Lời nói đầu
Ngân hàng(NH) được hình thành và phát triển trải qua một quá trình lâu dài gắn với nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Vào khoảng thế kỷ thứ V NH sơ khai ra đời với 3 nghiệp vụ nguyên thuỷ của NH là nhận tiền gửi, thanh toán và cho vay. NH sơ khai ban đầu thực hiện cho vay nặng lãi vì ban đầu nhu cầu vốn rất lớn. Sau này khi nền kinh tế phát triển (từ thế kỷ XV) hoạt động nhận tiền gửi rồi cho vay được mở rộng, số lượng các NH ra đời ngày càng nhiều dẫn đến tính tất uếu của c
32 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1877 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạnh tranh, do đó các NH phải giảm lãi suất và các NH đó chuyển thành các Ngân hàng thương mại( NHTM) sau này gọi là các Ngân hàng trung gian (NHTG). Các NHTM ra đời hầu hết vào đầu thế kỷ XVII, NH lớn nhất ra đời là NH Hà Lan. ở Việt nam mãi tới thế kỷ XIX hệ thống NH mới ra đời và đi vào hoạt động. Song khi có pháp lệnh Nhà nước về NH( 5 / 1990) thì hệ thống NH được tách làm hai cấp, tách bạch rõ chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh. Tức là Ngân hàng Nhà nước và hệ thống Ngân hàng trung gian(NHTG). Trong hệ thống NHTG được tách ra gồm NHTM, Ngân hàng đặc biệt và các tổ chức trung gian(TCTG) phi NH. Có thể nói NHTM nói riêng và hệ thống NH nói chung đã có vai trò vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển. Ngày nay ở nước ta khi nền kinh tế thị trường đang phát triển, tất cả mọi hoạt động đều hướng tới mục tiêu CNH –HĐH đất nước thì người ta khó có thể hình dung nổi sự vắng bóng của các TCTCTG làm chức năng “cầu nối” giữa người có vốn và người cần vốn. Trong số các TCTCTG hệ thống các NHTM chiếm vị trí quan trọng nhất về cả quy mô và về thành phần các nghiệp vụ.
ở nước ta thời gian qua cũng như cho đến hiện nay, tín dụng vẫn là trung tâm hoạt động của một NHTM. Trong những năm qua, đổi mới hoạt động NH được gắn liền với đổi mới hoạt động cho vay và đầu tư, hoạt động tín dụng NH gắn liền với việc phục vụ các chương trình kinh tế và chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, như cho vay vốn để phát triển kinh tế đa thành phần, tín dụng NH phục vụ chuyển đổi cơ cấu kinh tế, vốn cho thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Vậy để có thể khai thác tốt nhất các tiềm năng kinh tế trong nước cũng như nước ngoài thì việc huy động vốn qua NHTM là rất cần thiết. Đặc biệt là trong giai đoạn nước ta đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực thế giới và tập trung mọi nguồn lực cho quá trình CNH –HĐH đất nước thì vấn đề nguồn vốn có vai trò quan trọng và đây cũng là nhiệm vụ nặng nề, cấp bách của hệ thống NHTM với tư cách là “kênh dẫn vốn” nhằm thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để từ đó sử dụng nguồn vốn một cách hợp lý nhằm phát triển nền kinh tế một cách hiệu quả nhất.
Tóm lại, ở nước ta thời gian qua và cũng như cho đến hiện nay NHTM có một vai trò vô cùng quan trọng, đặc biệt là tín dụng vẫn là trung tâm hoạt động với chức năng cơ bản là huy động vốn và sử dụng vốn để có hiệu quả lớn nhất. Đề tài: "Đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM Việt nam hiện nay" xuất phát từ vai trò của NHTM. Qua nhu cầu thực tiễn và sự kết hợp với kiến thức em đã tiếp thu được thông qua môn học, em chọn đề tài trên để làm tiểu luận. Qua tiểu luận này phần nào em đã cố gắng đưa ra những thực trạng và nhận xét chung nhất về hoạt động tín dụng của NHTM ở nước ta, trên cơ sở đó em có một số kiến nghị, giải pháp trong thời gian tới. Do vấn đề trên có tính chất và quy mô nghiên cứu lớn nên em sẽ đi sâu vào một số nội dung sau:
Phần I: Khái luận chung về NHTM
Phần II: Thực trạng hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM Việt nam
Phần III: Giải pháp và kiến nghị
Những hiểu biết của em còn hạn chế do vậy mà trong quá trình trình bày và đưa ra những ý kiến, kiến nghị của em sẽ không tránh khỏi những sai sót. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chỉ bảo của thày, cô về vấn đề này.
