Đánh giá thực trạng thực hiện mục tiêu quy hoạch mạng lưới Công nghệ thông tin tỉnh Vĩnh Phúc thời gian qua (từ năm 2006 - 2008)

CHƯƠNG MỞ ĐẦU I. Tầm quan trọng của quy hoạch CNTT tỉnh Vĩnh Phúc Nhân loại đang bước vào một thời đại mới, thời đại mà thông tin, tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thời đại của xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức được hình thành trên cơ sở phát triển và ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT - TT). Cuộc cách mạng thông tin cùng với quá trình toàn cầu hóa đang ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế - xã hội, đưa con người chuyển nhanh

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1613 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá thực trạng thực hiện mục tiêu quy hoạch mạng lưới Công nghệ thông tin tỉnh Vĩnh Phúc thời gian qua (từ năm 2006 - 2008), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từ xã hội công nghiệp sang xã hội thông tin, từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, ở đó năng lực cạnh tranh phụ thuộc chủ yếu vào năng lực sáng tạo, thu thập, lưu trữ, xử lý và trao đổi thông tin. Xu thế biến đổi to lớn đó đang đặt ra cho mọi quốc gia những cơ hội và thách thức to lớn. Nắm bắt cơ hội, với ý chí và quyết tâm cao, có sự chỉ đạo trực tiếp, kịp thời, sâu sát của Đảng, Nhà nước chúng ta sẽ có thể tăng cường năng lực, tận dụng tiềm năng CNTT, chuyển dịch nhanh cơ cấu nhân lực và cơ cấu kinh tế - xã hội (KT - XH) theo hướng xây dựng một xã hội thông tin, kinh tế dựa trên tri thức, góp phần quan trọng rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong xu thế biến động mạnh mẽ của cuộc cách mạng thông tin, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã xác định CNTT là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển. Chỉ thị số: 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã chỉ ra rằng “Ứng dụng và phát triển CNTT ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.” Vĩnh Phúc là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) Bắc Bộ, nằm ở khu vực chuyển tiếp và là cầu nối giữa các tỉnh trung du miền núi với tam giác phát triển kinh tế trọng điểm phía Bắc gồm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.Với vị trí địa lý nằm sát Hà Nội, Vĩnh Phúc có các tuyến giao thông rất thuận lợi cho việc thông thương: Đường bộ có quốc lộ 2, tuyến đường cao tốc Côn Minh - Hải Phòng; đường thủy có sông Lô, sông Hồng; đường sắt Hà Nội - Lào Cai; từ trung tâm tỉnh đến sân bay quốc tế Nội Bài chỉ 25 km. Tuy không có cảng biển nhưng có thể lưu chuyển thuận lợi qua đường cao tốc từ sân bay Nội Bài đến cảng Cái Lân. Nhìn chung điều kiện địa hình, khí hậu và thủy văn tương đối thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Vĩnh Phúc đã trở thành một bộ phận cấu thành của vành đai phát triển công nghiệp, đô thị, du lịch dịch vụ và có tác động tương hỗ rất chặt chẽ với qui hoạch phát triển vùng phía Bắc và Đông Bắc thủ đô Hà Nội. Trong những năm qua, CNTT đã khẳng định được vai trò quan trọng và bước đầu có những đóng góp cho sự phát triển của tỉnh, đặc biệt, sau khi có Chỉ thị số: 58-CT/TW của Bộ Chính trị, Vĩnh Phúc đã có nhiều hoạt động tích cực, tạo bước chuyển biến mới về nhận thức, hành động thực tiễn để phát triển và ứng dụng CNTT trên địa bàn tỉnh phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công tác tin học hoá hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị, các doanh nghiệp và nhân dân đã đạt được một số kết quả quan trọng. Tuy nhiên, nếu không có quy hoạch CNTT thì sẽ gặp khó khăn trong việc định hướng phát triển và triển khai tổ chức thực hiện ứng dụng và phát triển CNTT, trong tổ chức và triển khai các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về phát triển CNTT... Mục đích của Quy hoạch là phân tích sâu sắc, đánh giá đúng hiện trạng ứng dụng và phát triển CNTT của tỉnh trong thời gian qua; cụ thể hóa những mục tiêu về CNTT nêu trong Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh phúc giai đoạn 2001 - 2010 và định hướng đến năm 2020 và đề ra những giải pháp khả thi để thực hiện các mục tiêu đó. Quy hoạch góp phần quan trọng trong việc nâng cao vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực CNTT, đồng thời là cơ sở để tạo môi trường pháp lý thuận lợi thu hút, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực CNTT trên địa bàn tỉnh; làm căn cứ để các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNTT xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp với quy hoạch chung của ngành và của tỉnh; thúc đẩy công tác ứng dụng và phát triển CNTT, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân... II. Những vấn đề bức xúc hiện nay của quy hoạch CNTT cần được giải quyết Hiện nay việc ứng dụng công nghệ thông tin của tỉnh Vĩnh Phúc trong chỉ đạo, quản lý điều hành đang có xu hướng được nhân rộng. Việc ứng dụng CNTT đã đạt hiệu quả bước đầu, đã có một só phần mềm ứng dụng đạt hiệu quả. Tỉnh đã xây dựng được Cổng thông tin điện tử, cung cấp một số văn bản pháp quy, các thông tin về kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử,văn hoá, hoạt động sản xuất kinh doanh, chính sách thu hút đầu tư, doanh nghiệp và các nhà đầu tư…nguồn nhân lực CNTT của tỉnh có bước phát triển đáng kể, gần 50% cán bộ trong các cơ quan chính quyền biết sử dụng máy vi tính, nhưng nhìn chung hạ tầng kỹ thuật CNTT của Vĩnh Phúc vẫn còn chậm phát triển, chưa đáp ứng được nhu cầu ứng dụng CNTT phục vụ phát triển; Công nghiệp CNTT tỉnh Vĩnh Phúc còn nhỏ bé. Hiện tại, Vĩnh Phúc mới chỉ có một số nhà máy quy mô nhỏ sản xuất và lắp ráp các sản phẩm phần cứng máy tính, điện tử, viễn thông, hầu như không có doanh nghiệp công nghiệp phần mềm, đặc biệt là rất ít đơn vị dịch vụ CNTT; tốc độ tăng trưởng của công nghiệp CNTT còn quá thấp nếu so sánh với tốc độ tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Tuy nhiên tỉnh Vĩnh Phúc cũng đã có sự quan tâm đầu tư cho ứng dụng và phát triển CNTT, nhưng đầu tư còn hạn chế. Bình quân một năm đầu tư từ các nguồn cho CNTT là 6,4 tỷ VNĐ. Mục tiêu phát triển CNTT của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2010 là  phấn đấu đưa Vĩnh Phúc trở thành một trong những tỉnh, thành phố đi đầu trong ứng dụng và phát triển CNTT của  Việt Nam. III. Sự cần thiết của giải pháp đẩy mạnh thực hiện quy hoạch CNTT tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2009 đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 Nhìn chung quy hoạch CNTT diễn ra còn chậm, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế như hạ tầng kĩ thuật còn chưa tương xứng với nhu cầu ứng dụng CNTT, công nghiệp và thị trường CNTT còn nhỏ bé, chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức chưa tạo thành ngành mũi nhọn thúc đẩy công nghiệp Vĩnh Phúc phát triển mạnh mẽ, ứng dụng CNTT trong hệ thống chính trị, doanh nghiệp và nhân dân còn nhiều bất cập. Các giải pháp được đưa ra trong báo cáo quy hoạch không còn phù hợp với tình hình đổi mới của nền kinh tế hoặc chưa theo kịp những biến động của các nhân tố kinh tế trong và ngoài nước. Quy hoạch còn trì trệ và chưa linh hoạt với thực tế. Vì vậy các giải pháp đẩy mạnh thực hiện quy hoạch CNTT có ý nghĩa cực kì quan trọng, bổ sung kịp thời những hạn chế và thiếu sót trong quá trình thực hiện quy hoạch hiện nay. Các giải pháp đó tiếp bước và tạo động lực cho ngành CNTT nói riêng và kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc nói chung phát triển vững chắc, chủ động hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới. CHƯƠNG 1: SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN QUY HOẠCH MẠNG LƯỚI CNTT TỈNH VĨNH PHÚC I. Giới thiệu về tỉnh Vĩnh Phúc 1. Vị trí địa lý – nguồn lực đặc biệt của Vĩnh Phúc Tỉnh Vĩnh Phúc thuộc vùng KTTĐ Bắc Bộ,(() Vĩnh Phúc được Chính phủ phê duyệt thành một trong 8 tỉnh thuộc Vùng KTTĐ Bắc Bộ (gồm Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh) vào tháng 7 năm 2003. ) nằm trong vùng châu thổ sông Hồng thuộc miền Bắc Việt Nam, có địa giới giáp với 5 tỉnh: - Phía Bắc giáp hai tỉnh: Thái Nguyên và Tuyên Quang, đường ranh giới là dãy núi Tam Đảo, Sáng Sơn; - Phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ, ranh giới tự nhiên là dòng chảy Sông Lô; - Phía Nam giáp tỉnh Hà Tây và thành phố Hà Nội, ranh giới tự nhiên là dòng chảy Sông Hồng; - Phía Đông giáp hai huyện Sóc Sơn, Đông Anh của Hà Nội. Vĩnh Phúc có diện tích tự nhiên là 1.371,41 km², gồm hai thị xã: Vĩnh Yên và Phúc Yên, 6 huyện: Bình Xuyên, Lập Thạch, Tam Dương, Tam Đảo, Vĩnh Tường, Yên Lạc và 134 xã, phường, thị trấn. Thị xã Vĩnh Yên là tỉnh lỵ của Vĩnh Phúc. Vĩnh Phúc nằm ở khu vực chuyển tiếp, là cầu nối giữa các tỉnh trung du miền núi với tam giác phát triển kinh tế trọng điểm phía Bắc gồm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Với vị trí địa lý nằm sát Thủ đô Hà nội, Vĩnh Phúc có các tuyến đường giao thông rất thuận lợi cho việc thông thương: đường bộ có quốc lộ số 2; đường thủy có sông Hồng, sông Lô; đường sắt có tuyến Hà Nội - Lào Cai chạy qua; từ trung tâm tỉnh đến sân bay quốc tế Nội Bài là 25 km. Tuy Vĩnh Phúc không có cảng biển nhưng có thể sử dụng đường cao tốc từ sân bay Nội Bài ra cảng Cái Lân. Là một trong 8 tỉnh thuộc vùng KTTĐ Bắc Bộ, Vĩnh Phúc đã trở thành một bộ phận cấu thành của vành đai phát triển công nghiệp, đô thị, du lịch dịch vụ và có tác động tương hỗ với qui hoạch phát triển vùng phía Bắc và Đông Bắc thủ đô Hà Nội. Sự hình thành và phát triển các tuyến hành lang giao thông quốc tế và quốc gia liên quan đến Vĩnh Phúc đã đưa tỉnh xích lại gần hơn các trung tâm kinh tế, các khu công nghiệp và các thành phố lớn và khu vực không chỉ trong nước, mà còn thông thương thuận lợi ra nước ngoài như: hành lang kinh tế Côn Minh (Trung Quốc) - Hà Nội - Hải Phòng, Quốc lộ 2 - Việt Trì - Hà Giang - Trung Quốc, hành lang đường 18 và trong tương lai là các đường vành đai của Thủ đô Hà Nội,… nằm liền kề với sân bay quốc tế Nội Bài, Vĩnh Phúc khá hấp dẫn các dự án đầu tư cả trong nước và trực tiếp của nước ngoài, nhất là các vùng: Mê Linh, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Bình Xuyên, Tam Đảo... Có thể khẳng định Vĩnh Phúc có đầy đủ tiềm năng để tiến tới phát triển một nền kinh tế bền vững. Vị trí địa lý của Vĩnh Phúc rất thuận lợi cho phát triển KT - XH nói chung, đặc biệt là phát triển công nghiệp, đô thị và du lịch dịch vụ, đây là nguồn lực đặc biệt của tỉnh. 2. Một số nét chính về văn hóa, xã hội Vĩnh Phúc là vùng đất giàu truyền thống lịch sử. Người dân Vĩnh Phúc luôn mang trong mình niềm tự hào về truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước anh hùng và một nền văn hóa rực rỡ. Vĩnh Phúc luôn ở trong dòng chủ lưu của lịch sử phát triển dân tộc từ thời đại các vua Hùng dựng nước đến thời đại Hai Bà Trưng, kỷ nguyên Đại Việt rực rỡ đến thời đại Hồ Chí Minh. Vĩnh Phúc là quê hương của các anh hùng dân tộc và danh tướng như Hai Bà Trưng, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Thái Học,… Vĩnh Phúc vẫn mang đậm dấu ấn của văn hóa Hùng Vương và Kinh Bắc, Thăng Long, của nền văn hóa dân gian đặc sắc và còn lại cho đến ngày nay là cả một kho tàng di sản văn hoá vật thể và phi vật thể phong phú. Tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập năm 1950, trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên. Tháng 03/1968, Vĩnh Phúc và Phú Thọ hợp nhất thành tỉnh Vĩnh Phú. Từ tháng 01/1997 Vĩnh Phúc được tái lập. Từ khi tái lập tỉnh, Vĩnh Phúc đã đạt được nhiều thành tựu về phát triển văn hóa - xã hội(() Các số liệu trong phần này được trích từ “Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010 của tỉnh Vĩnh Phúc”. ): Giáo dục - Đào tạo đã đạt được những kết quả quan trọng: Mạng lưới trường lớp được củng cố và dần ổn định; cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhà trường tiếp tục được cải thiện. Chất lượng giáo dục toàn diện, có những bước tiến bộ vượt bậc, trong những năm gần đây, Vĩnh Phúc là một trong những tỉnh có nhiều học sinh đạt giải cao ở các kỳ thi quốc gia và quốc tế; trật tự kỷ cương trong nhà trường, môi trường sư phạm được tăng cường. Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng, phương pháp giảng dạy và học tập được cải tiến, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn ngày càng cao. Tỉnh được công nhận đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở năm 2001. Ứng dụng CNTT trong giảng dạy và học tập có bước phát triển, nhiều trường trung học phổ thông và một số trường trung học cơ sở đã được trang bị máy tính phục vụ công tác quản lý, giảng dạy và học tập. Khoa học - Công nghệ ngày càng phát triển, phục vụ thiết thực cho sự nghiệp phát triển KT - XH của tỉnh. Các tiến bộ khoa học, công nghệ được ứng dụng vào sản xuất kinh doanh và đời sống ngày càng nhiều, trong đó có CNTT. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được cải thiện: Hệ thống mạng lưới y tế từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục được tăng cường cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ cán bộ. Hệ thống Văn hóa thông tin - Phát thanh, truyền hình từ tỉnh đến cơ sở ngày càng được hoàn thiện và phát triển. Công tác thông tin tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng được thực hiện tốt. Các thiết chế văn hóa được củng cố, các công trình lịch sử, văn hóa được chú trọng... 3. Nguồn nhân lực (() Các số liệu trong mục này được trích từ “Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc 2004” và “Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010 của tỉnh Vĩnh Phúc”. ) Sau khi huyện Mê Linh sát nhập với Thủ Đô Hà Nội Tỉnh Vĩnh Phúc có diện tích tự nhiên là 123.176,43 ha và dân số hiện tại là 1.059.063 người, bao gồm diện tích tự nhiên và dân số hiện tại của thành phố Vĩnh Yên, thị xã Phúc Yên, các huyện Bình Xuyên, Lập Thạch, Tam Dương, Tam Đảo, Vĩnh Tường, Yên Lạc; Theo ước tính, năm 2007, Vĩnh Phúc có 132 xã, 20 phường (thị trấn). Mật độ dân số trung bình là 867 người/km2, thấp hơn mức trung bình của vùng KTTĐ Bắc Bộ (1.112,4 người/km2 ). Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của tỉnh dự kiến đến năm 2010 còn dưới 0,95 %. Ước tính nguồn lao động năm 2007 là 804180 người, chiếm 75,93% dân số, trong đó có 680830 người làm việc trong các ngành kinh tế. Lực lượng lao động chủ yếu vẫn tập trung trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp: 375140 người, chiếm 55,10%. Khu vực công nghiệp và xây dựng: 140920 người, chiếm 20,7% và khu vực dịch vụ: 164770 người, chiếm 24,2%. Số lao động có trình độ đại học, cao đẳng và trung cấp chiếm tỷ lệ thấp, phần lớn tập trung trong các ngành giáo dục và y tế. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo là 25%, xấp xỉ tỷ lệ của cả nước (25,09% ). Dự báo đến năm 2010, dân số của tỉnh là 1.240.000 người, số người trong độ tuổi lao động là 830.490 người, chiếm 67% dân số. Trong đó có 97% làm việc trong các ngành kinh tế, cụ thể: khu vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 52,26%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 25% và khu vực dịch vụ chiếm 19,74%. 4. Tổng quan phát triển kinh tế - xã hội Tỉnh Vĩnh Phúc 4.1. Thành tựu phát triển kinh tế - xã hội(() Tài liệu tham khảo: Điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2001 - 2010 và định hướng đến năm 2020; Phát biểu của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc tại buổi gặp gỡ các doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh Xuân Ất Dậu ngày 24-2-2005; Website ) Năm 2008 là năm có nhiều biến động (lạm phát, thiên tai…) tác động đến quá trình phát triển KT-XH của tỉnh song dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, HĐND, chỉ đạo, điều hành quyết liệt của UBND tỉnh, KT-XH của tỉnh vẫn đạt được kết quả cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cả năm dự kiến đạt 17,46%, trong đó CN-XD tăng 19,5%, dịch vụ tăng 18,99%, nông - lâm nghiệp - thuỷ sản tăng 6,89%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng CN-XD chiếm khoảng 82%. Thu ngân sách ước đạt 9.228 tỷ đồng, tăng 57,2% so với năm 2007, trong đó thu nội địa ước đạt 7.340 tỷ đồng, tăng 63,4% so với năm 2007. Toàn tỉnh thu hút được 124 dự án (31 dự án FDI với số vốn đăng ký 535,3 triệu USD, 93 dự án DDI với số vốn đăng ký 5.977 tỷ đồng). Thu nhập bình quân đầu người đạt 21,6 triệu đồng, tăng 37,4% so với năm 2007. Các lĩnh vực VH-XH có bước phát triển khá, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 9,18%, giảm 2,13% so với năm 2007… Tuy nhiên, KT-XH của tỉnh trong năm 2008 còn bộc lộ một số tồn tại, yếu kém: Kinh tế tăng trưởng cao nhưng không đạt kế hoạch đề ra; tính ổn định, bền vững của nền kinh tế chưa cao: chất lượng, sức cạnh tranh của một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm còn thấp; thu hút đầu tư không đạt mục tiêu đề ra; quy hoạch đồ thị còn lúng túng, chậm triển khai, quản lý quy hoạch chưa xứng tầm; đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng chưa đạt yêu cầu đề ra, trong đó lĩnh vực XDCB đình trệ, giải ngân vốn ODA khó khăn; giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc còn chậm; công tác cải cách hành chính chưa đáp ứng được yêu cầu, hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước ở một số lĩnh vực còn hạn chế… Ngoài nguyên nhân chính khách quan do ảnh hưởng của lạm phát, khủng hoảng tài chính tiền tệ thì vai trò quản lý Nhà nước trong một số lĩnh vực còn chậm, chưa phát huy được hiệu lực, hiệu quả. Trong năm 2009, dự báo tình hình sẽ rất khó khăn, ảnh hưởng của lạm phát và khủng hoảng tài chính tiền tệ vẫn còn tiếp diễn tác động lớn đến quá trình phát triển kinh tế khiến sản xuất, tiêu dùng, xuất khẩu đều giảm. BTV Tỉnh uỷ thống nhất chọn phương án 2 như đề nghị của UBND tỉnh đối với các chỉ tiêu KT-XH của tỉnh trong năm 2009, trong đó nhấn mạnh đến các giải pháp: Tập trung thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng và Nhà nước về kiềm chế lạm phát, chống giảm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Tăng cường các giải pháp đẩy mạnh sản xuất, trong đó chú ý đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ; tập trung phát triển công nghiệp, tháo gỡ khó khăn để các dự án triển khai có hiệu quả, chú ý các dự án trong lĩnh vực dịch vụ. Bên cạnh đó cần chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn XDCB; làm tốt công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt là các công trình trọng điểm, đô thị, công nghiệp, các xã nghèo. Đẩy mạnh các biện pháp tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách Nhà nước, tăng cường đầu tư ngân sách và đẩy mạnh xã hội hoá lĩnh vực giáo dục, y tế; đẩy mạnh cải cách hành chính, đảm bảo AN-QP, TTATXH… BTV Tỉnh uỷ cũng đã thông qua các báo cáo, tờ trình về giao đất dịch vụ; sửa đổi bổ sung mức hỗ trợ kinh phí, mua sắm trang thiết bị cho nhà văn hoá xã, thôn; chính sách đầu tư nâng cao chất lượng đào tạo nghề, đào tạo lao động kỹ thuật tỉnh Vĩnh Phúc; chính sách hỗ trợ đối với hộ nghèo, các xã, thôn khó khăn… trình HĐND tỉnh thông qua tại kỳ họp thứ 14 4.2. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2010 (() Tài liệu tham khảo: Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010 của tỉnh Vĩnh Phúc, Báo cáo tổng hợp điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2001 - 2010 và định hướng đến năm 2020. ) Một số chỉ tiêu phát triển KT – XH tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2010 Các chỉ tiêu Đơn vị 2000 2010 + Dân số Người 1.110.111 1.234.600 Tỷ lệ tăng tự nhiên % 1,32 0,95 + Tổng GDP (giá 94) Tỷ đồng 3.033,8 11.620 + Tốc độ tăng GDP % 16,4 (1996 - 2000) 14 - 14,5 (2006 - 2010) - Công nghiệp và xây dựng % 43,9 18,5 - 20 - Dịch vụ % 13,7 13 - 14 - Nông, lâm nghiệp % 5,3 5,0 - 5,5 + Cơ cấu GDP (giá 94) - Công nghiệp và xây dựng % 38,97 58,4 - Dịch vụ % 29,81 27,4 - Nông, lâm, ngư nghiệp % 31,22 14,2 + GDP/người (giá thực tế) Triệu đồng/người 3,53 18,1 - GDP/người so với cả nước % 57,4 120 - 150 - GDP/người so với vùng KTTĐ Bắc bộ % 48,2 85 - 90 - Hoàn thành phổ cập trung học cho thanh niên (cả bổ túc văn hóa, học nghề); - Đảm bảo mức tăng dân số đến năm 2010 khoảng dưới 0,95%; - 100% xã, phường, thị trấn có bác sỹ và đạt chuẩn quốc gia về y tế xã; - Mỗi năm tăng thêm 2,5 - 3% lao động qua đào tạo, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40 - 45% vào năm 2010; - Mật độ điện thoại đạt 38 máy/100 dân, độ phủ sóng đều khắp đến cấp xã với chất lượng cao; số người sử dụng Internet khoảng 40%, chủ yếu là băng thông rộng; - Tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương xây dựng được trung tâm đào tạo chất lượng cao cho cả vùng KTTĐ Bắc Bộ... 5. Đánh giá chung về những thuận lợi, khó khăn 5.1. Thuận lợi Vị trí địa lý thuận lợi là ưu thế lớn của Vĩnh Phúc so với nhiều tỉnh khác trong thu hút đầu tư và phát triển kinh tế. Nằm liền với hướng phát triển của thủ đô Hà Nội, sát trục tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, trong vùng phát triển của đồng bằng sông Hồng; có các đầu mối giao thông quan trọng (đường sắt, đường không, đường bộ và đường thủy), Vĩnh Phúc trở thành điểm hấp dẫn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, địa hình bao gồm cả miền núi, trung du và đồng bằng là điều kiện thuận lợi cho tỉnh phát triển các loại hình sản xuất đa dạng, phong phú về dịch vụ du lịch, vui chơi giải trí, thúc đẩy phát triển kinh tế và tạo công ăn việc làm. Với một phần diện tích bán sơn địa, cao ráo hơn so các vùng duyên hải (Thuận lợi để phát triển đô thị, công nghiệp và du lịch, dịch vụ), cùng với các yếu tố thuận lợi về địa chất (nền đất ổn định), khí hậu (độ ẩm vừa phải, không có gió biển kèm theo hơi nước), thuỷ văn (nguồn nước ngọt thuần chất…). Vĩnh Phúc sẽ trở thành địa điểm lý tưởng cho các nhà đầu tư phát triển công nghiệp chế tạo, lắp ráp ô tô, xe máy; ngành cơ khí, điện tử viễn thông tin học; phát triển đô thị, các khu du lịch, dịch vụ... Những thành tựu vượt bậc trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng của tỉnh những năm gần đây đã làm tiền đề và mở ra triển vọng to lớn hơn nữa, đặc biệt là việc Vĩnh Phúc được Chính phủ đưa vào danh sách 8 tỉnh năng động phát triển kinh tế của vùng KTTĐ Bắc Bộ đã không chỉ nâng cao vị thế của tỉnh ở Bắc Bộ và cả nước mà còn được nhiều nhà đầu tư và chính khách nước ngoài đánh giá cao. Điều này đã tạo nên những điều kiện thuận lợi trong việc thu hút đầu tư, hợp tác phát triển. Yếu tố con người là yếu tố quan trọng nhất quyết định khả năng biến những tiềm năng và lợi thế của tỉnh trở thành động lực phát triển KT - XH. Vĩnh Phúc có lực lượng lao động dồi dào, trẻ, có sức khoẻ, có văn hoá, có thể đào tạo nhanh về chuyên môn, có khả năng tiếp thu công nghệ mới; đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhanh nhậy, có trình độ, thích ứng nhanh với yêu cầu đổi mới. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân đoàn kết, nhất trí quyết tâm đẩy nhanh tốc độ phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp, trong đó ứng dụng, phát triển CNTT - TT được xác định như là một động lực quan trọng thúc đẩy phát triển trên tất cả các ngành và mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội. 5.2. Khó khăn (() Tài liệu tham khảo: Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010 của tỉnh Vĩnh Phúc, Website ) Tỉnh Vĩnh Phúc với 83% dân số sống ở nông thôn và tỷ lệ lao động nông nghiệp chiếm 55,10% tổng lực lượng lao động. Điểm xuất phát kinh tế thấp, do đó mặc dù phát triển rất nhanh, nhưng đến năm 2005, GDP bình quân đầu người theo giá thực tế mới đạt 8,18 triệu đồng, thấp hơn so với bình quân cả nước (() GDP bình quân đầu người theo giá thực tế năm 2004 của cả nước là 8,0 triệu đồng, của Vùng KTTĐ Bắc Bộ là 11,0 triệu đồng (Theo Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010 của tỉnh Vĩnh Phúc). )(năm 2008 là 17,17 triệu đồng). Hệ thống kết cấu hạ tầng đã được đặc biệt quan tâm đầu tư xây dựng và củng cố, nhưng vẫn còn yếu và chưa đồng bộ: hệ thống giao thông đường bộ, đặc biệt là quốc lộ 2 - tuyến đường huyết mạch của tỉnh chưa hoàn thành việc cải tạo nâng cấp và mở rộng, việc đi lại vận chuyển nguyên liệu, hàng hoá còn gặp nhiều khó khăn; hạ tầng các khu công nghiệp, đô thị, du lịch; hạ tầng thông tin và truyền thông còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế sản xuất hàng hoá, phát triển công nghiệp, du lịch dịch vụ. Đội ngũ cán bộ còn thiếu và yếu; lực lượng lao động tuy dồi dào nhưng chất lượng thấp, đa số chưa được đào tạo nghề, tác phong lao động công nghiệp chưa đáp ứng ngay được yêu cầu của các doanh nghiệp. Áp lực giải quyết công ăn việc làm cho người dân rất lớn, xuất phát từ việc chuyển đổi đất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và một bộ phận học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học hàng năm... Mặc dù công nghiệp đã chiếm tỷ trọng lớn trong GDP nhưng công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng khá lớn, công nghiệp địa phương và doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn nhỏ bé, năng lực về vốn và sức cạnh tranh yếu, cần phải có thời gian nhất định để phát triển và vượt lên, do đó nền kinh tế của tỉnh trở nên dễ nhạy cảm với những thay đổi của các cơ chế, chính sách và biến động từ bên ngoài. II. Quy hoạch mạng lưới CNTT tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2010 Bối cảnh xây dựng quy hoạch Trong những năm qua, CNTT đã khẳng định được vai trò quan trọng và bước đầu có những đóng góp cho sự phát triển của tỉnh, đặc biệt, sau khi có Chỉ thị số: 58-CT/TW của Bộ Chính trị, Vĩnh Phúc đã có nhiều hoạt động tích cực, tạo bước chuyển biến mới về nhận thức, hành động thực tiễn để phát triển và ứng dụng CNTT trên địa bàn tỉnh phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công tác tin học hoá hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị, các doanh nghiệp và nhân dân đã đạt được một số kết quả quan trọng. Tuy nhiên, đến năm 2005 Vĩnh Phúc vẫn chưa có quy hoạch CNTT, do đó còn gặp khó khăn trong việc định hướng phát triển và triển khai tổ chức thực hiện ứng dụng và phát triển CNTT, trong tổ chức và triển khai các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về phát triển CNTT... Xuất phát từ thực tế đó, UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã giao Sở Bưu chính, Viễn thông (BCVT) xây dựng “Quy hoạch phát triển Công nghệ thông tin tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020”. Mục đích của Quy hoạch là phân tích sâu sắc, đánh giá đúng hiện trạng ứng dụng và phát triển CNTT của tỉnh trong thời gian qua; cụ thể hóa những mục tiêu về CNTT nêu trong Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh phúc giai đoạn 2001 - 2010 và định hướng đến năm 2020 và đề ra những giải pháp khả thi để thực hiện các mục tiêu đó. Quy hoạch góp phần quan trọng trong việc nâng cao vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực CNTT, đồng thời là cơ sở để tạo môi trường pháp lý thuận lợi thu hút, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực CNTT trên địa bàn tỉnh; làm căn cứ để các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNTT xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp với quy hoạch chung của ngành và của tỉnh; thúc đẩy công tác ứng dụng và phát triển CNTT, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân... 2. Quan điểm phát triển 2.1. CNTT là công cụ quan trọng hàng đầu để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ứng dụng CNTT là yếu tố có ý nghĩa quyết định chiến lược, làm tăng năng suất lao động, tạo giá trị gia tăng trong phát triển. Ứng dụng CNTT phải gắn với quá trình đổi mới và bám sát mục tiêu phát triển KT - XH, được lồng ghép trong các hoạt động chính trị, quản lý, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, công nghệ và an ninh, quốc phòng. 2.2. Cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông là hạ tầng KT - XH được ưu tiên phát triển Bảo đảm công nghệ hiện đại, quản lý và khai thác hiệu quả, nhằm đáp ứng các nhu cầu của ứng dụng và phát triển CNTT - TT trên địa bàn tỉnh. 2.3. Phát triển nguồn nhân lực về CNTT là yếu tố quyết định đối với việc phát triển và ứng dụng CNTT phục vụ sự nghiệp phát triển KT - XH và công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 2.4. Công nghiệp CNTT (bao gồm công nghiệp phần cứng, công nghiệp phần mềm và dịch vụ CNTT) là ngành kinh tế được ưu tiên, quan tâm hỗ trợ và khuyến khích phát triển Góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy các ngành, lĩnh vực khác cùng phát triển. Khai thác triệt để các lợi thế so sánh, đặc biệt là thế mạnh về vị trí địa lý của tỉnh và tiềm năng về nguồn nhân lực dồi dào để thu hút đầu tư và phát triển công nghiệp CNTT một cách có hiệu quả. 2. Định hướng phát triển Định hướng phát triển CNTT của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2010 là phấn đấu đưa Vĩnh Phúc trở thành một trong những tỉnh có trình độ tiên tiến về phát triển và ứng dụng CNTT - TT với một số mục tiêu cơ bản sau đây: 2.1. Ứng dụng CNTT trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh, quốc phòng. Ứng dụng CNTT để đổi mới tổ chức, phương thức quản lý, quy trình điều hành, trợ giúp đắc lực cho hoạt động quản lý, điều hành của các cơ quan trong hệ thống chính trị, các đơn vị, doanh nghiệp; từng bước xây dựng “Tỉnh điện tử”. Cung cấp được những thông tin cơ bản phục vụ người dân, doanh nghiệp qua mạng, thu hút đầu tư, giúp cho người dân, và các doanh nghiệp làm việc, giao dịch với các cơ quan Nhà nước nhanh, thuận tiện và tiết kiệm nhất; 2.2. Đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật CNTT - TT tương thích với sự phát triển KT - XH Đáp ứng nhu cầu ứng dụng CNTT của các cơ quan, đơn vị, tổ chức và người dân. Đến năm 2010 mật độ điện thoại toàn tỉnh đạt 38 máy/100 dân, trong đó mật độ điện thoại cố định là 18,5 máy và mật độ điện thoại di động là 19,5 máy; mật độ thuê bao Internet các loại đạt 10% (trong đó chủ yếu là thuê bao băng rộng), 40% dân số sử dụng Internet; 2.3. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực CNTT, bảo đảm có đủ nhân lực CNTT cho nhu cầu ứng dụng và phát triển CNTT trên địa bàn tỉnh. Chú trọng nâng cao năng lực CNTT cho cán bộ quản lý, kinh doanh, đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề nhằm tăng năng lực cạnh tranh, tăng khả năng hợp tác trong quá trình hội nhập quốc tế. Đa số cán bộ, công chức, viên chức, giáo viên các cấp, bác sĩ, y sĩ, sinh viên đại học và cao đẳng, học sinh trung học chuyên nghiệp, trung học phổ thông, 50% học sinh trung học cơ sở và một bộ phận dân cư có thể sử dụng các ứng dụng CNTT cơ bản và khai thác Internet phục vụ công việc, học tập, sản xuất kinh doanh và đời sống; 2.4. Đẩy mạnh thu hút đầu tư và phát triển công nghiệp CNTT một cách có hiệu quả. Trong giai đoạn 2006 - 2010, tạo ra bước đột phá về phát triển công nghiệp CNTT. III. Sự cần thiết đẩy mạnh thực hiện quy hoạch mạng lưới CNTT tỉnh Vĩnh Phúc 1. Vai trò của CNTT đối với phát triển kinh tế - xã hội Tỉnh Công nghệ thông tin đã ngày càng đóng vai trò quan trọng, là một nhân tố thúc đẩy đối với thành công trong công cuộc đổi mới của Việt Nam. Việt Nam coi công nghệ thông tin là một trong những lĩnh vực ưu tiên, đặt nền móng cho những đột phá về phát triển trong lĩnh vực công nghệ cao nói riêng, công cuộc hiện đại hoá nói chung. Công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng góp phần đẩy nhanh tiến trình CNH-HĐH của tỉnh Vĩnh Phúc. Công nghệ thông tin (CNTT) là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kích thích tăng lực đổi mới đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và của tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. Việc nhanh chóng đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình tự động hoá trong sản xuất kinh doanh là vấn đề đang luôn được quan tâm bởi lẽ công nghệ thông tin có vai trò rất lớn trong các hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh, bán hàng, xúc tiến thương mại, quản trị doanh nghiệp. Sự phát triển của CNTT đã tạo ra hàng loạt ngành nghề mới có giá trị gia ._.tăng cao, đã đào tạo được hàng triệu nhân công CNTT có tay nghề cao; tạo ra nguồn thu rất lớn cho ngân sách Nhà nước, từ thu thuế (nhiều chục tỷ USD mỗi năm). Sự phát triển của CNTT là sản phẩm của trí tuệ con người là động lực cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Nó sẽ là công cụ hữu hiệu giúp tỉnh Vĩnh Phúc hội nhập vào nền kinh tế thế giới và rút dần khoảng cách tụt hậu với các nước phát triển. Đối với các DN, việc ứng dụng các thành tựu của CNTT, xây dựng các chương trình phần mềm phục vụ công tác điều hành, quản lý nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh sẽ tạo bước ngoặt cho sự phát triển, làm "phép nhân" hiệu quả vật chất thay cho "phép cộng" hiện nay. Công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin. Tốc độ phát triển vũ bão của công nghệ làm cho việc luân chuyển thông tin trở nên cực kỳ nhanh chóng và vai trò của thông tin ngày càng trở nên quan trọng. Những khả năng mới mẻ và ưu việt này của CNTT-TT đã nhanh chóng làm thay đổi cách sống, cách làm việc, cách học tập, cách tư duy và quan trọng hơn cả là cách ra quyết định của con người. CNTT còn có tác động to lớn đến nền giáo dục của tỉnh Vĩnh Phúc. Bước sang năm 2009, đất nước ta đang đứng trước những thách thức và khó khăn gay gắt do tác động của khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới. Trong điều kiện đó, CNTT, lĩnh vực phát triển chủ yếu dựa trên nguồn lực tri thức đang nổi lên như một giải pháp vô cùng quan trọng giúp các doanh nghiệp vượt qua khó khăn, tiếp tục phát triển bền vững.Vì vậy các doanh nghiệp, các đơn vị và toàn thể giới CNTT phải ý thức được vai trò trách nhiệm của mình, nỗ lực sáng tạo hết mình để góp phần đưa đất nước vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi mọi mục tiêu, kế hoạch 2009 2. Những sự phát triển nhanh mạnh của hệ thống CNTT Công nghệ thông tin đang phát triển mạnh như vũ bão. Sau đây là một số xu hướng phát triển của ngành công nghệ thông tin hiện nay: 2.1. Xu hướng phát triển công nghệ 2.1.1 Xu hướng hội tụ mạng viễn thông về mạng thế hệ sau (NGN) Ngành viễn thông trên thế giới đang đứng trước những thách thức mới: Sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà khai thác trên phạm vi toàn cầu, sự bùng nổ của lưu lượng thông tin truyền trên các mạng viễn thông do việc sử dụng rộng rãi các dịch vụ Internet, các thuê bao đòi hỏi các dịch vụ đa phương tiện mới, sự tăng nhanh của nhu cầu về các dịch vụ thông tin di động. Xu hướng hiện nay là các mạng viễn thông hiện có cần phải được phát triển để có thể đáp ứng được các thách thức mới. Sự phát triển của các công nghệ mới đã cho phép thiết kế và xây dựng các mạng thông tin thế hệ sau (NGN - Next Generation Network) nhằm triển khai các dịch vụ một cách đa dạng và nhanh chóng, đáp ứng sự hội tụ giữa thoại và số liệu, giữa cố định và di động. Quá trình hội tụ mạng viễn thông về NGN là một cuộc cách mạng thực sự trong ngành viễn thông. Cuộc cách mạng công nghệ này sẽ ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống chuyển mạch, truy cập và dịch vụ. Mạng số liệu và mạng điện thoại được hợp nhất sẽ cho phép tích hợp các dịch vụ đòi hỏi băng thông lớn, sẽ kéo theo sự hội tụ của truyền hình, đa phương tiện vào CNTT. 2.1.2. Xu hướng tích hợp và sử dụng giao diện mở CNTT đã trải qua thời kỳ phát triển dựa trên hai trụ cột công nghệ chủ yếu: công nghệ phần cứng sử dụng bộ vi xử lý và các chip của Intel và công nghệ phần mềm với hệ điều hành Windows của Microsoft. Sự phát triển của CNTT sẽ theo xu hướng tích hợp và sử dụng các giao diện mở và ngày càng ít lệ thuộc vào các nhà sản xuất công nghệ lớn. Bản thân các hãng lớn như Microsoft và Intel cũng đã phát triển công nghệ với những liên minh mới. Các sản phẩm phần mềm (kể cả các sản phẩm của Microsoft) cũng đang được phát triển theo hướng độc lập với hệ điều hành và nền phần cứng. Phần mềm ngày nay có xu hướng được xây dựng dưới dạng các đối tượng có chức năng thông qua các giao diện mở thuận tiện cho việc tích hợp và tiếp tục phát triển. 