Đánh giá thực trạng và đề xuất phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang, giai đoạn 2008 - 2015 theo hướng hiệu quả, bền vững

Tài liệu Đánh giá thực trạng và đề xuất phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang, giai đoạn 2008 - 2015 theo hướng hiệu quả, bền vững: ... Ebook Đánh giá thực trạng và đề xuất phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang, giai đoạn 2008 - 2015 theo hướng hiệu quả, bền vững

doc45 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2591 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá thực trạng và đề xuất phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang, giai đoạn 2008 - 2015 theo hướng hiệu quả, bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài: Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là tài nguyên thiên nhiên không có khả năng tái tạo, là thành phần quan trọng của môi trường sống, là địa bàn phân bố của các khu dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh…Trong quá trình sử dụng đất con người đã làm thay đổi các thuộc tính của đất theo cả hai hướng tốt và xấu; với điều kiện cơ sở vật chất nghèo nàn, trình độ canh tác lạc hậu, nhận thức và tiếp thu khoa hoạc kỹ thuật còn hạn chế dẫn đến đất đai bị xói mòn, rửa trôi, phá vỡ kết cấu đất, nghèo dinh dưỡng, bạc mầu hoá… Nông nghiệp là một ngành sản xuất đặc biệt, là hoạt động có từ xa xưa của loài người và hầu hết các nước trên thế giới đều xây dựng một nền kinh tế từ phát triển nông nghiệp dựa vào khai thác các tiềm năng của đất, trên cơ sở đó để phát triển các ngành khác…Vì vậy, tổ chức sử dụng nguồn tài nguyên đất đai hợp lý, có hiệu quả kinh tế cao là nhiệm vụ quan trọng đảm bảo cho nông nghiệp phát triển bền vững. Việt Nam là một nước nông nghiệp đất chật, người đông, đất đai được sử dụng vào mục đích nông nghiệp chiếm tỷ lệ thấp ( chỉ chiếm 28,43% tổng diện tích đất tự nhiên), nên chỉ số về đất nông nghiệp bình quân đầu người là 1133m2/người. Trong những năm gần đây sản xuất nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào và đã từng bước chuyển sang sản xuất hàng hoá. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn như: ".. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn, phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái của từng vùng; chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, lao động, tạo việc làm, thu hút nhiều lao động nông thôn...Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường…Phát triển các vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung …". Nông nghiệp đã đóng góp gần 20% tổng GDP tính theo giá trị hiện hành và đóng góp tới 70% GDP khu vực nông thôn; tỷ trọng nông nghiệp hàng hoá chiếm khá, nhiều nông sản có giá trị hàng hoá lớn như: lương thực (50% là hàng hoá, trong đó 20% là xuất khẩu), các loại cây công nghiệp chiếm tới (90 - 97% ) . Kim ngạch xuất khẩu nông sản chiếm 30 - 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Cïng víi t¨ng tr­ëng s¶n l­îng vµ s¶n l­îng hµng ho¸ lµ qu¸ tr×nh ®a d¹ng ho¸ c¸c mÆt hµng n«ng s¶n trªn c¬ së khai th¸c lîi thÕ so s¸nh tõng vïng. Tuy nhiên, nền nông nghiệp nước ta vẫn mang dáng dấp của nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, hiệu quả kinh tế thấp không còn phù hợp với kinh tế thị trường thời kỳ hội nhập; bên cạnh đó các nguồn tài nguyên để sản xuất có hạn...Vì vậy phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hiệu quả, bền vững, tạo giá trị lớn về kinh tế đang là mục tiêu của cả nước nói chung và huyện Hiệp Hoà nói riêng. Huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang là huyện thuộc vùng trung du phía Bắc Việt Nam, có diện tích tự nhiên là 20.100,54ha, mặt độ dân số cao ( bình quân 1090 người/km2), gấp > 2lần bình quân chung toàn tỉnh (419 người/km2) và gấp 4 lần bình quân chung cả nước ( 249 người/km2); bao gồm 26 đơn vị hành chính cấp xã. Đất đai của huyện Hiệp Hoà bao gồm 7 loại đất chính, trong đó nhóm đất bạc mầu chiếm gần 40% diện tích đất tự nhiên. Trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp của huyện đã đạt được những kết quả đáng khích lệ; tuy nhiên việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất giữa các tiểu vung, các xã không đồng đều, sản xuất còn manh mún, hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích còn thấp, chưa tạo được vùng thâm canh tập trung, sản phẩm nông nghiệp hàng hoá chưa nhiều, chưa tạo đà cho công nghiệp chế biến nông sản, hiệu quả đồng vốn đầu tư còn thấp... Từ những vấn đề khoa học và thực tiễn sản xuất nông nghiệp đang diễn ra ở huyện Hiệp Hoà như đã trình bày ở trên, để góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển nông nghiệp của huyện đến năm 2015 và lâu dài hơn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: " Đánh giá thực trạng và đề xuất phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang, giai đoạn 2008 - 2015 theo hướng hiệu quả, bền vững" 1.2. Mục đích, yêu cầu nghiên cứu: * Mục đích: - Điều tra, đánh giá hiện trạng sản xuất nông nghiệp của huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang, trên cơ sở đó nhằm góp phần giúp người dân lựa chọn phương thức sản xuất phù hợp với điều kiện cụ thể của huyện huyện Hiệp Hoà. - Định hướng và đề xuất các giải pháp phát triển sản xuất nông nghiệp huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2008 - 2015 theo hướng hiệu quả, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp bền vững, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. * Yêu cầu: - Thu thập các số liệu về hiện trạng phát triển sản xuất nông nghiệp theo 3 tiểu vùng sinh thái ( hạ huyện, trung huyện và vùng thượng huyện) của huyện Hiệp Hoà từ năm 2005 - 2008. - Trong phương án phát triển sản xuất nông nghiệp đề xuất một số mô hình sản xuất tập trung tạo hàng hoá lớn, chất lương đáp ứng nhu cầu của thị trường. PHẦN II TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 2.1. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới và Việt Nam 2.1.1. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới: Đất nông nghiệp là nhân tố vô cùng quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp. Trên thế giới, mặc dù nền sản xuất nông nghiệp của các nước phát triển không giống nhau nhưng tầm quan trọng đối với đời sống con người thì quốc gia nào cũng thừa nhận. Hầu hết các nước coi sản xuất nông nghiệp là cơ sở nền tảng của sự phát triển. Tuy nhiên, khi dân số ngày một tăng nhanh thì nhu cầu lương thực, thực phẩm là một sức ép rất lớn. Để đảm bảo an ninh lương thực loài người phải tăng cường các biện pháp khai hoang đất đai. Do đó, đã phá vỡ cân bằng sinh thái của nhiều vùng, đất đai bị khai thác triệt để và không còn thời gian nghỉ, các biện pháp gìn giữ độ phì nhiêu cho đất chưa được coi trọng. Kết quả là hàng loạt diện tích đất bị thoái hoá trên phạm vi toàn thế giới qua các hình thức bị mất chất dinh dưỡng và chất hữu cơ, bị xói mòn, bị nhiễm mặn và bị phá hoại cấu trúc của tầng đất... Người ta ước tính có tới 15% tổng diện tích đất trên trái đất bị thoái hoá do những hành động bất cẩn của con người gây ra. Theo P.Buringh, toàn bộ đất có khả năng nông nghiệp của thế giới chừng 3,3 tỷ ha (chiếm 22% tổng diện tích đất liền); khoảng 78% (xấp xỉ 11,7 tỷ ha) không dùng được vào nông nghiệp. Đất trồng trọt là đất đang sử dụng, cũng có loại đất hiện tại chưa sử dụng nhưng có khả năng trồng trọt. Đất đang trồng trọt của thế giới có khoảng 1,5 tỷ ha (chiếm xấp xỉ 10,8% tổng diện tích đất đai và 46% đất có khả năng trồng trọt). Như vậy, còn 54% đất có khả năng trồng trọt chưa được khai thác. Đất đai trên thế giới phân bố ở các châu lục không đều. Châu á là nơi có diện tích đất nông nghiệp khá cao so với các châu lục khác nhưng Châu á lại có tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp trên tổng diện tích đất tự nhiên thấp. Mặt khác, Châu á là nơi tập trung phần lớn dân số thế giới, ở đây có các quốc gia dân số đông nhất nhì thế giới là Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia; Châu á, cũng là nơi đất đồi núi chiếm 35% tổng diện tích. Tiềm