Em xin chân thành cảm ơn
Hà nội ngày 15/9/2002
Sinh viên
Phạm Thị Phong Lan
Phần I: Khái luận chung về NHTM
I. Sự ra đời của NHTM
Các hoạt động mang tính chất ngân hàng ra đời từ rất lâu. Vào khoảng 3500 trước công nguyên đến 1800 trước công nguyên nghiệp vụ sơ khai của hoạt động ngân hàng là nhận giữ tiền, vàng và tài sản có giá trị khác. Những người được tin tưởng để cho họ gửi gắm tài sản của mình là nhà thờ, thợ vàng và những người quyền quý, người gửi tiền nhận lại một tờ biên lai làm căn cứ để xác định quyền sở hữu. Một cách tự phát, một số nhà thờ, người quyền thế và các thợ vàng trở thành những người giữ của cải và tài sản cho công chúng và được trả phí vì đã bảo quản và trông coi tài sản. Hoạt động của các đối tượng này mang hình thức như những tiệm cầm đồ.
Tuy nhiên những người giữ tài sản họ nhận ra rằng trong cùng một khoảng thời gian có một số người đến lấy tiền và một số người lại đến gửi tiền. Như vậy luôn có khối lượng tiền nhàn rỗi trong kho, đồng thời sự phát triển của thương mại trong thời gian này, những người đi buôn họ rất cần tiền để làm vốn, điều này khiến họ nghĩ tới việc giờ đây chỉ cần giữ lại dự trữ tiền mặt với một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi, phần còn lại có thể sử dụng cho vay lấy lãi. Đây chính là sự đánh dấu của ngân hàng sơ khai ra đời.
Từ thế kỷ V đến thế kỷ VII là giai đoạn phát triển của các nghiệp vụ của một ngân hàng. Các nghiệp vụ ghi sổ sách, chi tiết đến đối tượng cho vay, mục đích vay cũng như nguồn vốn cho vay. Từ khoảng đầu thế kỷ XV đến XVIII các ngân hàng này phát triển cả về số lượng và quy mô hoạt động với các nghiệp vụ của một ngân hàng kinh doanh gồm nhận tiền gửi, cho vay, phát hành tiền, chiết khấu thương phiếu, thanh toán bù trừ và bảo lãnh.
Vào đầu thế kỷ XVII hầu hết các NHTM ra đời, ngân hàng lớn nhất là ngân hàng Hà lan1609, ngân hàng Thuỵ Điển năm 1856, hệ thống ngân hàng Anh năm1694, ngân hàng Pháp năm 1800. Sau đó hệ thống ngân hàng được phát triển rộng sang các nước thuộc địa và phương Đông.
Từ thế kỷ XVIII các ngân hàng đã thực sự là những doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và phát hành tiền dưới dạng các chứng thư hay kỳ phiếu thay cho vàng. Vì khả năng chuyển đổi của kỳ phiếu ra vàng rất dễ dàng do đó nó được chấp nhận rộng rãi trong lưu thông như một hình thức tiền tệ. Do đó nhiều ngân hàng đã phát hành nhiều loại kỳ phiếu này gây khó khăn cho lưu thông hàng hoá và vì có nhiều ngân hàng phát hành ra nên Nhà nước không thể kiểm soát được tiền trong lưu thông. Trước tình trạng này Nhà nước phải can thiệp và tách các ngân hàng làm 2: một là ngân hàng phát hành có quyền phát hành tiền và kinh doanh tiền tệ và các trung gian tài chính hoạt động kinh doanh tiền tệ.
Đến thế kỷ XX tiền giấy được phát hành ra với khối lượng lớn gây nên lạm phát khủng khiếp, nền kinh tế lâm vào khủng hoảng làm co lĩnh vực tiền tệ ngân hàng cũng rối loạn.Vì vậy Nhà nước một lần nữa phải can thiệp: Ngân hàng phát hành có thêm chức năng quản lý tiền tệ và đổi tên thành Ngân hàng Trung ương, hệ thống các trung gian tài chính lại được tách ra làm 2 gồm hệ thống ngân hàng và hệ thống trung gian tài chính phi ngân hàng.
ở Việt nam mãi đến thời Pháp thuộc mới hình thành ngân hàng để hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh thương mại.
6/5/1951 Ngân hàng Nhà nước Việt nam ra đời và là ngân hàng một cấp hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Đến năm 1986 nước ta chuyển
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
5/1990 Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt nam ra đời chia hệ thống ngân hàng làm 2 cấp: một là NHTW là cơ quan quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc quyền phát hành tiền và đóng vai trò là ngân hàng của các ngân hàng, là ngân hàng của Chính phủ; một là NHTM có chức năng kinh doanh tiền tệ trực tiếp với nền kinh tế.
