thể.
* Căn cứ để quyết định giao đất lâm nghiệp
Căn cứ để quyết định giao đất được quy định tại Điều 19 Luật Đất đai, Điều 10 Luật bảo vệ rừng và phát triển rừng và Điều 4 của NĐ 02/CP ngày 15/1/1994, Nghị định 163/1999/NĐ - CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ [7],[9]:
- Giao đất lâm nghiệp phải dựa trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, khoanh định rõ các loại đất, quy hoạch đất lâm nghiệp xác định các loại rừng trên từng địa bàn cụ thể.
- Căn cứ vào quỹ đất lâm nghiệp của từng địa phương.
- Căn cứ vào nhu cầu, khẳ năng sử dụng đất lâm nghiệp của các tổ chức được ghi trong luận chứng kinh tế kỹ thuật hay trong dự án quản lý xây dựng khu rừng đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt, đơn xin giao đất lâm nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được UBND cấp xã nơi cư trú xác nhận.
- Căn cứ vào kế hoạch nguồn vốn đầu tư hỗ trợ hàng năm của Nhà nước (đối với trường hợp việc giao đất lâm nghiệp có gắn với thực hiện các dự án đầu tư hỗ trợ bằng vốn của Nhà nước).
* Thời gian giao đất lâm nghiệp sử dụng ổn định lâu dài
- Các tổ chức của Nhà nước, thời hạn giao được quy định theo quy hoạch kế hoạch sử dụng đất của Nhà nước.
- Tổ chức khác, hộ gia đình, cá nhân là 50 năm, hết thời hạn quy định nếu người sử dụng vẫn có nhu cầu và sử dụng đất đúng mục đích thì Nhà nước giao tiếp [17]:
* Hạn mức đất được giao
Giao đất lâm nghiệp không phải hạn mức, tuỳ thuộc vào quỹ đất của từng địa phương, trước tiên là địa bàn xã, trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất đai, quy hoạch các loại rừng, nhu cầu sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân kết hợp với yêu cầu quản lý của Nhà nước đối với từng loại rừng với yêu cầu cụ thể để giải quyết định hạn mức giao cho từng đối tượng, dựa trên nguyên tắc mọi tổ chức, hộ gia đình cá nhân có nhu cầu, khả năng sử dụng đất lâm nghiệp hoặc theo nhiệm vụ được giao quản lý của dự án. Đảm bảo cho các đối tượng thực sự có đất để bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái tạo rừng, mở rộng diện tích trồng rừng mới, đảm bảo cho các thành phần kinh tế có nhu cầu khả năng sử dụng đất lâm nghiệp để xây dựng cơ cấu kinh tế miền núi theo hướng chuyển sang cơ cấu kinh tế hàng hoá, phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng dân tộc, phát huy thế mạnh lâm nghiệp, cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả [17]:
2). Giao khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất lâm nghiệp
* Đối tượng được giao khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất lâm nghiệp
- Nông trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh, công ty, xí nghiệp, trạm trại, trực tiếp sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản. Các ban quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang được phép giao khoán phần đất lâm nghiệp đã được Nhà nước giao để sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp, cho các đối tượng sau [19]:
+ Hộ gia đình, cá nhân hoặc một nhóm hộ gia đình là công nhân viên chức đang làm việc ngay trong đơn vị giao khoán.
+ Hộ gia đình, cá nhân đã làm việc cho các doanh nghiệp nay nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp và thành viên trong gia đình họ đến tuổi lao động có nhu cầu nhận khoán.
+ Hộ gia đình, cá nhân cư trú tại địa phương được UBND cấp xã xác nhận.
+ Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân ở các địa phương khác có vốn đầu tư vào sản xuất theo quy hoạch của các đơn vị giao khoán.
* Giao đất lâm nghiệp đựơc tiến hành trên cơ sở
- Quỹ đất lâm nghiệp đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định giao cho các đơn vị khoán.
- Dự án khả thi hoặc dự án đầu tư đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Vốn, lao động của bên nhận khoán.
- Các chính sách đầu tư hỗ trợ vốn của Nhà nước và các chính sách lao động khác có liên quan.
- Đảm bảo lợi ích của bên giao khoán, bên nhận khoán.
- Giao khoán đất gắn liền với cây trồng, vật nuôi và giá trị tài sản khác trên đất.
- Việc giao khoán và nhận khoán phải thông qua hợp đồng.
* Thời hạn giao khoán đất lâm nghiệp
- Rừng phòng hộ và đặc dụng là 50 năm.
- Rừng sản xuất: Tuỳ theo chu kỳ kinh doanh.
* Nội dung giao khoán đất lâm nghiệp tùy theo từng loại rừng
- Rừng phòng hộ: Khoán các khâu bảo vệ rừng, khoanh nuôi, tái sinh rừng, trồng rừng mới theo quy hoạch. Nhà nước cấp kinh phí hàng năm để trả cho bên nhận khoán.
- Rừng đặc dụng: Khu vực cần bảo tồn nguyên vẹn chỉ khoán cho các hộ sống xen kẽ trong khu vực bảo tồn để bảo vệ rừng. Khu vực cần phục hồi tái sinh thì khoán bảo vệ và gây trồng rừng mới, được Nhà nước cấp kinh phí.
- Rừng sản xuất: Khoán bảo vệ, khoanh nuôi phục hồi đối với đất có rừng tự nhiên. Còn đất trống thì khoán đất để người nhận khoán tự bỏ vốn trồng, khi khai thác phải bán sản phẩm theo hợp đồng, nếu Nhà nước bổ vốn thì bên nhận khoán phải hoàn trả vốn và bán sản phẩm cho bên giao khoán.
3). Quyền và nghĩa vụ của người được giao đất lâm nghiệp
- Tổ chức, hộ gia đình cá nhân được giao đất lâm nghiệp để sử dụng ổn định, lâu dài vào sản xuất lâm nghiệp không phải trả tiền sử dụng đất trên toàn bộ diện tích được giao, được cấp GCNQSDĐ. Hộ gia đình cá nhân được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế quyền sử dụng đất lâm nghiệp được giao. Các tổ chức được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất trong thời hạn được giao để liên doanh với các tổ chức và cá nhân trong nước, ngoài nước để phát triển sản xuất. Bên cạnh đó thì không được sử dụng đất sai mục đích, không được bỏ hoang [3]:
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao khoán đất phải chủ động sản xuất và được hưởng thành quả lao động kết quả đầu tư trên đất nhận khoán. Bên nhận khoán được bồi thường thiệt hại khi bên giao khoán vi phạm hợp đồng.