năng đất trồng trọt nhờ nước trời nói chung là khá lớn khoảng 407 triệu ha, trong đó xấp xỉ 282 triệu ha đang được trồng trọt và khoảng 100 triệu ha chủ yếu nằm trong vùng nhiệt đới ẩm của Đông Nam á. Phần lớn diện tích này là đất dốc và chua; khoảng 40-60 triệu ha trước đây vốn là đất rừng tự nhiên che phủ, nhưng đến nay do bị khai thác khốc liệt nên rừng đã bị phá và thảm thực vật đã chuyển thành cây bụi và cỏ dại. Đất canh tác của thế giới có hạn và được dự đoán là ngày càng tăng do khai thác thêm những diện tích đất có khả năng nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu về lương thực thực phẩm cho loài người. Tuy nhiên, do dân số ngày một tăng nhanh nên bình quân diện tích đất canh tác trên đầu người ngày một giảm. Đông Nam á là một khu vực đặc biệt. Từ số liệu của UNDP năm 1995 cho ta thấy đây là một khu vực có dân số khá đông trên thế giới nhưng diện tích đất canh tác thấp, trong đó chỉ có Thái Lan là diện tích đất canh tác trên đầu người khá nhất, Việt Nam đứng hàng thấp nhất trong số các quốc gia ASEAN. 2.1.2. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp của Việt Nam: Đất sản xuất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp…. Theo kết quả kiểm đất đai năm 2005, Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên là 33.069.348 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp chỉ có 9.415.568 ha, dân số trên 83 triệu người, bình quân diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 1133 m2/người. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nhằm thoả mãn nhu cầu cho xã hội về sản phẩm nông nghiệp đang trở thành vấn đề cấp bách luôn được các nhà quản lý và sử dụng đất quan tâm. Thực tế cho thấy, trong những năm qua do tốc độ công nghiệp hoá cũng như đô thị hoá diễn ra khá mạnh mẽ ở nhiều địa phương trên phạm vi cả nước làm cho diện tích đất nông nghiệp ở Việt Nam có nhiều biến động. Theo kết quả kiểm kê đất đai năm 2005, đất sản xuất nông nghiệp của chúng ta chỉ chiếm 28,43% tổng diện tích đất tự nhiên và diện tích đất chưa sử dụng chiếm 15,30%. Đây là tỷ lệ cho thấy, cần có nhiều biện pháp thiết thực hơn để có thể khai thác được diện tích đất nói trên phục vụ cho các mục đích khác nhau. So với một số nước trên thế giới, nước ta có tỷ lệ đất dùng vào nông nghiệp rất thấp. Là một nước có đa phần dân số làm nghề nông thì bình quân diện tích đất canh tác trên đầu người nông dân rất thấp là một trở ngại to lớn. Để phát triển một nền nông nghiệp đủ sức cung cấp lương thực thực phẩm cho toàn dân và có một phần xuất khẩu cần biết cách khai thác hợp lý đất đai, cần triệt để tiết kiệm đất, sử dụng đất có hiệu quả cao trên cơ sở phát triển một nền nông nghiệp hiệu quả, bền vững. 2.2. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp: 2.2.1. Khái quát về hiệu quả sử dụng đất 2.2.1.1. Bản chất của hiệu quả Bản chất của hiệu quả được xem là: - Việc đáp ứng nhu cầu của con người trong đời sống xã hội. - Việc bảo tồn tài nguyên, nguồn lực để phát triển lâu bền. Do vậy, hiệu quả là một phạm trù trọng tâm rất cơ bản của khoa học kinh tế và quản lý. Việc xác định hiệu quả là việc hết sức khó khăn và phức tạp mà nhiều vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn chưa giải đáp hết. Bản chất của hiệu quả xuất phát từ mục đích của sản xuất và phát triển kinh tế xã hội là đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về đời sống vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong xã hội. Muốn vậy, sản xuất phải không ngừng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Việc nâng cao hiệu quả không chỉ là nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp, mỗi người sản xuất mà là của mọi ngành, mọi vùng. Đây còn là vấn đề mang tính toàn cầu, vì xu hướng chung của thế giới ngày nay là phát triển kinh tế theo chiều sâu, sao cho với nguồn nhân lực hạn chế mà sản xuất ra một lượng sản phẩm hàng hoá có giá trị sử dụng cao nhất với mức hao phí ít nhất. Ngày nay, chúng ta đang sống trong một " Thế giới phẳng" nên con người ngày càng nhận thức được các quy luật tự nhiên, kinh tế- xã hội và môi trường. Trong điều kiện cụ thể của nền kinh tế mở như hiện nay thì mọi hoạt động sản xuất của con người không chỉ quan tâm đến vấn đề kinh tế - xã hội mà vấn đề môi trường ngày càng trở nên quan trọng, tòan cầu cấp bách, đòi hỏi phải được quan tâm đúng mức của mỗi quốc gia Quan niệm về hiệu quả trong điều kiện hiện nay là phải tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tài nguyên trong sản xuất, mang lại lợi ích xã hội và bảo vệ được môi trường. 