Hơn 10 năm qua NHTM nói riêng và hệ thống các NH nói chung đã có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế.
II. Chức năng của NHTM
NHTM là loại hình NH hoạt động vì mục đích lợi nhuận thông qua việc kinh doanh các khoản vốn ngắn hạn là chủ yếu.Tầm quan trọng của NHTM được thể hiện qua các chức năng của nó. NHTM có 3 chức năng cơ bản là chức năng làm thủ quỹ, chức năng làm trung gian tín dụng, chức năng làm trung gian thanh toán.
Chức năng làm thủ quỹ cho xã hội
Thực hiện chức năng này, NHTM nhận tiền gửi của công chúng, các doanh nghiệp và các tổ chức, giữ tiền cho khách hàng của mình, đáp ứng nhu cầu rút tiền và chi tiền của họ.
Chức năng này đã có ngay trong thời kỳ sơ khai của hoạt động NH xuất phát từ nh cầu muốn đảm bảo an toàn cho tài sản và mong muốn tích luỹ giá trị của công chúng và các doanh nghiệp trong xã hội.Ban đầu NH đơn giản là người giữ hộ tài sản và khách hàng phải trả cho NH một khoản phí. Về sau NH đã sử dụng khoản tiền gửi của khách hàng để cho vay, và thay cho việc khách hàng phải trả thù lao cho NH, NH lại trả cho khách hàng lợi tức tiền gửi. Tuy nhiêm với các khoản tiền, vàng bạc, đá quý, chứng từ có giá. . . khách hàng gưỉ vào NH với yêu cầu giữ hộ, khách hàng vẫn phải trả cho NH một khoản phí nhất định.
Ngày nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển, thu nhập ngày càng cao, tích luỹ của doanh nghiệp và cá nhân ngày càng lớn cộng thêm nhu cầu bảo vệ tài sản và mong muốn sinh lời từ khoản tiền có được của các chủ thể kinh tế làm cho các chức năng này càng được thể hiện rõ. Nó đem lại lợi ích cho cả khách hàng và NH.
Đối với NH, chức năng này là cơ sở để NH thực hiện chức năng trung gian thanh toán, đồng thời tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho NHTM để thực hiện chức năng trung gian tín dụng.
2. Chức năng trung gian thanh toán
NH làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng. NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở nó thực hiện chức năng thủ quỹ cho xã hội. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các khoản thu, chi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng là tiền đề để NH thực hiện vai trò trung gian thanh toán.Mặt khác, việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế như rủi ro, chi phí lớn. . .
Việc hệ thống NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh tế trong việc góp phần tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, tốc độ luân chuyển vốn và hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội.Đồng thời làm tăng uy tín cho NH và do đó tạo điều kiện để thu hút nguồn vốn tiền gửi.
3. Chức năng làm trung gian tín dụng
NH làm trung gian tín dụng khi nó là “cầu nối” giữa người có vốn dư thừa và người có nhu cầu về vốn. Thông qua việc huy động các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, NH hình thành nên quỹ cho vay của nó rồi đem cho vay đối với nền kinh tế, mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Với chức năng này NH vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay.
Sở dĩ NH làm được chức năng này vì nó là một tổ chức chuyên kinh doanh về tiền tệ, tín dụng, có khả năng nhận biết được tình hình cung cầu về tín dụng. Thông qua việc thu hút tiền gửi với khối lượng lớn, NH có thể giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu tín dụng cả về khối lượng vốn vay và thời gian cho vay.
Thông qua chức năng trung gian tín dụng,NHTM đã góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên trong quan hệ là người gửi tiền, NH và người đi vay và đảm bảo lợi ích của nền kinh tế.
Chức năng là trung gian tín dụng của NHTM có tác dụng tập trung vốn cho quá trình sản xuất. Mặt khác sự kết hợp giữa chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán làm cho hệ thống NHTM có khả năng tạo tiền gửi thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, NH sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hoá, dịch vụ… Khi NH chỉ thực hiện chức năng nhận tiền gửi mà chưa cho vay, NH chưa hề tạo tiền, chỉ khi thực hiện nghiệp vụ cho vay, NH mới bắt đầu tạo tiền.
Tóm lại, các chức năng của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời khi thực hiện tốt chức năng thủ quỹ và chức năng trung gian thanh toán lại góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở rộng quy mô hoạt động của NH.