Ngoài ra bên nhận khoán phải thực hiện một số nghĩa vụ sau:
+ Nộp cho bên giao khoán các khoản như: Thuế sử dụng đất, giá trị cây trồng, vật nuôi và các công trình trực tiếp phục vụ sản xuất trên đất giao khoán do vốn bên khoán đã đầu tư theo hợp đồng.
+ Thanh toán với bên giao khoán các khoản vay bằng tiền, vật tư hoặc các khoản dịch vụ ứng trước.
+ Bán sản phẩm sản xuất ra trên đất nhận khoán cho bên giao khoán theo hợp đồng.
+ Sử dụng đất đúng mục đích, đúng quy hoạch của bên giao khoán, bảo vệ cải tạo đất không làm thoái hoá đất.
+ Bồi thường thiệt hại cho bên giao khoán khi vi phạm hợp đồng.
+ Trả lại đất khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thu hồi theo quy định của Pháp luật.
Kết quả của chính sách giao đất lâm nghiệp đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc sử dụng đất và đời sống kinh tế: Làm cho việc sử dụng đất hợp lý hơn và mức độ thâm canh cao hơn. Từng hộ đã chủ động sản xuất và biết cách chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhằm năng cao đời sống, kinh tế. Các hộ gia đình được đầu tư từ các chương trình biết kết hợp chặt chẽ khoanh nuôi, tái sinh và trồng rừng với phát triển kinh tế hộ giao đình, vì thế cuộc sống của nhiều hộ nông dân được cải thiện.
Chính sách giao đất lâm nghiệp cũng tác động đến xã hội và môi trường: Việc giao đất đã làm cho mảnh đất có chủ thực sự, người dân có ý thức hơn trong việc bảo vệ rừng được giao, có thêm thu nhập. Công tác khoanh nuôi, bảo vệ rừng mà màu xanh rừng ngày càng nhiều hơn, giữ được rừng, bảo vệ nguồn nước. Tình trạng di dân tự do được hạn chế đáng kể, người sử dụng đất đã có quỹ đất để xây dựng kế hoạch luân canh nương dẫy.
2.2.2.3. Giai đoạn từ năm 2003 trở lại đây.
Tại kỳ họp Quốc hội Khoá IX kỳ họp thứ IV ngày 26/11/2003 ban hành Luật số 13/2003/QH11 thay thế Luật Đất đai năm 1993, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và năm 2001. Luật này có nhiều quy định mới, quy định về nội dung quản lý Nhà nước về đất đai bao gồm 13 nội dung, quy định về phân loại đất dựa vào mục đích sử dụng bao gồm 3 nhóm đất chính: đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp, đất chưa sử dụng, trong đó đất nông nghiệp bao gồm 8 loại đất, đất phi nông nghiệp bao gồm 10 loại đất [4]:
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 và Nghị định số 181/2004/ NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 thì hạn mức giao đất nông nghiệp cho các hộ gia đình như sau:
- Đối với đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối của mỗi hộ gia đình không quá ba 3 ha cho mỗi loại đất cho các tỉnh thành phố trực thuộc TW thuộc khu vực Đông Nam Bộ và khu vực đồng bằng sông Cửu Long; không quá hai 2 ha cho mỗi loại đất đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc TW khác.
- Hạn mức trồng cây lâm nghiệp cho mỗi hộ gia đình không quá mười 10 ha đối với các xã, phường, thị trấn ở đồng bằng; không quá ba mươi 30 ha đối với xã, phường, thị trấn ở trung du, miền núi.
- Hạn mức giao đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất cho mỗi hộ gia đình, cá nhân không quá ba mươi 30 ha đối với mỗi loại đất.
- Trường hợp hộ gia đình được giao nhiều loại đất bao gồm đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối thì tổng hạn mức giao đất không quá năm 5 ha.
Trường hợp hộ gia đình được giao thêm đất trồng cây lâm nghiệp thì hạn mức đất trồng cây lâm nghiệp là không quá năm 5 ha đối với các xã, phường, thị trấn ở đồng bằng; không quá hai mươi lăm 25 ha đối với các xã, phường, thị trấn ở trung du, miền núi.
Trường hợp hộ gia đình được giao thêm đất rừng sản xuất thì tổng hạn mức giao đất rừng sản xuất là không quá hai mươi lăm 25 ha.
- Hạn mức đất giao đất trống, đồi núi trọc, đất có mặt nước thuộc nhóm đất chưa sử dụng cho hộ gia đình, cá nhân đưa vào sử dụng theo quy hoạch để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối không quá hạn mức giao đất quy định đối với đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất và không tính vào hạn mức giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình quy định cho các loại đất này.
* Tóm lại:
Chủ trương chính sách giao đất nông, lâm nghiệp trên nhằm thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng là đảm bảo cho người sản xuất nông, lâm nghiệp có đất để sản xuất, từng bước củng cố quan hệ sản xuất mới ở nông thôn. Đây là cơ sở để hộ gia đình, cá nhân yên tâm đầu tư, nâng cao hiệu quả kinh tế trong việc sử dụng đất, tạo ra động lực thúc đẩy nền sản xuất nông nghiệp nông thôn.
2.3. Kết quả giao đất nông - lâm nghiệp ở nước ta.
2.3.1. Kết quả giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình.
Thực hiện Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993, Nghị định 85/1999/NĐ-CP ngày 28/8/1999 của Chính phủ về giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích nông nghiệp, tính đến 12/2006, kết quả giao đất và cấp GCNQSDĐ của các địa phương trên phạm vi toàn quốc đến nay đã có trên 8000 xã tiến hành giao đất nông nghiệp, để sử dụng ổn định lâu dài cho gần 11 triệu hộ nông dân (chiếm khoảng 80% tổng số hộ) với 45.946.000 nhân khẩu. Trong gần 9,29 triệu ha đất nông nghiệp của cả nước, diện tích đã giao trực tiếp cho các hộ gia đình, cá nhân quản lý sử dụng là 8,37 triệu ha (bằng 90%). Chỉ có khoảng 1 triệu ha được giao hoặc cho thuê theo các đối tượng khác như:
- Giao cho các tổ chức kinh tế 633.149,63 ha (6,8%).
- Cho nước ngoài và liên doanh với nước ngoài thuê 8.472,15 ha (0,09%).
- UBND xã quản lý sử dụng 193.797,86 ha (2,08%).
- Các đối tượng khác sử dụng 80.992,55 ha (1,03%).
Các địa phương đã căn cứ vào tình hình, điều kiện cụ thể để lựa chọn những phương án tiến hành giao đất thích hợp, nhằm đảm bảo yêu cầu vừa ổn định, vừa phát triển sản xuất.
