Tài liệu Đánh giá tác động của dồn điền đổi thửa đến phát triển kinh tế hộ nông dân tại thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh: ... Ebook Đánh giá tác động của dồn điền đổi thửa đến phát triển kinh tế hộ nông dân tại thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh
116 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3399 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Đánh giá tác động của dồn điền đổi thửa đến phát triển kinh tế hộ nông dân tại thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o
trêng ®¹I häc n«ng nghiÖp hµ néi
¶
luËn v¨n
tèt nghiÖp ®¹i häc
§Ò tµi:
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA DỒN ĐIỀN ĐỔI THỬA ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN TẠI THỊ TRẤN NGHÈN, HUYỆN CAN LỘC, TỈNH HÀ TĨNH
Sinh viªn thùc hiÖn : ng« viÖt ph¬ng
Líp : KT A - K50
Khoa : Kinh tÕ vµ Ph¸t triÓn n«ng th«n
Gi¸o viªn híng dÉn : ThS. NguyÔn thÞ tuyÕt lan
Hµ Néi - 2009
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCHTW : Ban chấp hành trung ương
CCRĐ : Cải cách ruộng đất
CHXHCN : Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
CN – TTCN : Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp
CNH – HĐH : Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
CT/TU : Chỉ thị/Tỉnh uỷ
CSVN : Cộng sản Việt nam
DĐĐT : Dồn điền đổi thửa
DVNN : Dịch vụ nông nghiệp
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long
GCNQSDĐ : Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
GĐLH : Gặt đập liên hợp
GTSX : Giá trị sản xuất
HĐND : Hội đồng nhân dân
HTX : Hợp tác xã
KHKT : Khoa học kỹ thuật
KH&CN : Khoa học và Công nghệ
LĐTB – XH : Lao động thương binh – Xã hội
NN – LN – TS : Nông nghiệp – Lâm nghiệp - Thuỷ sản
NQ/CP : Nghị quyết chính phủ
NQ/TW : Nghị quyết/Trung ương
UBND : Uỷ ban nhân dân
TMDV : Thương mại dịch vụ
TNBQ : Thu nhập bình quân
TT – TCĐC : Thông tư - Tổng cục Địa chính
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Mức độ manh mún ruộng đất ở các vùng trong cả nước 18
Bảng 2: Thống kê tình hình giao đất cho các đối tượng trong cả nước. 24
Bảng 3: Thống kê tình hình cấp GCNQSD cho các loại đất 24
Bảng 4: Mức độ % hoàn thành diện tích cần cấp GCNQSDĐ theo số tỉnh 25
Bảng 5: Tình hình dân số và lao động của thị trấn Nghèn qua 3 năm 36
Bảng 6: Tình hình sử dụng đất đai của Thị trấn Nghèn qua 3 năm 39
Bảng 7: Một số kết quả phát triển kinh tế xã hội của Thị trấn Nghèn qua 3 năm 43
Bảng 8: Tổng hợp diện tích và thửa đất phân theo hộ năm 2002. 49
Bảng 9: Tổng hợp số thửa của các HTX theo các mức diện tích thửa ruộng năm 2002. 50
Bảng 10: So sánh một số tiêu chí trước và sau dồn điền đổi thửa tại Thị trấn 57
Bảng 11: So sánh số thửa theo các mức diện tích thửa ruộng trước và sau dồn điền đổi thửa tại Thị trấn 59
Bảng 12: Một số thông tin cơ bản về các nhóm hộ điều tra. 62
Bảng 13: Tình hình ruộng đất ở các nhóm hộ 64
Bảng 14: So sánh tình hình trao đổi ruộng đất giữa các nhóm hộ 67
Bảng 15: So sánh tình hình đầu tư cho sản xuất trước và sau dồn điền đổi thửa ở các hộ. 68
Bảng 16: So sánh cơ cấu lao động các hộ trước và sau dồn điền đổi thửa 71
Bảng 17: Cơ cấu diện tích nuôi trồng của các nhóm hộ 73
Bảng 18: Công thức luân canh 3 vụ chủ yếu mà các hộ đang áp dụng 74
Bảng 19: So sánh kết quả sản xuất nông nghiệp trước và sau chuyển đổi 76
(ĐVT: Triệu đồng) 76
Bảng 20: So sánh năng suất của một số giống lúa chính trước và sau dồn điền đổi thửa ở các hộ 78
Bảng 21: Kết quả sản xuất sau khi dồn điền đổi thửa của mô hình ông Bùi Văn Thao (HTX Bắc Sơn) 79
