BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
----------------------------
NGÔ TIẾN DŨNG
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐẾN NĂM 2015 TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HIỆP HOÀ, TỈNH BẮC GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành : QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Mã số : 60.62.16
Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. NGUYỄN XUÂN THÀNH
HÀ NỘI - 2009
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn này
105 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1404 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đánh giá thực trạng và đề xuất phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang, giai đoạn 2008 - 2015 theo hướng hiệu quả, bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ trong quá trình thực hiện luận văn đã được cám ơn, các thông tin trích dẫn đã chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2009
Tác giả luận văn
Ngô Tiến Dũng
LỜI CẢM ƠN
Hà Nội, ngày tháng năm 2009
Tác giả luận văn
Ngô Tiến Dũng
MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục bảng vi
Danh mục biểu đồ vii
DANH MỤC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
4.1 Thời tiết khí hậu huyện hiệp hoà trung bình từ năm 1998- 2008 36
4.1 Đặc điểm đất đai của huyện Hiệp Hòa 39
4.3. Hiện trạng sử dụng đất huyện Hiệp Hoà năm 2008 47
4.4. Cơ cấu các ngành kinh tế của huyện từ 2005 - 2008 49
4.5. Tình hình dân số huyện Hiệp Hoà qua các giai đoạn 50
4.6. Chất lượng nguồn lao động năm 2008 51
4.7. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp và hệ thống cây trồng huyện Hiệp Hoà năm 2008 63
4.8. Hiệu quả kinh tế các kiểu sử dụng đất vùng 1 65
4.9. Hiệu quả kinh tế các kiểu sử dụng đất vùng 2 67
4.10 Hiệu quả kinh tế các kiểu sử dụng đất vùng 3 69
4.11. Tổng hợp hiệu quả kinh tế theo các LUT trên các vùng 71
4.11. Mức đầu tư lao động và thu nhập bình quân trên ngày công lao động của các kiểu sử dụng đất 73
4.12. So sánh mức đầu tư phân bón với tiêu chuẩn phân bón cân đối và hợp lý 77
4.13 Hiện trạng và định hướng sử dụng đất nông nghiệp vùng 1 huyện Hiệp Hoà đến năm 2015 84
4.14 So sánh diện tích cây trồng hiện trạng và định hướng đến 2015 của vùng 1 85
4.15 Hiện trạng và định hướng sử dụng đất nông nghiệp vùng 2 huyện Hiệp Hoà đến năm 2015 86
4.16 So sánh diện tích hiện trạng và định hướng đến 2015 của vùng 2 87
4.17 Hiện trạng và định hướng sử dụng đất nông nghiệp vùng 3 huyện Hiệp Hoà đến năm 2015 89
4.18 So sánh diện tích, nắng suất, sản lượng cây trồng của hiện trạng và định hướng đến 2015 90
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT
Tên biểu đồ
Trang
4.1 Đặc điểm đất đại huyên Hiệp Hoà 39
4.2 Hiện trạng sử dụng đất huyện Hiệp Hoà năm 2008 48
4.3 Cơ cấu kinh tế huyện Hiệp Hoà năm 2008 49
4.4 Cơ cấu lao động huyện Hiệp Hoà năm 2008 51
4.5. Cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp năm 2008 huyện Hiệp Hoà 61
4.6 So sánh GTGT/LĐ từ các kiểu sử dụng đất vùng 1 66
4.7. So sánh GTGT/LĐ từ các kiểu sử dụng đất vùng 2 68
1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là tài nguyên thiên nhiên không có khả năng tái tạo, là thành phần quan trọng của môi trường sống, là địa bàn phân bố của các khu dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh…Trong quá trình sử dụng đất con người đã làm thay đổi các thuộc tính của đất theo cả hai hướng tốt và xấu; với điều kiện cơ sở vật chất nghèo nàn, trình độ canh tác lạc hậu, nhận thức và tiếp thu khoa hoạc kỹ thuật còn hạn chế dẫn đến đất đai bị xói mòn, rửa trôi, phá vỡ kết cấu đất, nghèo dinh dưỡng, bạc mầu hoá…
Nông nghiệp là một ngành sản xuất đặc biệt, là hoạt động có từ xa xưa của loài người và hầu hết các nước trên thế giới đều xây dựng một nền kinh tế từ phát triển nông nghiệp dựa vào khai thác các tiềm năng của đất, trên cơ sở đó để phát triển các ngành khác…Vì vậy, tổ chức sử dụng nguồn tài nguyên đất đai hợp lý, có hiệu quả kinh tế cao là nhiệm vụ quan trọng đảm bảo cho nông nghiệp phát triển bền vững.
Việt Nam là một nước nông nghiệp đất chật, người đông, đất đai được sử dụng vào mục đích nông nghiệp chiếm tỷ lệ thấp (chỉ chiếm 28,43% tổng diện tích đất tự nhiên), nên chỉ số về đất nông nghiệp bình quân đầu người là 1133m2/người. Trong những năm gần đây sản xuất nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào và đã từng bước chuyển sang sản xuất hàng hoá. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn như: ".. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn, phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái của từng vùng; chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, lao động, tạo việc làm, thu hút nhiều lao động nông thôn [ ]...Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường…Phát triển các vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung [ ]…". Nông nghiệp đã đóng góp gần 20% tổng GDP tính theo giá trị hiện hành và đóng góp tới 70% GDP khu vực nông thôn; tỷ trọng nông nghiệp hàng hoá chiếm khá, nhiều nông sản có giá trị hàng hoá lớn như: lương thực (50% là hàng hoá, trong đó 20% là xuất khẩu), các loại cây công nghiệp chiếm tới (90 - 97% ) [32]. Kim ngạch xuất khẩu nông sản chiếm 30 - 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước [5]. Cùng với tăng trưởng sản lượng và sản lượng hàng hoá là quá trình đa dạng hoá các mặt hàng nông sản trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh từng vùng.
Tuy nhiên, nền nông nghiệp nước ta vẫn mang dáng dấp của nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, hiệu quả kinh tế thấp không còn phù hợp với kinh tế thị trường thời kỳ hội nhập; bên cạnh đó các nguồn tài nguyên để sản xuất có hạn...Vì vậy phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hiệu quả, bền vững, tạo giá trị lớn về kinh tế đang là mục tiêu của cả nước nói chung và huyện Hiệp Hoà nói riêng.
Huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang là huyện thuộc vùng trung du phía Bắc Việt Nam, có diện tích tự nhiên là 20.100,54ha, mặt độ dân số cao (bình quân 1090 người/km2), gấp > 2lần bình quân chung toàn tỉnh (419 người/km2) và gấp 4 lần bình quân chung cả nước (249 người/km2); bao gồm 26 đơn vị hành chính cấp xã. Đất đai của huyện Hiệp Hoà bao gồm 7 loại đất chính, trong đó nhóm đất bạc mầu chiếm gần 40% diện tích đất tự nhiên. Trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp của huyện đã đạt được những kết quả đáng khích lệ; tuy nhiên việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất giữa các tiểu vung, các xã không đồng đều, sản xuất còn manh mún, hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích còn thấp, chưa tạo được vùng thâm canh tập trung, sản phẩm nông nghiệp hàng hoá chưa nhiều, chưa tạo đà cho công nghiệp chế biến nông sản, hiệu quả đồng vốn đầu tư còn thấp...
Từ những vấn đề khoa học và thực tiễn sản xuất nông nghiệp đang diễn ra ở huyện Hiệp Hoà như đã trình bày ở trên, để góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển nông nghiệp của huyện đến năm 2015 và lâu dài hơn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: " Đánh giá thực trạng và đề xuất phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang, giai đoạn 2008 - 2015 theo hướng hiệu quả, bền vững"
1.2 Mục đích, yêu cầu nghiên cứu
1.2.1 Mục đích
- Điều tra, đánh giá hiện trạng sản xuất nông nghiệp của huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang, trên cơ sở đó nhằm góp phần giúp người dân lựa chọn phương thức sản xuất phù hợp với điều kiện cụ thể của huyện Hiệp Hoà.
- Định hướng và đề xuất các giải pháp phát triển sản xuất nông nghiệp huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2008 - 2015 theo hướng hiệu quả, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp bền vững, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
1.2.2 Yêu cầu
- Thu thập các số liệu về hiện trạng phát triển sản xuất nông nghiệp theo 3 tiểu vùng sinh thái (Hạ huyện, Trung huyện và vùng Thượng huyện) của huyện Hiệp Hoà từ năm 2005 - 2008.
- Trong phương án phát triển sản xuất nông nghiệp đề xuất một số mô hình sản xuất tập trung tạo hàng hoá lớn, chất lương đáp ứng nhu cầu của thị trường.
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới và Việt Nam
2.1.1. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới
Đất nông nghiệp là nhân tố vô cùng quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp. Trên thế giới, mặc dù nền sản xuất nông nghiệp của các nước phát triển không giống nhau nhưng tầm quan trọng đối với đời sống con người thì quốc gia nào cũng thừa nhận. Hầu hết các nước coi sản xuất nông nghiệp là cơ sở nền tảng của sự phát triển. Tuy nhiên, khi dân số ngày một tăng nhanh thì nhu cầu lương thực, thực phẩm là một sức ép rất lớn. Để đảm bảo an ninh lương thực loài người phải tăng cường các biện pháp khai hoang đất đai. Do đó, đã phá vỡ cân bằng sinh thái của nhiều vùng, đất đai bị khai thác triệt để và không còn thời gian nghỉ, các biện pháp gìn giữ độ phì nhiêu cho đất chưa được coi trọng. Kết quả là hàng loạt diện tích đất bị thoái hoá trên phạm vi toàn thế giới qua các hình thức bị mất chất dinh dưỡng và chất hữu cơ, bị xói mòn, bị nhiễm mặn và bị phá hoại cấu trúc của tầng đất... Người ta ước tính có tới 15% tổng diện tích đất trên trái đất bị thoái hoá do những hành động bất cẩn của con người gây ra [40]. Theo P.Buringh [50], toàn bộ đất có khả năng nông nghiệp của thế giới chừng 3,3 tỷ ha (chiếm 22% tổng diện tích đất liền); khoảng 78% (xấp xỉ 11,7 tỷ ha) không dùng được vào nông nghiệp.
Đất trồng trọt là đất đang sử dụng, cũng có loại đất hiện tại chưa sử dụng nhưng có khả năng trồng trọt. Đất đang trồng trọt của thế giới có khoảng 1,5 tỷ ha (chiếm xấp xỉ 10,8% tổng diện tích đất đai và 46% đất có khả năng trồng trọt). Như vậy, còn 54% đất có khả năng trồng trọt chưa được khai thác [50].
Đất đai trên thế giới phân bố ở các châu lục không đều. Châu á là nơi có diện tích đất nông nghiệp khá cao so với các châu lục khác nhưng Châu á lại có tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp trên tổng diện tích đất tự nhiên thấp. Mặt khác, Châu á là nơi tập trung phần lớn dân số thế giới, ở đây có các quốc gia dân số đông nhất nhì thế giới là Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia; Châu á, cũng là nơi đất đồi núi chiếm 35% tổng diện tích. Tiềm năng đất trồng trọt nhờ nước trời nói chung là khá lớn khoảng 407 triệu ha, trong đó xấp xỉ 282 triệu ha đang được trồng trọt và khoảng 100 triệu ha chủ yếu nằm trong vùng nhiệt đới ẩm của Đông Nam á. Phần lớn diện tích này là đất dốc và chua; khoảng 40-60 triệu ha trước đây vốn là đất rừng tự nhiên che phủ, nhưng đến nay do bị khai thác khốc liệt nên rừng đã bị phá và thảm thực vật đã chuyển thành cây bụi và cỏ dại.
Đất canh tác của thế giới có hạn và được dự đoán là ngày càng tăng do khai thác thêm những diện tích đất có khả năng nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu về lương thực thực phẩm cho loài người. Tuy nhiên, do dân số ngày một tăng nhanh nên bình quân diện tích đất canh tác trên đầu người ngày một giảm.
Đông Nam á là một khu vực đặc biệt. Từ số liệu của UNDP năm 1995 [22] cho ta thấy đây là một khu vực có dân số khá đông trên thế giới nhưng diện tích đất canh tác thấp, trong đó chỉ có Thái Lan là diện tích đất canh tác trên đầu người khá nhất, Việt Nam đứng hàng thấp nhất trong số các quốc gia ASEAN.
2.1.2. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp của Việt Nam
Đất sản xuất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp… [33]. Theo kết quả kiểm đất đai năm 2005, Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên là 33.069.348 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp chỉ có 9.415.568 ha, dân số trên 83 triệu người, bình quân diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 1133 m2/người [39]. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nhằm thoả mãn nhu cầu cho xã hội về sản phẩm nông nghiệp đang trở thành vấn đề cấp bách luôn được các nhà quản lý và sử dụng đất quan tâm. Thực tế cho thấy, trong những năm qua do tốc độ công nghiệp hoá cũng như đô thị hoá diễn ra khá mạnh mẽ ở nhiều địa phương trên phạm vi cả nước làm cho diện tích đất nông nghiệp ở Việt Nam có nhiều biến động. Theo kết quả kiểm kê đất đai năm 2005 [39], đất sản xuất nông nghiệp của chúng ta chỉ chiếm 28,43% tổng diện tích đất tự nhiên và diện tích đất chưa sử dụng chiếm 15,30%. Đây là tỷ lệ cho thấy, cần có nhiều biện pháp thiết thực hơn để có thể khai thác được diện tích đất nói trên phục vụ cho các mục đích khác nhau. So với một số nước trên thế giới, nước ta có tỷ lệ đất dùng vào nông nghiệp rất thấp. Là một nước có đa phần dân số làm nghề nông thì bình quân diện tích đất canh tác trên đầu người nông dân rất thấp là một trở ngại to lớn. Để phát triển một nền nông nghiệp đủ sức cung cấp lương thực thực phẩm cho toàn dân và có một phần xuất khẩu cần biết cách khai thác hợp lý đất đai, cần triệt để tiết kiệm đất, sử dụng đất có hiệu quả cao trên cơ sở phát triển một nền nông nghiệp hiệu quả, bền vững.