Phần lớn các tỉnh, thành phố phía Bắc (trừ một số tỉnh miền núi) và duyên hải miền trung đều kế thừa những kết quả giao khoán đất cho hộ nông dân khi thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 5/4/1988 của Bộ Chính trị, cách giao khoán này, phù hợp với tinh thần giao đất theo Nghị định 64/CP của Chính phủ, nên các địa phương không phải điều chỉnh nhiều.
Các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây nguyên và Nam Bộ trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai, đã tổ chức các hộ nông dân thương lượng với nhau dưới sự chỉ đạo chính quyền địa phương, nên khi thực hiện giao đất nông nghiệp, chủ yếu là căn cứ vào hiện trạng sử dụng đất để giao đất cho hộ gia đình và cá nhân.
2.3.2. Kết quả giao đất lâm nghiệp cho hộ gia đình.
Thực hiện Nghị định 02/CP ngày 15/1/1994 và Nghị định 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 về việc giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp, kết quả giao đất lâm nghiệp tính đến 12/2006 trên địa bàn cả nước (theo số liệu báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường) như sau:
Tổng diện tích đất lâm nghiệp có rừng đã giao là: 11.266.903,._.hề, nâng cao khả năng áp dụng khoa học kỹ thuật cho lao động nông thôn, thời gian làm việc còn quá nhiều trong ngày, vấn đề an toàn lao động chưa được chú ý. Đã dẫn đến những thiệt hại rủi ro đáng tiếc trong quá trình sản xuất, cũng như nguy cơ ảnh hưởng đến sức khoẻ của người dân.
4.3.3.2. Nâng cao khả năng liên kết sản xuất nông, lâm nghiệp, củng cố mối quan hệ đoàn kết cộng đồng, kích thích ý thức làm giàu của người dân.
Qua thực tế đã chứng minh cho thấy sự liên kết để sản xuất nông, lâm nghiệp có vai trò to lớn trong qu á trình phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Qua điều tra các hộ gia đình ở 3 xã cho thấy sau khi giao đất mối quan hệ đoàn kết cộng đồng của bà con nhân dân ngày càng thân thiết hơn, làng xóm ngày càng gắn bó nhiều hơn. Các hộ gia đình giúp nhau sản xuất nông lâm nghiệp, hỗ trợ vốn, khoa học kỹ thuật, giống cây trồng vật nuôi cho nhau cùng phát triển. Bên cạnh đó các gia đình có sự liên kết để hợp tác kinh doanh sản xuất, nông sản bán ra có sự thống nhất về giá cả đầu ra, hoặc các sản phẩm được tập hợp lại để bán.
Qua phỏng vấn 300 hộ gia đình cho thấy: Trong sản xuất có 231 hộ được hỏi cho biết họ có đổi công cho nhau để cùng thu hoạch đồng ruộng vào những ngày mùa, 27 hộ trả lời có đổi đất cho nhau để thuận tiện hơn trong sản xuất, 8 hộ trả lời họ có góp đất cùng nhau để xây dựng các trang trại. Mâu thuẫn giữa các gia đình hoặc trong gia đình giảm dần. Bên cạnh đó chính sách giao đất đã kích thích ý thức làm giàu chính đáng của người dân trên chính mảnh đất được giao, tăng khả năng huy động nguồn lực sẵn có của địa phương cho phát triển kinh tế xã hội.
4.3.4. Hiệu quả của công tác giao đất trong việc bảo vệ môi trường sinh thái.
Rừng có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất cũng như đời sống con người. Rừng là một chỉ tiêu sinh thái quan trọng trong việc sử dụng đất dốc. Đảng và Nhà nước ta coi công tác bảo vệ và phát triển rừng là một trong những nội dung hoạt động bảo vệ môi trường sinh thái, ngăn chặn sự thoái hoá xói mòn đất. Độ che phủ rừng là tiêu chí dùng để đánh giá tình hình bảo vệ và phát triển rừng cũng như hoạt động bảo vệ môi trường.
4.3.4.1. Bảo vệ rừng - trồng rừng.
Qua điều tra về tình hình trồng rừng và bảo vệ rừng ở 3 xã cho thấy:
- Từ khi được giao đất, giao rừng thì quỹ đất nông lâm nghiệp của từng xã đã được xác định, các địa phương đã từng bước hình thành các khu rừng phòng hộ, khu rừng sản xuất. Các dự án như Chương trình 5 triệu ha rừng của Chính phủ về phủ xanh đất trống đồi núi trọc được triển khai trên địa bàn huyện.
- Các địa phương đã xây dựng tổng quan phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2001 - 2010 trong đó có nội dung quan trọng về phủ xanh đất trống đòi núi trọc, đã xác định được cơ cấu sản xuất nông - lâm nghiệp hoặc lâm - nông nghiệp hợp lý, phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng khu vực và tiểu khu vực đảm bảo vừa phát triển sản xuất vừa bảo vệ tốt nhất tài nguyên rừng hiện có.
- Qua kết quả trên cho thấy tác dụng tích cực của công tác giao đất giao rừng tới hộ gia đình. Các hộ gia đình đã chủ động nhận một phần đất chưa sử dụng để cải tạo thành đất sử dụng, cải tạo thành đất nông nghiệp nhờ đó mà diện tích đất nông nghiệp tăng lên, tạo thêm được sản phẩm lương thực, hàng hoá cho xã hội, mức độ che phủ rừng cũng tăng lên nhanh, từ 19,4% (trước khi giao) lên 34,7% (năm 2008). Các hộ gia đình coi đây là tài sản quý giá của gia đình họ, vì vậy mà đất đai đã được chăm sóc màu mỡ dần, màu xanh của rừng đã trở lại trên nhiều diện tích đồi núi trọc.
- Sau khi giao đất giao rừng đã làm giảm đáng kể hiện tượng lấn chiếm đất lâm nghiệp để trồng cây nông nghiệp hàng năm như trồng các loại cây lương thực, cây công nghiệp lâu năm, người dân đã tự nguyện thâm canh trên đất nông nghiệp được giao để bù lại phần lương thực mà trước kia họ làm rẫy mang lại. Nạn cháy rừng vào mùa khô và làm rẫy gần như không đáng kể.
4.3.4.2. Bảo vệ môi trường sinh thái.
Qua phỏng vấn hầu hết các hộ gia đình đều cho rằng nhờ trồng cây và quản lý bảo vệ rừng tốt nên môi trường trong các xã này được cải thiện nhiều.