2.1.3. Xu hướng phát triển và sử dụng phần mềm nguồn mở Trong vòng vài năm trở lại đây, xu thế phát triển và ứng dụng phần mềm nguồn mở (PMNM) trên thế giới diễn ra khá mạnh, đặc biệt là tại các nước Châu Á - Thái Bình Dương, nơi có nhiều dự án với sự tham gia của chính phủ đang được triển khai. Do đặc tính chia sẻ mã nguồn nên PMNM có vai trò quan trọng trong lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu. Tuy nhiên, trong những ứng dụng phức hợp phải xây dựng dần dần, đòi hỏi hỗ trợ kỹ thuật cao, việc sử dụng PMNM cần được cân nhắc kỹ. Nhiều tổ chức quốc tế và nhiều quốc gia trên thế giới đã khuyến cáo sử dụng PMNM và đầu tư cho phát triển PMNM: gần đây Malaysia đã đầu tư 30 triệu USD, Nhật Bản đầu tư 10 triệu USD cho PMNM; nhiều công ty đa quốc gia như Oracle, IBM, HP cũng đang chú trọng phát triển PMNM. 2.1.4. Xu hướng phát triển và sử dụng mạng cục bộ không dây Kết nối mạng không dây đang dần trở thành một xu thế hiện đại, bên cạnh các loại hình kết nối mạng truyền thống dùng dây cáp. Chất lượng tin cậy, hoạt động ổn định, thủ tục cài đặt đơn giản, giá cả phải chăng là những yếu tố đặc trưng chứng tỏ kết nối không dây đã sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu trao đổi thông tin khác nhau từ sản xuất, kinh doanh đến nhu cầu giải trí,... Theo công ty Datacomm Research, bất chấp những lo ngại về an ninh bảo mật, thị trường thiết bị mạng cục bộ không dây vẫn sẽ tăng ít nhất là gấp đôi về giá trị và gấp 3 về lượng hàng xuất xưởng vào năm 2009. Động lực chủ yếu cho sự tăng trưởng này là những công nghệ thế hệ mới đem tới thông lượng cao hơn, phạm vi kết nối xa hơn và công suất mạnh hơn. Nhiều chuyên gia cho rằng các hệ thống GSM truyền thống sẽ dần được thay thế bằng Wi-Fi khi mà băng thông không dây mở rộng cho phép triển khai nhiều loại hình dịch vụ mới. 2.1.5. Xu thế phát triển truyền thông đa phương tiện và hội tụ CNTT - viễn thông - phát thanh và truyền hình Xu hướng hội tụ công nghệ viễn thông - tin học - truyền thông quảng bá đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu, hình thành những loại hình dịch vụ mới, khả năng mới, và cách tiếp cận mới đối với phát triển KT - XH. Truyền thanh, truyền hình ngày càng được số hóa mạnh mẽ hơn và sử dụng ngày càng nhiều công nghệ mới nhất của CNTT. Các công nghệ số hóa hình ảnh, âm thanh vốn chỉ được sử dụng trên nền máy vi tính PC nay đã trở nên rất thông dụng, dẫn tới việc sản xuất các thiết bị truyền thông đa phương tiện mới. Mạng lưới viễn thông với băng thông rộng, tốc độ lớn đã tạo điều kiện cho các dịch vụ video theo yêu cầu phát triển mạnh. Internet đang từng bước trở thành phương tiện đưa các chương trình truyền thanh, truyền hình, các xuất bản phẩm điện tử đến với người sử dụng ở khắp mọi nơi trên thế giới. Ngược lại, hệ thống truyền hình cáp đã có khả năng cung cấp dịch vụ Internet và truyền số liệu. Sự hội tụ của CNTT, viễn thông và phát thanh, truyền hình đang tạo ra một thị trường rất rộng lớn cho công nghiệp nội dung thông tin. 2.2. Xu hướng phát triển thị trường 2.2.1. Xu hướng toàn cầu hóa CNTT, nhất là mạng Internet làm cho khoảng cách trên thế giới ngày càng trở nên nhỏ bé. Tri thức và thông tin không biên giới sẽ đưa hoạt động kinh tế vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và trở thành hoạt động mang tính toàn cầu. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhiều quốc gia đã bãi bỏ các quy định hạn chế đối với các công ty nước ngoài để tăng mức độ mở cửa cho thị trường CNTT. Việc bãi bỏ các hạn chế đối với các công ty nước ngoài để gia nhập WTO và cho phép các đối thủ cạnh tranh nước ngoài kinh doanh trên thị trường CNTT làm cho người tiêu dùng được hưởng giá dịch vụ thấp hơn và có nhiều sự lựa chọn về dịch vụ và nhà cung cấp hơn. 2.2.2. Xu hướng chuyển dịch sản xuất đến các quốc gia có giá lao động thấp Do áp lực cạnh tranh lớn, giá nhân công cao, nhiều công ty ở các nước phát triển buộc phải chuyển cơ sở sản xuất sang những nước có nguồn lao động rẻ, cơ chế thuận lợi, và có tiềm năng thị trường. Về công nghiệp phần mềm, xu hướng mà các công ty Mỹ đang áp dụng là thuê các lập trình viên có kỹ năng cao nhưng chi phí thấp ở những nước đang phát triển. Nhiều công ty có lượng dữ liệu lớn cần xử lý (chẳng hạn như các hãng hàng không) đã thuê nhân lực ở các nước đang phát triển để nhập dữ liệu nhằm tận dụng những người lao động có kỹ năng cao nhưng chi phí sử dụng thấp ở những nước này.Về công nghiệp phần cứng, nhiều công ty lớn có nhu cầu thuê gia công lắp ráp phần cứng tại những quốc gia đang phát triển. 2.2.3. Xu hướng tăng đầu tư cho CNTT Cuối những năm 90 của thế kỷ XX, CNTT thế giới phát triển chậm lại sau sự sụp đổ hàng loạt của các công ty CNTT và chịu ảnh hưởng lớn của sự suy thoái nền kinh tế Mỹ. Hiện nay, CNTT toàn cầu đang có sự hồi phục tương đối rõ. Tốc độ tăng trưởng trong các năm theo dự báo từ nhiều nguồn đều đáng phấn khởi: 6,5% cho 2005 và 6,8% cho 2006. Riêng cho khu vực châu Á - Thái Bình Dương (chưa tính Nhật bản), con số này cho năm 2004 là 10% và sẽ tiếp tục giữ được nhịp độ đó cho các năm 2005 - 2008. Trước tình hình này, các tập đoàn công nghiệp CNTT lớn càng đẩy mạnh hơn việc khai thác thị trường đang lên với tốc độ cao tại các nước đang phát triển, mặt khác cũng tìm cách khai thác các nguồn lực mà chủ yếu là nguồn nhân lực tại các quốc gia đang phát triển để hạ giá thành nghiên cứu và sản xuất. 2.3. Xu hướng hình thành nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin Nhân loại đang bước vào một thời đại kinh tế mới, đó là thời đại mà thông tin, trí tuệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thời đại của nền kinh tế tri thức, thời đại của xã hội thông tin. Khác với loại hình kinh tế trước đây lấy công nghiệp truyền thống làm nền tảng sản xuất, lấy nguồn tài nguyên thiên nhiên thiếu thốn và ít ỏi làm chỗ dựa để phát triển sản xuất, kinh tế tri thức lấy công nghệ cao làm lực lượng sản xuất, lấy trí lực - nguồn tài nguyên vô tận làm chỗ dựa chủ yếu, lấy CNTT làm nền tảng để phát triển. Trong nền kinh tế tri thức năng lực cạnh tranh phụ thuộc chủ yếu vào năng lực thu thập, lưu trữ, xử lý và trao đổi thông tin. Để có thể tận dụng được mọi cơ hội do CNTT đem lại và để bảo đảm việc đầu tư vào phát triển và ứng dụng CNTT có hiệu quả, người dân phải có nhận thức đầy đủ về các khả năng của CNTT và có thể sử dụng được các tiện ích do CNTT cung cấp. Chính phủ nhiều nước đang áp dụng các chính sách phổ cập dịch vụ một cách mạnh mẽ nhằm làm tăng khả năng truy nhập và sử dụng thông tin của người dân. Điều này có thể được thấy rõ ở các trường phổ thông, nơi học sinh được làm quen, học và sử dụng CNTT từ rất sớm; ở các trường đại học, nơi những người tốt nghiệp thường phải học và đạt được khả năng sử dụng CNTT ở một mức độ nhất định trước khi có thể được cấp bằng tốt nghiệp đại học... 3. Những phát sinh mới trong quy hoạch cần điều chỉnh 3.1. Những bất cập trong nội dung và phương pháp xây dựng quy hoạch phát triển CNTT của tỉnh. Quan niệm về quy hoạch giữa Bộ và địa phương chưa có sự thống nhất. Do sự khác nhau về mặt địa lý cũng như khác nhau về quản lý hành chính nên công tác quy hoạch giữa Bộ và địa phương có sự khác nhau về phương pháp và cách thức thực hiện quy hoạch. Vì vậy quan điểm về quy hoạch giữa Bộ và địa phương còn có nhiều mâu thuẫn và chưa có sự thống nhất chặt chẽ. Trong quản lý quy hoạch, các cấp lãnh đạo thiếu sự kiểm tra, đôn đốc, giám sát thực hiện, nên một số ngành và địa phương tự ý thay đổi mục tiêu của quy hoạch. Mục tiêu của quy hoạch cấp tỉnh phải gắn kết và định hướng theo mục tiêu tổng thể phát triển kinh tê – xã hội của tỉnh cũng như mục tiêu chung của quốc gia. Vì thế nếu một số ngành và địa phương tự ý thay đổi mục tiêu của quy hoạch, mục tiêu của ngành CNTT không phù hợp với mục tiêu tổng thể của tỉnh và mục tiêu chung của cả nước thì quy hoạch sẽ không đảm bảo thực thi đúng hướng và không đạt được các mục tiêu đề ra. Quy hoạch phát triển CNTT của tỉnh thiếu gắn kết với sự phát triển CNTT của các địa phương khác trong vùng lân cận và cả nước. Vì Vĩnh Phúc nằm trong khu kinh tế trọng điểm phía Bắc, Vĩnh Phúc có mối liên hệ về kinh tế xã hội với các tỉnh lân cận, các vùng lân cận có tác động tương hỗ tích cực đến sự phát triển kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc. Thực tế ngành CNTT của tỉnh Vĩnh Phúc cũng liên kết với các vùng lân cận về mặt thị trường và những kinh nghiệm trong lĩnh vực ứng dụng CNTT cũng như thu hút và đào tạo nguồn nhân lực CNTT từ các tỉnh lân cận và trong cả nước. Vì vậy nếu quy hoạch CNTT của Vĩnh Phúc không có sự gắn kết chặt chẽ với các vùng lân cận thì sẽ không đảm bảo sự phát triển bền vững. Công tác lập quy hoạch đã chưa dự báo hết mọi khả năng nảy sinh do sự biến động của cơ chế thị trường và sự biến động của nền kinh tế toàn cầu hiện nay. Việc Việt Nam ra nhập WTO đã khiến cho diện mạo của Việt Nam ngày một đổi khác, Việt Nam ngày càng thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam hơn và các ưu đãi thương mại mà WTO dành cho Việt Nam đã thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh, đặc biệt là năm 2007 và đầu năm 2008. Cùng với đó cuộc khủng hoảng tài chính thế giới diễn ra cuối năm 2008 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế khu vực và trong nước. Khủng hoảng đó đã kéo theo những thách thức không nhỏ đối với ngành CNTT của tỉnh. Đặc biệt công tác quy hoạch sẽ bất lợi nếu dự báo sai. Nhà nước chưa có quy chế mới cho quy hoạch cơ chế thị trường hiện nay. Quy hoạch trong thời gian qua còn tồn đọng rất nhiều yếu kém trong cơ chế quản lý cũng như trong việc giải quyết các thủ tục liên quan đến thực hiện quy hoạch. Cơ chế thị trường còn có nhiều bất cập và chưa thật sự tạo ra môi trường thông thoáng và thuận lợi cho đầu tư. Tuy nhiên nhà nước vẫn chưa có quy chế mới cho quy hoạch cơ chế thị trường, điều này gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp. 3.2. Sự cần thiết phải đánh giá lại quy hoạch trong thời gian qua và điều chỉnh những phát sinh mới trong quy hoạch Sự cần thiết phải đánh giá lại quy hoạch là do: Quy hoạch chưa đánh giá đầy đủ về tiềm năng, lợi thế so sánh để quy hoạch đồng bộ. Vì thế quy hoạch còn lệch lạc, chưa khai thác được hết thế mạnh của ngành CNTT của tỉnh Vĩnh Phúc. Các nhà quản lý khi lập quy hoạch chưa dự báo hết mọi khả năng nảy sinh do sự biến động của thị trường, đồng thời do tốc độ phát triển của công nghiệp quá nhanh nên quy hoạch này hiện nay phải được điều chỉnh lại. QH được xây dựng một lần và ít khi được điều chỉnh, trong khi tình hình phát triển KTXH đang thay đổi nhanh chóng nên các dự báo, nhận định thậm chí cả mục tiêu phát triển trong QH nhanh chóng bị lạc hậu. Định hướng phát triển trong giai đoạn mới: Theo ý kiến của một số chuyên gia kinh tế, cơ chế thị trường hiện nay, chỉ nên xây dựng quy hoạch những lĩnh vực mang tính chất mạng, thuộc kết cấu hạ tầng mà không nên xây dựng quy hoạch ngành, quy hoạch sản phẩm. Cũng có chuyên gia cho rằng, quy hoạch không phải chạy theo dự án, mà theo cung – cầu, mang tính hợp tác hoá, có sự liên kết giữa các vùng, các địa phương với nhau…Tóm lại, trong hoàn cảnh hiện nay Nhà nước cần phải có một quy chế mới, với những chế tài rõ ràng cho công tác quy hoạch. Theo dự thảo Nghị định, một số loại quy hoạch cần được định vị, như quy hoạch kết cấu hạ tầng, nhưng có loại quy hoạch chỉ có tính chất định hướng, như quy hoạch các ngành sản xuất kinh doanh. QHPTCNTT sẽ là quy hoạch có tính chất định hướng. Trong trường hợp xuất hiện những yếu tố mới, cơ quan quản lý quy hoạch sẽ tổ chức sửa đổi bổ sung cho phù hợp tình hình thực tế, sau đó trình cơ quan có thẩm quyền. 