2.2. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
2.2.1. Khái quát về hiệu quả sử dụng đất
2.2.1.1 Bản chất của hiệu quả được hiểu như sau
- Việc đáp ứng nhu cầu của con người trong đời sống xã hội.
- Việc bảo tồn tài nguyên, nguồn lực để phát triển lâu bền.
Do vậy, hiệu quả là một phạm trù trọng tâm rất cơ bản của khoa học kinh tế và quản lý. Việc xác định hiệu quả là việc hết sức khó khăn và phức tạp mà nhiều vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn chưa giải đáp hết. Bản chất của hiệu quả xuất phát từ mục đích của sản xuất và phát triển kinh tế xã hội là đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về đời sống vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong xã hội. Muốn vậy, sản xuất phải không ngừng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Việc nâng cao hiệu quả không chỉ là nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp, mỗi người sản xuất mà là của mọi ngành, mọi vùng. Đây còn là vấn đề mang tính toàn cầu, vì xu hướng chung của thế giới ngày nay là phát triển kinh tế theo chiều sâu, sao cho với nguồn nhân lực hạn chế mà sản xuất ra một lượng sản phẩm hàng hoá có giá trị sử dụng cao nhất với mức hao phí ít nhất.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một " Thế giới phẳng" nên con người ngày càng nhận thức được các quy luật tự nhiên, kinh tế- xã hội và môi trường. Trong điều kiện cụ thể của nền kinh tế mở như hiện nay thì mọi hoạt động sản xuất của con người không chỉ quan tâm đến vấn đề kinh tế - xã hội mà vấn đề môi trường ngày càng trở nên quan trọng, toàn cầu cấp bách, đòi hỏi phải được quan tâm đúng mức của mỗi quốc gia
Quan niệm về hiệu quả trong điều kiện hiện nay là phải tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tài nguyên trong sản xuất, mang lại lợi ích xã hội và bảo vệ được môi trường.
2.2.1.2. Phân loại hiệu quả
Mọi hoạt động sản xuất của con người đều có mục tiêu chủ yếu là kinh tế. Tuy nhiên, kết quả hoạt động đó không chỉ duy nhất đạt được về mặt kinh tế mà đồng thời tạo ra nhiều kết quả liên quan đến đời sống kinh tế xã hội của con người [7]. Những kết quả đó là:
- Cải thiện điều kiện sống và làm việc của con người, nâng cao thu nhập.
- Cải tạo môi sinh, nâng cao đời sống tinh thần cho người lao động.
- Cải tạo môi trường sinh thái, tạo ra một sự phát triển bền vững trong sử dụng đất đai.
Để phân loại hiệu quả thì có nhiều cách phân loại khác nhau, nếu căn cứ vào nội dung và cách biểu hiện thì hiệu quả được phân thành 3 loại: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường.
* Hiệu quả kinh tế
Theo C. Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể là quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối một cách có kế hoạch thời gian lao động theo các ngành sản xuất khác nhau, các nhà khoa học Đức (Stenien, Hanau, Rusteruyer, Simmerman - 1995) cho rằng: hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội [46].
Như vậy, hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế chung nhất, là khâu trung tâm của các loại hiệu quả. Hiệu quả kinh tế có vai trò quyết định các hiệu quả còn lại. Bởi vì, trong mọi hoạt động sản xuất con người đều có mục tiêu chủ yếu là khi có được hiệu quả kinh tế thì mới có các điều kiện vật chất để đảm bảo cho các hiệu quả về xã hội và môi trường.
Hiệu quả kinh tế có khả năng lượng hoá, tính toán chính xác trong mối quan hệ so sánh giữa lượng kết quả đạt được và chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất. Kết quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là phần các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xét cả về phần so sánh tuyệt đối và so sánh tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai đại lượng đó.
Vì vậy, bản chất của phạm trù kinh tế sử dụng đất là với một diện tích đất đai nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất nhiều nhất với một lượng đầu tư chi phí về vật chất và lao động thấp nhất nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội [44].
* Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội có liên quan mật thiết với hiệu quả kinh tế, nó thể hiện mục tiêu hoạt động kinh tế của con người. Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xã hội và lượng chi phí bỏ ra [46], [57]. Ở đây, hiệu quả xã hội phản ánh những khía cạnh về mối quan hệ xã hội giữa con người với con người như vấn đề công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, định canh, định cư, công bằng xã hội...
Hiệu quả xã hội trong sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu được xác định bằng khả năng tạo việc làm trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp. Trong giai đoạn hiện nay, việc đánh giá hiệu quả xã hội của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp là nội dung đang được nhiều nhà khoa học quan tâm [47].
* Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường là một vấn đề mang tính toàn cầu, ngày nay đang được chú trọng quan tâm và không thể bỏ qua khi đánh giá hiệu quả. Điều này có ý nghĩa là mọi hoạt động sản xuất, mọi biện pháp khoa học kỹ thuật, mọi giải pháp về quản lý... được coi là có hiệu quả khi chúng không gây tổn hại hay có những tác động xấu đến môi trường đất, môi trường nước và môi trường không khí cũng như không làm ảnh hưởng xấu đến môi sinh và đa dạng sinh học. Có được điều đó mới đảm bảo cho một sự phát triển bền vững của mỗi vùng lãnh thổ, mỗi quốc gia cũng như cả cộng đồng quốc tế.
Trong sản xuất nông nghiệp hiệu quả môi trường là hiệu quả mang tính lâu dài, vừa đảm bảo lợi ích hiện tại mà không làm ảnh hưởng xấu đến tương lai, nó gắn chặt với quá trình khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên đất và môi trường sinh thái.
Bên cạnh cách phân loại hiệu quả nói trên, người ta còn có thể căn cứ vào yêu cầu tổ chức và quản lý kinh tế, căn cứ vào các yếu tố cơ bản về sản xuất, phương hướng tác động vào sản xuất cả về mặt không gian và thời gian. Tuy nhiên, dù nghiên cứu ở bất cứ góc độ nào thì việc đánh giá hiệu quả cũng phải xem xét về mặt không gian và thời gian, trong mối liên hệ chung của toàn bộ nền kinh tế. Ở đó, hiệu quả bao gồm cả hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường với một mối quan hệ mật thiết thống nhất và không thể tách rời nhau. Có như vậy mới đảm bảo cho việc đánh giá hiệu quả được đầy đủ, chính xác và toàn diện.
2.2.2. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo hướng bền vững
2.2.2.1 Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp bền vững
Để duy trì được sự bền vững của đất đai, Smith A.J và Julian Dumanski (1993) [58] đã xác định 5 nguyên tắc có liên quan đến sự sử dụng đất bền vững là:
- Duy trì hoặc nâng cao các hoạt động sản xuất.
- Giảm mức độ rủi ro đối với sản xuất.
- Bảo vệ tiềm năng của các nguồn tài nguyên tự nhiên, chống lại sự thoái hoá chất lượng đất và nước.
- Khả thi về mặt kinh tế.
- Được xã hội chấp nhận.
Như vậy, theo các tác giả, sử dụng đất bền vững không chỉ thuần tuý về mặt tự nhiên mà còn cả về mặt môi trường, lợi ích kinh tế và xã hội. Năm nguyên tắc trên đây là trụ cột của việc sử dụng đất bền vững, nếu trong thực tiễn đạt được cả 5 nguyên tắc trên thì sự bền vững sẽ thành công, ngược lại sẽ chỉ đạt được ở một vài bộ phận hay sự bền vững có điều kiện. Tại Việt Nam, theo ý kiến của Đào Châu Thu và Nguyễn Khang (1995) [56], việc sử dụng đất bền vững cũng dựa trên những nguyên tắc và được thể hiện trong 3 yêu cầu sau:
- Bền vững về mặt kinh tế: cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao và được thị trường chấp nhận
- Bền vững về mặt môi trường: loại hình sử dụng đất bảo vệ được đất đai, ngăn chặn sự thoái hoá đất, bảo vệ môi trường tự nhiên.
- Bền vững về mặt xã hội: thu hút được nhiều lao động, đảm bảo đời sống người dân, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Tóm lại: Hoạt động sản xuất nông nghiệp của con người diễn ra hết sức đa dạng trên nhiều vùng đất khác nhau và cũng vì thế khái niệm sử dụng đất bền vững thể hiện trong nhiều hoạt động sản xuất và quản lý đất đai trên từng vùng đất xác định theo nhu cầu và mục đích sử dụng của con người. Đất đai trong sản xuất nông nghiệp chỉ được gọi là sử dụng bền vững trên cơ sở duy trì các chức năng chính của đất là đảm bảo khả năng sản xuất của cây trồng một cách ổn định, không làm suy giảm về chất lượng tài nguyên đất theo thời gian và việc sử dụng đất không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của con người và sinh vật.
2.2.2.2. Tiêu chí đánh giá tính bền vững:
Vào năm 1991, ở Nairobi đã tổ chức Hội thảo về “Khung đánh giá quản lý đất bền vững” đã đưa ra định nghĩa: “Quản lý bền vững đất đai bao gồm tổ hợp các công nghệ, chính sách và hoạt động nhằm liên hợp các nguyên lý kinh tế xã hội với các quan tâm môi trường để đồng thời:
- Duy trì, nâng cao sản lượng (hiệu quả sản xuất);
- Giảm rủi ro sản xuất (an toàn)
- Bảo vệ tiềm năng nguồn lực tự nhiên và ngăn ngừa thoái hoá đất và nước (bảo vệ)
- Có hiệu quả lâu dài (lâu bền)
- Được xã hội chấp nhận (tính chấp nhận) [25].
Năm nguyên tắc trên được coi là trụ cột của sử dụng đất đai bền vững và là những mục tiêu cần phải đạt được, nếu thực tế diễn ra đồng bộ, so với các mục tiêu cần phải đạt được. Nếu chỉ đạt một hay một vài mục tiêu mà không phải tất cả thì khả năng bền vững chỉ mang tính bộ phận.
Để đánh giá tính bền vững trong sử dụng đất cần dựa vào 3 tiêu chí sau đây:
* Bền vững về kinh tế: Ở đây cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, được thị trường chấp nhận.
Hệ thống sử dụng đất phải có mức năng suất sinh học cao trên mức bình quân vùng có cùng điều kiện đất đai. Năng suất sinh học bao gồm các sản phẩm chính và phụ (đối với cây trồng là gỗ, hạt, củ, quả...và tàn dư để lại). Một hệ bền vững phải có năng suất trên mức bình quân vùng, nếu không sẽ không cạnh tranh được trong cơ chế thị trường.
Về chất lượng: sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn tiêu thụ tại địa phương, trong nước và xuất khẩu, tùy mục tiêu của từng vùng.
Tổng giá trị sản phẩm trên đơn vị diện tích là thước đo quan trọng nhất của hiệu quả kinh tế đối với một hệ thống sử dụng đất. Tổng giá trị trong một giai đoạn hay cả chu kỳ phải trên mức bình quân của vùng, nếu dưới mức đó thì nguy cơ người sử dụng đất sẽ không có lãi, hiệu quả vốn đầu tư phải lớn hơn lãi suất tiền vay vốn ngân hàng [25].
* Bền vững về xã hội:
Thu hút được lao động, đảm bảo đời sống và phát triển xã hội.
Đáp ứng nhu cầu của nông hộ là điều quan tâm trước, nếu muốn họ quan tâm đến lợi ích lâu dài (bảo vệ đất, môi trường..). Sản phẩm thu được cần thoả mãn cái ăn, cái mặc, và nhu cầu sống hàng ngày của người nông dân.
Nội lực và nguồn lực địa phương phải được phát huy. Về đất đai, hệ thống sử dụng đất phải được tổ chức trên đất mà nông dân có quyền hưởng thụ lâu dài, đất đã được giao và rừng đã được khoán với lợi ích các bên cụ thể.
Sử dụng đất sẽ bền vững nếu phù hợp với nền văn hoá dân tộc và tập quán địa phương, nếu ngược lại sẽ không được cộng đồng ủng hộ [25].
* Bền vững về môi trường:
Loại hình sử dụng đất phải bảo vệ được độ màu mỡ của đất, ngăn chặn thoái hoá đất và bảo vệ môi trường sinh thái. Giữ đất được thể hiện bằng giảm thiểu lượng đất mất hàng năm dưới mức cho phép.
Độ phì nhiêu đất tăng dần là yêu cầu bắt buộc đối với quản lý sử dụng bền vững.
Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh thái (>35%).
Đa dạng sinh học biểu hiện qua thành phần loài (đa canh bền vững hơn độc canh, cây lâu năm có khả năng bảo vệ đất tốt hơn cây hàng năm ...).
Ba yêu cầu bền vững trên là để xem xét và đánh giá các loại hình sử dụng đất hiện tại. Thông qua việc xem xét và đánh giá các yêu cầu trên để giúp cho việc định hướng phát triển nông nghiệp ở vùng sinh thái [25].
Tóm lại: khái niệm sử dụng đất đai bền vững do con người đưa ra được thể hiện trong nhiều hoạt động sử dụng và quản lý đất đai theo các mục đích mà con người đã lựa chọn cho từng vùng đất xác định. Đối với sản xuất nông nghiệp việc sử dụng đất bền vững phải đạt được trên cơ sở đảm bảo khả năng sản xuất ổn định của cây trồng, chất lượng tài nguyên đất không suy giảm theo thời gian và việc sử dụng đất không ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của con người, của các sinh vật.