Chính sách giao đất giao rừng đã làm cho độ che phủ rừng ngày càng tăng, mức độ xói mòn rửa trôi đất giảm. Trong phạm vi các hộ gia đình tới cuối năm 2008 khoảng 62,7% diện tích đất trồng giao cho các hộ đã được trồng cây, phần diện tích chưa được trồng cây mới thì cũng được trông nom chăm sóc những cây có sẵn.
Tính trung bình đã có 35,8% số hộ đã có thu hoạch, sản phẩm lâm nghiệp chủ yếu là tre, luồng, măng, keo… nhưng hiện tại các hộ gia đình có đất rừng chiếm tỷ lệ tương đối cao, nên trong tương lai đây là nguồn thu nhập rất lớn trong tương lai. Những người kinh doanh rừng đều nhận thấy mô hình nông lâm kết hợp có một triển vọng lớn và đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Trong các năm vừa qua, ngành lâm nghiệp cùng các ngành các cấp ở địa phương đã có những hoạt động hỗ trợ và giúp đỡ các hộ gia đình trong công tác trồng lại rừng bằng các hình thức như: Cung cấp vốn hoặc cho vay vốn, cây giống, phân bón và kỹ thuật với điều kiện ưu đãi. Vì vậy công tác bảo vệ môi trường sinh thái ngày càng tốt hơn.
4.3.5. Hiệu quả công tác giao đất giao rừng trong quản lý Nhà nước về đất đai.
Điều tra ở 3 xã cho thấy sau khi giao đất, giao rừng số vụ tranh chấp quyền sử dụng đất, số trường hợp sử dụng đất sai mục đích đã giảm đi.
Bảng 19. So sánh tình hình tranh chấp đất đai và sử dụng đất sai mục đích ở 3 xã điều tra sau khi giao đất
Chỉ tiêu
Tổng số
Tân Thành
Việt Vinh
Hùng An
Năm 1995
Năm 2008
So sánh (+ -,%)
Năm 1995
Năm 2008
Năm 1995
Năm 2008
Năm 1995
Năm 2008
1. Số vụ tranh chấp đất đai (vụ)
38
9
- 76,31
12
2
12
3
14
4
2. Số hộ sử dụng đất sai mục đích (hộ)
46
13
- 71,74
15
5
14
3
17
5
(Số liệu phỏng vấn cán bộ xã ở 3 xã điều tra)
Từ kết quả trên cho thấy số vụ tranh chấp về quyền sử dụng đất năm 1995 là 38 vụ giảm xuống còn 9 vụ năm 2008 (giảm 76,31%), số hộ sử dụng đất sai mục đích năm 1995 là 46 hộ giảm xuống còn 13 hộ năm 2008 (giảm 71,74 %).
Qua tìm hiểu thực tế cho thấy chính sách giao đất đã làm thay đổi nhận thức, mức độ hiểu biết của người dân về pháp luật đất đai, pháp chế rừng và sự ảnh hưởng của các vụ vi phạm pháp luật đất đai đến sự phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ tài nguyên rừng, môi trường sinh thái. Từ đó, nguyên nhân vi phạm pháp luật đất đai ở hai thời điểm trước và sau khi giao đất cũng có sự khác nhau:
- Giai đoạn trước 1995 nguyên nhân gây ra các vụ tranh chấp đất đai là do ranh giới đất đai không rõ ràng, sự hiểu biết pháp luật đất đai của người dân còn hạn chế. Sau khi giao đất các vụ tranh chấp đất đai lại xuất phát từ nguyên nhân mâu thuẫn nội bộ trong gia đình, dòng họ, sự phân chia không rõ ràng diện tích đất cho con cái.
- Nguyên nhân dẫn đến một số trường hợp sử dụng đất sai mục đích trước năm 1995 là do diện tích đất vô chủ còn nhiều, công tác quản lý đất đai còn buông lỏng, người sử dụng đất chưa nhận thức rõ về mục đích sử dụng của từng loại đất, họ tuỳ tiện sử dụng đất. Đến giai đoạn sau khi giao đất các trường hợp sử dụng đất sai mục đích lại do ý thức trách nhiệm của người dân chưa cao hoặc do giá trị kinh tế khi sử dụng đất sai mục đích đó mang lại quá lớn.
Như vậy, chính sách giao đất, giao rừng đến hộ gia đình cá nhân sử dụng ổn định lâu dài, đã có tác dụng tốt hơn trong việc quản lý tài nguyên đất: hạn chế được tình trạng sử dụng đất sai mục đích, giảm bớt các trường hợp tranh chấp đất đai.
4.3.6. Hiệu quả của công tác giao đất giao rừng đến tư tưởng của người dân.
4.3.6.1. Nâng cao ý thức kế hoặch hoá gia đình nhằm giảm áp lực của sự gia tăng dân số đến việc sử dụng đất trong tương lai.
Công tác giao đất, giao rừng đã được thực hiện trong nhiều năm, nên đã góp phần tác động tích cực đến việc điều chỉnh dân số, công tác tuyên truyền vận động sinh đẻ có kế hoạch ngày càng có hiệu quả, tỷ lệ hộ gia đình sinh con thứ 3 rất ít, đã góp phần làm giảm áp lực về gia tăng dân số lên tài nguyên đất đai.
Các gia đình được hỏi về vấn đề này đều nói họ không dám có đông con, vì không còn đất dự trữ để chia lần nữa. Đời sống của các hộ gia đình được nâng lên nên họ đã quan tâm đến chăm sóc con cái từ việc ăn, ở, học hành, ý thức được việc sinh đẻ có kế hoạch để có điều kiện chăm sóc con cái tốt hơn.
Các hộ gia đình đông con lo lắng đất đai để lại cho con, họ mua lại đất từ các hộ ít con hoặc các hộ gia đình có nhiều con gái, các hộ không đủ năng lực sử dụng đất.
4.3.6.2. Hiệu quả của chính sách giao đất, giao rừng trong việc duy trì các phong tục tập quán và bản sắc dân tộc, cùng với việc đẩy lùi các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan, tiến tới xây dựng gia đình và làng xóm văn hoá.
Hiệu quả về kinh tế xã hội và môi trường đã tác động tích cực đến việc xây dựng cũng cố nâng cao trình độ dân trí của người dân. Từng bước đẩy lùi được các phong tục lạc hậu trong đời sống nhân dân, đặc biệt là bà con ở vùng sâu, vùng xa.
Qua thực tế điều tra phỏng vấn Cán bộ văn hoá xã chúng tôi nhận thấy số hộ gia đình đạt chuẩn gia đình văn hoá ở các xã năm 2008 tăng lên 46 % so với năm 1995, số xóm làng văn hoá năm 2008 tăng lên 15 % so với năm 1995. Chính sách giao đất, đã có tác dụng tích cực đến việc giáo dục và nâng cao nhận thức của tầng lớp thanh thiếu niên, trong việc tránh xa các tệ nạn xã hội.