2.2.1.2. Phân loại hiệu quả Mọi hoạt động sản xuất của con người đều có mục tiêu chủ yếu là kinh tế. Tuy nhiên, kết quả hoạt động đó không chỉ duy nhất đạt được về mặt kinh tế mà đồng thời tạo ra nhiều kết quả liên quan đến đời sống kinh tế xã hội của con người. Những kết quả đó là: - Cải thiện điều kiện sống và làm việc của con người, nâng cao thu nhập. - Cải tạo môi sinh, nâng cao đời sống tinh thần cho người lao động. - Cải tạo môi trường sinh thái, tạo ra một sự phát triển bền vững trong sử dụng đất đai. Để phân loại hiệu quả thì có nhiều cách phân loại khác nhau, nếu căn cứ vào nội dung và cách biểu hiện thì hiệu quả được phân thành 3 loại: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. * Hiệu quả kinh tế Theo C. Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể là quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối một cách có kế hoạch thời gian lao động theo các ngành sản xuất khác nhau, các nhà khoa học Đức (Stenien, Hanau, Rusteruyer, Simmerman - 1995) cho rằng: hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội. Như vậy, hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế chung nhất, là khâu trung tâm của các loại hiệu quả. Hiệu quả kinh tế có vai trò quyết định các hiệu quả còn lại. Bởi vì, trong mọi hoạt động sản xuất con người đều có mục tiêu chủ yếu là khi có được hiệu quả kinh tế thì mới có các điều kiện vật chất để đảm bảo cho các hiệu quả về xã hội và môi trường. Hiệu quả kinh tế có khả năng lượng hoá, tính toán chính xác trong mối quan hệ so sánh giữa lượng kết quả đạt được và chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất. Kết quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là phần các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xét cả về phần so sánh tuyệt đối và so sánh tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai đại lượng đó. Vì vậy, bản chất của phạm trù kinh tế sử dụng đất là với một diện tích đất đai nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất nhiều nhất với một lượng đầu tư chi phí về vật chất và lao động thấp nhất nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội. * Hiệu quả xã hội Hiệu quả xã hội có liên quan mật thiết với hiệu quả kinh tế, nó thể hiện mục tiêu hoạt động kinh tế của con người. Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xã hội và lượng chi phí bỏ ra. Ở đây, hiệu quả xã hội phản ánh những khía cạnh về mối quan hệ xã hội giữa con người với con người như vấn đề công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, định canh, định cư, công bằng xã hội... Hiệu quả xã hội trong sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu được xác định bằng khả năng tạo việc làm trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp. Trong giai đoạn hiện nay, việc đánh giá hiệu quả xã hội của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp là nội dung đang được nhiều nhà khoa học quan tâm. * Hiệu quả môi trường Hiệu quả môi trường là một vấn đề mang tính toàn cầu, ngày nay đang được chú trọng quan tâm và không thể bỏ qua khi đánh giá hiệu quả. Điều này có ý nghĩa là mọi hoạt động sản xuất, mọi biện pháp khoa học kỹ thuật, mọi giải pháp về quản lý... được coi là có hiệu quả khi chúng không gây tổn hại hay có những tác động xấu đến môi trường đất, môi trường nước và môi trường không khí cũng như không làm ảnh hưởng xấu đến môi sinh và đa dạng sinh học. Có được điều đó mới đảm bảo cho một sự phát triển bền vững của mỗi vùng lãnh thổ, mỗi quốc gia cũng như cả cộng