2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
2.2.3.1. Nhóm yếu tố về điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên (đất, nước, khí hậu, thời tiết...) có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp (Nguyễn Đình Hợi, 1993) [26], (Vũ Thị Phương Thuỵ 2000) [46], (Nguyễn Duy Tính, 1995) [47], (Vũ Thị Ngọc Trân, 1996) [49]. Bởi vì, các yếu tố của điều kiện tự nhiên là tài nguyên để sinh vật tạo nên sinh khối. Do vậy, cần đánh giá đúng điều kiện tự nhiên để trên cơ sở đó xác định cây trồng vật nuôi chủ lực phù hợp và định hướng đầu tự thâm canh đúng.
Theo C.Mác, điều kiện tự nhiên là cơ sở hình thành địa tô chênh lệch I. Theo N. Borlang - người được giải Nobel về giải quyết lương thực cho các nước phát triển cho rằng yếu tố duy nhất quan trọng hạn chế năng suất cây trồng ở tầm cỡ thế giới trong các nước đang phát triển, đặc biệt đối với nông dân thiếu vốn là độ phì đất [46].
2.2.3.2. Nhóm các yếu tố kinh tế, kỹ thuật canh tác
Biện pháp kỹ thuật canh tác là các tác động của con người vào đất đai, cây trồng, vật nuôi nhằm tạo nên sự hài hoà giữa các yếu tố của quá trình sản xuất để hình thành, phân bố và tích luỹ năng suất kinh tế. Đây là những tác động thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về đối tượng sản xuất, về thời tiết, về điều kiện môi trường và thể hiện sự dự báo thông minh và sắc sảo [12]. Lựa chọn các tác động kỹ thuật, lựa chọn chủng loại và cách sử dụng các yếu tố đầu vào phù hợp với các quy luật tự nhiên của sinh vật nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Theo Frank Ellis và Douglass C.North [46], ở các nước phát triển, khi có tác động tích cực của kỹ thuật, giống mới, thuỷ lợi, phân bón tới hiệu quả thì cũng đặt ra các yêu cầu mới đối với việc sử dụng đất. Có nghĩa là ứng dụng công nghệ sản xuất tiến bộ là một đảm bảo vật chất cho kinh tế nông nghiệp tăng trưởng nhanh. Cho đến giữa thế kỷ XXI, trong nông nghiệp nước ta, quy trình kỹ thuật có thể góp phần đến 30% của năng suất kinh tế [12]. Như vậy, nhóm các yếu tố kỹ thuật đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong quá trình khai thác đất theo chiều sâu và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
2.2.3.3. Nhóm các yếu tố kinh tế tổ chức
Nhóm các yếu tố này bao gồm:
- Công tác quy hoạch và bố trí sản xuất
Thực hiện phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa vào điều kiện tự nhiên, dựa trên cơ sở phân tích, dự báo và đánh giá nhu cầu của thị trường, gắn với quy hoạch phát triển công nghiệp chế biến, kết cấu hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực và các thể chế pháp luật về bảo vệ tài nguyên, môi trường [34],[35]. Đó là cơ sở để phát triển hệ thống cây trồng, vật nuôi và khai thác đất một cách đầy đủ, hợp lý. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để đầu tư thâm canh và tiến hành tập trung hoá, chuyên môn hoá, hiện đại hoá nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và phát triển sản xuất hàng hoá.
- Hình thức tổ chức sản xuất
Các hình thức tổ chức sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tổ chức khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp [27]. Vì thế, phát huy thế mạnh của các loại hình tổ chức sử dụng đất trong từng cơ sở sản xuất là rất cần thiết. Muốn vậy cần phải thực hiện đa dạng hoá các hình thức hợp tác trong nông nghiệp, xác lập một hệ thống tổ chức sản xuất phù hợp và giải quyết tốt mối quan hệ giữa các hình thức đó.
2.2.3.4. Nhóm các yếu tố xã hội
Nhóm các yếu tố này bao gồm:
- Hệ thống thị trường và sự hình thành của thị trường đất nông nghiệp, thị trường nông sản phẩm. Theo Nguyễn Duy Tính (1995) [47], 3 yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là: năng suất cây trồng, hệ số quay vòng đất, thị trường cung cấp đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra.
- Hệ thống chính sách (chính sách đất đai, chính sách điều chỉnh cơ cấu đầu tư, chính sách hỗ trợ...)
- Sự ổn định chính trị - xã hội và các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển nông nghiệp của Nhà nước.
- Những kinh nghiệm, tập quán sản xuất nông nghiệp, trình độ năng lực của các chủ thể kinh doanh, trình độ đầu tư.
Theo Douglas C.North, sự thay đổi công nghệ và sự thay đổi hợp lý các thể chế là những yếu tố then chốt cho sự tiến triển của kinh tế xã hội [46].
2.3. Sản xuất nông nghiệp đáp ứng nhu cầu hàng hoá và thị trường
2.3.1. Bản chất của nông nghiệp hàng hoá
Nông nghiệp là một hoạt động mang tính chất cơ bản của mỗi quốc gia [26]. Nhiều nước trên thế giới có nền kinh tế phát triển, tỉ trọng của sản xuất công nghiệp và dịch vụ trong thu nhập quốc dân chiếm phần lớn, còn nông nghiệp chỉ chiếm một phần nhỏ. Tuy nhiên, những khó khăn trong nông nghiệp đã gây ra không ít xáo động và ảnh hưởng sâu sắc đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế [12]. Để ngành nông nghiệp có thể thực hiện được vai trò quan trọng của mình đối với nền kinh tế quốc dân đòi hỏi nông nghiệp phải được phát triển toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc để đảm bảo an ninh lương thực và tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản.
ở Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu nông sản đã chiếm tới 30 - 40% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, điển hình như cao su, cà phê, hồ tiêu, chè, lúa... [11]. Tuy nhiên, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực và các nước trên thế giới. Điều đó làm cho các sản phẩm hàng hoá khó tiêu thụ, ảnh hưởng đến thu nhập của người sản xuất. Lượng nông sản đã xuất khẩu được trong năm 1999 cao hơn năm 1998, nhưng hầu như đều bị giảm giá. Theo Đặng Hữu (2000) [30], nguyên nhân sâu xa của tình trạng trên là do bố trí cây trồng, vật nuôi chủ yếu dựa vào tiềm năng tự nhiên mà chưa dựa vào các luận cứ khoa học, chưa tổ chức tốt việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật. Một trong những nguyên nhân của việc xuất khẩu hàng hoá sụt giảm là "chúng ta chưa có tập quán sản xuất nông nghiệp chất lượng cao để cạnh tranh với thị trường thế giới". Mặt khác, số đông nông dân còn thiếu những hiểu biết về kinh tế thị trường, thiếu năng lực, bản lĩnh và trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hoá. Do dó, sản xuất hàng hoá còn mang tính tự phát, thiếu ổn định và thiếu định hướng thị trường. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với phát triển sản xuấ._.t nông nghiệp hiện nay là phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá có định hướng và thị trường ổn định [20].
Bên cạnh đó, sản xuất nông nghiệp hàng hoá còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội và môi trường, do đó khả năng rủi ro trong sản xuất là không thể tránh khỏi. Mặt khác, chúng ta chưa hình thành một nền nông nghiệp hàng hoá theo đúng nghĩa cũng như chưa có công nghệ để giải quyết vấn đề này [20].
Chuyển sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá là sự phát triển hợp quy luật, đó là quá trình chuyển nền nông nghiệp truyền thống, lạc hậu sang nền nông nghiệp hiện đại phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sản xuất hàng hoá là quy luật khách quan của mọi hình thái kinh tế xã hội, nó phản ánh trình độ phát triển sản xuất của xã hội đó [47]. Theo Lênin thì nguồn gốc sản xuất hàng hoá là sự phân công lao động xã hội [46]. Vì thế, phân công lao động xã hội càng sâu sắc thì sản xuất hàng hoá càng phát triển. Trước đây là nền kinh tế tự cung tự cấp gắn liền với nền kinh tế đóng cửa và gần như tách biệt với thị trường làm cho nông dân có cuộc sống thấp do năng suất lao động thấp, thế vận động kinh tế hộ nông dân từ tự cấp tự túc lên sản xuất hàng hoá, kích thích sự phát triển kinh tế nông hộ lên sản xuất hàng hoá là đúng quy luật, nhằm tạo ra lực lượng sản xuất mới ở nông thôn, tạo nhiều sản phẩm hàng hoá [20].
Nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá có đặc trưng là cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ văn hoá của người lao động cao. Đó là nền sản xuất nông nghiệp có cơ cấu hợp lý, được hình thành trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế, thế mạnh sản xuất nông nghiệp của từng vùng. Đây là nền nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao, khối lượng hàng hoá nhiều với chủng loại phong phú, đa dạng [26].
Việc đưa nền nông nghiệp sang phát triển sản xuất hàng hoá là quá trình lâu dài và có nhiều khó khăn, phức tạp. Do vậy, cần phải nhanh chóng hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên canh, thâm canh ngày càng cao, phải gắn nông nghiệp với công nghệ chế biến, được thực hiện thông qua việc phân công lại lao động, xã hội hoá sản xuất, ứng dụng các tiến bộ công nghệ mới vào sản xuất. Vậy sản xuất hàng hoá là gì?
Đối với hộ nông dân, những sản phẩm được đưa ra bán thì gọi là sản phẩm hàng hoá [20]. Đối với hệ thống trồng trọt, nếu mức sản xuất hàng hoá được bán ra thị trường dưới 50% thì gọi là hệ thống trồng trọt thương mại hoá một phần, nếu trên 50% gọi là hệ thống trồng trọt thương mại hoá tức sản xuất theo hướng hàng hoá [5].
Hàng hoá là sản phẩm của lao động dùng để trao đổi [54]. Sản xuất hàng hoá là sản xuất ra sản phẩm đem bán để thu về giá trị của nó, trong đó phần giá trị thặng dư để tái sản xuất và mở rộng quy mô [20]. Hàng hoá là sản phẩm do người lao động tạo ra, nhưng để trao đổi, sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển dựa trên cơ sở phát triển các phương thức sản xuất và sự phân công lao động xã hội. Sự phân công ấy càng cao, càng sâu sắc, sự phân công chuyên môn hoá cao thì sản xuất hàng hoá càng phát triển, đời sống người dân ngày một tăng lên, làm cho quá trình trao đổi hàng hoá diễn ra mạnh mẽ hơn, sản xuất hàng hoá phát triển ngày càng đa dạng hơn.
Nền kinh tế thị trường ra đời làm nảy sinh mối quan hệ cung cầu trên thị trường. Đối với sản xuất nông nghiệp thì khả năng cung cho thị trường là các loại nông sản phẩm, còn cầu trong nông nghiệp là các yếu tố đầu vào. Hiện nay, nếu chủ hộ không chuyên môn hoá cao trong việc sản xuất kinh doanh, không thay đổi cơ cấu giống và thâm canh tăng vụ thì kết quả sản xuất sẽ thấp và không có sản phẩm để bán ra thị trường hoặc sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu của thị trường và sẽ không có tích luỹ để phòng rủi ro. Trong đó, rủi ro về thị trường luôn là mối lo ngại nhất của người sản xuất.
Theo Nguyễn Duy Bột (2001) [7], thị trường và hoạt động tiêu thụ nông sản phẩm ở nước ta nổi lên một số vấn đề sau:
- Hầu hết các sản phẩm nông nghiệp thường bị tồn đọng nhất là vào thời vụ thu hoạch.
- Trong tiêu thụ nông sản, cả các kênh phân phối liên quan đến sản xuất nông nghiệp đều có sự tham gia rất phổ biến của tư thương. Phân phối qua nhiều khâu trung gian đã làm chậm quá trình lưu thông sản phẩm, thậm chí gây ách tắc dẫn đến tồn đọng giả tạo.
- Hệ thống kinh doanh thương mại Nhà nước đang lâm vào thế lúng túng. Thị trường đầu ra không ổn định gây khó khăn thường xuyên cho nông nghiệp trong việc bao tiêu mua sản phẩm và bao cung ứng tư liệu sản xuất.
- Đối với nông dân, trong sản xuất nông nghiệp vẫn phổ biến là bán cái mình có chứ chưa phải bán cái thị trường cần. Hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu sử dụng cái sẵn có chứ chưa chủ động khái thác các yếu tố của nền kinh tế thị trường.
Từ những vấn đề nghiên cứu trên cho thấy việc xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá đáp ứng nhu cầu thị trường đang là hướng đi đúng dắn, là sự phát triển hợp quy luật. Vì vậy, tìm kiếm thị trường, những giải pháp sản xuất và đầu tư hợp lý để sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá có hiệu quả cao, ổn định lâu dài đang là vấn đề rất cần thiết.
2.3.2. Xu hướng phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá của một số nước trong khu vực
Theo Đặng Kim Sơn và Trần Công Thắng (2001) [43], khi nghiên cứu sự chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp của một số nước Đông Nam á cho thấy: Các nước đang chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế và cơ cấu nông nghiệp. Tập trung phát triển ngành hàng theo lợi thế và cải tổ để đương đầu với những thách thức mới trong thế kỷ XXI.
- Thái Lan: phát huy thế mạnh sẵn có, phát triển mạnh sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản theo hướng đa dạng hoá sản phẩm, giảm bớt rủi ro thị trường và tăng cường đầu tư công nghệ chế biến.
- Malaixia: tập trung sản xuất hàng hoá có lợi thế cạnh tranh cao để xuất khẩu, phát triển nông nghiệp thành một lĩnh vực hiện đại và thương mại hoá cao. Tăng cường phát triển ngành chế biến gắn với sản xuất nông nghiệp dựa vào tài nguyên của từng địa phương.
- Inđônêxia: hướng mạnh vào sản xuất hàng hoá các mặt hàng có lợi thế như: hạt tiêu, hoa quả, gỗ và các sản phẩm từ gỗ, tôm đông lạnh và cá ngừ...