4. Mục tiêu thực hiện quy hoạch tổng thể và quy hoạch ngành của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2010, 2020 4.1. Mục tiêu đến năm 2010 Đến năm 2010, sự phát triển kinh tế-xã hội của Vĩnh Phúc đạt được nhiều thành tựu to lớn(() Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010 của tỉnh Vĩnh Phúc. ). Cơ cấu GDP của tỉnh vào năm 2010 sẽ là: công nghiệp - xây dựng chiếm 58,4%; dịch vụ: 27,4%; nông, lâm, ngư nghiệp: 14,2%. Đến năm 2010, GDP bình quân đầu người đạt 18,1 triệu đồng (giá thực tế) gấp 1,2 - 1,5 lần so với GDP bình quân của cả nước và bằng 85 - 90% mức bình quân chung của vùng KTTĐ Bắc Bộ. Hoàn thành phổ cập trung học phổ thông; 100% xã, phường, thị trấn có bác sĩ và đạt chuẩn quốc gia về y tế. Vĩnh Phúc sẽ có đầy đủ các ngành công nghiệp: cơ khí chế tạo; lắp ráp ô tô, xe máy; công nghiệp CNTT; công nghiệp dệt may, da giày; công nghiệp vật liệu xây dựng; công nghiệp hóa chất, dược phẩm, công nghiệp chế biến nông, lâm sản, thực phẩm, đồ uống... Việc ứng dụng và phát triển CNTT của Vĩnh Phúc sẽ đạt được những thành tựu quan trọng, CNTT được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, nhằm đổi mới tổ chức, phương thức quản lý, quy trình điều hành, trợ giúp đắc lực cho hoạt động quản lý, điều hành của chính quyền địa phương. Mở rộng việc cung cấp thông tin, thực hiện các giao dịch hành chính với người dân, doanh nghiệp qua mạng, phục vụ thu hút đầu tư, giúp cho người dân, và các doanh nghiệp làm việc với các cơ quan chính quyền nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm, hiệu quả và chính xác hơn. Công nghiệp CNTT trở thành ngành công nghiệp quan trọng của tỉnh, từ vị trí thứ 6 (năm 2000) trở thành ngành công nghiệp quan trọng thứ 3 của tỉnh. Cơ sở hạ tầng thông tin phát triển hoàn thiện, phục vụ các hoạt động kinh tế, xã hội của tỉnh. Mật độ điện thoại đạt 38 máy/100 dân, có 125.000 thuê bao Internet. 100% các cơ quan trong hệ thống chính trị được trang bị máy tính và kết nối thành cụm máy tính, mạng cục bộ và mạng diện rộng. Nguồn nhân lực CNTT phát triển đảm bảo cho nhu cầu ứng dụng và phát triển CNTT trên địa bàn tỉnh. Đa số cán bộ, công chức, viên chức, giáo viên tất cả các cấp học, bác sĩ, y sĩ, sinh viên đại học và cao đẳng, học sinh trung học chuyên nghiệp, trung học nghề và trung học phổ thông, 50% học sinh trung học cơ sở và một bộ phận dân cư có thể sử dụng các ứng dụng CNTT và khai thác Internet. 4.2. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 (() Báo cáo tổng hợp điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2001-2010 và định hướng đến năm 2020. ) Vĩnh Phúc phấn đấu về cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào trước năm 2020 với GDP (năm 2020) sẽ gấp ít nhất 8 - 10 lần GDP năm 1990. Nền kinh tế sẽ đạt tốc độ tăng trưởng bình quân ổn định khoảng 9 - 10%/năm. Đến năm 2020, giá trị tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh sẽ đạt 28.947,3 tỷ đồng (giá so sánh 1994) tức là khoảng 70.997 tỷ đồng (giá thực tế). GDP bình quân đầu người sẽ đạt 24,4 triệu đồng (giá so sánh 1994) tức là khoảng 53,4 triệu đồng (giá thực tế). Cơ cấu kinh tế có sự thay đổi lớn: công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ lệ 53%, dịch vụ chiếm 37% và nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 10%. Lao động công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ lệ 40%, lao động dịch vụ chiếm 25% và lao động nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 35%. Tỷ lệ dân đô thị chiếm 55% tổng dân số. 4.3. Định hướng phát triển CNTT đến năm 2020 Căn cứ vào định hướng phát triển KT - XH của tỉnh: “Phát triển kinh tế, xã hội của Vĩnh Phúc đến năm 2020 được thực hiện theo hướng phấn đấu đạt tới các mục tiêu tương đương hoặc cao hơn mục tiêu định hướng của đất nước trong tầm nhìn đến năm 2020”, định hướng phát triển CNTT đến năm 2020 của Vĩnh Phúc như sau: 4.3.1. Định hướng phát triển hạ tầng thông tin Cơ sở hạ tầng thông tin phát triển mạnh mẽ, đa dạng hoá, cung cấp cho người sử dụng các dịch vụ chất lượng cao, bảo đảm an toàn, bảo mật thông tin, dữ liệu, đáp ứng yêu cầu trao đổi thông tin của toàn xã hội. Mạng thông tin quang phát triển tới tất cả các xã trong tỉnh. 100% số xã trong tỉnh được phục vụ các dịch vụ băng rộng. Mật độ điện thoại đạt từ 70 - 80 máy/100 dân. Mật độ người sử dụng Internet đạt trên 75%. 4.3.2. Định hướng phát triển ứng dụng CNTT Ứng dụng rộng rãi CNTT trong mọi lĩnh vực, khai thác thông tin và tri thức trong tất cả các ngành, lĩnh vực. Tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh “Tỉnh điện tử” với công dân điện tử, chính phủ điện tử, doanh nghiệp điện tử; giao dịch và thương mại điện tử được triển khai mạnh mẽ trên toàn tỉnh. Xã hội thông tin bắt đầu hình thành. 4.3.3. Định hướng phát triển nguồn nhân lực CNTT Nguồn nhân lực CNTT phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng các nhu cầu phát triển và ứng dụng CNTT trên địa bàn tỉnh. Đào tạo về CNTT ở các trường đại học, cao đẳng, các trung tâm đào tạo trên địa bàn tỉnh đạt trình độ và chất lượng tiên tiến trong khu vực ASEAN. 80% - 90% sinh viên CNTT tốt nghiệp ở các trường đại học đủ khả năng chuyên môn và ngoại ngữ để tham gia thị trường lao động quốc tế. 4.3.4. Định hướng phát triển công nghiệp CNTT Phát triển công nghiệp CNTT với tốc độ tăng trưởng cao, bền vững làm động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần thực hiện mục tiêu đưa Vĩnh Phúc cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp trước năm 2020. Công nghiệp CNTT trở thành ngành công nghiệp quan trọng, có tốc độ tăng trưởng hàng năm giai đoạn 2010 - 2020 cao hơn 20%. Giá trị sản xuất của công nghiệp CNTT chiếm khoảng 20 - 25% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của toàn tỉnh. Như vậy Quy hoạch CNTT có vai trò to lớn là tiền đề định hướng phát triển và ứng dụng CNTT của Vĩnh Phúc đến năm 2020. Để định hướng trên trở thành hiện thực thì Quy hoạch CNTT phải được triển khai và thực hiện một cách hiệu quả. CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN MỤC TIÊU QUY HOẠCH MẠNG LƯỚI CNTT TỈNH VĨNH PHÚC THỜI GIAN QUA (TỪ NĂM 2006 - 2008) I. Bộ máy tổ chức thực hiện quy hoạch Sau khi được thành lập, Ban chỉ đạo CNTT tỉnh đã đề xuất thành lập Trung tâm CNTT, xây dựng Đề án tin học hoá quản lý hành chính Nhà nước tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2001 - 2005; đồng thời chỉ đạo Ban điều hành Đề án tin học hoá quản lý hành chính Nhà nước hướng dẫn các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thị xã xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai việc ứng dụng và phát triển CNTT của từng đơn vị. Đến nay, nhiều sở, ban, ngành, UBND các huyện, thị xã đã thành lập Ban điều hành CNTT. Hàng năm Ban điều hành của các đơn vị có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch, chỉ đạo ứng dụng và phát triển CNTT của ngành mình: phát triển hạ tầng CNTT, triển khai các ứng dụng và công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về CNTT. Nhiều doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập các Ban điều hành CNTT và các tổ chuyên viên CNTT trợ giúp cho việc ứng dụng CNTT trong công tác quản lý, điều hành, quảng bá hình ảnh, thương hiệu và sản phẩm của doanh nghiệp. Sau khi có chỉ thị số: 58/CT-TW của Bộ Chính trị, Ban thường vụ Tỉnh uỷ đã ra quyết định thành lập Ban chỉ đạo CNTT Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc. Ban chỉ đạo CNTT Tỉnh uỷ đã hướng dẫn các cơ quan Đảng xây dựng kế hoạch triển khai theo Đề án tin học hoá hoạt động các cơ quan của Đảng giai đoạn 2001 - 2005. Đến nay, công tác ứng dụng và phát triển CNTT trong các cơ quan của Đảng đã có nhiều chuyển biến và đạt được những kết quả rất tích cực. Hàng năm, Ban chỉ đạo CNTT của tỉnh có tổng kết đánh giá kết quả thực hiện và đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho các năm tiếp theo. Đánh giá chung về công tác quản lý, chỉ đạo Trong những năm qua, công tác quản lý, chỉ đạo thực hiện các chương trình, kế hoạch, dự án ứng dụng và phát triển CNTT của tỉnh có bước biến chuyển tích cực. Đã có sự chỉ đạo thường xuyên, đồng bộ, có hệ thống từ Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh đến các sở, ban, ngành, huyện, thị xã, các doanh nghiệp. Do có sự chuẩn bị tương đối đầy đủ các kế hoạch, dự án nên công tác ứng dụng và phát triển CNTT của tỉnh đã đạt được một số kết quả quan trọng, từng bước đổi mới phương thức hoạt động trong các cơ quan của Đảng; phương pháp quản lý, chỉ đạo, điều hành trong hệ thống hành chính Nhà nước cũng như các thành phần kinh tế, tạo nên động lực mới thúc đẩy phát triển KT - XH của tỉnh. Tuy nhiên, trước khi Sở BCVT thành lập và đi vào hoạt động, công tác quản lý nhà nước, tổ chức chỉ đạo, quản lý các chương trình CNTT còn phân tán, chưa có đầu mối thống nhất tham mưu cho TU, HĐND, UBND tỉnh về lĩnh vực quan trọng này. II. Thực trạng thực hiện quy hoạch 1. Thực trạng ứng dụng CNTT 1.1. Ứng dụng CNTT trong các cơ quan thuộc hệ thống chính trị của tỉnh Bắt đầu từ chính nhu cầu nội tại phục vụ sự phát triển, sự quan tâm của cấp uỷ và chính quyền tỉnh, Vĩnh Phúc đã đẩy mạnh triển khai ứng dụng CNTT trong công tác quản lý, lãnh đạo và chỉ đạo điều hành các hoạt động xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội… Trong những năm qua, cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội, quy hoạch ứng dụng CNTT trong các cơ quan hành chính của tỉnh Vĩnh Phúc đã đạt được những kết quả khả quan: Vĩnh Phúc đã thực hiện chuẩn hóa các quy trình hành chính, chuẩn hóa các quy trình nghiệp vụ trong các cơ quan. Các ban ngành và các đoàn thể xã hội đã tăng cường ứng dụng CNTT vào hỗ trợ công tác quản lý và điều hành hoạt động của ngành. Hiện nay, hầu hết các công việc đã được tin học hóa. Phương pháp lựa chọn các ứng dụng là xuất phát từ nhu cầu và hoạt động thực tế ở đơn vị, vì thế các ứng dụng tại các cơ quan đều khả thi và phát huy hiệu quả. Một trong những điển hình là Văn phòng điện tử trong công tác quản lý và điều hành, các giao dịch trong ngành đã hoàn toàn qua mạng, 100% lãnh đạo và cán bộ thực hiện trên hệ thống này. Ngoài việc cung cấp phương tiện xây dựng hệ thống lưu trữ công văn đi và đến theo từng hồ sơ, hỗ trợ tìm kiếm nhanh chóng, khoa học, Văn phòng điện tử được tích hợp thêm một số phương tiện hỗ trợ khác như: thu thập tài liệu qua đường thư điện tử, fax, nhắn tin qua điện thoại di động, lọc tin từ web, nhắc việc, tra cứu hồ sơ, danh bạ... Đến nay, tất cả cán bộ công chức, kể cả những người thuộc diện lớn tuổi cho đến cán bộ trẻ đều sử dụng máy vi tính thành thạo. Mọi hoạt động như: công tác quản lý công văn, giấy tờ, trao đổi điều hành công việc, liên hệ, giao dịch... đều được thực hiện qua Văn phòng điện tử. Đặc biệt Vĩnh Phúc đã từng bước hiện đại hóa công tác quản lý, tăng cường ứng dụng CNTT vào tất cả các lĩnh vực hoạt động KHCN. Hiện nay, Website thông tin KHCN ( không chỉ nhằm mục đích phổ biến văn bản mới ban hành, thông tin về các hoạt động KHCN của tỉnh, trong và ngoài nước, mà đặc biệt website này trở thành phương tiện giao tiếp trao đổi thông tin 2 chiều giữa  Sở với các đơn vị, doanh nghiệp, công ty, các cá nhân... khi có