đồng quốc tế. Trong sản xuất nông nghiệp hiệu quả môi trường là hiệu quả mang tính lâu dài, vừa đảm bảo lợi ích hiện tại mà không làm ảnh hưởng xấu đến tương lai, nó gắn chặt với quá trình khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên đất và môi trường sinh thái. Bên cạnh cách phân loại hiệu quả nói trên, người ta còn có thể căn cứ vào yêu cầu tổ chức và quản lý kinh tế, căn cứ vào các yếu tố cơ bản về sản xuất, phương hướng tác động vào sản xuất cả về mặt không gian và thời gian. Tuy nhiên, dù nghiên cứu ở bất cứ góc độ nào thì việc đánh giá hiệu quả cũng phải xem xét về mặt không gian và thời gian, trong mối liên hệ chung của toàn bộ nền kinh tế. Ở đó, hiệu quả bao gồm cả hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường với một mối quan hệ mật thiết thống nhất và không thể tách rời nhau. Có như vậy mới đảm bảo cho việc đánh giá hiệu quả được đầy đủ, chính xác và toàn diện. 2.2.2. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo hướng bền vững: 2.2.2.1. Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp bền vững Để duy trì được sự bền vững của đất đai, Smith A.J và Julian Dumanski (1993) đã xác định 5 nguyên tắc có liên quan đến sự sử dụng đất bền vững là: - Duy trì hoặc nâng cao các hoạt động sản xuất. - Giảm mức độ rủi ro đối với sản xuất. - Bảo vệ tiềm năng của các nguồn tài nguyên tự nhiên, chống lại sự thoái hoá chất lượng đất và nước. - Khả thi về mặt kinh tế. - Được xã hội chấp nhận. Như vậy, theo các tác giả, sử dụng đất bền vững không chỉ thuần tuý về mặt tự nhiên mà còn cả về mặt môi trường, lợi ích kinh tế và xã hội. Năm nguyên tắc trên đây là trụ cột của việc sử dụng đất bền vững, nếu trong thực tiễn đạt được cả 5 nguyên tắc trên thì sự bền vững sẽ thành công, ngược lại sẽ chỉ đạt được ở một vài bộ phận hay sự bền vững có điều kiện. Tại Việt Nam, theo ý kiến của Đào Châu Thu và Nguyễn Khang (1995), việc sử dụng đất bền vững cũng dựa trên những nguyên tắc và được thể hiện trong 3 yêu cầu sau: - Bền vững về mặt kinh tế: cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao và được thị trường chấp nhận - Bền vững về mặt môi trường: loại hình sử dụng đất bảo vệ được đất đai, ngăn chặn sự thoái hoá đất, bảo vệ môi trường tự nhiên. - Bền vững về mặt xã hội: thu hút được nhiều lao động, đảm bảo đời sống người dân, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Tóm lại: Hoạt động sản xuất nông nghiệp của con người diễn ra hết sức đa dạng trên nhiều vùng đất khác nhau và cũng vì thế khái niệm sử dụng đất bền vững thể hiện trong nhiều hoạt động sản xuất và quản lý đất đai trên từng vùng đất xác định theo nhu cầu và mục đích sử dụng của con người. Đất đai trong sản xuất nông nghiệp chỉ được gọi là sử dụng bền vững trên cơ sở duy trì các chức năng chính của đất là đảm bảo khả năng sản xuất của cây trồng một cách ổn định, không làm suy giảm về chất lượng tài nguyên đất theo thời gian và việc sử dụng đất không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của con người và sinh vật. 2.2.2.2. Tiêu chí đánh giá tính bền vững: Vào năm 1991, ở Nairobi đã tổ chức Hội thảo về “Khung đánh giá quản lý đất bền vững” đã đưa ra định nghĩa: “Quản lý bền vững đất đai bao gồm tổ hợp các công nghệ, chính sách và hoạt động nhằm liên hợp các nguyên lý kinh tế xã hội với các quan tâm môi trường để đồng thời: - Duy trì, nâng cao sản lượng (hiệu quả sản xuất); - Giảm rủi ro sản xuất (an toàn) - Bảo vệ tiềm năng nguồn lực tự nhiên và ngăn ngừa thoái hoá đất và nước (bảo vệ) - Có hiệu quả lâu dài (lâu bền) - Được xã hội chấp nhận (tính chấp nhận). Năm nguyên tắc trên được coi là trụ cột của sử dụng đất đai bền vững và là những mục tiêu cần phải đạt được, nếu thực tế diễn ra đồng bộ, so với các mục tiêu cần phải đạt được. Nếu chỉ đạt một hay một vài mục tiêu mà không phải tất cả thì khả năng bền vững chỉ mang tính bộ phận. Để đánh giá tính bền vững trong sử dụng đất cần dựa vào 3 tiêu chí sau đây: * Bền vững về kinh tế: Ở đây cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, được