- Philippin: phát huy thế mạnh sẵn có, xây dựng các vùng chuyên canh gắn với công nghiệp chế biến, hệ thống thông tin, tín dụng và tiếp thị. Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu chuyển giao, áp dụng công nghệ và khuyến nông, thay đổi chiến lược chính sách nông nghiệp từ bảo trợ sản xuất sang tăng cường cạnh tranh.
2.3.3. Định hướng phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá của Việt Nam
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) [15] đã chỉ rõ, "Định hướng phát triển ngành kinh tế nông- lâm - ngư nghiệp là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn theo hướng đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động, hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu của thị trường và điều kiện sinh thái của từng vùng... phát triển nền nông nghiệp hàng hoá đa dạng. Cùng với lương thực đưa vụ đông thành một thế mạnh, hình thành các vùng chuyên canh rau, cây ăn quả, thịt..."; Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về nông nghịêp, nông dân và nông thôn đã xác định "...Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài"
Dẫn theo Phan Sĩ Mẫn (2001) [34] đã đưa ra định hướng và tổ chức phát triển nền nông nghiệp hàng hoá như sau:
- Phát triển mạnh sản xuất kinh doanh hàng hoá theo chiều sâu trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, khai thác lợi thế so sánh của từng vùng, gắn với bảo vệ và tái tạo tài nguyên, môi trường sinh thái. Đảm bảo an ninh lương thực, đáp ứng nhu cầu hàng nông sản và nguyên liệu cho thị trường trong nước đồng thời chuyển mạnh nền nông nghiệp sang sản xuất xuất khẩu.
- Tiếp tục đổi mới thể chế chính sách và có các giải pháp đồng bộ về tổ chức quản lý quá trình phát triển. Cụ thể:
+ Tăng cường công tác quy hoạch, tổ chức và quản lý phát triển. Quy hoạch và định hướng phát triển nông nghiệp theo từng vùng, từng tiểu vùng kinh tế - sinh thái và theo nhóm sản phẩm hàng hoá. Trước hết cần tập trung cho các vùng nông nghiệp trọng điểm, có điều kiện sản xuất hàng hoá tập trung quy mô lớn các loại cây trồng, vật nuôi tạo ra sản phẩm hàng hoá chủ lực có giá trị kinh tế cao, có lợi thế xuất khẩu và phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng.
+ Tăng cường đầu tư và điều chỉnh cơ cấu đầu tư thích ứng với yêu cầu thực tế phát triển nông nghiệp. Tăng đầu tư và hỗ trợ đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch và phát triển công nghệ chế biến.
+ Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ kỹ thuật, phát triển hệ thống khuyến nông và các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp.
+ Hỗ trợ và thúc đẩy phát triển các hình thức kinh tế hợp tác, liên doanh, liên kết trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
+ Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện thể chế, chính sách thị trường.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) [16] đã chỉ rõ định hướng phát triển ngành nông nghiệp là "Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp". Cụ thể:
- Coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá đa dạng, phát triển nhanh bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực và tạo điều kiện hình thành nền nông nghiệp sạch. Phấn đấu giá trị tăng thêm ngành nông - lâm - ngư nghiệp tăng 3,0-3,2%/năm.
- Thực hiện các giải pháp đồng bộ, đặc biệt chú trọng các giải pháp có tính quyết định chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đưa nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
- Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao, quy hoạch diện tích sản xuất lương thực ổn định và xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá tập trung gắn với việc chuyển giao công nghệ sản xuất và chế biến, khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, tự phát.
- Phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, phục vụ xuất khẩu và thị trường nội địa đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái.
- Đẩy mạnh nghiên cứu chuyển giao khoa học, công nghệ; tăng cường hệ thống khuyến nông, tạo ra đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả trong nông nghiệp.
- Đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến và dịch vụ nông nghiệp.
- Tăng cường nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước và đa dạng các nguồn vốn để phát triển ngành nông nghiệp.
2.4. Những nghiên cứu liên quan đến nâng cao hiệu quả sử dụng đất và sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá
2.4.1. Những nghiên cứu trên thế giới
Cho tới nay, trên thế giới đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu, đề ra nhiều phương pháp đánh giá để tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo hướng phát triển hàng hoá. Nhưng tuỳ thuộc vào điều kiện, trình độ và phương thức sử dụng đất ở mỗi nước mà có sự đánh giá khác nhau.
Hàng năm các viện nghiên cứu nông nghiệp ở các nước trên thế giới đều nghiên cứu và đưa ra được một số giống cây trồng mới, giúp cho việc tạo ra được một số loại hình sử dụng đất mới ngày càng có hiệu quả hơn. Viện lúa quốc tế IRRI đã có nhiều thành tựu về lĩnh vực giống lúa và hệ thống cây trồng trên đất canh tác. Tạp chí "Farming Japan" của Nhật Bản ra hàng tháng đã giới thiệu nhiều công trình ở các nước trên thế giới về các hình thức sử dụng đất, điển hình là của Nhật. Nhà Khoa học Nhật Bản Otak Tanakad đã nêu lên những vấn đề cơ bản về sự hình thành của sinh thái đồng ruộng và từ đó cho rằng yếu tố quyết định của hệ thống nông nghiệp là sự thay đổi về kỹ thuật, kinh tế - xã hội. Các nhà khoa học Nhật Bản đã hệ thống hoá tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng đất thông qua hệ thống cây trồng trên đất canh tác là sự phối hợp giữa các cây trồng và gia súc, các phương pháp trồng trọt và chăn nuôi, cường độ lao động, vốn đầu tư, tổ chức sản xuất, sản phẩm làm ra, tính chất hàng hoá của sản phẩm [47].
Theo kinh nghiệm của Trung Quốc thì việc khai thác và sử dụng đất là yếu tố quyết định để phát triển kinh tế - xã hội nông thôn toàn diện. Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra các chính sách quản lý sử dụng đất đai, ổn định chế độ sở hữu, giao đất cho nông dân sử dụng, thiết lập hệ thống trách nhiệm và tính chủ động sáng tạo của nông dân trong sản xuất đã thúc đẩy kinh tế xã hội nông thôn phát triển toàn diện về mọi mặt và nâng cao được hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp [46].
ở Thái Lan, Uỷ ban chính sách Quốc gia đã có nhiều quy chế mới ngoài hợp đồng cho tư nhân thuê đất dài hạn, cấm trồng những cây không thích hợp với đất nhằm quản lý và bảo vệ đất tốt hơn [58].
Một trong những chính sách tập trung vào hỗ trợ phát triển nông nghiệp quan trọng nhất là chính sách đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, ở Mỹ tổng số tiền trợ cấp là 66,2 tỉ USD (chiếm 28,3% trong tổng thu nhập nông nghiệp), Canada tương ứng là 5,7 tỉ USD (chiếm 39,1%), Ôxtrâylia 1,7 tỉ USD (chiếm 14,5%), Nhật Bản là 42,3 tỉ USD (chiếm 68,9%), Cộng đồng châu Âu 67,2 tỉ USD (chiếm 40,1%), áo là 1,6 tỉ USD (chiếm 35,3%) [46].
Các nhà khoa học trên thế giới đều cho rằng: đối với các vùng nhiệt đới có thể thực hiện các công thức luân canh cây trồng hàng năm, có thể chuyển từ chế độ canh tác cũ sang chế độ canh tác mới tiến bộ hơn mang lại hiệu quả cao hơn. Nghiên cứu bố trí luân canh các cây trồng hợp lý hơn bằng cách đưa các giống cây trồng mới vào hệ thống canh tác nhằm tăng sản lượng lương thực, thực phẩm/1đơn vị diện tích đất canh tác trong một năm. ở châu á có nhiều nước cũng tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác luân phiên cây lúa với cây trồng cạn đã thu được hiệu quả cao hơn.
Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế nông nghiệp của các nước đã gắn phương thức sử dụng đất truyền thống với phương thức hiện đại và chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá nông nghiệp. Các nước châu á trong quá trình sử dụng đất canh tác đã rất chú trọng đẩy mạnh công tác thuỷ lợi, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, phân bón, các công thức luân canh tiến bộ để ngày càng nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Nhưng để đạt được hiệu quả thì một phần phải nhờ vào công nghiệp chế biến, gắn sự phát triển công nghiệp với bảo vệ môi sinh- môi trường.
Xuất phát từ những vấn đề này, nhiều nước trong khu vực đã có sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng kết hợp hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội với việc bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái, tiến tới xây dựng nền nông nghiệp sinh thái bền vững.
2.4.2. Những nghiên cứu trong nước
Trong những năm qua, ở Việt Nam nhiều tác giả đã có những công trình nghiên cứu về sử dụng đất, vì đây là một vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong phát triển sản xuất nông nghiệp. Các nhà khoa học đã chú trọng đến công tác lai tạo và chọn lọc giống cây trông mới năng suất cao, chất lượng tốt hơn để đưa vào sản xuất. Làm phong phú hơn hệ thống cây trồng, góp phần đáng kể vào việc tăng năng suất cây trồng, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Các công trình nghiên cứu đánh giá tài nguyên đất đai Việt Nam của Nguyễn Khang và Phạm Dương Ưng (1995) [31]; đánh giá hiện trạng sử dụng đất theo quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền [56]; phân vùng sinh thái nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng [30]; Lê Hồng Sơn (1995) [42] với nghiên cứu "ứng dụng kết quả đánh giá đất vào đa dạng hoá cây trồng đồng bằng sông Hồng" hay hiệu quả kinh tế sử dụng đất canh tác trên đất phù sa sông Hồng huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Dương của tác giả Vũ Thị Bình (1993) [4]; Đánh giá kinh tế đất lúa vùng đồng bằng sông Hồng, Quyền Đình Hà, (1993) [18].
Ở nước ta, khi trình độ sản xuất nông nghiệp còn thấp, phần lớn diện tích đất nông nghiệp đều tập trung vào sản xuất lương thực, thực phẩm. Song song với việc nâng cao mức sống, đòi hỏi phát triển các cây thức ăn cao cấp hơn như cây họ đạm (đậu, đỗ...), cây có dầu (lạc, vừng...), rau củ và các loại cây ăn quả có giá trị hàng hoá, có hiệu quả kinh tế cao đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội, có tác dụng bảo vệ, cải tạo môi trường đất.
Bên cạnh việc nghiên cứu đưa ra các giống cây trồng mới vào sản xuất thì các nhà khoa học còn tìm các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp dựa vào việc nghiên cứu đưa ra các công thức luân canh mới bằng các phương pháp đánh giá hiệu quả của từng giống cây trồng, từng công thức luân canh. Từ đó, các công thức luân canh mới tiến bộ hơn được áp dụng để khai thác ngày một tốt hơn tiềm năng đất đai.
Từ đầu thập kỷ 20, chương trình quy hoạch tổng thể được tiến hành nghiên cứu đề xuất dự án phát triển đa dạng hoá nông nghiệp, nội dung quan trọng nhất là phát triển hệ thống cây trồng để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Những công trình nghiên cứu mô phỏng chiến lược phát triển nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng của Đào Thế Tuấn (1992) cũng đề cập việc phát triển hệ thống cây trồng, nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong điều kiện Việt Nam. Công trình nghiên cứu phân vùng sinh thái, hệ thống giống lúa, hệ thống cây trồng vùng đồng bằng sông Hồng do Đào Thế Tuấn (1998) [51] chủ trì và hệ thống cây trồng vùng đồng bằng sông Cửu Long do Nguyễn Văn Luật chủ trì cũng đưa ra kết luận về phân vùng sinh thái và hướng áp dụng những giống cây trồng trên các vùng sinh thái khác nhau nhằm khai thác sử dụng đất mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
Các đề tài nghiên cứu do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì đã tiến hành nghiên cứu hệ thống cây trồng trên các vùng sinh thái khác nhau như vùng miền núi, vùng trung du và vùng đồng bằng nhằm đánh giá hiệu quả cây trồng trên từng vùng đất đó. Từ đó định hướng cho việc khai thác tiềm năng đất đai của từng vùng sao cho phù hợp với quy hoạch chung của nền nông nghiệp cả nước, phát huy tối đa lợi thế so sánh của từng vùng.
Vấn đề luân canh tăng vụ, trồng gối, trồng xen nhằm sử dụng nguồn lợi đất đai, khí hậu để bố trí hệ thống cây trồng thích hợp cũng được nhiều nhà nghiên cứu đề cập như Vũ Thị Ngọc Trân [49], Ngô Thế Dân [11].
Trong những năm gần đây, chương trình quy hoạch tổng thể vùng đồng bằng sông Hồng (1994) [14]; quy hoạch sử dụng đất vùng đồng bằng sông Hồng (Phùng Văn Phúc,1996) [38]; phân bón cho lúa ngắn ngày trên đất phù sa sông Hồng (Nguyễn Như Hà, 2000) [19]; đánh giá hiệu quả một số mô hình đa dạng hoá cây trồng vùng đồng bằng sông Hồng của Vũ Năng Dũng (1997) [13] cho thấy đã xuất hiện nhiều mô hình luân canh 3- 4 vụ trong một năm đạt hiệu quả kinh tế cao, đặc biệt ở các vùng sinh thái ven đô, vùng có điều kiện tưới tiêu chủ động đã có những điển hình về sử dụng đất đai đạt hiệu quả kinh tế cao. Nhiều loại cây trồng có giá trị kinh tế cao đã được bố trí trong các phương thức luân canh như cây ăn quả, hoa, cây thực phẩm cao cấp.