III. Nghiệp vụ của NHTM
Việc nghiên cứu các nghiệp vụ một của NHTM thực chất là việc xác định nội dung các khoản mục thuộc bảng tổng kết tài sản. Đó là bản báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát tình hình sử dụng vốn và nguồn vốn hoạt động của một NHTM tại một thời điểm nhất định. Bảng tổng kết tài sản của NHTM bao gồm 2 phần là tài sản Nợ và tài sản Có. Đây cũng chính là 2 nghiệp vụ cơ bản của một NHTM.
1. Nghiệp vụ thuộc tài sản Nợ
Nghiệp vụ thuộc tài sản Nợ phản ánh nguồn vốn của NH. Kết cấu tài sản Nợ của NHTM bao gồm: vốn tiền gửi, vốn đi vay và vốn của NH.
Vốn tiền gửi
Vốn tiền gửi là bộ phận quan trọng của NHTM, bao gồm:
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào. Đối với khoản này, mục đích chính của người gửi tiền là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các khoản thanh toán qua NH và do vậy nó thường được gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán.
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà khách hàng được rút ra sau một thời hạn nhất định từ một vài tháng đến một vài năm. Mục đích của người gửi tiền là lấy lãi và NH có thể chủ động kế hoạch hoá việc sử dụng vốn này vì tính có thời hạn của nguồn vốn. Mức lãi suất cụ thể phụ thuộc vào thời hạn gửi tiền và sự thoả thuận giữa NH và khách hàng trên cơ sở xem xét đến mức độ an toàn của NH cũng như quan hệ cung cầu vốn tại thời điểm đó.
Tiền gửi tiết kiệm là tiền để dành của dân cư được gửi vào NH nhằm mục đích hưởng lãi.
Vốn tiền gửi là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số nguồn vốn của NHTM, là nguồn vốn chủ yếu để NH kinh doanh. Chính vì vậy người ta gọi NHTM là NH ký thác hay NH tiền gửi.
Vốn đi vay
Các NHTM có thể vay vốn từ NHTW, vay các NH hoặc trung gian tài chính khác và vay từ công chúng.
Phát hành các giấy tờ có giá khi NH thiếu khả năng thanh toán hoặc NH phát hiện ra các dự án đầu tư lớn. Việc huy động vốn dưới hình thức phát hành kỳ phiếu được áp dụng theo hai phương thức là:
- Phát hành theo mệnh giá.
- Phát hành dưới hình thức chiết khấu.
Vay NHTW chỉ được vay ngắn hạn vì cho vay dài hạn NHTW không điều tiết được. Bất kỳ NHTM nào khi được NHTW cho phép thành lập hoạt động đều được hưởng quyền vay tiền tại NHTW trong trường hợp cần bổ sung nhu cầu vốn khả dụng dưới 2 hình thức chủ yếu là tái chiết khấu các giấy tờ có giá và cho vay thế chấp hay ứng trước.
Ngân hàng Trung ương cấp tín dụng cho các NHTM chủ yếu dưới hai hình thức là:
Tái cấp vốn mà chủ yếu dưới hình thức tái chiết khấu các chứng từ có giá.
Cho vay thế chấp hay ứng trước.
Ngoài ra, NHTM có thể vay các NH và tổ chức tài chính khác. Mục đích quan trọng của loại này là nhằm đảm bảo nhu cầu vốn khả dụng trong thời hạn ngắn.
NHTM cũng có thể tìm kiếm nguồn vốn hoạt động từ việc phát hành phiếu nợ để vay nước ngoài.
Vốn vay đã trở thành một nguồn vốn quan trọng của NH khi nó làm cho các NH chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh. Việc áp dụng một chính sách lãi suất linh hoạt kèm theo các điều kiện phi lãi suất thích hợp đối với các công cụ nợ khi đi vay NH có thể chủ động đạt được nguồn vốn phù hợp với nhu cầu.
Vốn của NH
Khoản mục cuối cùng trong phần tài sản Nợ của bảng quyết toán tài sản NH là vốn thuộc sở hữu của NH. Nó bằng hiệu số giữa tổng tài sản Có với tài sản Nợ. Vốn của NHTM mang tính chất ổn định, nó thường chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của NH( khoảng dưới 10%), nhưng có một vị trí quan trọng, quyết định quy mô hoạt động của NH, là cơ sở để NH tiến hành kinh doanh, huy động vốn và cho vay. Người ta ví nó như một cái đệm để chống đỡ sự giảm giá trị của những tài sản Có của NH mà có thể đẩy NH đến tình trạng thiếu khả năng chi trả và phá sản.