* Nhận xét, đánh giá
- Chính sách giao đất, giao rừng đã có tác động tích cực đến vai trò trách nhiệm của người sử dụng đất đối với tài nguyên đất, trong việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp gắn với các hoạt động của thị trường, kết hợp tốt hiệu quả kinh tế xã hội đi đôi với hiệu quả môi trường.
- Sau khi giao đất việc xây dựng các mô hình nông lâm kết hợp, các trang trại đã phát huy được tác dụng tốt, nâng cao hiệu quả sử dụng đất trên địa bàn. Do vậy, trong tương lai cần nhân rộng nhiều hơn các mô hình đó.
- Mức độ, tính chất và đặc điểm của các trường hợp vi phạm pháp luật đất đai ở các giai đoạn là có sự khác nhau, đã gây ảnh hưởng rất lớn đến quá trình quản lý và sử dụng đất. Từ đó, đòi hỏi các cơ quan quản lý cần có biện pháp cụ thể để giải quyết chấm dứt tình trạng trên.
4.4. ý kiến của người dân về chính sách giao đất và các quyền sử dụng đất.
4.4.1. Tư tưởng của người dân khi được giao đất.
Với chính sách giao đất mới như hiện nay của Nhà nước, qua tìm hiểu tư tưởng của người dân có 100% số hộ gia đình được hỏi đồng tình hưởng ứng. Người dân đều cho rằng chính sách này đã tạo điều kiện cho nông hộ có thêm đất sản xuất và quỹ đất của địa phương sẽ được sử dụng tốt hơn.
4.4.2. Về hạn mức giao đất và thủ tục giao đất.
Nhằm đảm bảo sự công bằng cho các đối tượng sử dụng đất và thể hiện vai trò định hướng của Nhà nước trong việc phân chia quản lý, sử dụng đất trước mắt và lâu dài thì việc quy định hạn mức về diện tích giao đất và thời gian giao đất, giao rừng là một chủ chương đúng đắn, rất cần thiết. Tuy nhiên, vấn đề quy định hạn mức như thế nào cho hợp lý với từng đối tượng và điều kiện thực tế của từng địa phương là điều cần nghiên cứu.
Các hộ đều cho rằng điều kiện để giao đất còn khắt khe, nhất là vấn đề hạn mức đất được nhận còn thấp (nhỏ hơn 2 ha) nên không phù hợp với tập quán canh tác của họ. Đặc biệt một số hộ có nhu cầu nhận thêm đất với diện tích lớn để xây dựng trang trại, nhưng gặp khó khăn trong quy định về hạn mức đất giao. Do đó muốn nhận thêm đất thì phải chuyển sang hình thức thuê đất, khi đó họ sẽ không yên tâm đầu tư sản xuất.
Về ý kiến của hộ gia đình đối với các quy định của Nhà nước và địa phương về thủ tục giao đất nông lâm nghiệp, 100% số hộ trả lời rằng thủ tục giao đất hiện nay là hợp lý, đơn giản hơn nhiều; cho phép mọi nông dân dễ dàng nhận đất sản xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý Nhà nước về đất đai.
4.4.3. Các quyền lợi của người sử dụng đất sau khi nhận đất.
Quyền lợi của người sử dụng đất là vấn đề rộng lớn và phức tạp; ở đây chỉ đề cập đến khía cạnh cơ bản về các quyền sử dụng đất của nông hộ được Nhà nước quy định khi giao đất nông lâm nghiệp. Qua tìm hiểu ý kiến của người dân về quyền lợi của người sử dụng đất khi được giao, 100% hộ gia đình ở 3 xã đều cho rằng các quyền của người sử dụng đất được đảm bảo hơn.
Quyền chuyển đổi: Chuyển đổi sử dụng đất là hình thức đơn giản nhất trong sử dụng đất. Hiện nay bình quân mỗi hộ gia đình đang sử dụng 4.056,29 m2 đất sản xuất nông nghiệp và 8.708,27 m2 đất lâm nghiệp. Tuy nhiên các thửa đất bị phân tán cách xa nhau, manh mún (có thửa diện tích lớn 750 m2, có thửa diện tích nhỏ 85 m2), nguyên nhân của việc phân chia đất đồng đều ‘có gần, có xa, có tốt, có xấu’ đã gây lãng phí đất đai do phải làm nhiều bờ thửa, ảnh hưởng tới quá trình tổ chức sản xuất của hộ gia đình, khó khăn trong việc áp dụng tiến bộ KHKT (Khoa học kỹ thuật) vào thực hiện thâm canh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng.
Khi được hỏi về nhu cầu chuyển đổi, đã có 84 hộ (chiếm 28%) số hộ trả lời có nhu cầu chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ sang ô thửa lớn để tạo điều kiện phát triển sản xuất của gia đình. Các hộ gia đình cho rằng muốn thực hiện quyền chuyển đổi ruộng đất thì phải có kinh phí để quy hoạch lại đồng ruộng, trong khi đời sống kinh tế của các hộ vẫn còn khó khăn mà nguồn kinh phí địa phương thì hạn chế. Do vậy công tác chuyển đổi ruộng đất vẫn chưa thực hiện được.
Quyền chuyển nhượng: Qua điều tra 300 hộ gia đình ở 3 xã cho thấy, các hộ gia đình đều trả lời hiện nay chưa có ngành nghề nào đảm bảo tốt cuộc sống ổn định, nên có một số gia đình đã làm dịch vụ nhưng vẫn giữ diện tích đất được giao để sản xuất bảo đảm lương thực cho gia đình. Tuy nhiên, hầu hết các hộ gia đình đều cho biết quyền chuyển nhượng đất vẫn được chính quyền địa phương bảo đảm thực hiện nghiêm túc theo tinh thần của Luật đất đai. Có 45 hộ (chiếm 15%) đã thực hiện quyền này, trong đó có 19 hộ (6,3%) đã bán một phần đất, hoặc toàn bộ đất đai để chuyển sang ngành nghề khác hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất, hoặc chuyển đi nơi khác, còn lại 24 hộ (8,0%) đã mua đất để mở rộng quy mô sản xuất, giải quyết việc làm cho lao động trong gia đình.
Quyền thế chấp vay vốn: Các hộ gia đình được Nhà nước giao đất, cho thuê đất có quyền quyền thế chấp quyền sử dụng đất tại ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng để vay vốn theo quy định. Đây là điều kiện thuận lợi để các hộ gia đình đầu tư vốn phát triển sản xuất, nhất là đối với hộ nghèo.