thị trường chấp nhận. Hệ thống sử dụng đất phải có mức năng suất sinh học cao trên mức bình quân vùng có cùng điều kiện đất đai. Năng suất sinh học bao gồm các sản phẩm chính và phụ (đối với cây trồng là gỗ, hạt, củ, quả...và tàn dư để lại). Một hệ bền vững phải có năng suất trên mức bình quân vùng, nếu không sẽ không cạnh tranh được trong cơ chế thị trường. Về chất lượng: sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn tiêu thụ tại địa phương, trong nước và xuất khẩu, tùy mục tiêu của từng vùng. Tổng giá trị sản phẩm trên đơn vị diện tích là thước đo quan trọng nhất của hiệu quả kinh tế đối với một hệ thống sử dụng đất. Tổng giá trị trong một giai đoạn hay cả chu kỳ phải trên mức bình quân của vùng, nếu dưới mức đó thì nguy cơ người sử dụng đất sẽ không có lãi, hiệu quả vốn đầu tư phải lớn hơn lãi suất tiền vay vốn ngân hàng. * Bền vững về xã hội: Thu hút được lao động, đảm bảo đời sống và phát triển xã hội. Đáp ứng nhu cầu của nông hộ là điều quan tâm trước, nếu muốn họ quan tâm đến lợi ích lâu dài (bảo vệ đất, môi trường..). Sản phẩm thu được cần thoả mãn cái ăn, cái mặc, và nhu cầu sống hàng ngày của người nông dân. Nội lực và nguồn lực địa phương phải được phát huy. Về đất đai, hệ thống sử dụng đất phải được tổ chức trên đất mà nông dân có quyền hưởng thụ lâu dài, đất đã được giao và rừng đã được khoán với lợi ích các bên cụ thể. Sử dụng đất sẽ bền vững nếu phù hợp với nền văn hoá dân tộc và tập quán địa phương, nếu ngược lại sẽ không được cộng đồng ủng hộ. * Bền vững về môi trường: Loại hình sử dụng đất phải bảo vệ được độ màu mỡ của đất, ngăn chặn thoái hoá đất và bảo vệ môi trường sinh thái. Giữ đất được thể hiện bằng giảm thiểu lượng đất mất hàng năm dưới mức cho phép. Độ phì nhiêu đất tăng dần là yêu cầu bắt buộc đối với quản lý sử dụng bền vững. Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh thái (>35%). Đa dạng sinh học biểu hiện qua thành phần loài (đa canh bền vững hơn độc canh, cây lâu năm có khả năng bảo vệ đất tốt hơn cây hàng năm ...). Ba yêu cầu bền vững trên là để xem xét và đánh giá các loại hình sử dụng đất hiện tại. Thông qua việc xem xét và đánh giá các yêu cầu trên để giúp cho việc định hướng phát triển nông nghiệp ở vùng sinh thái. Tóm lại: khái niệm sử dụng đất đai bền vững do con người đưa ra được thể hiện trong nhiều hoạt động sử dụng và quản lý đất đai theo các mục đích mà con người đã lựa chọn cho từng vùng đất xác định. Đối với sản xuất nông nghiệp việc sử dụng đất bền vững phải đạt được trên cơ sở đảm bảo khả năng sản xuất ổn định của cây trồng, chất lượng tài nguyên đất không suy giảm theo thời gian và việc sử dụng đất không ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của con người, của các sinh vật. 2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 2.2.3.1. Nhóm yếu tố về điều kiện tự nhiên Điều kiện tự nhiên (đất, nước, khí hậu, thời tiết...) có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp (Nguyễn Đình Hợi, 1993), (Vũ Thị Phương Thuỵ, 2000), (Nguyễn Duy Tính, 1995), (Vũ Thị Ngọc Trân, 1996). Bởi vì, các yếu tố của điều kiện tự nhiên là tài nguyên để sinh vật tạo nên sinh khối. Do vậy, cần đánh giá đúng điều kiện tự nhiên để trên cơ sở đó xác định cây trồng vật nuôi chủ lực phù hợp và định hướng đầu tự thâm canh đúng. Theo C.Mác, điều kiện tự nhiên là cơ sở hình thành địa tô chênh lệch I. Theo N. Borlang - người được giải Nobel về giải quyết lương thực cho các nước phát triển cho rằng yếu tố duy nhất quan trọng hạn chế năng suất cây trồng ở tầm cỡ thế giới trong các nước đang phát triển, đặc biệt đối với nông dân thiếu vốn là độ phì đất. 2.2.3.2. Nhóm các yếu tố kinh tế, kỹ thuật canh tác Biện pháp kỹ thuật canh tác là các tác động của con người vào đất đai, cây trồng, vật nuôi nhằm tạo nên sự hài hoà giữa các yếu tố của quá trình sản xuất để hình thành, phân bố và tích luỹ năng suất kinh tế. Đây là những tác động thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về đối tượng sản xuất, về thời tiết, về điều kiện môi trường và