2. Nghiệp vụ thuộc tài sản Có.
Nghiệp vụ thuộc tài sản Có phản ánh việc sử dụng vốn của NHTM. Xuất phát từ đặc điểm nguồn vốn của NH, cơ cấu sử dụng vốn phải đảm bảo an toàn và sinh lời. Tài sản Có bao gồm: nghiệp vụ ngân quỹ, nghiệp vụ cho vay và nghiệp vụ đầu tư.
Nghiệp vụ ngân quỹ là một khoản dự phòng để đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi tiêu của NH. Khoản mục này bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ở các NH khác, tiền gửi ở NHTW.
Các bộ phận này hình thành nên phần dự trữ của NHTM. Mặc dù dự trữ của NH không tạo nên lợi nhuận nhưng nó đảm bảo khả năng thanh toán và các nghĩa vụ tài chính khác cho NH. Vì thế mà nó hạn chế rủi ro thanh khoản, nâng cao uy tín cho NH, tạo nền tảng vững chắc cho khả năng sinh lời của NH.
Nghiệp vụ cho vay: là nghiệp vụ cung ứng vốn của NH trực tiếp cho các nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trên cơ sở thoả mãn các điều kiện vay vốn của NH. Khi thực hiện nghiệp vụ cho vay, NH có thể kiểm soát trực tiếp và thường xuyên mục đích sử dụng tiền vay. Đối với các NH truyền thống, cho vay là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu và được thực hiện thông qua các hình thức phổ biến như chiết khấu thương phiếu, cho vay ứng trước, tín dụng uỷ thác thu hay bao thanh toán, tín dụng bằng chữ ký. . .
Nghiệp vụ cho vay được thực hiện thông qua các hình thức phổ biến sau:
Chiết khấu thương phiếu.
Cho vay ứng trước.
Cho vay vượt chi.
Tín dụng uỷ thác hay thu bao thanh toán.
Cho vay thuê mua.
Tín dụng bằng chữ ký gồm tín dụng chấp nhận và tín dụng bảo lãnh.
Tín dụng tiêu dùng.
Nghiệp vụ đầu tư: đầu tư vào chứng khoán là hình thức phổ biến trong nghiệp vụ tài sản Có của các NHTM và các tổ chức tín dụng. NH có thể đầu tư vào trái khoán Chính phủ hoặc trái khoán công ty để thu lợi tức đầu tư, do đó mang lại thu nhập cho NH, bảo tồn ngân quỹ. Đồng thời nó còn làm đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của NH nhằm phân tán rủi ro và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NH.
Những tài sản Có khác là những vốn hiện vật như nhà làm việc, máy tính và những trang thiết bị khác do NH sở hữu.
Ngoài ra NH sử dụng các nghiệp vụ bổ trợ cho nghiệp vụ kinh doanh chính như kinh doanh vàng bạc, thanh toán chuyển tiền cho khách hàng, thực hiện các bảo lãnh, tư vấn đầu tư, các nghiệp vụ đại lý, các dịch vụ bảo quản. . .
IV. Vai trò của NHTM
Vai trò của NHTM nói riêng và của các NHTG nói chung được thể hiện trong việc vận dụng các chức năng của nó và cụ thể hoá trong các hoạt động của NH. Khái quát lại, có thể nêu lên hai vai trò lớn của NHTM sau:
Là công cụ quan trọng thúc đẩy sự phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá.
Với chức năng trung gian tín dụng, thông qua các nghiệp vụ huy động vốn, cho vay và đầu tư NHđã huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, cho vay đối với các ngành, các thành phần kinh tế. Nó trở thành chất dầu “bôi trơn” cho bộ máy kinh tế hoạt động thông qua việc di chuyển nguồn lực của xã hội từ nơi chưa sử dụng, còn tiềm tàng vào quá trình sử dụng phục vụ cho sản xuất kinh doanh nâng cao mức sống xã hội.
Bên cạnh đó, với chức năng trung gian thanh toán, NH đã thực hiện các dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế từ đó thúc đẩy nhanh quá trình luân chuyển hàng hoá, luân chuyển vốn trong xã hội, tiết kiệm chi phí thanh toán cho từng cá nhân, doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời NH cùng giám sát được các hoạt động kinh tế góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, tạo ra sự ổn định trong đời sống kinh tế xã hội.
Ngày nay, có thể nói mọi quan hệ kinh tế đến thực hiện thông qua quan hệ tiền tệ và chủ yếu là thông qua hoạt động của hệ thống NH bên cạnh các tổ chức tài chính phi NH.
NHTLM và các NHTG khác là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của NHTW
Với các chức năng của mình, NHTM là một trong các chủ thể tham gia vào quá trình cung ứng tiền, tạo ra một khối lượng phương tiện thanh toán rất lớn trong nền kinh tế.