Bảng 22: So sánh thu nhập của các hộ trước và sau dồn điền đổi thửa 80
Bảng 23: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các hộ trước và sau dồn điền đổi thửa 83
Bảng 24: Tích luỹ tài sản ở các nhóm hộ điều tra 83
Bảng 25: So sánh chi phí sản xuất trên 1 sào lúa trước và sau dồn điền đổi thửa 86
Bảng 26: Ý kiến đánh giá của người dân về dồn điền đổi thửa 90
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Với việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp và sản xuất hàng hóa là nhu cầu tất yếu khách quan. Chủ trương phát triển sản xuất hàng hóa trong kinh tế nông nghiệp được Đảng ta đặt ra như một bước đi tất yếu để giải quyết vấn đề tam nông. Một trong nhưng biện pháp quan trọng nhất để phát triển sản xuất hàng hóa nông nghiệp là giải pháp tập trung ruộng đất để tổ chức sản xuất ở quy mô lớn hơn. Chìa khóa pháp lý để thực hiện giải pháp này là việc Nhà nước trao cho hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê, cho thuê lại, góp vốn liên doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất đối với đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và đất ở. Đây chính là nội dung đổi mới chủ yếu trong đổi mới chính sách pháp luật đất đai đã được cụ thể hóa trong Luật Đất đai năm 1993 và Luật Đất đai năm 2003. Dựa vào cơ sở pháp lý này, Nhà nước khuyến khích khu vực nông thôn thực hiện phong trào “dồn điền, đổi thửa” để khắc phục tình trang manh mún do quá trình giao đất trước đây, có điều kiện quy hoạch lại đồng ruộng, sử dụng được các dịch vụ công nghiệp, giao thông, điện, thủy lợi, phân bón, thuốc trừ sâu bệnh, v.v. và áp dụng được các tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp. Từng người nông dân, hộ gia đình nông dân hay một nhóm hộ gia đình có năng lực làm nông nghiệp có thể tập trung ruộng đất hình thành các trang trại để có một địa bàn hoạt động rộng hơn, đa dạng hơn và công nghiệp hơn.
Ngày 30/7/1994, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã ra Nghị quyết số 07-NQ/TW về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, trong đó xác định nhiệm vụ trọng tâm là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Tiếp theo, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ra Nghị quyết số 15 NQ-TW ngày 18/3/2002 về công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông thôn giai đoạn 2001-2010. Vấn đề "dồn điền, đổi thửa được đặt ra như một động lực mới cho phát triển sản xuất hàng hóa trong kinh tế nông nghiệp. Chính phủ đã quyết định các chính sách khuyến khích "dồn điền, đổi thửa" trong các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và việc ban hành Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/0g2/2000 về kinh tế trang trại.
Ý thức được đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt có ý nghĩa quyết định trong sản xuất nông nghiệp, cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, Huyện Can Lộc đã tiến hành điều chỉnh, sắp xếp lại đất sản xuất nông nghiệp. Trước năm 2002, riêng ở Can Lộc bình quân mỗi hộ vẫn còn sản xuất gần 8 thửa, cá biệt có hộ vẫn còn tới 15 thửa ruộng. Tình hình đó đã ảnh hưởng không tốt đến việc đầu tư thâm canh, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, cản trở đưa máy móc vào đồng ruộng và phân công lao động nông nghiệp. Đường giao thông nội đồng, hệ thống kênh mương thủy lợi xuống cấp, đất đai bị rửa trôi xói mòn… ruộng đất manh mún không thể sản xuất hàng hóa nông sản có thương hiệu cạnh tranh, nông dân chỉ làm đủ ăn, thu nhập thấp, đời sống bấp bênh và không thể có cơ hội làm giàu trên đồng đất của mình.