thể hiện sự dự báo thông minh và sắc sảo. Lựa chọn các tác động kỹ thuật, lựa chọn chủng loại và cách sử dụng các yếu tố đầu vào phù hợp với các quy luật tự nhiên của sinh vật nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Theo Frank Ellis và Douglass C.North , ở các nước phát triển, khi có tác động tích cực của kỹ thuật, giống mới, thuỷ lợi, phân bón tới hiệu quả thì cũng đặt ra các yêu cầu mới đối với việc sử dụng đất. Có nghĩa là ứng dụng công nghệ sản xuất tiến bộ là một đảm bảo vật chất cho kinh tế nông nghiệp tăng trưởng nhanh. Cho đến giữa thế kỷ XXI, trong nông nghiệp nước ta, quy trình kỹ thuật có thể góp phần đến 30% của năng suất kinh tế . Như vậy, nhóm các yếu tố kỹ thuật đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong quá trình khai thác đất theo chiều sâu và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. 2.2.3.3. Nhóm các yếu tố kinh tế tổ chức Nhóm các yếu tố này bao gồm: - Công tác quy hoạch và bố trí sản xuất Thực hiện phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa vào điều kiện tự nhiên, dựa trên cơ sở phân tích, dự báo và đánh giá nhu cầu của thị trường, gắn với quy hoạch phát triển công nghiệp chế biến, kết cấu hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực và các thể chế pháp luật về bảo vệ tài nguyên, môi trường. Đó là cơ sở để phát triển hệ thống cây trồng, vật nuôi và khai thác đất một cách đầy đủ, hợp lý. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để đầu tư thâm canh và tiến hành tập trung hoá, chuyên môn hoá, hiện đại hoá nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và phát triển sản xuất hàng hoá. - Hình thức tổ chức sản xuất Các hình thức tổ chức sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tổ chức khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Vì thế, phát huy thế mạnh của các loại hình tổ chức sử dụng đất trong từng cơ sở sản xuất là rất cần thiết. Muốn vậy cần phải thực hiện đa dạng hoá các hình thức hợp tác trong nông nghiệp, xác lập một hệ thống tổ chức sản xuất phù hợp và giải quyết tốt mối quan hệ giữa các hình thức đó. 2.2.3.4. Nhóm các yếu tố xã hội Nhóm các yếu tố này bao gồm: - Hệ thống thị trường và sự hình thành của thị trường đất nông nghiệp, thị trường nông sản phẩm. Theo Nguyễn Duy Tính (1995), 3 yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là: năng suất cây trồng, hệ số quay vòng đất, thị trường cung cấp đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra. - Hệ thống chính sách (chính sách đất đai, chính sách điều chỉnh cơ cấu đầu tư, chính sách hỗ trợ...) - Sự ổn định chính trị - xã hội và các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển nông nghiệp của Nhà nước. - Những kinh nghiệm, tập quán sản xuất nông nghiệp, trình độ năng lực của các chủ thể kinh doanh, trình độ đầu tư. Theo Douglas C.North, sự thay đổi công nghệ và sự thay đổi hợp lý các thể chế là những yếu tố then chốt cho sự tiến triển của kinh tế xã hội. 2.3. Sản xuất nông nghiệp đáp ứng nhu cầu hàng hoá và thị trường 2.3.1. Bản chất của nông nghiệp hàng hoá Nông nghiệp là một hoạt động mang tính chất cơ bản của mỗi quốc gia. Nhiều nước trên thế giới có nền kinh tế phát triển, tỉ trọng của sản xuất công nghiệp và dịch vụ trong thu nhập quốc dân chiếm phần lớn, còn nông nghiệp chỉ chiếm một phần nhỏ. Tuy nhiên, những khó khăn trong nông nghiệp đã gây ra không ít xáo động và ảnh hưởng sâu sắc đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Để ngành nông nghiệp có thể thực hiện được vai trò quan trọng của mình đối với nền kinh tế quốc dân đòi hỏi nông nghiệp phải được phát triển toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc để đảm bảo an ninh lương thực và tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản. Ở Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu nông sản đã chiếm tới 30 - 40% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, điển hình như cao su, cà phê, hồ tiêu, chè, lúa... Tuy nhiên, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực và các nước trên