Để thực hiện chính sách tiền tệ, NHTW phải sử dụng các công cụ để điều tiết lượng tiền trong lưu thông, nhằm đạt được các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô, đặc biệt là mục tiêu ổn định tiền tệ. Phần lớn các công cụ của chính sách tiền tệ chỉ được thực thi có hiệu quả với sự hợp tác tích cực và có
hiệu quả của các NHTM, các NHTG khác như việc chấp hành quy định dự trữ bắt buộc, quy chế thanh toán không dùng tiền mặt và việc nâng cao hiệu quả cho vay và đầu tư.
Tóm lại, cùng với sự tăng trưởng kinh tế NHTM càng có một vị trí và vai trò quan trọng hơn trong việc thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn trong nền kinh tế góp phần ổn định tiền tệ cũng như ổn định và phát triển nền kinh tế của quốc gia.
Phần II: thực trạng của hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM việt nam hiện nay
I. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống NHTM Việt nam.
Trước năm 1945 nước ta phải đứng trước tình trạng bị các đế quốc, thực dân đô hộ. Đặc biệt là khi thực dân Pháp xâm lược thì trên lãnh thổ Việt nam đã xuất hiện hệ thống NH đầu tiên bao gồm NH Đông Dương với tư cách là NH phát hành tiền lúc bấy giờ là giấy bạc Đông Dương và một số NH tư nhân của người nước ngoài để hoạt động kinh doanh thương mại.
Sau khi cách mạng tháng 8/1945 thành công Nhà nước Việt nam dân chủ cộng hoà ra đời thì hệ thống NH mới từng bước xây dựng và trưởng thành. 6/5/1951 Ngân hàng Quốc gia Việt nam ra đời. Từ 1951 đến năm 1987 hệ thống NH ở Việt nam vẫn là hệ thống NH 1 cấp, NHNN vừa đóng vai trò là NHTW vừa đóng vai trò là NHTG. Hoạt động của NH được tiến hành trên cơ sở kế hoạch tập trung bằng Pháp lệnh từ khâu phát hành, tín dụng cho đến cung ứng tiền mặt hay nói cách khác NHNN có hai chức năng vừa là người phát hành, vừa là người kinh doanh tiền tệ cho nên không thể quản lý được lượng tiền cung ứng . Do đó mà làm tăng hơn nữa tỷ lệ lạm phát cao trong những năm thập kỷ 80, nhất là năm 1986 khi đó mức lạm phát lên tới xấp xỉ 700%.
Ngày 26 tháng 3 năm 1988 theo quyết định của Hội đồng bộ trưởng(HĐBT), hệ thống NH được tổ chức lại thành hai cấp với mục tiêu là tăng cường chức năng quản lý vĩ mô về tiền tệ của NHNN, chức năng kinh doanh tiền tệ của các NHTM.
Cho đến 5/1990 với việc ban hành 2 Pháp lệnh về NH - đánh dấu bước chuyển đổi căn bản và toàn diện hoạt động NH ở Việt nam. Hệ thống NH 2 cấp chính thức ra đời: NHNN là NHTW thực hiện chức năng độc quyền phát hành tiền, quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng, thanh toán ngoại hối và NH; các NH chuyên doanh thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ trực tiếp với nền kinh tế. Cho đến hiện nay, ngành NH đã trở thành một hệ thống với nhiều loại hình tổ chức tín dụng(TCTD), đa dạng về hình thức sở hữu với mạng lưới trải khắp các tỉnh, thành phố từ thành thị đến nông thôn. Đó là 6 NHTM quốc doanh, 47 NHTM cổ phần, 4 NH liên doanh, 31 chi nhánh của 26 NHTM nước ngoài và hàng trăm quỹ tín dụng nhân dân.
NHTM quốc doanh được thành lập băng 100% vốn của Ngân sách Nhà nước và giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh doanh tiền tệ nước ta, NHTM cổ phần được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần.
Nhìn chung NHTM với tư cách là một doanh nghiệp chuyên kinh doanh tiền tệ hoạt động trên cơ sở “đi vay” để “ cho vay” thông qua nghiệp vụ tín dụng của mình nhằm đẩy nhanh quá trình sản xuất và lưu thông tiền tệ. Do đó các NHTM ra đời là một tất yếu khách quan và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế nước ta hiện nay đó là nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
II. Hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM Việt nam.
Tình hình kinh tế nước ta trong những năm vừa qua.
Trong thời kỳ nền kinh tế nước ta thực hiện chính sách kinh tế đóng thì tình trạng trì trệ, kém phát triển của một cơ chế quan liêu bao cấp đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế của đất nước.