Với vị trí một huyện trọng điểm lúa của tỉnh, năm 2002 Can Lộc đã tập trung lãnh đạo chuyển đổi ruộng đất thành công ở 14 xã và chỉ đạo các xã còn lại hoàn thành trong năm 2003, nhằm tạo điều kiện chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp trong các năm tiếp theo. Đây là một chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân được đại đa số nhân dân đồng tình ủng hộ. Quán triệt chủ trương của Đảng về nội dung chủ yếu của CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn là chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Thị trấn Nghèn là thủ phủ của huyện Can Lộc song sản xuất nông nghiệp vẫn là chủ yếu. Trong những năm qua dồn điền đổi thửa đã có những tác động tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng suất hiệu quả cây trồng, vật nuôi, tích cực góp phần phát triển kinh tế của các hộ nông dân trong vùng. Tuy nhiên, quá trình dồn điền đổi thửa vẫn còn tồn tại những bất cập đã gây ra những cản trở không nhỏ cho quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế của các nông hộ. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá tác động của dồn điền đổi thửa đến phát triển kinh tế hộ nông dân tại thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu đánh giá tác động của dồn điền đổi thửa đến phát triển kinh tế hộ nông dân, phát hiện các vấn đề thực tiễn nảy sinh từ đó đề xuất khuyến nghị nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, phát triển kinh tế hộ nông dân tại thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về tích tụ và tập trung ruộng đất.
- Phản ánh tình hình dồn điền đổi thửa và đánh giá tác động của dồn điền đổi thửa đến phát triển kinh tế của các nông hộ tại thị trấn Nghèn.
- Đề xuất một số khuyến nghị nâng cao hiệu quả của việc dồn điền đổi thửa trong phát triển kinh tế hộ nông dân tại thị trấn Nghèn.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến dồn điền đổi thửa.
- Nghiên cứu tác động của việc dồn điền đổi thửa tới phát triển kinh tế hộ nông dân tại thị trấn Nghèn.
1.4 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian:
+ Đề tài thu thập:
* Tài liệu thứ cấp năm 2002 và trong khoảng thời gian từ năm 2006 đến năm 2008.
* Tài liệu sơ cấp năm 2002 và 2008.
Nhằm phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu của đề tài, chúng tôi lấy mốc trước dồn điền đổi thửa là năm 2002 và sau dồn điền đổi thửa là năm 2008.
- Phạm vi không gian:
Nghiên cứu tiến hành trên địa bàn thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm
* Tích tụ và tập trung ruộng đất
Quá trình làm cho qui mô tư bản tăng lên được thực hiện bằng hai phương thức là tích tụ tư bản và tập trung tư bản. Hai phương thức này có liên quan chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện và thúc đẩy nhau. Tích tụ tư bản là làm cho qui mô tư bản tăng lên nhờ có tích lũy tư bản cá biệt. Tích tụ ruộng đất là yếu tố quan trọng nhất của quá trình tích tụ tư bản để mở rộng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh nhờ lợi thế kinh tế theo qui mô (economics of scale). Còn tập trung tư bản là hợp nhất một số tư bản cá biệt đã có thành một tư bản lớn hơn, thông qua việc các nhà tư bản thôn tính nhau hay liên doanh, liên kết với nhau.Tích tụ và tập trung ruộng đất là việc sát nhập ruộng đất của các chủ sở hữu nhỏ cá biệt để tạo qui mô lớn hơn thông qua tước đoạt, chuyển nhượng mua bán ruộng đất; hoặc hợp nhất ruộng đất của các chủ sở hữu nhỏ cá biệt thành một chủ sở hữu cá biệt khác lớn hơn (thông qua xây dựng các HTX nông nghiệp ở nước ta trước đây). Như vậy, tích tụ và tập trung ruộng đất là việc làm tăng qui mô diện tích của thửa đất và chủ thể sử dụng đất thông qua các hoạt động như: chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê mượn, cầm cố, thế chấp, thừa kế…
* Kinh tế hộ nông dân
Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt động nông nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm cả nghề rừng, nghề cá và các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn. Cho đến nay có nhiều quan điểm về kinh tế hộ nông dân nhưng đều có một số thống nhất theo định nghĩa sau: “nông dân là các nông hộ, thu hoạch các phương tiện sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia đình trong sản xuất, nằm trong hệ thống kinh tế rộng hơn nhưng về cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia một phần trong thị trường hoạt động với một trình độ không hoàn chỉnh cao” ( Ellis – 1988 ). [1]
Hộ nông dân là một xí nghiệp nông nghiệp, là đơn vị sản xuất có qui mô nhỏ nhưng hiệu quả.