thế giới. Điều đó làm cho các sản phẩm hàng hoá khó tiêu thụ, ảnh hưởng đến thu nhập của người sản xuất. Lượng nông sản đã xuất khẩu được trong năm 1999 cao hơn năm 1998, nhưng hầu như đều bị giảm giá. Theo Đặng Hữu (2000) , nguyên nhân sâu xa của tình trạng trên là do bố trí cây trồng, vật nuôi chủ yếu dựa vào tiềm năng tự nhiên mà chưa dựa vào các luận cứ khoa học, chưa tổ chức tốt việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật. Một trong những nguyên nhân của việc xuất khẩu hàng hoá sụt giảm là "chúng ta chưa có tập quán sản xuất nông nghiệp chất lượng cao để cạnh tranh với thị trường thế giới". Mặt khác, số đông nông dân còn thiếu những hiểu biết về kinh tế thị trường, thiếu năng lực, bản lĩnh và trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hoá. Do dó, sản xuất hàng hoá còn mang tính tự phát, thiếu ổn định và thiếu định hướng thị trường. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với phát triển sản xuất nông nghiệp hiện nay là phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá có định hướng và thị trường ổn định. Bên cạnh đó, sản xuất nông nghiệp hàng hoá còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội và môi trường, do đó khả năng rủi ro trong sản xuất là không thể tránh khỏi. Mặt khác, chúng ta chưa hình thành một nền nông nghiệp hàng hoá theo đúng nghĩa cũng như chưa có công nghệ để giải quyết vấn đề này. Chuyển sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá là sự phát triển hợp quy luật, đó là quá trình chuyển nền nông nghiệp truyền thống, lạc hậu sang nền nông nghiệp hiện đại phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sản xuất hàng hoá là quy luật khách quan của mọi hình thái kinh tế xã hội, nó phản ánh trình độ phát triển sản xuất của xã hội đó. Theo Lênin thì nguồn gốc sản xuất hàng hoá là sự phân công lao động xã hội. Vì thế, phân công lao động xã hội càng sâu sắc thì sản xuất hàng hoá càng phát triển. Trước đây là nền kinh tế tự cung tự cấp gắn liền với nền kinh tế đóng cửa và gần như tách biệt với thị trường làm cho nông dân có cuộc sống thấp do năng suất lao động thấp, thế vận động kinh tế hộ nông dân từ tự cấp tự túc lên sản xuất hàng hoá, kích thích sự phát triển kinh tế nông hộ lên sản xuất hàng hoá là đúng quy luật, nhằm tạo ra lực lượng sản xuất mới ở nông thôn, tạo nhiều sản phẩm hàng hoá. Nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá có đặc trưng là cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ văn hoá của người lao động cao. Đó là nền sản xuất nông nghiệp có cơ cấu hợp lý, được hình thành trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế, thế mạnh sản xuất nông nghiệp của từng vùng. Đây là nền nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao, khối lượng hàng hoá nhiều với chủng loại phong phú, đa dạng. Việc đưa nền nông nghiệp sang phát triển sản xuất hàng hoá là quá trình lâu dài và có nhiều khó khăn, phức tạp. Do vậy, cần phải nhanh chóng hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên canh, thâm canh ngày càng cao, phải gắn nông nghiệp với công nghệ chế biến, được thực hiện thông qua việc phân công lại lao động, xã hội hoá sản xuất, ứng dụng các tiến bộ công nghệ mới vào sản xuất. Vậy sản xuất hàng hoá là gì? Đối với hộ nông dân, những sản phẩm được đưa ra bán thì gọi là sản phẩm hàng hoá. Đối với hệ thống trồng trọt, nếu mức sản xuất hàng hoá được bán ra thị trường dưới 50% thì gọi là hệ thống trồng trọt thương mại hoá một phần, nếu trên 50% gọi là hệ thống trồng trọt thương mại hoá tức sản xuất theo hướng hàng hoá. Hàng hoá là sản phẩm của lao động dùng để trao đổi. Sản xuất hàng hoá là sản xuất ra sản phẩm đem bán để thu về giá trị của nó, trong đó phần giá trị thặng dư để tái sản xuất và mở rộng quy mô. Hàng hoá là sản phẩm do người lao động tạo ra, nhưng để trao đổi, sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển dựa trên cơ sở phát triển các phương thức sản xuất và sự phân công lao động xã._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCHQL09002.doc