Cho đến 1987 nước ta xoá bỏ bao cấp, thực hiện nền kinh tế mở, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển mình đáng kể. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá- tiền tệ theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta đạt được những chỉ số quan trọng. Đó là đỉnh cao tăng trưởng năm 1995 là 9,5%, năm 1996 là 9,34%, năm 1997 là 8,8%. Tuy nhiên trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng nền kinh tế nước ta giảm hẳn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đầu tháng 7/1997 tại Thái lan năm 1998 là 5,8%, năm 1999 là 4,8%, năm 2000 là 6,75% và năm 2001 là 6,8%. Với những biến đổi của nền kinh tế hệ thống NH nước ta cũng có nhiều biến đổi đặc biệt là hoạt động tín dụng của các TCTD kinh doanh tiền tệ trong đó vai trò chính là các NHTM. Với những chính sách lãi suất huy động và cho vay phù hợp kết hợp với những chuyển biến lớn trong các dịch vụ ngân hàng nhằm thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, đồng thời ổn định tiền tệ, hạn chế lạm phát. Tuy nhiên nền kinh tế Thế giới cũng có những ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế Việt nam. Tính đến năm 2001 tổng đầu tư toàn xã hội năm 2001 = 30% GDP tăng gần 16,8% so với năm 2000, vốn đầu tư nước ngoài chiếm 20% tổng số và tăng 4,2% so với năm 2000.
Hiện nay, Nhà nước ta đang có những cải tiến đáng kể trong việc tạo ra môi trường pháp lý ổn định cho hoạt động NH nói riêng và nền kinh tế nói chung nhằm phát triển kinh tế đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
2. Hoạt động tín dụng của các NHTM Việt nam trong thời gian qua.
Hệ thống các NHTM Việt nam ra đời khi thời kỳ Pháp lệnh 5/1990. Sau hơn 10 năm xây dựng và trưởng thành cùng với tăng trưởng của hoạt động dịch vụ ngân hàng, hệ thống các NHTM từng bước đã được kiện toàn lành mạnh. Đó là 6 NHTM quốc doanh với 100% vốn sở hữu Nhà nước, 47 NHTM cổ phần trong đó NHTM quốc doanh chiếm thị phần hơn cả. Về vốn huy động NHTM quốc doanh chiếm tới 75%, NHTM cổ phần chiếm gần 10%, chi nhánh NH nước ngoài và liên doanh chiếm khoảng trên 11%. Về đầu tư vốn cho vay vốn NHTM quốc doanh chiếm gần 80%, NHTM cổ phần chiếm gần 9%, chi nhánh NH nước ngoài và liên doanh chiếm khoảng 10%. Qua thực trạng trên cho thấy hệ thống NHTM nói chung và NHTM quốc doanh nói riêng cùng với việc mở rộng hoạt động tín dụng từ thành thị đến nông thôn, đối với các thành phần kinh tế, nâng cao chất lượng sản phẩm tín dụng, phương tiện thanh toán hay các dịch vụ NH khác, nhiều NH có dư nợ hàng năm cao đã, đang và sẽ góp phần không nhỏ vào việc huy động vốn để phát triển kinh tế đất nước.
Hơn nữa, nước ta đang trên con đường hướng tới CNH – HĐH đất nước. Để đưa đất nước hoà nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới thì vấn đề nguồn vốn là vấn đề được đặt ra cấp bách đặc biệt ở nước ta thị trường chứng khoán chưa phát triển mạnh, do đó vị trí của NHTM trong nền kinh tế với chức năng và vai trò vô cùng quan trọng trong việc huy động vốn và sử dụng vốn như thế nào có hiệu quả, phát huy tốt vai trò “ là kênh dẫn vốn” từ người thừa vốn đến người thiếu vốn. Trong tất cả các nghiệp vụ của các NHTM thì nghiệp vụ tín dụng giữ vai trò quan trọng nhất. Đây chính là một trong những cơ sở để đánh giá sự phát triển của một NHTM. Việc huy động vốn và sử dụng vốn của các NHTM này thông qua những cơ chế thích hợp nhằm tạo ra sự cân đối cho nền kinh tế. Bên cạnh những thành tựu đạt được của hệ thống NHTM Việt nam còn tồn tại những hạn chế cần khắc phục. Thông qua thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM Việt nam phần nào thấy được những thành tựu và những hạn chế trên các mặt huy động vốn và sử dụng vốn.
Huy động vốn.