Kinh tế nông hộ là một đơn vị kinh tế cơ sở, trong đó nông dân và gia đình anh ta là chủ. [2]
Khái niệm hộ nông dân được thể hiện đầy đủ thông qua các đặc trưng của hộ nông dân nói chung. Dù ở đâu nông dân cũng gắn với đất đai và nền sản xuất tự cung tự cấp, với việc sử dụng lao động và tiền vốn gia đình là chủ yếu. Mục đích sản xuất của họ trước hết là phục vụ cho tiêu dùng, sau đó mới là sản xuất hàng hóa. Vì vậy hộ nông dân là một đơn vị kinh tế nhưng vừa là một đơn vị sản xuất lại vừa là một đơn vị tiêu dùng.
* Phát triển kinh tế hộ nông dân
Là sự thay đổi theo hướng tích cực hơn về các điều kiện sản xuất của hộ, về kết quả sản xuất, làm tăng lên về thu nhập, cải thiện mức sống của hộ nông dân.
2.1.2 Tác động của tích tụ và tập trung ruộng đất đến sản xuất của nông hộ
Tích tụ và tập trung ruộng đất sẽ phát huy đuợc tính tự chủ của hộ trong việc ra quyết định sản xuất nông nghiệp. Thể hiện qua sự tăng qui mô sản xuất, lao động, vật tư, vốn, áp dụng các tiến bộ KHKT để làm tăng giá trị sử dụng đất, thâm canh tăng vụ để nâng cao hệ số sử dụng đất, nâng cao hiệu quả trong sử dụng đất, tăng năng suất…Khi được sản xuất trên thửa ruộng lớn hơn đồng nghĩa với việc các nông hộ có khả năng bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu thời vụ, mạnh dạn ứng dụng thành tựu KHKT mới vào đồng ruộng, tăng mức độ liên kết hợp tác trong sản xuất, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng khả năng cung cấp cho thị trường nhiều hàng hóa nông sản hơn. Hộ nông dân sẽ có điều kiện đầu tư cơ giới hóa trong các khâu sản xuất, giải phóng sức lao động, bố trí cơ cấu lao động sản xuất nông nghiệp hợp lý hơn, giảm được tỷ lệ lao động nông nghiệp thuần túy, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế của nông hộ, mang lại đời sống no ấm hơn cho người nông dân.
2.1.3 Tính tất yếu của tích tụ và tập trung ruộng đất
a/ Xu hướng tích tụ và tập trung ruộng đất trong nền kinh tế thị trường
Theo quy luật chung của sự phát triển sản xuất sẽ diễn ra quá trình tích tụ , tập trung và quá trình hợp tác, liên kết trong quá trình sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản. Quá trình tích tụ, tập trung và xã hội hóa trong sản xuất nông nghiệp tất yếu sẽ diễn ra; về nguyên tắc quá trình đó diễn ra theo 2 hướng:
- Tập thể hóa ruộng đất và tư liệu sản xuất
Theo hướng này toàn bộ ruộng đất và tư liệu sản xuất thuộc sở hữu tập thể
Mô hình này phổ biến trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung ở các nước Xã hội Chủ nghĩa trong giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 (5.1945) đến cuối thập niên 80 của thế kỷ 20; điển hình là các nông trang tập thể ở Liên Xô và các nước Đông Âu, Trung Quốc, Triều Tiên.
Ở Việt Nam trong giai đoạn 1960-1985 quá trình tập thể hóa đã diễn ra trên quy mô lớn ở Miền Bắc với các hình thức HTX nông nghiệp từ cấp thấp đến cấp cao; HTX nông nghiệp từ quy mô thôn, đến quy mô toàn xã. Công cuộc HTH nông nghiệp đã đóng góp phần thực hiện thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dụng XHCN ở miền Bắc và giải phóng miền Nam thực hiện thống nhất đất nước;
- Từng bước tích tụ và tập trung ruộng đất gắn với phân công lại lao động trong nông thôn, nông nghiệp trên cơ sở phát triển kinh tế hộ gia đình
Phát triển kinh tế hộ gia đình theo hướng gắn người lao động với tư liệu sản xuất, với đất đai, với sản phẩm cuối cùng là cây con; hợp tác các lĩnh vực, các khâu, các công đoạn, các lĩnh vực không gắn trực tiếp với quá trình sinh học ( làm đất, thủy lợi, bảo vệ thực vật, chế biến, tiêu thụ sản phẩm) với sự hỗ trợ của nhà nước về vốn, cơ sở hạ tầng và khoa học công nghệ.