Qua điều tra trên địa bàn các xã cho thấy quyền lợi về thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng của các hộ gia đình được đảm bảo thực hiện tốt. Có 222/300 hộ (chiếm 74%) đã thế chấp quyền sử dụng đất tại ngân hàng địa phương để vay vốn sản xuất nông lâm nghiệp, còn 59 hộ (chiếm 19,67%) chưa có nhu cầu vay vốn vì họ đã đủ vốn, một phần họ chưa có đầu tư để sản xuất.
Về quyền (cho thuê, thừa kế, góp vốn bằng quyền sử dụng đất) ít có ảnh hưởng đến quá trình đầu tư phát triển sản xuất của nông hộ trong điều kiện hiện nay.
4.4.4. Tình hình hỗ trợ sản xuất cho nông hộ sau khi nhận đất.
Sau khi giao đất các địa phương đã có các chính sách cụ thể để hỗ trợ cho người dân phát triển sản xuất như: Chính sách ưu đãi vay vốn phát triển sản xuất của ngân hàng chính sách, chương trình kết hợp của các địa phương với các dự án thông qua nhiều hình thức như tập huấn khoa học kỹ thuật, hỗ trợ phân bón, giống cây trồng vật nuôi, thu mua sản phẩm đầu ra cho nhân dân. Tuy nhiên, sự hỗ trợ còn dàn trải, không thường xuyên và đồng bộ. Mặt khác chính sách đầu tư đảm bảo đời sống cho người dân làm nghề rừng hiện tại chưa có, nên các gia đình này gặp nhiều khó khăn, vì họ không đủ đất để sản xuất lương thực hoặc trồng cây nhanh cho sản phẩm phục vụ nhu cầu trước mắt.
* Nhận định, đánh giá
- Đại đa số nhân dân đồng tình với chính sách giao đất giao rừng, họ đã phấn khởi và tự nguyện nhận đất được giao.
- Trong các quyền sử dụng đất của hộ gia đình thì quyền được vay vốn tại ngân hàng, tổ chức tín dụng của Nhà nước có tác dụng rất lớn trong đầu tư vốn để sản xuất nông lâm nghiệp.
- Nhà nước cần phải hỗ trợ kinh phí để thực hiện quy hoạch dồn điền đổi thửa nhằm khắc phục tình trang manh mún ruộng đất, từ đó tạo điều kiện cho hộ gia đình phát triển và mở rộng quy mô sản xuất.
- Các điều kiện thủ tục cho vay vốn tại ngân hàng để phát triển sản xuất vẫn còn khắt khe về điều kiện, mức vốn vay và thời gian cho vay.
(Số liệu tổng hợp từ phiếu điều tra)
4.5. Những tồn tại sau khi giao đất, giao rừng và thách thức cần giải quyết trong quá trình thực hiện chính sách giao đất, giao rừng.
4.5.1. Những vấn đề tồn tại sau khi giao đất giao rừng.
Giao đất, giao rừng là một chủ chương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, nhằm gắn đất đai với người sử dụng đất. Tuy nhiên, sau khi thực hiện chính sách đã bộc lộ một số tồn tại cả về phía cơ quan quản lý Nhà nước và cả phía người được nhận đất. Qua điều tra phỏng vấn trực tiếp cán bộ địa chính tại địa phương và 300 hộ gia đình ở 3 xã đã cho thấy những tồn sau:
4.5.1.1. Về phía cơ quan quản lý Nhà nước.
Công tác giao đất, giao rừng mới chỉ dừng lại ở việc xác định vị trí, diện tích thửa đất, khu rừng của họ ngoài thực địa, nhưng chưa xác định được vị trí, ranh giới rõ ràng trên bản đồ. Qua phỏng vấn thì có 94/300 (31,4%) trả lời họ chưa nắm rõ cụ thể vị trí thửa đất của nhà mình trên bản đồ. Nguyên nhân của vấn đề này là do khi giao đất, giao rừng công tác trích lục thửa đất chưa đầy đủ, thiếu thửa đất giáp ranh và việc giải thích cho người dân chưa được rõ ràng.
Sau khi giao đất, giao rừng cho các hộ gia đình sản xuất thì công tác tập huấn, hướng dẫn cho người dân cách tổ chức sản xuất, chọn cây trồng thích hợp chưa kịp thời và thường xuyên. Vì vậy thời gian đầu người dân lựa chọn hình thức sản xuất chưa được tốt nên hiệu quả sản xuất rất thấp, đất đai bị thoái hoá, rửa trôi nhiều. Một số hộ gia đình qua sản xuất một vụ nếu thấy hiệu quả sản xuất không cao thì họ chuyển sang trồng cây khác.
Diện tích đất giao cho các hộ gia đình không quá 2 ha/hộ (NĐ: 64/CP), diện tích vượt quá phải chuyển sang thuê đã gây khó khăn cho các hộ sản xuất vì trên thực tế các hộ ở vùng cao diện tích sử dụng vượt quá 3 - 5 ha. Vì vậy đã không khích được người dân tham gia sản xuất.
Đất đai không tập trung, manh mún, việc chuyển đổi đất cho nhau để tiện canh, tiện cư gặp nhiều khó khăn. Diện tích đất phân chia không đồng đều giữa các hộ gia đình, hộ thực sự cần đất để sản xuất thì chỉ được giao 4.000m2 - 6.000 m2, có hộ nhận đến 4 ha nhưng chưa có năng lực sản xuất và quản lý.
Thủ tục hành chính về vay vốn, cấp GCNQSDĐ còn phức tạp, rườm rà. Bên cạnh đó nhận thức của người dân còn hạn chế , do đó ảnh hưởng đến tiến độ cấp giấy, không khuyến khích được người dân vay vốn phát triển sản xuất.
Sản phẩm đầu ra của nhân dân chưa được Nhà nước bảo hộ, bao tiêu một cách thường xuyên và hợp lý, dẫn đến tình trạng thừa thiếu, giá cả chênh lệch. Từ đó, gây ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý sản xuất của người dân.
4.5.1.2. Về phía hộ gia đình nhận đất.
Trình độ nhận thức thức của một số hộ gia đình còn hạn chế nên việc hiểu biết về các quy định của việc giao đất, giao rừng còn chưa rõ. Do đó dẫn tới tình trạng một số hộ sử dụng đất chưa đúng với chủ trương chính sách của Nhà nước, sử dụng đất sai mục đích, họ làm nhà ở trên đất nông nghiệp, lâm nghiệp, khai thác rừng bừa bãi, tự do chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chỉ quan tâm đến hiệu quả kinh tế mà ít chú ý đến bảo vệ môi trường.