Tại huyện Hiệp Hoà những nghiên cứu về đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên quan điểm sử dụng đất bền vững hay theo hướng sản xuất nông nghiệp hàng hoá còn chưa nhiều. Vì vậy, nghiên cứu thực trạng phát triển sản xuất nông nghiệp của huyện Hiệp Hoà trong những năm tới theo hướng hiệu quả, bền vững là rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của huyện. Đây chính là lý do thúc đẩy chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu đề tài "Đánh giá thực trạng và đề xuất phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2008 - 2015 theo hướng hiệu quả, bền vững".
3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội có liên quan đến sản xuất nông nghiệp của huyện Hiệp Hoà.
- Đất nông nghiệp và tình hình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn nghiên cứu
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Lĩnh vực sản xuất nông nghiệp (trồng chọt, chăn nuôi và một số dịch vụ nông nghiệp) trong đó:
+ Phạm vi không gian: Phạm vi nghiên cứu là huyện Hiệp Hoà - tỉnh Bắc Giang 3 xã đại diện cho 3 tiểu vùng sinh thái khác nhau trong toàn huyện là: xã Thanh Vân, xã Đoan Bái, xã Đông Lỗ.
+ Giới hạn về thời gian: Các số liệu thống kê được lấy từ năm 2005 - 2008 về đất đai, kinh tế, xã hội của huyện. Số liệu về giá cả vật tư và nông sản phẩm hàng hoá điều tra năm 2008.
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1. Điều tra, đánh giá các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội có liên quan đến đất đai và sản xuất nông nghiệp của huyện
- Nghiên cứu đánh giá điều kiện tự nhiên: vị trí địa lý, địa hình, khí hậu, thời tiết, thuỷ văn tài nguyên đất và nước... ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp của huyện Hệp Hoà.
- Nghiên cứu các điều kiện kinh tế - xã hội: thực trạng phát triển kinh tế của huyện, tình hình dân số, lao động, tình hình sử dụng đất, thực trạng cơ sở hạ tầng, thị trường tiêu thụ nông sản... Từ đó rút ra những thuận lợi và khó khăn trong phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hiệu quả, bền vững.
3.3.2. Nghiên cứu thực trạng sử dụng đất nông nghiệp và phân bố hệ thống cây trồng
- Đánh giá hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp
- Các loại hình sử dụng đất
- Những ưu thế và tồn tại của từng loại hình sử dụng đất nông nghiệp
3.3.3. Đánh giá hiệu quả loại hình sử dụng đất nông nghiệp
- Đánh giá hiệu quả kinh tế: Tính toán tổng vốn đầu tư, tổng thu nhập, thu nhập thực của người dân từ các loại hình sử dụng đất.
- Đánh giá hiệu quả về mặt xã hội: Là mức độ thu hút lao động, giải quyết việc làm cho người dân, giá trị ngày công lao động của các kiểu sử dụng đất.
- Đánh giá tác động môi trường: Mức độ đầu tư phân bón và ảnh hưởng của nó đến môi trường, ý kiến chung của nông dân về mức độ ảnh hưởng của các cây trồng hiện tại đối với đất.
3.3.4. Đề xuất phát triển sản xuất nông nghiệp huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2008 - 2015
- Đề xuất các loại hình sử dụng đất trên địa bàn huyện Hiệp Hoà, giai đoạn 2008 - 2015.
- Vùng sản xuất tập trung đáp ứng nhu cầu thị trường (Địa điểm, diện tích, dự tính khối lượng sản phẩm và thị trường tiêu thụ)
- Đề xuất các giải pháp để thực hiện phương án phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Hiệp Hoà, giai đoạn 2008 - 2015 theo hướng hiệu quả, bền vững.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp diều tra thu thập số liệu thứ cấp
- Thu thập dữ liệu, số liệu thông tin có sẵn từ các cơ quan, phòng ban chức năng từ trung ương đến huyện, xã như Viện quy hoạch thiết kế nông nghiệp bộ Nông nghiệp & PTNT; viện quy hoạch bộ Tài nguyên & Môi trường, khoa Tài nguyên & Môi trường Đại Học Nông nghiệp Ha Nội, Sở Tài nguyên & Môi trường tỉnh Bắc Giang, Phòng Tài nguyên & Môi trường, phòng Thống kê, phòng Nông nghiệp; UBND các xã đã lựa chọn để nghiên cứu đại diện cho 3 tiểu vùng sinh thái của huyện Hiệp Hòa:
+ xã Thanh Vân, đại diện cho tiểu vùng 1
+ xã Đoan Bái, đại diện cho tiểu vùng 2
+ xã Đông Lỗ, đại diện cho tiểu vùng 3
- Kế thừa có chọn lọc những tài liệu điều tra cơ bản và tài liệu nghiên cứu của các nhà khoa học có liên qua đến công tác quản lý đất đai, mô hình sử dụng đất nông, lâm nghiệp đã có, như Tài liệu về thổ nhỡng, phân hạng đất ...
3.4.2. Phương pháp điều tra thu thập số liệu sơ cấp
Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn bằng phiếu điều tra nông hộ. Ở mỗi xã, chúng tôi tiến hành điều tra nông hộ theo phương pháp chọn mẫu có hệ thống, thứ tự mẫu lấy ngẫu nhiên với tổng số hộ điều tra là 90 hộ. Nội dung điều tra hộ bao gồm: điều tra về chi phí sản xuất, lao động, năng suất cây trồng, loại cây trồng, mức độ thích hợp cây trồng với đất đai và những ảnh hưởng đến môi trường,...
3.4.3. Phương pháp tổng hợp thông kê và xử lý số liệu
Xử lý số liệu chủ yếu bằng phần mềm Excel
3.4.4. Phương pháp tham khảo ý kiến
Từ kết quả nghiên cứu của đề tài chúng tôi có tham khảo thêm ý kiến của các chuyên viên và lãnh đạo phòng Nông nghiệp cũng như các hộ nông dân điển hình sản xuất giỏi để đề xuất hướng sử dụng đất và đưa ra các giải pháp thực hiện.
3.4.5. Phương pháp kế thừa các tài liệu có liên quan đến đề tài
- Dựa vào tài liệu nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan đến công tác quản lý đất đai, mô hình sử dụng đất nông, lâm nghiệp.
- Kế thừa có chọn lọc những tài liệu điều tra cơ bản đã có như: Tài liệu về thổ nhỡng, phân hạng đất...
3.4.6. Phương pháp xây dựng bản đồ
- Xử lý và xây dựng bản đồ chủ yếu bằng phần mềm Maicrostion (bản đồ hiện trạng sử dụng đất, định hướng sử dụng đất...)
3.4.7. Đánh giá hiệu quả loại hình sử dụng đất
- Đánh giá hiệu quả kinh tế thông qua các chỉ tiêu sau:
+ Giá trị sản xuất (GTSX): là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo ra trong một chu kỳ sản xuất trên một đơn vị diện tích.
GTSX = Sản lượng sản phẩm x Giá thành sản phẩm
+ Chi phí trung gian (CPTG): là toàn bộ các khoản chi phí vật chất thường xuyên bằng tiền mà chủ thể bỏ ra thuê và mua các yếu tố đầu vào và dịch vụ sử dụng trong quá trình sản xuất.
+ Giá trị gia tăng (GTGT): là hiệu số của giá trị sản xuất với chi phí trung gian
GTGT = GTSX - CPTG
- Đánh gía hiệu quả xã hội thông qua các chỉ tiêu sau:
+ Mức độ thu hút lao động, giải quyết công ăn việc làm (công/ha)
+ Giá trị sản xuất trên công lao động (GTSX/LĐ) và giá trị gia tăng trên công lao động (GTGT/LĐ)
+ Đảm bảo an ninh lương thực và an toàn thực phẩm, gia tăng lợi ích cho người nông dân, góp phần xóa đói giảm nghèo.
3.4.8. Đánh giá hiệu quả môi trường
Đánh giá hiệu quả môi trường của các loại hình sử dụng đất là việc xem xét thực trạng và nguyên nhân gây ra sự suy thoái môi trường nhằm loại trừ các loại hình sử dụng đất có khả năng gây ra tác động xấu đến môi trường sinh thái. Các tác động ảnh hưởng tới môi trường cần phân tích tập trung vào một số vấn đề sau:
+ Khả năng duy trì và cải thiện độ phì đất như khả năng che phủ đất, trả lại cho đất tàn dư cây trồng có chất lượng.
+ Chế độ luân canh ảnh hưởng đến việc cải tạo đất.
+ Mức độ sử dụng phân bón và các loại thuốc bảo vệ thực vật.
Trong phạm vi tài nghiên cứu chúng tôi đánh giá hiệu quả môi trường thông qua việc đánh giá thích hợp của các cây trồng đối với đất đai hiện tại, thông qua kết quả điều tra về đầu tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và kết quả phỏng vấn nông hộ về nhận xét của họ đối với các loại hình sử dụng đất hiện tại.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Hiệp Hoà
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1 Vị trí địa lý
Hiệp Hòa, là huyện trung du nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Bắc Giang trên trục Quốc lộ 37 (từ quốc lộ 1A đi tỉnh Thái Nguyên), cách thành phố Bắc Giang 30 km, cách Hà Nội 60 km. Nằm trong tọa độ địa lý: Từ 1050 52' 40" đến 1060 2'20" độ kinh đông, từ 210 13' 20" đến 210 26' 10" vĩ độ bắc.
Ranh giới hành chính:
Phía Bắc giáp huyện Phú Bình - tỉnh Thái Nguyên
Phía Đông giáp huyện Tân Yên và huyện Việt Yên - tỉnh Bắc Giang
Phía Nam giáp huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Phía Tây giáp huyện Sóc Sơn - Hà Nội và huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên
Vị trí địa lý huyện Hiệp Hòa khá thuận lợi so với các huyện khác trong tỉnh Bắc Giang, có mạng lưới giao thông hợp lý (1 tuyến đường quốc lộ, có cầu vát bắc qua sông cầu về thành phố Hà Nội lên thành phố Thái Nguyên, 3 tuyến đường tỉnh lộ và có sông Cầu bao quanh phía Tây - Nam) tạo cho huyện có nhiều lợi thế để giao lưu hàng hóa, kinh tế, văn hoá - xã hội với các tỉnh ở đồng bằng Bắc bộ, đặc biệt với thủ đô Hà Nội và thành phố Bắc Ninh, thành phố Thái Nguyên.
Trung tâm huyện Hiệp Hoà là thị trấn Thắng, đây là thị trấn có từ lâu đời và đã được quy hoạch lên đô thị loại IV vào năm 2015.
Với vị trí địa lý thuận lợi, mạng lưới giao thông khá thuận lợi. Đặc biệt từ khi khai thông cầu Vát sang khu công nghiệp Thăng Long - Nội Bài, nâng cấp quốc lộ 37 đi thành phố Thái Nguyên, huyện Hiệp Hòa lại càng có thêm vị thế để nhanh chóng tiếp cận với các công nghệ mới, sản phẩm nông nghiệp có thị trường tiêu thụ rộng rãi, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, đồng thời tạo đà cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh, mạnh và bền vững. Tuy nhiên với nhu cầu chuyển đổi mạnh sang kinh tế thị trường như hiện nay cũng sẽ gây nhiều thách thức cho huyện trong việc quản lý, hoạch định các kế hoạch phát triển, trong đó áp lực về nguồn tài nguyên đất đai và môi trường sẽ rất lớn.
Hình 4.1: Bản đồ hành chính huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang
4.1.1.2 Địa hình, địa mạo
Địa hình của huyện Hiệp Hoà thuộc vùng đồi núi thấp xen kẽ các cánh đồng, bị chia cắt ở mức trung bình và thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam hoặc từ Bắc xuống Nam. Nhìn chung địa hình của huyện Hiệp Hoà được phân ra thành 2 loại như sau:
+ Địa hình đồi núi thấp: Được phân bố chủ yếu ở các xã phía Bắc và Trung huyện gồm: xã Thanh Vân, Hoàng Lương, Hoàng Thanh, Hoàng Vân, Hoàng An, Thái Sơn, Ngọc Sơn, Hoà Sơn, Hùng Sơn, Thường Thắng, Lương Phong, Danh Thắng.
Địa hình này có độ chia cắt trung bình, lượn sóng có độ dốc trung bình khoảng 8 – 150 (cấp II), hướng dốc không ổn định. Độ cao trung bình so với mực nước biển khoảng 120 – 150 m, đất đai ở vùng này cơ bản được trồng chủ yếu các loại cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày. Tuy nhiên nhiều nơi khai thác chưa hợp lý, đất bị xói mòn rửa trôi. Loại hình sử dụng đất này chiếm diện tích khoảng 26,18 % tổng diện tích tự nhiên.