Mô hình này đã được phát triển ở các nước Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc từ sau chiến tranh thế giới thứ 2
Ở Việt Nam trong quá trình Đổi mới từ 1986 đến nay; đặc biệt từ khi có Nghị Quyết 10 Bộ Chính trị (Khóa 6) , Hiến Pháp 1992, Luật Đất đai 1993 kinh tế hộ gia đình cá nhân, kinh tế trang trại được khuyến khích phát triển với việc thực hiện chủ trương Nhà nước giao đất sản xuất ổn định cho hộ gia đình cá nhân và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
b/ Nhu cầu tích tụ ruộng đất để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá quy mô lớn
Sau hơn 20 mươi năm đổi mới, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế Việt Nam nói chung và nông nghiệp nói riêng đã hội nhập sâu, rộng với kinh tế thế giới. Sự hội nhập đã tạo ra nhiều cơ hội mới để phát triển, song cũng nẩy sinh nhiều thách thức mới cần phải giải quyết để tồn tại và phát triển như vấn đề kỹ thuật, tổ chức sản xuất, hàng rào thuế quan …như:
- Không thể chấp nhận một nền nông nghiệp sản xuất manh mún trong khi cả nước tiến hành xây dựng nền kinh tế thị trường
- Không thể xây dựng thương hiệu nông sản quốc gia nếu mỗi tỉnh, mỗi hộ nông dân tiếp tục tự cấp tự túc trên mảnh đất nhỏ bé của mình
- Nhưng cũng không thể không thấy quá trình phân hóa giàu nghèo đang diễn ra gay gắt ở nông thôn mà một nhóm nông dân đang phải gánh chịu.
- Nếu trước đây, khi chia lại ruộng để khoán hộ, nông dân đòi hỏi phải có tốt-có xấu, có xa-có gần, có thấp-có cao, thì ngày nay tư tưởng manh mún, nhỏ hẹp ấy đã phải nhường cho một ước nguyện mới mang tính thời đại-cần những diện tích rộng lớn, liền vùng, liền khoảnh để sản xuất hàng hoá.
- Ruộng đất 1 hộ không chỉ đơn giản dồn từ trên chục mảnh vào vài ba mảnh, mà chỉ còn 1 đến 2 mảnh..
Bình quân mỗi hộ chỉ 0,7 - 0,8 ha, có tới 7 - 8 thửa, mỗi lao động 0,3ha và mỗi nhân khẩu 0,15 ha, Ở Đồng bằng Bắc Bộ chỉ có 360m2/khẩu. Nếu cứ để ruộng đất như hiện nay thì không bao giờ có sản xuất hàng hoá, mà không có vùng sản xuất hàng hoá thì không bao giờ có tiêu thụ theo hợp đồng.
Ruộng đất được tích tụ, tập trung sẽ khuyến khích nông dân, các nhà đầu tư áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Một khi các nhà đầu tư nông nghiệp có thể tích tụ, tập trung ruộng đất ở quy mô thích hợp, đóng góp của họ sẽ không chỉ làm thay đổi cung cách sản xuất manh mún mà còn tạo ra những đổi mới thật sự ở nông thôn.
c/ Tích tụ và tập trung để tạo dựng thị trường quyền sử dụng đất (QSDĐ) nông thôn, nông nghiệp
Hiện cả nước có trên 11 triệu hộ nông dân, với gần 70 triệu nhân khẩu, đang chiếm giữ 12,68 triệu ha đất nông nghiệp, chiếm 57,88 % diện tích đất nông nghiệp cả nước; 57,49 % tổng quỹ đất đã giao cho các đối tượng sử dụng. Việc cấp giấy chứng nhận (GCN) đối với đất sản xuất nông nghiệp đã hoàn thành cơ bản (13,99 triệu GCN, với 7,59 triệu ha, đạt 83.8%).