nhu cầu liên hệ công việc. Ngoài ra, hệ thống thư điện tử đã được hình thành, các phần mềm ứng dụng đi vào sử dụng có hiệu quả. Dịch vụ “Hỏi – đáp trực tuyến trên mạng internet tích hợp trên Cổng thông tin điện tử Vĩnh Phúc” đã được đầu tư xây dựng. Các đơn vị triển khai dịch vụ này sẽ được trao quyền đăng nhập trên Cổng thông tin và trực tiếp tham gia vào quá trình giải đáp câu hỏi. Điều đó cho thấy Vĩnh Phúc có nhiều thuận lợi để triển khai mô hình Chính phủ điện tử. Hệ thống cổng thông tin điện tử, hệ thống báo điện tử và các trang tin của các sở, ngành trong tỉnh được quan tâm xây dựng và thường xuyên nâng cấp, cập nhật, phục vụ đắc lực cho việc tra cứu các thông tin liên quan đến địa phương, thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư vào hoạt động tại tỉnh. Hiện nay, Cổng thông tin điện tử tỉnh đã phát triển rất mạnh đã có hơn 5 triệu lượt người truy cập thông tin kênh tiếng Việt và trên 14.000 lượt người truy cập kênh tiếng Anh. Những tin tức, sự kiện diễn ra trên địa bàn và nhiều chuyên mục phản ánh sâu, rộng hoạt động của Lãnh đạo tỉnh, các sở, ngành, đơn vị, đoàn thể trên địa bàn ngày càng thu hút sự quan tâm của nhân dân và được đánh giá cao. Việc cung cấp các dịch vụ hành chính công trên Cổng thông tin điện tử đang được triển khai thực hiện ở một số ngành, lĩnh vực, trong đó có Thông báo mời họp, mời làm việc của UBND tỉnh; đăng ký học, cấp Giấy phép lái xe cơ giới đường bộ, di chuyển Giấy phép lái xe; chuyên mục Hỏi – đáp của một số ngành…  Tất cả cán bộ viên chức trong các cơ quan quản lý hành chính của Tỉnh đã nhận thức về tầm quan trọng của CNTT trong công tác quản lý, điều hành. Đến nay, tất cả cán bộ công chức, kể cả những người thuộc diện lớn tuổi cho đến cán bộ trẻ đều sử dụng máy vi tính thành thạo. Tuy nhiên, chúng ta thấy quy hoạch ứng dụng CNTT trong các cơ quan vẫn còn nhiều hạn chế, công tác tin học hoá quản lý hành chính nhà nước vẫn bộc lộ nhiều yếu kém, nhiều đơn vị chỉ sử dụng máy tính vào các công việc đơn giản như xem tin tức, trao đổi thư điện tử và soạn thảo văn bản, kế toán, thống kê, tra cứu văn bản,... hầu hết tại các đơn vị cơ sở xã, phường, thị trấn chủ yếu sử dụng vào việc soạn thảo văn bản, thống kê, tài chính; một số đơn vị có kết nối Internet đã sử dụng để tìm kiếm, tra cứu tài liệu, khai thác thông tin... 1.2. Ứng dụng CNTT trong các doanh nghiệp Công nghệ thông tin là công cụ quan trọng hàng đầu để rút ngắn quá trình CNH-HĐH. Ứng dụng CNTT có ý nghĩa quyết định chiến lược, làm tăng năng suất lao động, tạo giá trị gia tăng trong phát triển. Vĩnh Phúc đã thực hiện quy hoạch ứng dụng CNTT trong DN, những năm gần đây đã có những bước chuyển biến đáng kể. Việc ứng dụng CNTT-TT của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc ngày càng được đẩy mạnh. Kết quả khảo sát cho thấy: 98% các doanh nghiệp có máy tính, bình quân 10 máy tính/doanh nghiệp; 56,6% các doanh nghiệp có hệ thống mạng (trong đó: 5,7% doanh nghiệp kết nối Internet tốc độ cao; 34,2% doanh nghiệp có máy chủ… Ta thấy ứng dụng CNTT đã thâm nhập nhanh chóng vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ, quản lý điều hành,... đang dần dần trở thành yếu tố quyết định cho sự phát triển của các doanh nghiệp hoạt động trong một số ngành kinh tế trọng yếu như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, du lịch, viễn thông… Hầu hết các doanh nghiệp FDI, một số doanh nghiệp lớn ngoài Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước đã có hệ thống máy tính, mạng máy tính hoàn chỉnh phục vụ các mặt hoạt động: ứng dụng CNTT trong tự động hoá sản xuất, quản lý điều hành công việc, một số doanh nghiệp đã có địa chỉ E-mail, website quảng bá sản phẩm, thương hiệu, trao đổi thư điện tử... Mặc dù vậy, chúng ta thấy đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có cán bộ chuyên trách về CNTT, tỷ lệ lao động qua đào tạo CNTT còn ở mức thấp (25%); nhiều doanh nghiệp còn thiếu hiểu biết về thương mại và giao dịch điện tử; việc ứng dụng các phần mềm trong quản lý, điều hành chưa được chú trọng… Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và cả các doanh nghiệp Nhà nước chỉ sử._.đến lãng phí, thất thoát tiền bạc của nhà nước. Một bất cập nữa là hiện nay, phần kinh phí dành cho đầu tư xây dựng cơ bản thuộc lĩnh vực CNTT còn chiếm tỷ lệ quá thấp trong tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản các công trình, nên việc ứng dụng CNTT gặp nhiều khó khăn. Thậm chí, một qui chế quản lý đầu tư cho dự án CNTT  cũng chưa có, nên cơ quan quản lý không có “gậy” để chỉ huy hoạt động đầu tư dự án CNTT, dẫn đến mỗi nơi làm một cách, không có tính đồng bộ, không đạt hiệu quả mong muốn. Nhìn chung công nghiệp CNTT ở Vĩnh Phúc còn nhỏ bé, công nghiệp CNTT ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay chủ yếu là công nghiệp sản xuất và lắp ráp các sản phẩm phần cứng. Giá trị sản xuất và tốc độ tăng trưởng rất thấp so với toàn ngành công nghiệp. IV. Ảnh hưởng của việc thực hiện quy hoạch đến thực trạng mạng lưới CNTT của Tỉnh Quy hoạch CNTT của Vĩnh Phúc giai đoạn 2006 – 2010 đã đi vào thực tế, và được triển khai rộng rãi khắp trong toàn tỉnh, góp phần làm cho mạng lưới CNTT trong tỉnh phát triển lên một tầng mới. Từ khi Vĩnh Phúc có quy hoạch CNTT, ứng dụng CNTT trong mọi mặt kinh tế - xã hội được đẩy mạnh, hạ tầng CNTT được quan tâm đầu tư xây dựng, hệ thống máy điện thoại, máy tính và các mạng kết nối internet, mạng cục bộ được trang bị và bảo dưỡng tốt phục vụ cho công tác sản xuất, học tập, chữa bệnh,… được hiệu quả. Công tác đào tạo nguồn nhân lực CNTT cũng đã có những kết quả tốt, góp phần tạo ra nguồn nhân lực CNTT có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng về CNTT giúp ích cho công cuộc xây dựng và phát triển của Tỉnh. Công nghiệp và thị trường CNTT của Vĩnh Phúc cũng khởi sắc trong những năm gần đây, kể từ khi có quy hoạch CNTT. Như vậy Quy hoạch CNTT có một vai trò to lớn đối với sự phát triển tổng thể của Vĩnh Phúc nói chung và đối với sự phát triển của mạng lưới CNTT của Vĩnh Phúc nói riêng. CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY NHANH TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN QH ĐẾN 2015 I. Những nội dung tiếp tục triển khai đến năm 2010 Xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật CNTT - TT đủ mạnh để đáp ứng yêu cầu của công tác ứng dụng CNTT - TT trong tất cả các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng trên địa bàn tỉnh. Phát triển nhanh, đa dạng hoá các dịch vụ viễn thông và Internet trên cơ sở hệ thống hạ tầng thông tin quốc gia tiên tiến nhằm cung cấp đối với người sử dụng các dịch vụ chất lượng cao, an toàn, bảo mật, giá cước thấp hơn hoặc tương đương mức bình quân của các nước trong khu vực ASEAN+3. Về ứng dụng CNTT Đến năm 2009, 2010 đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào tất cả các cơ quan chính trị, các doanh nghiệp, trường học, bệnh viện, các tổ chức dân cư đảm bảo đến năm 2010 Vĩnh Phúc trở thành “Tỉnh điện tử”. Về phát triển hạ tầng Mạng và dịch vụ viễn thông, internet Phấn đấu đến năm 2009, mật độ điện thoại cố định là 16.5 máy/100 dân, mật độ điện thoại di động là 15 máy, bình quân đạt 31,5 máy/100 dân. Mục tiêu là đến năm 2010 mật độ điện thoại toàn tỉnh đạt 38 máy/100 dân, trong đó mật độ điện thoại cố định là 18,5 máy và mật độ điện thoại di động là 19,5 máy; mật độ thuê bao Internet các loại đạt 10% (trong đó chủ yếu là thuê bao băng rộng), 40% dân số sử dụng Internet; Trang bị hệ thống máy tính Phấn đấu đến cuối năm 2009, 2 -3 cán bộ, công chức có 1 máy tính. Đến cuối năm 2010, bình quân mỗi trường cao đẳng, THCN và dạy nghề, trung học phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung học cơ sở được trang bị thêm 40 máy tính, mỗi trường tiểu học 20 máy tính. Kết nối mạng dùng riêng tại các bệnh viện cấp tỉnh đến mạng của ngành y tế; Xây dựng mạng cục bộ ở một số xã, phường, thị trấn trọng điểm; Kết nối Internet băng rộng đến các đơn vị trong tỉnh. Phấn đấu đến năm 2010: Kết nối Internet băng rộng đến các phường, xã, thị trấn trọng điểm (đã có mạng cục bộ); Kết nối Internet băng rộng đến các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung học phổ thông và 50% trường trung học cơ sở. Xây dựng trung tâm quản lý thông tin và mạng dùng riêng Phấn đấu đến năm 2009: Kết nối mạng dùng riêng từ các đơn vị trong thị xã Vĩnh Yên đến các điểm tập trung kết nối bằng đường truyền cáp quang. Đến năm 2010: Kết nối mạng dùng riêng từ thị xã Phúc Yên và các huyện đến trung tâm quản lý thông tin thông qua đường truyền cáp quang hoặc thuê đường truyền. Kết nối mạng dùng riêng từ một số phường, xã, thị trấn trọng điểm vào UBND các huyện, thị xã tương ứng. Kết nối mạng dùng riêng từ một số các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, THPT đến mạng của ngành giáo dục, đào tạo. Kết nối mạng dùng riêng tại các bệnh viện cấp tỉnh đến mạng của ngành y tế. c. Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực CNTT Đến năm 2010, đổi mới nguồn lực có thể có cho công tác đào tạo thời kỳ mới. d. Quy hoạch phát triển công nghiệp CNTT Đến năm 2010, Công nghiệp CNTT&TT sẽ phấn đấu trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Một số sản phẩm công nghiệp quan trọng trong lĩnh vực điện tử phần cứng, phần mềm đạt trình độ nhóm nước phát triển trên thế giới. II. Các nhân tố tác động 1. Cơ hội Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của việc ứng dụng và phát triển CNTT, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có quan điểm chiến lược về phát triển CNTT nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 như đã được chỉ ra trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001 - 2010). Bộ Chính trị đã xác định: “Ứng dụng và phát triển CNTT là một nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược phát triển KT - XH, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước đi trước” (Chỉ thị số: 58-CT/TW). Với sự ra đời của Bộ BCVT và các Sở BCVT của các tỉnh, thành phố trong cả nước, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về BCVT&CNTT đã được hình thành và từng bước được hoàn thiện, tạo điều kiện cho CNTT được phát triển và ứng dụng mạnh mẽ hơn nữa, thực sự trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với quyết tâm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Bộ máy tổ chức, lãnh đạo tỉnh đoàn kết, thống nhất, năng động; cơ chế chính sách luôn được đổi mới và hoàn thiện, tạo ra những chuyển biến tích cực trong phát triển KT - XH nói chung, là cơ sở quan trọng cho việc ứng dụng và phát triển CNTT trong mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng trên địa bàn tỉnh. Trong những năm qua nền kinh tế Vĩnh Phúc đã có bước phát triển đột biến, các ngành đều đạt tốc độ tăng trưởng cao, đặc biệt là ngành công nghiệp. Việc Chính phủ quyết định Vĩnh Phúc trở thành một trong 8 tỉnh vùng KTTĐ Bắc Bộ (năm 2003) đã tạo ra những điều kiện mới để Vĩnh Phúc phấn đấu trở thành tỉnh phát triển nhanh hơn nữa. Đây cũng là cơ hội lớn để ngành công nghiệp CNTT có thể tạo ra những bước phát triển đột phá, đưa công nghiệp CNTT trở thành một trong những ngành công nghiệp hàng đầu của tỉnh. Vị trí địa lý thuận lợi là ưu thế lớn của Vĩnh Phúc so với nhiều tỉnh khác trong thu hút đầu tư và phát triển công nghiệp; liền kề thủ đô Hà Nội và sân bay quốc tế Nội Bài, gần các trục và đầu mối giao thông chính của khu vực phía Bắc, Vĩnh Phúc trở thành điểm hấp dẫn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào các lĩnh vực công nghiệp, đô thị, du lịch dịch vụ. Bên cạnh đó, Vĩnh Phúc đã và đang đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp, đô thị, các khu du lịch và đẩy mạnh công tác qui hoạch, giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện thuận lợi và tăng tính hấp dẫn các