+ Địa hình bằng: Dạng địa hình này khá bằng phẳng lượn sóng ít và thưa. độ dốc 0 – 80, độ cao trung bình khoảng 10 – 20 m so với mực nước biển. Được phân bố chủ yếu ở các xã thuộc vùng Trung và Hạ huyện, phần lớn diện tích đất được khai thác vào sản xuất nông nghiệp; các loại hình sử dụng đất chủ yếu là cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả và nuôi trồng thuỷ sản. Loại đất này chiếm khoảng 72,82 % tổng diện tích tự nhiên.
phân theo tiểu khí hậu và địa hình thì huyện Hiệp Hoà được phân thành 3 vùng, đó là:
+ Vùng Thượng huyện, gồm 11 xã (Đồng Tân, Thanh Vân, Hoàng Lương, Hoàng Thanh, Hoàng Vân, Hoàng An, Thái Sơn, Hòa Sơn, Ngọc Sơn, Hùng Sơn, Quang Minh)
+ Vùng Trung huyện, gồm có 8 xã (Thị trấn Thắng, xã Đức Thắng, Thường Thắng, Danh Thắng, Lương Phong, Đoan Bái, Bắc Lý, Mai Trung)
+ Vùng Hạ huyện, gồm 7 xã (Đông Lỗ, Châu Minh, Hương Lâm, Mai Đình, Xuân Cẩm, Đại Thành, Hợp Thịnh)
Nhìn chung địa hình, địa mạo của huyện tương đối thuận lợi cho việc phát triển đa dạng các loại cây trồng, dễ xây dựng công thức luân canh tăng vụ, tăng hệ số sử dụng đất và phát triển ngành công nghiệp đa dạng hoá sản phẩm để phá._.4
65,7
30,99
2. Lúa xuân - Lúa mùa - Ngô đông
858,7
63,07
30,73
3. Lúa xuân - Lúa mùa - Lạc
831
67,9
38,86
4. Lúa xuân - Láu mùa - Khoai tây
831
107,17
62,84
5. Lúa xuân - Lúa mùa - Rau đông
1108
65,34
36,96
6. Lạc xuân - Lúa mùa - Ngô đông
858,7
82,96
47,92
7. Lúa xuân - Đậu tương hè - Ngô thu đông - Khoai tây
1136
105,88
70,38
8. Lúa xuân - Đậu tương hè - Lạc thu đông - Khoai tây
1108
117,35
77,46
9. Lúa xuân - Đậu tương hè - Lúa mùa muộn - Khoai tây
1108
108,32
71,27
10. Khoai lang - Lúa - Khoai lang
777
58,56
26,96
11. Bí xanh - Đậu tương hè - Rau thu đông
1385
63,19
41,32
12. Hành tỏi - Cà chu - Bắp cải
1662
64,98
42,92
13. Đậu xanh - Đậu cô ve - Su hào
1662
64,98
42,92
14. Lạc - Rau ăn lá - Rau ăn lá
1385
77,99
51,4
15. Bí xanh - Cà chua - Su hào
1662
64,98
42,92
16. Cá
831
138,38
96,26
(*) Đơn vị tính công lao động quy đổi hoặc ngày/người
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra)
Qua bảng 4.11 ta thấy, mức độ đầu tư lao động cho các LUT bình quân ở 2 vùng là khác nhau
- Ở vùng 1: Mức độ sử dụng lao động bình quân của vùng 1 là 985,4 công LĐ/ha, GTSX/LĐ là 70,74 và cho thu nhập là 39,14 nghìn đồng/công LĐ. Trong đó kiểu sử dụng đất chuyên màu yêu cầu sử dụng lao động lớn hơn các kiểu sử dụng đất khác, bình quân 1662 công LĐ/ha và cho thu nhập trung bình đạt 42,92 nghìn đồng/công LĐ, loại hình này có thể duy trì và phát triển để giải quyết lao động nông nhàn và tăng thu nhập cho nông dân. Bên cạnh đó kiểu sử dụng đất lúa xuân - lúa mùa - khoai tây, mặc dù thu hút lao động ít hơn 831LĐ/ha, nhưng cho thu nhập cao hơn GTGT/LĐ bình quân đạt 62,84 nghìn đồng, vì vậy kiểu sử dụng đất này cần được duy trì về diện tích để đảm bảo an ninh lương thực và thu nhập cho bà con nhân dân
- Ở vùng 2: Việc đầu tư sử dụng lao động của toàn vùng bình quân là 931,84 công LĐ/ha và GTGT/LĐ là 45,92 nghìn đồng, trong đó kiểu sử dụng đất Lúa xuân - Đậu tương hè - Lạc thu - Rau đông, yêu cầu sử dụng lao động lớn nhất vùng là 1381LĐ/ha, tuy nhiên GTGT/LĐ không cao (41,59 nghìn đồng); kiểu sử dụng đất cho thu nhập cao nhất vùng là: Lạc xuân - Lúa mùa - Khoai tây, GTSX/LĐ đạt 125,76 nghìn đồng và GTGT/LĐ đạt 80,59 nghìn đồng, thu hút lao động đạt mức độ trung bình là 831LĐ/ha.
- Ở vùng 3: Mức độ sử dụng lao động bình quân cho toàn vùng là 1060,85 công LĐ/ha và cho thu nhập 50,30 nghìn đồng/công LĐ, trong đó loại hình sư dụng đất chuyện mầu cần nhiều lao động, bình quân là 1551,2 công LĐ/ha, cho thu nhập đạt 44,14 nghìn đồng/công LĐ. Tuy nhiên loại hình sử dụng đất chuyên Cá cho thu nhập cao nhất vùng, GTGT/LĐ đạt 96,26 nghìn đồng.
Sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, việc đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp đã thu hút nhiều lao động tham gia. Bởi vì, một mặt các cây trồng hàng hoá đòi hỏi công chăm sóc cao hơn, thời gian sinh trưởng ngắn, hệ số sử dụng đất cao, cần đầu tư nhiều lao động hơn. Mặt khác, sản xuất hàng hoá phát triển, yêu cầu về cung ứng vật tư nông nghiệp cũng như bao tiêu sản phẩm tăng lên, một bộ phận lao động sẽ chuyển sang hoạt động thương mại dịch vụ.
Bên cạnh đó khi sản xuất nông nghiệp hàng hoá phát triển, thu nhập của người dân tăng lên, đồng thời đời sống vật chất tinh thần và trình độ dân trí tăng lên, qua đó góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của địa phương.
4.3.3. Đánh giá hiệu quả môi trường
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi chỉ xin được đề cập đến một số vấn đề về mức độ ảnh hưởng của sản xuất nông nghiệp đến môi trường như sau:
- Mức đầu tư phân bón và ảnh hưởng của nó đến môi trường.
- Mức độ thích hợp của hệ thống cây trồng hiện tại đối với đất đai.
Theo Tadon H.L.S, sự suy kiệt của các chất dự trữ trong đất cũng là biểu hiện thoái hoá môi trường. Vì vậy, việc cải thiện độ phì đất là đóng góp cho cải thiện tài nguyên thiên nhiên và còn tốt hơn nữa cho chính môi trường (dẫn theo Đỗ Nguyên Hải, 2001) [22]
Theo Đỗ Nguyên Hải, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến suy giảm độ phì ở những vùng thâm canh cao là vấn đề sử dụng phân bón mất cân đối giữa N:P:K [44].
Sử dụng kết quả điều tra hộ nông dân về mức đầu tư phân bón cho các loại cây trồng hàng năm, đem so sánh với tiêu chuẩn bón phân cân đối và hợp lý cho các cây trồng của Nguyễn Văn Bộ (2000), [6]. Kết quả cụ thể lượng phân bón cho các cây trồng được trình bày trong bảng 4.12
Bảng 4.12. So sánh mức đầu tư phân bón với tiêu chuẩn phân bón cân đối và hợp lý
TT
Cây trồng
Theo điều tra hộ nông dân
Theo tiêu chuẩn *
N (kg/ha)
P2O5 (kg/ha)
K2O (kg/ha)
Phân chuồng(tấn/ha)
N (kg/ha)
P2O5 (kg/ha)
K2O (kg/ha)
Phân chuồng (tấn/ha)
1
Lúa xuân
124,2
90
123.2
5
120-130
80-90
30-60
8-10
2
Lúa mùa
115
81
112
5
80-100
50-60
0-30
6-8
3
Ngô đông
115
81
100,08
9
150-180
70-90
80-100
8-10
4
Khoai tây
124,2
97,2
117,6
5
120-150
50-60
120-150
20-25
5
Lạc
59,8
108
112
8
20-30
60-90
30-60
6
Đậu tương
27,6
81
33,6
30-40
60
40-60
5-6
7
Bắp cải
115,00
93,33
100,00
7
180-200
80-90
110-120
25-30
8
Xu hào
108,61
44,44
41,65
7
9
Cà chua
127,78
66,67
69,45
6
60-80
90-180
120-150
20-40
10
Đậu cô ve
140,56
80,00
83,33
6
11
Dưa chuột
127,78
87,89
111,11
9
12
Hành hoa
63,89
66,67
41,66
5
50-60
70-80
80-90
25-30
13
Bí xanh
127,78
85,89
111,11
9
BQ/ha/cây
105.93
81.77
88.98
6.23
(*): Theo tiêu chuẩn phân bón cân đối và hợp lý dẫn theo Nguyễn Văn Bộ, năm 2000 [6]
Do không có điều kiện nghiên cứu kỹ tiêu chuẩn bón phân cân đối của các loại cây trồng, nên những nhận xét của chúng tôi chưa phản ánh đầy đủ thực trạng sử dụng phân bón ở huyện Hiệp Hoà. Tuy nhiên, chúng tôi muốn đưa ra những nhận xét chung nhất về tình hình sử dụng phân bón để có những giải pháp phù hợp cho định hướng phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá trong giai đoạn tới:
- Mức độ đầu tư phân bón cho cây trồng tương đối cao, đặc biệt là nhóm cây rau màu. Nguồn đạm chủ yếu là từ phân urê, lân chủ yếu từ supe lân, kali chủ yếu từ kali clorua.
- Tỷ lệ bón phân cân đối giữa N:P2O5:K2O là 1:0,49:0,29. Yêu cầu thông thường phải đạt 1:0,5:0,3 [6], mức bón ở các nước đang phát triển, tỷ lệ này là 1:0,6:0,5. Như vậy, so với yêu cầu thông thường mức bón phân cho cây trồng của huyện Hiệp Hoà là tương đối hợp lý (1:0,59:0,77). Để hướng tới một nền nông nghiệp phát triển mạnh và bền vững, hướng sử dụng phân bón cân đối N:P2O5:K2O ở tỷ lệ 1:0,6:0,5.
- Việc bón phân cân đối giữa N:P2O5:K2O đối với mỗi cây trồng rất khác nhau. Một số cây trồng lượng phân mất cân đối nghiêm trọng, đặc biệt là giữa N và P2O5 với K2O, do nông dân chưa có thói quen bón phân Kali cho cây trồng vì thế đã gây ảnh hưởng không tốt đến việc hấp thụ dinh dưỡng, đến năng suất cây trồng.
Theo Nguyễn Xuân Thành, các nguy cơ gây thoái hoá và ô nhiễm đất do không bón phân cân đối được xem trên các lĩnh vực như làm chua đất, làm ô nhiễm NO3, ô nhiễm đất do phú dưỡng [45]
- Đạm và lân được dùng nhiều trong số các loại phân vô cơ. Tuy nhiên một số cây trồng lượng đạm và lân bón chưa đạt tiêu chuẩn định mức mà cây trồng cần. Cây dưa chuột, lượng bón phân đạm 127,78 kg/ha mới chỉ đạt gần 80% lượng đạm cần (160 kg/ha), lượng bón phân lân là 87,89 kg/ha so với mức tiêu chuẩn còn thiếu 72,11 kg/ha (định mức 160 kg/ha). Còn lại các cây trồng có giá trị hàng hoá cao đều bón bằng và lớn hơn mức tiêu chuẩn. Nguyên nhân do người dân quen với việc bón phân hoá học hơn là việc bón phân hữu cơ. Lượng phân hữu cơ được bón đều dưới mức tiêu chuẩn. Cây cà chua lượng bón phân hữu cơ là 6 tấn/ha thấp hơn mức tiêu chuẩn từ 14-34 tấn (định mức 20-40 tấn), trong khi đó lượng bón phân đạm là 127,78 kg/ha cao hơn mức tiêu chuẩn từ 47- 67kg (định mức 60-80kg).
- Kali đầu tư ít và không đều, đa số cây trồng không được bón đủ lượng kali. Một số cây trồng đòi hỏi phải bón nhiều kali như cây lấy củ, cây rau màu vụ đông, lượng kali bón mới chỉ đạt 40-60% so với tiêu chuẩn. Việc bón không đủ lượng kali cần thiết sẽ dẫn đến suy kiệt hàm lượng kali trong đất và gây ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng nông sản phẩm [19], [22].
Tóm lại: xét trung bình lượng phân bón tỷ lệ N:P2O5:K2O đạt yêu cầu ở mức thông thường, xét trên từng cây trồng cụ thể, tỷ lệ này mất cân đối nghiêm trọng. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả sử dụng đất và sản xuất nông nghiệp hàng hoá bền vững cần phải có hướng dẫn cụ thể tỷ lệ phân bón N:P2O5:K2O cân đối cho từng cây trồng. Mặt khác, để có thể nhận định chính xác về sự ảnh hưởng của phân bón đến đất, nước sinh vật... cần được nghiên cứu phân tích đầy đủ các chỉ tiêu về đất, nước và các nông sản phẩm.
* Mức độ thích hợp của các kiểu sử dụng đất hiện tại đối với đất.
Qua tổng hợp phiếu điều tra phỏng vấn nông hộ về khả năng thích hợp của cây trồng hiện tại đối với đất. Sự thích hợp ở đây đối với người dân được hiểu đơn giản là khả năng cho năng suất cao và ổn định, kết quả cho thấy:
- Đa số các hộ dân được hỏi đều cho rằng LUT chuyên lúa như hiện nay không ảnh hưởng đến môi trường, cho năng suất cao và ổn định.
- LUT lúa màu ngoài việc mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội thì nó còn mang lại nhiều lợi ích cho môi trường đất, nước. Các cây trồng màu góp phần thay đổi môi trường đất từ yếm khí sang hảo khí sau 2 vụ trồng lúa làm cho việc phân giải phân hữu cơ tốt hơn, tăng cường cải thiện chế độ khí cho đất, đặc biệt trồng các cây công nghiệp ngắn ngày như lạc, đậu tương, đậu đỗ và cây lương thực như hiện nay thì không những cho hiệu quả kinh tế cao mà còn có tác dụng cải tạo đất rất tốt.
- LUT chuyên màu: gồm các cây có giá trị hàng hoá cao như su hào, cải bắp, rau, dưa chuột, bí xanh... được trồng quanh năm, hệ số sử dụng đất cao do đó nó ảnh hưởng lớn đến môi trường đất và môi trường nước do người dân sử nhiều phân hoá học, phun nhiều thuốc bảo vệ thực vật nên nguy cơ gây ngộ độc rất cao cho người và súc vật sử dụng nông sản phẩm.