Một số hộ gia đình chưa có năng lực quản lý và tổ chức sản xuất nông, lâm nghiệp trên đất được giao. Có một số hộ còn nhận và thuê nhiều đất, trong khi chưa có phương thức sản xuất hợp lý dẫn đến hiệu quả kinh tế xã hội không cao, lãng phí tài nguyên đất, làm mất lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước.
4.5.2. Những vấn đề cần giải quyết trong công tác giao đất, giao rừng.
4.5.2.1. Vấn đề tích tụ đất đai trong sử dụng đất nông, lâm nghiệp.
Tích tụ đất đai trong sản xuất nông, lâm nghiệp là một yêu cầu khách quan và mang tính chất tự nhiên của nền sản xuất nông, lâm nghiệp hàng hoá, đây thực chất là quá trình phân công lại lao động ở khu vực nông thôn thông qua việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất [22]. Sau khi giao đất cùng với sự vận động của nền kinh tế thị trường đã tác động mạnh mẽ đến việc quản lý và sử dụng đất: tích tụ ruộng đất có chiều hướng gia tăng, các mô hình sử dụng đất trang trại xuất hiện một cách tự nhiên, bột phát... Do vậy, Nhà nước cần có chính sách hạn điền phù hợp với từng vùng nhằm khuyến khích quá trình tích tụ đất đai thông qua quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê để phát triển nhanh các mô hình trang trại nông lâm kết hợp.
4.5.2.2. Vấn đề nông dân không có đất sản xuất.
Chính sách giao đất, giao rừng đến người nông dân đã cơ bản giúp cho họ có đất để sản xuất. Tuy nhiên, có một số hộ gia đình phát sinh mới sau khi giao đất, hoặc một số hộ gia đình bị thu hồi đất phục vụ cho các mục đích sử dụng khác lại không có đất để sản xuất. Trong khi đó quỹ đất nông, lâm nghiệp của các địa phương đã giao hoặc cho thuê sử dụng hết. Từ đó đã gây ra một số khó khăn cho các hộ gia đình này. Vì vậy, Nhà nước cần phải có chính sách nhằm giải quyết đất đai hoặc có cơ chế hỗ trợ phù hợp, để giải quyết công ăn việc làm cho các hộ gia đình này đảm bảo ổn định cuộc sống.
4.5.2.3. Vấn đề hoàn thành kế hoạch giao đất, lập quy hoạch sử dụng đất sau khi giao đất.
Đối với đất lâm nghiệp thì phụ thuộc vào quá trình tổ chức sản xuất đến đâu, tiến hành giao đất đến đó sao cho phù hợp với quy hoạch, khả năng đầu tư sản xuất của Nhà nước và nhân dân trong xây dựng và phát triển. Không nên quy định máy móc thời gian hoàn thành giao đất, giao rừng mà không căn cứ vào nguồn lực và tiềm năng sẵn có, hạn hẹp của địa phương, đặc biệt phải quan tâm đến chất lượng công tác giao đất, giao rừng.
Các cơ quan chuyên môn cần làm tốt công tác quy hoạch để định hướng cho nhân dân sản xuất, phù hợp với yêu cầu phát triển trong nền kinh tế thị trường. Đối với diện tích đất hoang, đất đồi trọc khó giao hiện tại không có người quản lý sử dụng, Nhà nước có thể cho phép các tổ chức, hộ gia đình cá nhân đầu tư khai phá, họ không chỉ có quyền sử dụng mà có quyền mua bán, chuyển nhượng đất đai đó theo quy hoạch và định hướng của Nhà nước [23].
4.5.2.4. Vấn đề kiểm tra và đánh giá sau khi giao đất, giao rừng.
Sau khi giao đất, giao rừng công tác cấp GCNQSDĐ cần hoàn thiện hơn để tạo điều kiện cho nông dân yên tâm và đầu tư sản xuất. Bên cạnh đó cần kiểm tra đánh giá tình hình sử dụng đất của người nông dân, qua đó biết được ý kiến của họ nhằm đánh giá tình hình sử dụng đất chính xác.
4.5.2.5. Các vấn đề khác.
Nhà nước cùng nhân dân cùng đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng, đường xá, kênh mương để phục vụ tốt cho việc phát triển sản xuất.
5. Kết luận và đề nghị
5.1. Kết luận
1. Huyện Bắc Quang là huyện miền núi nằm phía Tây Nam tỉnh Hà Giang, có khí hậu nhiệt đới gió mùa, tổng diện tích tự nhiên là 110.095,6 ha, gồm 16 dân tộc anh em cùng sinh sống là: Dân tộc Tày chiếm 47,39%, dân tộc Kinh chiếm 25,96% dân số còn lại là các dân tộc khác. Tài nguyên đất đai ở đây phong phú và đa dạng bao gồm đất ruộng, đất đồi, núi. Khí hậu thời tiết thích hợp với phát triển nông lâm nghiệp.
2. Huyện đã triển khai công tác giao đất giao rừng tới các hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Tính đến ngày 31/12/2008 toàn huyện đã triển khai giao đất giao rừng trên địa bàn các xã, thị trấn của huyện theo các loại đất: đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất ở.
Qua việc điều tra tình hình giao đất giao rừng ở 3 xã điều tra cho thấy việc giao đất giao rừng đều được nhân dân đồng tình ủng hộ, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ hiện nay. Tạo ra sự thay đổi trong việc sử dụng đất đai vào sản xuất của hộ gia đình. Cơ cấu sử dụng đất thay đổi, đất chưa sử dụng giảm, hệ số sử dụng đất tăng lên.
Trên địa bàn 3 xã điều tra đã giao là 8.092,34 ha đất nông, lâm nghiệp đạt 71,51% tổng diện tích tự nhiên.
+ Giao được 2.850,42 ha sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, 5.241,92 ha sử dụng vào mục đích lâm nghiệp.
+ Bình quân một hộ gia đình sử dụng 1,18 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp là 0,41 ha/hộ, đất lâm nghiệp là 0,77 ha/hộ.
3. Sau khi giao đất, giao rừng hiệu quả sử dụng đất nông, lâm nghiệp được nâng lên.
- Năng suất lúa tăng từ 31,19 tạ/ha (năm 1995) lên 44,32 tạ /ha năm 2008, năng suất ngô tăng từ 17,08 tạ/ha năm 1995 lên 33,84 tạ/ha năm 2008.
- Thời hạn giao đất kéo dài trong nhiều năm, đã hạn chế được sự gia tăng dân số, góp phần giảm áp lực tăng dân số đối với việc sử dụng đất. Sau khi giao đất, giao rừng đời sống cũng như trình độ dân trí của người dân được nâng lên, tận dụng được thời gian rỗi cho các lao động nông nhàn trong các hộ gia đình. Từ đó, đã đẩy lùi được các phong tục lạc hậu, nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hoá riêng trong đời sống các dân tộc.