nhà đầu tư. Với sự phát triển không ngừng về kinh tế, thu nhập, mức sống và trình độ dân trí của Vĩnh Phúc cũng ngày càng được nâng cao, chất lượng nguồn nhân lực nhanh chóng được cải thiện,... tạo ra triển vọng rất lớn cho việc ứng dụng và phát triển CNTT - TT trên địa bàn tỉnh. Việt Nam gia nhập WTO cũng là một cơ hội lớn đối với ngành CNTT của Vĩnh Phúc. Xu hướng toàn cầu hóa đang mở ra những cơ hội lớn: đầu tư nước ngoài vào tỉnh ngày một gia tăng góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp CNTT của tỉnh phát triển, đem lại nguồn thu cho đất nước. Hội nhập kinh tế cũng đem đến cho thị trường CNTT một môi trường thông thoáng thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư tại tỉnh Vĩnh phúc, cùng với đó CNTT Vĩnh Phúc cũng học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm từ các nước có nền CNTT phát triển trên thế giới. 2. Thách thức Năm 2008, mặc dù công nghiệp đã chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của Vĩnh Phúc, nhưng 83% dân số của tỉnh vẫn sống ở nông thôn và tỷ lệ lao động nông nghiệp chiếm 55,10% tổng lực lượng lao động. Điểm xuất phát kinh tế thấp, năm 2008 GDP bình quân đầu người giá thực tế là 21,6 triệu đồng 8,18 triệu. Đây là một trong những trở ngại đối với phát triển KT - XH nói chung và công tác ứng dụng, phát triển CNTT - TT nói riêng. Hạ tầng kỹ thuật cho ứng dụng và phát triển CNTT - TT tuy đã được đầu tư, củng cố nhưng vẫn còn nhiều bất cập; đầu tư cho ứng dụng và phát triển CNTT trên địa bàn tỉnh đã được quan tâm nhưng mức đầu tư chưa cao, chưa tạo được nền tảng vững chắc cho các bước tiếp theo; Nguồn nhân lực CNTT còn thiếu, năng lực sử dụng các ứng dụng CNTT của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp còn chưa cao. Các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội và doanh nghiệp đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng chưa thực sự sẵn sàng chuyển đổi từ phương thức hoạt động truyền thống sang phương thức hoạt động tiên tiến, phù hợp với xã hội thông tin; Nằm trong khu vực KTTĐ Bắc Bộ, Vĩnh Phúc có điều kiện tranh thủ các lợi thế phát triển chung và sự hợp tác phát triển vùng. Tuy nhiên, cũng đồng thời chịu sự cạnh tranh phát triển của các tỉnh lân cận như: Hà Tây, Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên và ngay cả Thủ đô Hà Nội. Các địa phương này đều đang có những cố gắng rất lớn trong việc đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, thu hút chất xám và lực lượng lao động có trình độ cao... Những tác động tiêu cực nảy sinh trong quá trình ứng dụng và phát triển CNTT cũng là những thách thức cần được tính đến để có biện pháp giải quyết kịp thời như: gia tăng khoảng cách số (hoặc còn gọi là khoảng cách kỹ thuật số), ảnh hưởng văn hóa không lành mạnh, đe doạ mất an toàn, an ninh thông tin, phụ thuộc về công nghệ, chảy máu chất xám… Để có thể đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT, góp phần quan trọng vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển mạnh nền kinh tế của tỉnh, Vĩnh Phúc cần phải nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phấn đấu đạt các mục tiêu ít nhất bằng mức bình quân của cả nước và có như vậy Vĩnh Phúc mới sớm trở thành một trong các tỉnh dẫn đầu cả nước về ứng dụng và phát triển CNTT, nhanh chóng đưa CNTT thực sự trở thành động lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra vào nửa cuối năm 2008 bắt đầu ở Mỹ và lan rộng sang các nước trên thế giới đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế các nước, trong đó có Việt Nam. Cuộc khủng hoảng tài chính tác động đến mọi lĩnh vực kinh tế, trong đó ảnh hưởng không nhỏ đến ngành CNTT trên thế giới và ảnh hưởng mạnh đến thị trường CNTT ở Vĩnh Phúc, dẫn đến nguồn nhân lực CNTT bị cắt giảm, năng suất lao động thấp và doanh thu về sản phẩm CNTT bị sụt giảm. Năm 2009 được đánh giá còn nhiều khó khăn đối với ngành CNTT đặt ra những thách thức không nhỏ cho các cấp lãnh đạo, các nhà quản lý và các doanh nghiệp làm sao để phục hồi suy thoái và đảm bảo phát triển CNTT một cách bền vững. III. Các giải pháp đẩy mạnh thực hiện quy hoạch cho các năm 2009, 2010 và định hướng đến năm 2020. Quy hoạch CNTT Vĩnh Phúc giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2020 đã đi được một chặng đường, từ năm 2006 đến năm 2008 và đã đạt được những kết quả tốt cùng với những mặt hạn chế còn tồn tại. Để hoàn thành tất cả các mục tiêu mà quy hoạch đề ra đến năm 2010, chúng ta phải có những giải pháp đẩy mạnh thực hiện quy hoạch từ nay cho đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. 1. Giải pháp đẩy mạnh ứng dụng CNTT Trước hết là giải pháp ứng dụng CNTT trong quản lý điều hành - tiến tới thực hiện Chính Phủ Điện Tử Ta thấy thực tế hiện nay quy hoạch CNTT tại Vĩnh Phúc có nhiều khó khăn như vấn đề mạng truyền số liệu chuyên dùng cho các cơ quan Đảng và Nhà nước triển khai chậm và không đồng bộ gây ra lãng phí, đồng thời hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về ứng dụng CNTT đang đòi hỏi phải nhanh chóng bổ sung, như sớm ban hành quy chế đầu tư cho ứng dụng CNTT, định mức kinh tế - kỹ thuật cho xây dựng phần mềm, xây dựng cơ sở dữ liệu... Để vượt qua những khó khăn trên, tiến đến thực hiện mục tiêu quy hoạch đã đặt ra về ứng dụng CNTT trong các cơ quan trong hệ thống chính trị của tỉnh, các giải pháp cơ bản cho các năm tiếp theo bao gồm: Hoàn chỉnh cơ chế chính sách về ứng dụng CNTT, đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực theo nguyên tắc thực dụng như đào tạo kiểu “cầm tay chỉ việc”, có khảo sát nhu cầu của các doanh nghiệp, tập trung chỉ đạo quyết liệt để phát triển công nghiệp CNTT, quy hoạch phát triển hạ tầng kỹ thuật CNTT đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, xây dựng mục tiêu phấn đấu cụ thể cho từng giai đoạn, tới năm 2020, trong đó phải xác định rõ mô hình, những chủ trương xã hội hóa, phải lấy hoạt động ứng dụng CNTT của Bộ Thông tin và Truyền thông làm hình mẫu về ứng dụng CNTT trong các cơ quan quản lý Nhà nước, chuẩn bị cán bộ để tổ chức bộ máy chỉ đạo, điều hành, thực hiện và tổ chức hành động; xây dựng các chương trình hành động cụ thể và thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm. Dưới góc độ chiến lược, chúng ta thấy việc ứng dụng CNTT trong hiện đại hoá hoạt động của bộ máy nhà nước ở Vĩnh Phúc đồng nghĩa với việc xây dựng CPĐT. Lộ trình và kế hoạch thực hiện CPĐT là phân giai đoạn và lập kế hoạch cụ thể trong từng giai đoạn. Từ thực tiễn xây dựng CPĐT ở nhiều nước trên thế giới, có thể chia quá trình xây dựng CPĐT thành 3 giai đoạn hay 3 pha phát triển: Pha 1 - Tạo lập môi trường thông tin: Tạo ra môi trường thông tin quản lý nhà nước (QLNN) thống nhất trong toàn bộ hệ thống. Tất cả các cán bộ trong bộ máy NN đều sử dụng chung môi trường thông tin này. Đến khi môi trường thông tin này cung cấp được 70% trở lên lượng thông tin cần thiết phục vụ công việc QLNN hàng ngày ở mỗi vị trí công tác trong bộ máy NN thì pha 1 đạt đến mức phát triển cao, bắt đầu trạng thái CPĐT dưới góc độ thông tin. Pha 2 - Làm việc tương tác: Mọi người trong bộ máy NN sử dụng môi trường thông tin trên để phối hợp làm việc cùng với nhau, tương tác với nhau. Lúc đầu quá trình này diễn ra trong nội bộ đơn vị, sau mở rộng dần giữa các đơn vị, sở, ngành với nhau, và cuối cùng, trong toàn bộ bộ máy NN từ trung ương đến địa phương. Khi nào 70% trở lên kết quả hoạt động của bộ máy NN được tạo ra nhờ sự phối hợp tương tác giữa các cơ quan hữu quan thì hệ thống bắt đầu hoạt động trong trạng thái CPĐT dưới góc độ kết nối. Pha 3 - Hoàn thiện môi trường pháp lý: Mọi hoạt động của bộ máy NN đều dựa trên các căn cứ pháp lý. Hiện tại, khung pháp lý QLNN ở nước ta đang dựa chủ yếu trên các văn bản dưới luật (nghị định, thông tư, quyết định...), vì vậy quá trình hoàn thiện môi trường pháp lý QLNN ở nước ta không chỉ là quá trình luật hóa khung pháp lý mà còn bổ sung, hoàn thiện những bộ luật mới do chính quá trình ứng dụng CNTT tạo ra như luật về chữ ký điện tử, con dấu điện tử, giao dịch điện tử, chứng thực điện tử... Pha 3 được xem là đạt đến mức phát triển cao khi khung pháp lý QLNN bao gồm 70% trở lên là các bộ luật được số hóa, lúc đó trạng thái CPĐT dưới góc độ pháp lý mới bắt đầu hiện diện Giải pháp ứng dụng CNTT trong doanh nghệp -Thương mại điện tử Chúng ta nhận thấy rằng những vướng mắc trong thanh toán trực tuyến đang là rào cản lớn đối với sự phát triển TMĐT ở Vĩnh Phúc .Các hoạt động TMĐT trong năm qua đã có nhiều khởi sắc, đặc biệt là sự phát triển của các loại hình dịch vụ trực tuyến như mua bán qua mạng, game online, dịch vụ giải trí trực tuyến… Tuy nhiên, phần lớn các dịch vụ này vẫn chủ yếu hướng đến người tiêu dùng đơn lẻ (B2C, C2C). Trong khi đó, cơ cấu phổ biến trong thương mại điện tử trên thế giới hiện nay là B2B (chiếm trên 90%) và chính loại hình B2B mới mang lại những giá trị giao dịch lớn (ước tính chiếm 85% giá trị giao dịch TMĐT). Thực tế, nhiều doanh nghiệp vẫn hiểu đơn thuần TMĐT là bán hàng/dịch vụ trên mạng. Với những doanh nghiệp lớn, quy trình sản xuất phức tạp và mạng lưới đối tác rộng thì B2B là giải pháp lý tưởng để giúp cho quá trình sản xuất vận hành một cách nhịp nhàng từ khâu nguyên liệu đầu vào đến đầu ra sản phẩm. Vì vậy, trong thời gian tới để đẩy mạnh hơn nữa các giao dịch B2B, chúng ta cần thực hiện chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử (EDI). Bên cạnh các vấn đề như an toàn thông tin, đảm bảo bí mật riêng tư trong giao dịch điện tử thì chuẩn EDI là nền tảng cho TMĐT phát triển. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được quan tâm ở VP. Đối với loại hình B2C và C2C, các giao dịch trực tuyến còn vướng mắc ở khâu thanh toán trực tuyến. Cho đến nay, thanh toán điện tử vẫn chưa thực hiện được do chưa thiết lập được cổng thanh toán trực tuyến (payment gateway) kết nối các ngân hàng với nhau và với các tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế. Do sự phát triển quá nhanh của TMĐT nên không tránh khỏi những quan điểm trái ngược giữa cơ quan quản lý với nhau, giữa cơ quan quản lý với cộng đồng người sử dụng Internet và làm TMĐT. Vì vây giải pháp là luật pháp cũng nên thay đổi theo để điều chỉnh các hoạt động này. Giải pháp ứng dụng CNTT trong GDDT Đổi mới phương pháp dạy học hiện đang là vấn đề cốt tử để nâng cao chất lượng dạy học. Đó là một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong cải cách giáo dục ở Vĩnh Phúc hiện nay. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông nhằm đổi mới nội dung, phương pháp dạy học là một công việc lâu dài, khó khăn đòi hỏi rất nhiều điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính và năng lực của đội ngũ giáo viên. Do đó, để đẩy mạnh việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong dạy học trong thời gian tới có hiệu quả, không có gì khác hơn, là Vĩnh Phúc tăng dần mức đầu tư để không ngừng nâng cao, hoàn thiện và hiện đại hoá thiết bị, công nghệ dạy học; đồng thời hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông để mọi trường học đều có thể kết nối vào mạng Internet. Bên cạnh đó, chúng ta có sự chỉ đạo đầy đủ, đồng bộ, thống nhất bằng các văn bản mang tính pháp quy để các trường có cơ sở lập đề án, huy động nguồn vốn đầu tư cho hoạt động này, góp phần làm thay đổi nội dung, phương pháp, hình thức dạy học và quản lý giáo dục, tạo nên được sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội thông qua mạng, làm cơ sở tiến tới một xã hội học tập. Giải pháp đẩy mạnh huy động vốn cho phát triển CNTT. Chúng ta thấy trong thời gian qua, ứng dụng CNTT gặp khó khăn do cơ chế tài chính không còn phù hợp. Mặc dù vậy, đầu tư cho phát triển CNTT vẫn cần thêm những biện pháp khác. Nếu không, thị trường ứng dụng CNTT có nguy cơ trở thành một sân chơi mà các công ty quốc tế có ưu thế tuyệt đối. Kinh nghiệm cho thấy các quốc gia thành công đều phải sử dụng thị trường nội địa tạo lực vươn lên. Để CNTT thực sự trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn tại Vĩnh Phúc, cần trực tiếp đầu tư vào những khâu dài hơi như R&D, phát triển thị trường, đào tạo... Đây là những lĩnh vực đòi hỏi đầu tư lớn, nhiều rủi ro, phối hợp nhiều nguồn lực mà hiện nay các doanh nghiệp trong nước chưa đủ sức. Vì thế chúng ta phải có những giải pháp huy động vốn cho phát triển CNTT. Huy động mọi nguồn vốn cho phát triển và ứng dụng CNTT. Trước hết cần dành kinh phí đáng kể cho việc hoàn thiện hệ thống pháp lý, quy phạm, chuẩn hoá thông tin, chuẩn hoá các chỉ số báo cáo, thống kê, các chế độ đảm bảo dữ liệu đầy đủ và chính xác phục vụ các hoạt động ứng dụng và phát triển CNTT. Chúng ta cần huy động các nguồn vốn: xây dựng cơ bản, sự nghiệp kinh tế, sự nghiệp khoa học, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn FDI, hợp tác quốc tế và huy động nguồn vốn của các doanh nghiệp, vốn trong nhân dân thông qua xã hội hóa,… để thực hiện các dự án ứng dụng và phát triển CNTT. 2.1. Huy động vốn trong nước Vốn từ ngân sách Nhà nước Vốn từ ngân sách (ngân sách nhà nước và ngân sách địa phương) chủ yếu dành cho đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật, triển khai các ứng dụng và đào tạo nguồn nhân lực CNTT tại các các cơ quan trong hệ thống chính trị của tỉnh và một số ngành kinh tế, xã hội trọng điểm; Đề nghị Nhà nước ưu tiên vốn ODA cho các dự án phát triển và ứng dụng CNTT tại khu vực trọng điểm; vùng nông thôn và các cơ sở giáo dục và đào tạo, cơ sở y tế... Huy động vốn trong các doanh nghiệp Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tăng cường đầu tư ứng dụng và phát triển CNTT tại đơn vị mình; tập trung đầu tư đổi mới công nghệ, dây chuyền sản xuất... để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh, sẵn sàng hội nhập kinh tế quốc tế. Huy động vốn trong dân Huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi của nhân dân; khuyến khích mọi cá nhân trong và ngoài nước đầu tư dưới hình thức liên doanh, cổ phần hoặc đầu tư trực tiếp để phát triển CNTT trên địa bàn tỉnh. Phát hành trái phiếu trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi để huy động vốn cho phát triển CNTT. Huy động vốn ngoài tỉnh Tận dụng tốt lợi thế của tỉnh để có cơ chế chính sách thu hút các nguồn vốn đầu tư của Hà Nội và các tỉnh thành khác cho phát triển CNTT. 2.2. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài Xây dựng cơ chế thông thoáng, cải tiến các thủ tục hành chính đảm bảo thuận tiện, nhanh chóng trong giải quyết các thủ tục cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển CNTT trên địa bàn tỉnh. Thường xuyên tổ chức các buổi gặp mặt với các doanh nghiệp; tổ chức hội thảo, giới thiệu và mời chào các doanh nghiệp đầu tư vào tỉnh Vĩnh Phúc, đặc biệt là đầu tư vào phát triển công nghiệp CNTT. Xây dựng quy hoạch chi tiết, xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ tầng các khu, cụm công nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút vốn đầu tư. Giải pháp đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực CNTT Chúng ta thấy CNTT của Vĩnh Phúc vừa qua đã có những bước phát triển vượt bậc và toàn diện. Nhưng mà nếu nhìn ra các nước phát triển thì thấy còn kém hơn rất nhiều. Muốn CNTT ở Vĩnh Phúc phát triển nhanh hơn thì phải tập trung cho phát triển nhân lực. Muốn phát triển được nguồn nhân lực thật tốt thì chúng ta phải tận dụng, phát huy được lợi thế sức trẻ của dân số để đẩy tốc độ phát triển nhanh hơn, phù hợp với tiềm năng cũng như phù hợp với yêu cầu của CNH - HĐH. Theo khảo sát của Ngân hàng thế giới tại VN, 80 - 90% sinh viên mới ra trường phải đào tạo lại khi làm việc tại các doanh nghiệp. Yếu về chất, thiếu về lượng... tình trạng khủng hoảng thừa - thiếu, thiếu - thừa không chỉ khiến các nhà đầu tư băn khoăn khi đầu tư vào Vĩnh Phúc trong lĩnh vực này mà còn làm đau đầu các doanh nghiệp CNTT ... Nguồn nhân lực CNTT chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng so với nhu cầu sử dụng là một thực tế khó có thể phủ nhận. Các doanh nghiệp đưa ra nhiều chế độ ưu đãi để hút nhân tài của nhau là điều đã và vẫn đang tiếp tục xảy ra. Kết quả là thiếu vẫn hoàn thiếu mà lại còn gây xáo trộn tình hình nhân sự tại nhiều doanh nghiệp. Nhìn nhận vấn đề này, giải pháp ở đây là doanh nghiệp nên bắt tay với nhà trường trong đào tạo CNTT. Bởi vì cầu tìm đến cung, cung đáp ứng cầu đã trở thành quy luật. Đối với vấn đề nhân lực CNTT cũng vậy, việc đào tạo theo nhu cầu xã hội, đào tạo theo đơn đặt hang,… là phương pháp lâu dài để giải quyết cơn khát nhân lực CNTT. "Mọi đối tượng phải ngồi lại với nhau và nhìn nhận ở nhiều khía cạnh. Thứ nhất là sinh viên - vẫn được coi là đối tượng trọng tâm của vấn đề đào tạo; thứ hai là nhà trường - môi trường đào tạo, cái nơi đào tạo cái nguồn nhân lực và thứ 3 là các công ty trên thị trường mà sau này sẽ tiếp nhận người sinh viên - cái sản phẩm của các trường đào tạo cho doanh nghiệp và thứ 4 là nhà nước là nơi đưa ra chính sách, các biện pháp hỗ trợ 3 đối tượng trên". Doanh nghiệp và nhà trường cùng bắt tay đào tạo, không chỉ tạo điều kiện cho nhà trường có cơ sở vật chất cần thiết cho quá trình đào tạo, mà còn đáp ứng nhu cầu tại những đơn vị sử dụng một cách hiệu quả nhất. Không chỉ được thụ hưởng phương pháp giảng dạy mới, mà qua tiếp xúc trực tiếp với doanh nghiệp và được thực tập trong môi trường thực tế sẽ giúp hoàn thiện kỹ năng vốn được coi là khâu yếu của các sinh viên CNTT. Cách làm này sẽ giúp xoá đi khoảng cách giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng thực tế giúp giải quyết vấn đề nhân lực CNTT cho thị trường CNTT ở Vĩnh Phúc. Sự hợp tác này, chắc chắn sẽ mang lại những kết quả bất ngờ trong tương lai gần. Như vậy chúng ta thấy doanh nghiệp và nhà trường hợp tác chặt chẽ được coi là một giải pháp hữu hiệu để đào tạo nhân lực CNTT đáp ứng được nhu cầu thực tế đặt ra. Và để đáp ứng nhu cầu của những nhà tuyển dụng khó tính nhất, bản thân mỗi sinh viên bên cạnh việc trang bị vững kỹ năng nghiệp vụ thì việc sử dụng thành thạo ngoại ngữ cũng là một yêu cầu bắt buộc khi thị trường CNTT không chỉ bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ VN. 4. Giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp và thị trường CNTT Về công nghiệp phần cứng, chúng ta nên khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển công nghiệp phần cứng để ngành công nghiệp công nghệ cao này có khả năng sản xuất các sản phẩm điện tử viễn thông, CNTT có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu. Mặt khác Vĩnh Phúc nên thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào phát triển sản xuất các sản phẩm điện tử phụ trợ cho các sản phẩm cơ khí vốn là thế mạnh của ngành công nghiệp trên địa bàn Vĩnh Phúc. Ngoài ra, các doanh nghiệp hướng đến phát triển sản xuất và lắp ráp các sản phẩm cơ điện tử. So với công nghiệp phần cứng, công nghiệp phần mềm là ngành tạo ra tỷ suất lợi nhuận lớn hơn. Hàm lượng lao động đóng góp của nhân công trong mỗi sản phẩm phần cứng được gia công lắp ráp và hoàn thiện trên thị trường hiện nay là không lớn so với giá trị của sản phẩm. Trong khi đó, trị giá lợi nhuận thu được từ các sản phẩm phần mềm lớn hơn hẳn. Tuy nhiên, công nghiệp phần mềm Việt Nam hiện nay chỉ đóng góp một phần nhỏ trong toàn ngành công nghiệp công nghệ thông tin và là con số quá ít ỏi so với công nghiệp phần cứng. Biến động từ các cuộc khủng hoảng tài chính, khủng hoảng sinh thái tác động mạnh mẽ tới sự chuyển dịch luồng vốn đầu tư vào và ra. Vì thế, xu hướng đầu tư trong ngành công nghiệp phần mềm của Vĩnh Phúc giai đoạn này cần được xác định theo các hướng như sau: Tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, chủ động đón nhận làn sóng chuyển dịch đầu tư về CNTT-TT có chọn lọc và chất lượng; Tập trung phát triển công nghiệp nội dung và dịch vụ outsourcing; Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DN CNTT để có thể có các giải pháp đối phó với các cuộc khủng hoảng toàn cầu về tài chính và môi trường. Như vậy chúng ta thấy để phát triển công nghiệp và thị trường CNTT trong các năm tiếp theo, chúng ta phải thực hiện các giải pháp trên một cách mạnh mẽ, bên cạnh đó sự hỗ trợ tối đa của Chính phủ và sự nỗ lực cộng thêm nhận thức đúng đắn của DN là 2 nhân tố quan trọng cho ngành CNCNTT phát triển. Sự hỗ trợ của Chính phủ có thể dưới các hình thức: Hoàn thiện môi trường pháp lý, minh bạch và ổn định; Đầu tư nghiên cứu phát triển; Hỗ trợ DN xây dựng và quảng bá thương hiệu; Hỗ trợ DN áp dụng tiêu chuẩn quản lý quy trình sản xuất tiên tiến như: ISO, CMM, CMMi...; Hỗ trợ DN đào tạo các loại hình nhân lực thông qua các khoá đào tạo ngắn hạn chất lượng cao; Xây dựng các vườn ươm DN.... Còn đối với các DN, quyết sách đúng đắn của họ mới là nhân tố quyết định. Sự nỗ lực của DN được thể hiện trong các hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh, công nghệ, thị trường, nhân lực,... Bên cạnh đó, sự hỗ trợ của Chính phủ là phải đúng lúc và có thời hạn. Thứ nhất, sự hỗ trợ của Chính phủ đúng lúc sẽ là cú hích, là đòn bẩy để ngành CNpCNTT có bước tiến vượt bậc. Thứ hai, sự hỗ trợ của Chính phủ không thể thường xuyên và liên tục vì nguồn lực là hạn chế. Chính vì thế mới phải cần thời hạn. Đồng thời xây dựng và ban hành chính sách đầu tư, hỗ trợ cho ứng dụng và phát triển CNTT; các chính sách, quy định để tạo hành lang pháp lý, thu hút các nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế cho ứng dụng, phát triển công nghiệp và thị trường CNTT, nhằm làm cho Vĩnh Phúc trở thành địa điểm đầu tư hấp dẫn và tin cậy của các đối tác trong và ngoài nước, đặc biệt là các công ty và tập đoàn CNTT lớn. Khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế, các hình thức đầu tư nước ngoài, kể cả hình thức 100% vốn nước ngoài tham gia phát triển công nghiệp CNTT. Xây dựng và ban hành chính sách ưu đãi đặc biệt cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm CNTT xuất khẩu. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Quy hoạch CNTT giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2020 có vai trò cực kì quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung và đối với ngành CNTT nói riêng. Quy hoạch được thực thi đã đem lại cho CNTT của Vĩnh Phúc một diện mạo mới tươi đẹp. Bên cạnh đó thực hiện quy hoạch còn bộc lộ những hạn chế làm chậm quá trình ứng dụng và phát triển CNTT của Vĩnh Phúc. Vì vậy việc đánh giá lại quy hoạch trong thời gian qua và đưa ra các giải pháp để thực hiện quy hoạch CNTT trong thời gian tới là rất cần thiết. Nó cũng giúp cho các nhà quản lý nhìn lại những gì đã thực hiện để có những nhận định hợp lý và đưa ra những điều chỉnh sáng suốt. Chuyên đề này đã làm sáng tỏ thực trạng quy hoạch trong thời gian vừa qua, đưa ra những đánh giá quan trọng có ý nghĩa trong việc bổ sung sủa chữa những sai sót trong thực hiện quy hoạch thời gian vừa qua, và đề ra những giải pháp mang tính thực tiễn, và có hiệu quả cao. Tuy vậy quá trình thu thập thông tin và tổng hợp báo cáo chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong thầy cô và các bạn đọc đóng góp ý kiến để chuyên đề này có tính khoa học và thực tiễn cao hơn nữa, góp phần vào công cuộc phát triển quy hoạch CNTT ở Vĩnh Phúc ngày một tốt đẹp. DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO - Quy hoạch PTKTXH – Một số vấn đề lí luận và thực tiễn (Viện CLPT) - Bài giảng Quy Hoạch Phát Triển (TS. Nguyễn Tiến Dũng) Web site của Bộ Xây dựng ( Web site của Bộ Kế hoạch và đầu tư Web site của Bộ Kế hoạch đầu tư tỉnh Quảng Ninh. Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam ( MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1930.doc
Tài liệu liên quan