Huy động vốn là nghiệp vụ quan trọng của các NHTM, thông qua nghiệp vụ này mà các NHTM có thể phát huy được tác dụng của lượng vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế với tư cách là TGTD. Việc huy động vốn của các NHTM Việt nam cũng như hệ thống các NHTM nói chung đó là việc nhận tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng kể cả việc đi vay mượn từ nước ngoài, các TCTD khác.
Thực tế việc huy động vốn thông qua hệ thống NHTM ở nước ta trong những năm qua đang ngày càng được mở rộng, số tiền gửi vào ngân hàng cao hơn các tổ chức tư nhân làm cho lòng tin của người có tiền gửi vào ngân hàng được tăng lên.Từ đó ngân hàng đã giải quyết tương đối tốt vốn đầu tư cho nền kinh tế nước ta. Sau khi hệ thống ngân hàng được tách làm 2 cấp thì chức năng kinh doanh tiền tệ của NHTM Việt nam được thể hiện rõ nét hơn. Cụ thể là: tổng nguồn vốn huy động của các NHTM năm 1993 đạt hơn 15.000 tỷ đồng, tăng 8% so với năm 1992 trong đó nguồn vốn huy động kỳ phiếu tăng 281% = 688 tỷ. Số dư tiết kiệm và kỳ phiếu đạt 3.918 tỷ đồng chiếm 26% tổng nguồn huy động. Tiền gửi ngoại tệ chiếm khoảng 47% tổng nguồn huy động.
Đến năm 1998 là một năm đầy khó khăn đối với nước ta. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 đã nhanh chóng lan ra và ảnh hưởng sâu sắc đến diện mạo của nền kinh tế, thiên tai lại liên tiếp xảy ra đe doạ nền sản xuất và cuộc sống của hơn 76 triệu dân nước ta. Song có thể thấy NHNN đã cố gắng bằng mọi biện pháp đồng bộ thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt trên cơ sở thực hiện đúng như tinh thần của luật NHNN và luật các TCTD vừa mới ban hành. Kết quả là cơ cấu tổng phương tiện thanh toán có sự thay đổi tích cực.Tỷ trọng tiền gửi tại các NHTM tăng cao trong đó tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn đang ở mức 41% năm 1997 đã tăng lên mức 50,6% năm 1998. Mặc dù lãi suất tiền gửi và lãi suất huy động vốn liên tục giảm xuống tới mức rất thấp trong năm 1999( lãi suất không kỳ hạn là 0,1 đến 0,15%/ tháng, tiền gửi 3 tháng là 0,3%/tháng, tiền gửi 6 tháng là 0,4 đến 0,45%/tháng. . . Tuy vậy nguồn vốn huy động vào các NHTM vẫn tăng nhanh, tổng nguồn vốn huy động đến 9/1999 tăng 19% trong đó vốn huy động bằng ngoại tệ tăng 17,5%, vốn huy động bằng nội tệ tăng 23,5% so với năm 1998. Năm 2000 tổng số dư nguồn vốn huy động tăng gấp 1.250 lần so 1986, gấp 21 lần so năm1990.
Cho đến năm 2001 thì tốc độ huy động vốn giảm, tính đến cuối năm 2001 huy động vốn đạt 24,43%( năm 2000 là 33,2%) đặc biệt tốc độ tăng huy động bằng ngoại tệ là do tác dụng của diễn biến lãi suất ngoại tệ trên thị trường liên tục giảm trong năm 2001.
Có thể thấy tiền gửi tại NHTM( nghìn tỷ VND) qua bảng sau:
Năm
1999
2000
2000
2000
2000
2001
2001
2001
Tháng
12
3
6
9
12
3
6
8
1.Tiền gửi của khối DN
- Bằng VND
37,8
41,8
45,5
49,7
59,4
58,0
59,8
62,3
- Bằng ngoại tệ
21,2
23,1
24,3
25,3
25,2
30,1
32,8
35,1
Trong đó tiền gửi ngoại tệ thanh toán
12,2
13,9
12,8
12,6
13,5
14,0
13,2
12,5
2. Tiền gửi của khối dân cư
- Bằng VND
26,6
30,6
30,9
31,2
29,9
35,6
35,9
35,1
- Bằng ngoại tệ
22,6
27,0
29,1
33,6
45,1
17,8
51,5
54,6
Trong đó tiền gửi ngoại tệ thanh toán
0,6
0,7
0,7
0,8
3,3
1,4
1,3
2,1
Nguồn IMF-Vietnm
Có thể thấy rằng từ sau khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nền kinh tế Việt nam tăng trưởng chậm lại, cầu về tín dụng giảm sút, Chính phủ Việt nam đã thực hiện giảm lãi suất để kích cầu, trong khi đó các NHTM phải giảm lãi suất VND để gi._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35292.doc