- Số vụ tranh chấp đất đai giảm từ 38 vụ năm 1995 xuống còn 9 vụ năm 2008 giảm 76,31%, số trường hợp sử dụng đất sai mục đích giảm từ 46 trường hợp năm 1995 xuống còn 13 trường hợp năm 2008 giảm 71,74%.
- Các hộ gia đình cho rằng sau khi nhận đất nhận rừng thì ý thức bảo vệ đất và môi trường của họ tốt hơn. Đất đai được khai thác và sử dụng hợp lý, hạn chế được xói mòn rửa trôi, diện mạo rừng đã có sự thay đổi cả về chất và lượng.
- Độ che phủ rừng trên địa bàn 3 xã điều tra tăng từ 19,4% (năm 1995) lên 34,7% (năm 2008), độ che phủ rừng đối với toàn huyện tăng từ 20,7% (năm 1995) lên 47,3% (năm 2008). Số vụ cháy rừng sau khi giao đất (năm 2008) giảm 86% so với trước khi giao đất (năm 1995).
5.2. Đề nghị
Để việc quản lý và sử dụng đất sau khi giao đất, giao rừng có hiệu quả tốt hơn chúng tôi xin đưa ra một số đề nghị sau:
1. Quản lý chặt chẽ các hộ gia đình sử dụng đất, có chính sách cụ thể để thúc đẩy quá trình tập trung để sản xuất tạo ra quy mô diện tích đất phù hợp với kỹ thuật và phương thức sản xuất mới hiệu quả.
2. Hoàn thiện sớm việc cấp GCNQSDĐ sau khi giao đất, giao rừng để phát huy tác dụng của giao đất, giao rừng.
3. Tổ chức khuyến nông, khuyến lâm, hỗ trợ đầu tư sản xuất nông, lâm nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
4. Đề tài này mới chỉ đề cập đến tác động của chính sách giao đất, giao rừng ở mức độ tương đối, chưa làm rõ được ảnh hưởng của các chính sách khác. Do đó, trong thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ vấn đề này để việc quản lý và sử dụng đất ngày càng tốt.
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
Ban chấp hành Trung Ương Đảng (1981), “Khoán sản phẩm cho nhân dân cho người lao động", Chỉ thị 100 - CT/TƯ ngày 13/1/1981, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (1997), Quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
Bộ Tài nguyên và Môi trường (1993), “Luật đất đai năm 1993”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ Tài nguyên và Môi trường (2003), “Luật đất đai năm 2003”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Võ Tử Can (1999), Nghiên cứu tác động của một số chính sách đến việc sử dụng đất đai và bảo vệ môi trường, Đề tài cấp bộ, Viện điều tra quy hoạch - Tổng cục địa chính, Hà Nội.
Chính phủ (1993), “Giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp” Nghị định 64 - CP của ngày 27 tháng 9 năm 1993, Hà Nội.
Chính phủ (1994), “Giao đất lâm nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định vào mục đích sản xuất lâm nghiệp", Nghị định 02 - CP của ngày 15 tháng 1 năm 1994, Hà Nội.
Chính phủ (1999), "Về giao đất, cho thuê đất nông nghiệp đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp” Nghị định 85/1999/NĐ - CP ngày 28 tháng 9 năm 1999, Hà Nội.
Chính phủ (1999), "Về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất lâm nghiệp”, Nghị định 163/1999/NĐ - CP ngày 16 tháng 11 năm 1999, Hà Nội.
Nguyễn Sinh Cúc (2001), “Tổng quan nông nghiệp nước ta sau 15 năm đổi mới”, Tạp chí cộng sản (số 5 năm 2001).
Chu Hữu Quý (1945), Chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam sau cách mạng tháng tám, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Mai văn Phấn (1999), Đánh giá hiệu quả sử dụng đất của nông hộ sau khi giao đất giao rừng, Luận văn Thạc sỹ nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghịêp I, Hà Nội.
Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Bắc Quang (1995, 2008), Báo cáo thống kê đất đai huyện Bắc Quang, huyện Bắc Quang.
Phòng Thống kê huyện Bắc Quang (1995, 2008), Niên giám thống kê huyện Bắc Quang, , huyện Bắc Quang.
Lưu Văn Thịnh (2005), Nghiên cứu đánh giá thực trạng và đề xuất quy mô hợp lý sử dụng đất nông lâm nghiệp có hiệu quả của hộ gia đình, Đề tài cấp bộ, Hà Nội.
Thành tựu và thách thức trong quản lý tài nguyên và cải thiện cuộc sống người dân ở trung du miền núi Việt Nam (2001), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tổng cục Địa chính (1997), Các văn bản pháp luật về quản lý đất đai ban hành ở Việt Nam từ 1945 đến 1997 tập 1, 2, NXB Bản đồ, Hà Nội.
Tổng cục địa chính (1998), Báo cáo chuyên đề về chuyển đổi ruộng đất nông nghiệp khắc phục tình trạng manh mún trong sản xuất, Tổng cục Địa chính, Hà Nội.
Tổng cục địa chính (1998), Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành luật đất đai
(1993 - 1998), Hà Nội.
Tổng cục địa chính (2001), Giáo trình luật đất đai, Ban chương trình hợp tác Việt Nam - Thuỵ Điển, Tổng cục Địa chính, Hà Nội
Tổng cục địa chính (2002), Thống kê đất đai Việt Nam các năm 1995 - 2001, Hà Nội.
UBND huyện Bắc Quang (2001), Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội huyện Bắc Quang giai đoạn 2001 – 2010, huyện Bắc Quang.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang (2002), Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện chính sách pháp luật đất đai và những ý kiến đề xuất sửa đổi, tỉnh Hà Giang.
Uỷ ban nhân dân xã Tân Thành (2001), Quy hoạch sử dụng đất đai xã Tân Thành thời kỳ 2001 - 2010, xã Tân Thành.
Uỷ ban nhân dân xã Việt Vinh (2001), Quy hoạch sử dụng đất đai xã Việt Vinh thời kỳ 2001 - 2010, xã Việt Vinh.
Uỷ ban nhân dân xã Hùng An (2001), Quy hoạch sử dụng đất đai xã Hùng An thời kỳ 2005 - 2010, xã Hùng An
Nguyễn Xa (2003), Bài giảng pháp luật đất đai dùng cho cao học ngành quản lý đất đai, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
Tiếng Anh
Land Reform Training institute (1992), The Land Reform Program, Taiwan
United Nations (1996), Land Administration Guidelines With Special , Reference to countries in Transition, New york and Geneva
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn up.doc