- LUT chuyên cá, trong những năm đầu mới đào ao nuôi thì kết quả không đạt như mong muốn, nhưng từ năm sau trở đi sẽ cho năng suất cao, ổn định, do ngay sau khi đào ao chưa xử lý hết độ chua nên hạn chế đến sinh trưởng và phát triển của cá.
Từ kết quả nghiên cứu ở huyện Hiệp Hoà, chúng tôi đi đến một số nhận xét như sau:
- Đất đai đang từng bước được dồn đổi thành những ô thửa lớn tạo điều kiện cho người dân yên tâm đầu tư sản xuất hàng hoá với quy mô lớn.
- Sản xuất nông nghiệp hàng hoá đã hình thành và phát triển, người dân có kinh nghiệm sản xuất cây trồng hàng hoá và kinh doanh, tạo đà cho sản xuất hàng hoá trong những năm tới. Một số cây trồng có giá trị kinh tế của huyện đã đáp ứng được nhu cầu lương thực, thị trường.
- Nhìn chung hiệu quả kinh tế của các loại hình sử dụng đất tương đối cao. Một số LUT điển hình không những cho hiệu quả kinh tế mà còn tạo được nhiều công ăn việc làm như LUT lúa - màu (GTGT/LĐ đạt 46,60 nghìn đồng), LUT chuyên mầu (GTGT/LĐ đạt 44,45 nghìn đồng), LUT cá (GTGT/LĐ đạt 96,26 nghìn đồng).
- LUT lúa màu cho hiệu quả kinh tế tương đối cao, phù hợp với năng lực sản xuất của nông hộ, vừa tận dụng hết nguồn lực lao động dư thừa ở địa phương, đảm bảo an toàn lương thực và phát triển bền vững.
- Những yếu tố có ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp hàng hoá ở huyện Hiệp Hoà là:
+ Nhóm các yếu tố về kinh tế xã hội: trong nhóm này quan trọng nhất phải kể đến là yếu tố thị trường. Thị trường là yếu tố có tính chất quyết định đến việc lựa chọn hàng hoá để tiến hành sản xuất của nông hộ, quyết định cho việc đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất,
Các thể chế chính sách: kinh tế, đất đai, vốn đầu tư, các chính sách hỗ trợ cũng đóng góp một phần không nhỏ trong sự thành công của sản xuất nông nghiệp hàng hoá có hiệu quả cao.
Cơ sở hạ tầng cũng là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp . Quan trọng phải kể đến hệ thống thuỷ lợi, giao thông và các trung tâm dịch vụ thương mại.
+ Nhóm các yếu tố về tổ chức sản xuất, kỹ thuật.
Việc tổ chức dịch vụ đầu ra, đầu vào cho các hộ sản xuất nông nghiệp, là rất quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của quá trình sản xuất nông nghiệp hàng hoá. Ngoài ra, đầu tư vật chất và trình độ khoa học kỹ thuật cũng là một vấn đề có ảnh hưởng lớn không chỉ với hiệu quả kinh tế mà là cả hiệu quả về mặt môi trường và xã hội.
+ Nhóm các yếu tố về điều kiện tự nhiên.
Việc bố trí các cây trồng phù hợp trên mỗi chân đất, mỗi vùng đất nhằm phát huy lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên là rất quan trọng, nhằm không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng của nông sản. Mặt khác, việc bố trí phù hợp sẽ không gây những ảnh hưởng nghiêm trọng đối với đất và môi trường.
4.4 Đề xuất phát triển sản xuất nông nghiệp huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2008-2015
4.4.1 Cơ sở đề xuất
- Đề xuất dựa trên quan điểm phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hiệu quả và bền vững.
- Căn cứ vào Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của huyện giai đoạn 2007- 2020; Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Giang và định hướng phát triển nông nghiệp của huyện Hiệp Hoà trong những năm tới
- Căn cứ vào thực trạng sử dụng đất nông nghiệp của huyện Hiệp Hoà
- Căn cứ vào điều kiện đất đai, giao thông, thuỷ lợi,... của từng vùng để bố trí các kiểu sử dụng đất cho phù hợp, vừa khai thác tốt tiềm năng của vùng vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao, giải quyết công ăn việc làm cho người nông dân
4.4.2 Định hướng sử dụng đất nông nghiệp huyện Hiệp Hoà đến năm 2015
Căn cứ vào cơ sở đề xuất nêu trên, chúng tôi định hướng sử dụng đất trồng cây hàng năm của huyện Hiệp Hoà đến năm 2015 cho các tiểu vùng như sau:
- Định hướng tổng thể sẽ là:
+ Vùng 1: Duy trì sản xuất các cây trồng như: cây lúa, cây ngô, cây lạc; quy hoạch vùng sản xuất rau chế biến bao gồm các xã Hoàng Lương, Hoàng An, Thanh Vân, tập trung sản xuất các loại rau như: bí xanh, cà chua, dưa bao tử, dưa chuột, các loại rau ăn lá. Sản phẩm cung cấp cho các nhà máy chế biến, cung cấp sản phẩm ăn tươi cho thị trường tỉnh Thái Nguyên, thành phố Hà Nội
Chuyển đổi một phần LUT chuyên lúa sang nuôi trồng thuỷ sản, tập trung tại xã Hoàng Lương.
+ Vùng 2: Tập trung phát triển kiểu sử dụng đất: Lạc xuân – lúa mùa – khoai tây đông. Từng bước hình thành vùng sản xuất lạc và khoai tây hàng hoá.
+ Vùng 3: Bao gồm các xã ven sông Cầu, giáp danh với Hà Nội, Thái Nguyên và Bắc Ninh. Tập trung phát triển vùng rau chế biến để cung cấp rau tươi cho thị trường Hà Nội, Bắc Ninh và Thái Nguyên. Chuyển đổi diện tích lúa một vụ không ăn chắc sang nuôi trồng thuỷ sản. Từng bước hình thành vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung, nuôi thâm canh, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân.
- Định hướng cụ thể, chi tiết như sau:
* Vùng 1
Các kiểu sử dụng đất: Hiện trạng năm 2008 ở vùng 1 có 9 kiểu sử dụng đất với tổng diện tích khoảng 1656 ha, trong đó chủ yếu là “lúa xuân- lúa mùa – ngô đông” với diện tích 736 ha (chiếm 44,45%) tuy nhiên hiệu quả kinh tế không cao. Các kiểu sử dụng đất chuyên rau có diện tích nhỏ và manh mún, trong tương lai nên quy hoạch phát triển thành vùng tập trung kiểu sử dụng đất này. Đây là kiểu sử dụng đất mang lại hiệu quả kinh tế cao, giải quyết số lao động dư thừa trong nông nghiệp. Tuy nhiên để phát triển bền vững kiểu sử dụng đất này cần áp dụng quy trình sản xuất rau an toàn, đảm bảo an toàn cho môi trường đất, nước và không khí.
Các loại cây trồng: Hiện tại, vùng 1 có các nhóm cấy trống như: cây lúa, ngô, khoai lang, khoai tây, lạc, các loại rau (khoai tây, bí xanh, cà chua, ...). Cây lúa và cây ngô vẫn là cây trồng chủ đạo. Trong tương lai cần duy trì phát triển 2 loại cây trồng này với những bộ giống năng suất cao và chất lượng tốt.
Từng bước hình thành vùng rau chế biến, bao gồm các loai rau ăn lá, bí xanh, cà chua, dưa chuột với tổng diện tích dự kiến khoảng 550 ha. Tập trung tại các xã Thanh Vân, Hoàng An và Hoàng Lương. Sản lượng rau này sẽ cung cấp cho các nhà máy chế biến, một phần cho thị trường rau tươi cho các vùng lân cận, đặc biệt vận chuyển theo Quốc lộ 37 lên Thái Nguyên. Với năng suất trung bình 120 tạ/ha, đến năm 2015 vùng này sẽ cung cấp vào thị trường khoảng 120 x 550 = 660.000 tạ (66.000 tấn) rau các loại.
Bảng 4.13 Hiện trạng và định hướng sử dụng đất nông nghiệp vùng 1 huyện Hiệp Hoà đến năm 2015
Hiện trạng
Định hướng
Kiểu sử dụng đất
Diện tích
(ha)
Cơ cấu
(%)
Kiểu sử dụng đất
Diện tích
(ha)
Cơ cấu
(%)
Tổng
1456
100
1456
100
1. Lúa xuân – Lúa mùa
95
6,52
1. Lúa xuân – Lúa mùa
20
1.37
2. Lúa xuân – Lúa mùa - Ngô đông
536
36,81
2. Thuỷ sản
50
3.43
3. Lúa xuân – Lúa mùa - Lạc
120
8,24
3. Lúa xuân – Lúa mùa - Lạc
120
8.24
4. Lúa xuân – Lúa mùa - Khoai tây
200
13,74
4. Lúa xuân – Lúa mùa - Ngô đông
506
34.75
5. Lúa xuân – Lúa mùa - Rau đông
105
7,21
5. Lạc xuân – Lúa mùa - Ngô đông
0
0
6. Lạc xuân – Lúa mùa - Ngô đông
300
20,6
6. Rau - Lúa mùa – Rau
500
34.34
7. Rau - Lúa mùa – Rau
43
2,95
7. Bí xanh - Cà chua - Dưa chuột
200
13.74
8. Bí xanh - Cà chua - Dưa chuột
7
0,48
8. Khoai lang - Lúa - Khoai lang
50
3.43
9. Khoai lang - Lúa - Khoai lang
50
3,43
Chuyển cây khoai tây sang vùng 2 để tập trung hình thành vùng khoai tây hàng hoá.
Chuyển khoảng 50 ha diện tích ở loại hình sử dụng đất chuyên lúa của xã Hoàng Lương sang nuôi trồng thuỷ sản. Đây là kiểu sử dụng đất mang lại hiệu quả kinh tế rất cao, góp phần xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống cho người dân trong vùng. Với năng suất trung bình 8 tấn cá/ha/năm, 50 ha sẽ cho sản lượng cá là 400 tấn cá/ha/năm. Sản lượng này sẽ tiêu thụ tại các quán ăn, nhà hàng, các chợ trong và ngoài huyện, xuất sang Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Nguyên,...
Bảng 4.14 So sánh diện tích cây trồng hiện trạng và định hướng đến 2015 của vùng 1
TT
Cây trồng
Hiện trạng
Định hướng
So sánh
Diện tích (ha)
Diện tích (ha)
1
Lúa xuân
1056
646
-410
2
Lúa mùa
1449
1356
-93
3
Ngô đông
836
1006
+170
4
Lạc xuân
300
500
+200
5
Lạc thu
120
120
0
6
Khoai lang
50
20
-30
7
Rau các loại:
412
550
+138
- Khoai tây đông
200
0
-200
- Rau ăn lá
191
400
+209
- Bí xanh
7
50
+43
- Cà chua
7
50
+43
- Dưa chuột
7
50
+43
8
Cá
0
50
+50
Tổng
4223
4248
+25
* Vùng 2
Các kiểu sử dụng đất: Hiện tại vùng 2 có 10 kiểu sử dụng đất được trình bày ở bảng 4.15 trong đó có 3 kiểu sử dụng đất có diện tích trên 500 ha là: Lúa xuân – lúa mùa – ngô đông với diện tích 1515 ha (chiếm 32,17%), tiếp đến là : Lúa xuân - Lúa mùa - Khoai tây diện tích 800 ha (chiếm 17,01%), Lúa xuân - Lúa mùa – Lạc diện tích 500 (chiếm 10,63%), còn lại 7 kiểu sử dụng đất có diện tích nhỏ từ 80 ha – 450 ha.
Bảng 4.15 Hiện trạng và định hướng sử dụng đất nông nghiệp vùng 2 huyện Hiệp Hoà đến năm 2015
Hiện trạng
Định hướng
Kiểu sử dụng đất
Diện tích
(ha)
Cơ cấu
(%)
Kiểu sử dụng đất
Diện tích
(ha)
Cơ cấu
(%)
Tổng
3708
100
3708
100
1. Lúa xuân - Lúa mùa
157
4.23
1. Lúa xuân - Lúa mùa
50
1.35
2. Lúa xuân - Lúa mùa - Ngô đông
1311
35.36
2. Lúa xuân - Lúa mùa - Ngô đông
800
21.57
3. Lúa xuân - Lúa mùa – Lạc
250
6.74
3. Lúa xuân - Lúa mùa - Khoai tây
800
21.57
4. Lúa xuân - Lúa mùa - Khoai tây
300
8.09
4. Lạc xuân - Lúa mùa - Khoai tây
1558
42.02
5. Lúa xuân - Lúa mùa - Rau đông
400
10.79
5. Lúa xuân - Đậu tương hè - lạc thu - rau đông
300
8.09
6. Lạc xuân - Lúa mùa - ngô đông
550
14.83
6. Lúa xuân - Đậu tương hè - lạc thu - khoai tây
200
5.39
7. Lạc xuân - Lúa mùa - Khoai tây
510
13.75
8. Lúa xuân-Đậu tương hè-Lạc thu-Rau đông
100
2.7
9. Lúa xuân-Đậu tương hè -Lạc thu-Khoai tây
50
1.35
10. Khoai lang - Lúa - Khoai lang
80
2.16
Trong tương lai vùng 2 sẽ tập trung phát triển 6 kiểu sử dụng đất cơ bản, giảm bớt loại hình chuyên lúa, phát triển loại hình chuyên lúa mầu cho thu nhập cao, bảo vệ và cải tạo đất, giải quyết công ăn việc làm cho người nông dân.
Các loại cây trồng: Hiện trạng vùng 2 có 10 loại cây trồng chính được trình bày trong bảng 4.15, trong đó có 4 loại cây trồng có diện tích gieo trồng trên 1000 ha đó là cây lúa, cây ngô, cây khoai tây, cây lạc. Trong đó cây lạc và cây khoai tây cho hiệu quả kinh tế cao vừa có ý nghĩa trong việc bảo vệ và cải tạo đất.
Trong tương lai cần quy hoạch thành vùng tập trung phát triển cây lạc và cây khoai tây đông thành vùng sản xuất hàng hoá với diện tích cụ thể là
+ Cây lạc 2058 ha (lạc xuân và lạc thu), với năng suất khoảng 20 tạ/ha thì hàng năm sẽ cung cấp cho thị trường 4.116 tấn lạc củ. Tập trung tại các xã: Danh Thắng, Thường Thắng, Hùng Sơn, Đức Thắng.
+ Cây khoai tây đông 2.558 ha, với năng suất khoảng 170 tạ/ha, dự kiến sẽ cung cấp cho kho lạnh và thị trường khoảng 434.860 tấn củ. Tập trung tại các xã Danh Thắng, Thường Thắng, Hùng Sơn, Đức Thắng.
Bảng 4.16 So sánh diện tích hiện trạng và định hướng đến 2015
của vùng 2
TT
Cây trồng
Hiện trạng
Định hướng
So sánh
Diện tích (ha)
Diện tích (ha)
1
Lúa xuân
2568
2150
-418
2
Lúa mùa
3558
3208
-350
3
Ngô đông
1861
800
-1061
4
Lạc xuân
1060
1558
+498
5
Lạc thu
400
500
+100
6
Khoai tây đông
860
2558
+1698
7
Khoai lang
80
0
-80
8
Rau các loại
500
300
-200
9
Đậu tương
150
500
+350
Tổng
11037
11574
+537
* Vùng 3
Các kiểu sử dụng đất: Vùng 3 có các kiểu sử dụng đất rất đa dạng, tổng số 16 kiểu sử dụng đất tuy nhiên có 4 kiểu sử dụng đất có diện tích trên 500 ha, còn lại 12 kiểu sử dụng đất có diện tích từ 5 - 420 ha. Có 3 kiểu sử dụng đất 4 vụ có diện tích từ 170-420 ha, cho hiệu quả kinh tế khá cao, đồng thời thu hút nhiều lao động nông thôn; bên cạnh đó GTGT/LĐ tương đối cao, bình quân đạt 73.000đ, trong tương lai cần mở rộng diện tích 02 kiểu sử dụng đất là Lúa xuân-Đậu tương hè-Lạc thu đông-Khoai tây và Lúa xuân-Đậu tương hè-Lúa mùa muộn-Khoai tây
Các loại cây trồng chính: Hiện tại vùng 3 có 9 loại cây trông chủ yếu , trong đó có 3 loại có diện tích trên 1000 ha đó là cây lúa, cây ngô và cây rau
Trong tương lai, vùng này tập trung phát triển vùng rau chế biến tại các xã Đông Lỗ, Hợp Thịnh, Mai Đình, ... với diện tích khoảng 3.160 ha để cung cấp cho các nhà máy chế biến và thị trường Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Nguyên, vận chuyển qua đường cầu Vát. Với năng suất trung bình khoảng 12 tấn/ha, trong tương lai sẽ cung cấp khoảng 25.920 tấn sản phẩm cho thị trường tiêu thụ
Chuyển đổi toàn bộ diện tích cấy lúa một vụ không ăn chắc và 2 lúa ở các xã Mai Đình, Đông Lỗ, Hợp Thịnh sang nuôi trồng thuỷ sản với diện tích dự kiến khoảng 300 ha. Năng suất trung bình 8 tấn/ha thì sản lượng thu được sẽ là 2.400 tấn/ha/năm cung cấp cho thị trường tiêu thụ trong và ngoài tỉnh, đặc biệt là thị trường Hà Nội
Bảng 4.17 Hiện trạng và định hướng sử dụng đất nông nghiệp vùng 3 huyện Hiệp Hoà đến năm 2015
Hiện trạng
Định hướng
Kiểu sử dụng đất
Diện tích
(ha)
Cơ cấu
(%)
Kiểu sử dụng đất
Diện tích
(ha)
Cơ cấu
(%)
Tổng
5.928
100
5.928
100
1. Lúa xuân - Lúa mùa
650
10,96
1. Lúa xuân - Lúa mùa
100
1,69
2. Lúa xuân - Lúa mùa - Ngô đông
2370
39,98
2. Lúa xuân - Lúa mùa - Ngô đông
2288
38,60
3. Lúa xuân - Lúa mùa - Lạc
360
6,07
3. Lúa xuân - Lúa mùa - Lạc
500
8,43
4. Lúa xuân - Lúa mùa - Khoai tây
500
8,43
4. Lúa xuân - Lúa mùa - Khoai tây
1000
16,87
5. Lúa xuân - Lúa mùa - Rau đông
848
14,3
5. Lạc xuân - Lúa mùa - Ngô đông
200
3,37
6. Lạc xuân - Lúa mùa - Ngô đông
200
3,37
6. Lúa xuân-Đậu tương hè-Ngô thu đông-Khoai tây
250
4,22
7. Lúa xuân-Đậu tương hè-Ngô thu đông-Khoai tây
250
4,22
7. Lúa xuân-Đậu tương hè-Lạc thu đông-Khoai tây
300
5,06
8. Lúa xuân-Đậu tương hè-Lạc thu đông-Khoai tây
170
2,87
8. Lúa xuân-Đậu tương hè-Lúa mùa muộn-Khoai tây
500
8,43
9. Lúa xuân-Đậu tương hè-Lúa mùa muộn-Khoai tây
420
7,09
9. Khoai lang - Lúa - Khoai lang
20
0,34
10. Khoai lang - Lúa - Khoai lang
70
1,18
10. Bí xanh - Đậu tương hè - Rau thu đông
100
1,69
11. Bí xanh - Đậu tương hè - Rau thu đông
15
0,25
11. Hành tỏi - Cà chua - Bắp cải
100
1,69
12. Hành tỏi - Cà chua - Bắp cải
10
0,17
12. Đậu xanh - Đậu cô ve - Su hào
50
0,84
13. Đậu xanh - Đậu cô ve - Su hào
5
0,08
13. Lạc - Rau ăn lá - Rau ăn lá
100
1,69
14. Lạc - Rau ăn lá - Rau ăn lá
20
0,34
14. Bí xanh - Cà chua - Su hào
120
2,02
15. Bí xanh - Cà chua - Su hào
10
0,17
15. Thuỷ sản
300
5,06
16. Lúa xuân – cá
30
0,51
Bảng 4.18 So sánh diện tích, nắng suất, sản lượng cây trồng của hiện trạng và định hướng đến 2015
TT
Cây trồng
Hiện trạng
Định hướng
So sánh
Diện tích (ha)
Diện tích (ha)
1
Lúa xuân
5178
4938
-240
2
Lúa mùa
5418
4608
-810
3
Ngô đông
2820
2738
-82
4
Lạc xuân
220
220
0
5
Lạc thu
530
800
+270
6
Khoai lang
140
40
-100
7
Đậu tương
855
1150
+295
8
Rau các loại
2323
3160
+837
Khoai tây đông
1340
2050
+710
Rau ăn lá
903
300
-603
Cà chua
20
220
+200
Bắp cải
10
100
+90
Su hào
15
170
+155
Bí xanh
25
220
+195
Đậu xanh
5
50
+45
Đậu cô ve
5
50
+45
9
Cá
30
300
+270
Tổng
17514
17954
+440
4.4.3 Các giải pháp thực hiện
Sử dụng đất như thế nào để đem lại hiệu quả cao là một vấn đề hết sức phức tạp, nó liên quan đến nhiều lĩnh vực. Xuất phát từ tình hình cụ thể của địa phương, qua nghiên cứu tìm hiểu bước đầu, chúng tôi xin được đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp ở huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang như sau.
4.4.3.1. Giải pháp về thị trường tiêu thụ nông sản phẩm nông nghiệp
Giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm cho nông dân là vấn đề tất yếu khi chuyển sang hướng sản xuất hàng hoá. Theo Nguyễn Duy Bột, 2001 [7], việc xác định và mở rộng thị trường tiêu thụ sẽ là cơ sở rất quan trọng để bố trí, phân vùng và đầu tư chiều sâu cho sản xuất, chế biến hàng nông sản. Mặt khác, sản phẩm nông nghiệp rất đa dạng và luôn biến động. Việc phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá đòi hỏi phải được thực hiện theo một kế hoạch định trước.
Huyện Hiệp Hoà là một huyện có nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý. Các sản phẩm hàng hoá của huyện có thể dễ dàng vận chuyển đến các thị trường lớn như thành phố Hà Nội, tỉnh Bắc Ninh, Thái Nguyên...đây là những thị trường lớn. Để giải quyết khâu tiêu thụ nông sản cho nông dân, theo chúng tôi cần: Phát triển các hộ nông dân làm dịch vụ tiêu thụ nông sản hàng hoá; hình thành các trung tâm thương mại ở thị trấn, các chợ đầu mối tại các xã là trung tâm của các vùng sản xuất, để từ đó tạo môi trường trao đổi hàng hoá nói . Điều quan trọng theo chúng tôi là tổ chức các hoạt động thông tin về thị trường, tổ chức dự báo thị trường và dành một phần kinh phí sự nghiệp nông nghiệp hàng năm của để giúp nông dân có những kênh tiêu thụ nông sản, đặc biệt là các nông sản có tính chất mùa vụ như các loại rau, củ, quả. Tránh cho nông dân những thiệt thòi khi tự mình mang hàng hoá ra thị trường bán, dễ bị ép giá và không yên tâm đầu tư sản xuất. Thực hiện tốt việc liên kết "4 nhà" trong phát triển nông nghiệp nhằm nâng cao tỷ suất hàng hoá, tăng tỷ lệ hàng nông nghiệp qua chế biến và tỷ lệ bao tiêu hàng hoá thông qua các hợp đồng giữa người sản xuất và người tiêu thụ
4.4.3.2. Giải pháp thuỷ lợi
Thuỷ lợi là biện pháp hàng đầu, có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sử dụng đất và nâng cao hiệu quả sử dụng đất. huyện Hiệp Hoà có thuận lợi về nguồn nước vì năm trong lưu vực sông cầu. Tuy nhiên, hệ thống kênh mương nội đồng cần được tiến hành nạo vét thường xuyên, đồng thời tiếp tục thực hiện cứng hoá kênh mương nội đồng để nâng cao hiệu suất sử dụng nước trong mùa khô và tiêu ngập úng vào mùa mưa ở một xã có địa hình thấp. Về mặt tổ chức, cần củng cố các trạm thuỷ nông, thực hiện chế độ khoán cho các trạm, nhằm đáp ứng yêu cầu chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng.
4.4.3.3. Giải pháp về vốn
Vốn là điều kiện quan trọng cho quá trình phát triển sản suất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp thâm canh, tập trung theo hướng hàng hoá. Nông dân luôn nằm trong tình trạng thiếu vốn đầu tư và cần được cung cấp. Vì sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ, nếu được đầu tư đúng mức và kịp thời thì sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao. Những LUT có hiệu quả kinh tế cao đều là những LUT cần một lượng vốn rất lớn. Vì vậy cần có chính sách để người dân được vay vốn ưu đãi cho phát triển sản xuất hàng hoá một cách thuận tiện và kịp thời như:
- Đa dạng hoá các hình thức cho vay, huy động vốn nhàn rỗi trong dân, khuyến khích hình thức quỹ tín dụng trong nông thôn. Ưu tiên người vay vốn để sản xuất nông nghiệp với các loại hình sử dụng đất có hiệu quả kinh tế
- Cải tiến các thủ tục cho vay tới các hộ nông dân, mở rộng khả năng cho vay đối với tín dụng không đòi hỏi thế chấp.
- Các trạm dịch vụ hỗ trợ sản xuất nông nghiệp có thể ứng trước vật tư, giống cho nông dân, đặc biệt là các hộ nghèo để tạo điều kiện cho nông dân chăm sóc cây trồng đúng thời vụ.
- Nhà nước cần có sự hỗ trợ về đầu tư và tín dụng, nhất là đầu tư cho việc thu mua nông sản vào vụ thu hoạch, đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến nông sản, đầu tư xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản.
4.4.3.4. Giải pháp về công tác khuyến nông và chỉ đạo kỹ thuật trong sản xuất
Thực tiễn sản xuất nông sản hàng hoá hiện nay cho thấy, công tác khuyến nông có tầm quan trọng đặc biệt với sản xuất của các hộ nông dân. Bộ phận khuyến nông gồm những người có nghiệp vụ, am hiểu về sản xuất, có nhiệm vụ:
- Tiếp thu và tổ chức tuyên truyền các thông tin mới và tiến bộ khoa học kỹ thuật, thông tin về thị trường giá cả...giúp nông dân có hướng bố trí sử dụng đất theo hướng có lợi nhất.
- Mở các lớp bồi dưỡng tập huấn ngắn ngày về kỹ thuật, kiến thức quản lý kinh tế bằng nhiều hình thức như tập huấn, tham quan học hỏi kinh nghiệm, giới thiệu các mô hình canh tác mới điển hình có hiệu quả cao..., nhanh chóng tiến hành in ấn các tài liệu về quy trình kỹ thuật sản xuất đưa đến tay nông dân.
- Tăng cường và hoàn thiện hệ thống khuyến nông viên cơ sở, hỗ trợ nông dân vươn lên trong sản xuất.
- Khuyến khích các hình thức khuyến nông tự nguyện của các hộ làm ăn giỏi, các tổ chức tự nguyện.
- Coi trọng công tác giống như là một khâu tiền đề đột phá để phát triển. Đưa nhanh công nghệ sinh học vào sản xuất.
5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
5.1 Kết luận
5.2 Đề nghị
-
-
-
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHQL09045.doc