Với các điều kiện trên, thị trường QSDĐ trong khu vực nông thôn, nông nghiệp là một thị trường tiềm năng. Tuy nhiên, thị trường QSDĐ trong khu vực nông thôn và nông nghiệp vẫn chưa phát triển.
Theo một kết quả điều tra, nghiên cứu về thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp, nông thôn: các hộ gia đình cá nhân có xu hướng giữ đất để sản xuất, bình quân số hộ chuyển nhượng QSDĐ và thuê QSDĐ chỉ chiếm 1 - 2%. Việc thế chấp QSDĐ khá phổ biến, đặc biệt ở các vùng kinh tế phát triển như Đông Nam Bộ và ĐBSCL. Việc thế chấp QSDĐ chủ yếu để đầu tư sản xuất nông nghiệp và các nhu cầu bức xúc của đời sống.
2.1.4 Quan điểm tích tụ và tập trung ruộng đất
a/ Tích tụ, tập trung ruộng đất để phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao, xây dựng nông thôn hiện đại bền vững. Tích tụ, tập trung ruộng đất là tất yếu của phát triển nông nghiệp hàng hoá theo cơ chế thị trường, quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất phải phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội, giúp nông dân tiếp cận được ruộng đất để nâng cao đời sống.
b/ Quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất phải gắn với việc chuyển dịch một phần lớn lao động nông nghiệp sang làm công nghiệp dịch vụ tại nông thôn và cả ở đô thị.
Hiện tại, nông dân - đối tượng đông nhất trong xã hội - lại ít được đào tạo nghề nên tỷ lệ thất nghiệp ở mức báo động, có trên 83% lao động ở nông thôn chưa qua đào tạo bất kỳ chuyên môn gì (con số từ Bộ LĐTB-XH), trong khi tỷ lệ này ở thành thị là 49%. 20% lao động ở nông thôn thất nghiệp, tương đương khoảng 4,8 triệu người, cộng thêm hàng triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động mỗi năm.
c/ Chính sách tích tụ, tập trung ruộng đất là vì nông dân, cho nông dân, Khuyến khích nông dân tích tụ, tập trung ruộng đất để phát triển sản xuất nông nghiệp, nghiêm cấm việc đầu cơ ruộng đất, sử dụng ruộng đất kém hiệu quả.
d/ Tốc độ và quy mô tích tụ, tập trung ruộng đất phải được tính toán theo vùng miền và phù hợp với tốc dộ và quy mô việc rút lao động ra khỏi nông nghiệp để tránh tình trạng một bộ phận nông dân không còn đất sản xuất, nhưng vẫn chưa có việc làm mới để đảm bảo cuộc sống. Tiến trình này không giống nhau tại các địa phương, do đó quá trình tích tụ, tập trung đất đai cũng mang đặc trưng từng vùng miền.
e/ Tích tụ, tập trung ruộng đất với mục tiêu là phát triển nông nghiệp, phát triển xã hội và đời sống người dân nông thôn. Do đó bên cạnh chính sách khuyến khích để nông dân trở thành chủ thể chính quá trình tích tụ, tập trung, đồng thời giúp họ sở hữu tư liệu sản xuất, giúp họ sản xuất được những hàng hóa đủ sức cạnh tranh, giúp họ liên kết để tập trung sản xuất...
2.1.5 Dồn điền đổi thửa
2.1.5.1 Khái niệm dồn điền đổi thửa
Bản chất của quá trình này là dồn ghép các ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn, sắp xếp qui hoạch lại ruộng đất, khắc phục tình trạng manh mún, phân tán ruộng đất, tổ chức thiết kế lại đồng ruộng. hệ thống thủy lợi, giao thông nội đồng; nâng cao hệ số sử dụng đất; đẩy nhanh chuyển dịch sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa; phát triển kinh tế hộ và trang trại, củng cố quan hệ sản xuất, thực hiện CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn. [3]
2.1.5.2 Ý nghĩa, tầm quan trọng của dồn điền đổi thửa đối với phát triển kinh tế nông hộ
Tập trung ruộng đất là ước nguyện của những người nông dân mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm, mong muốn làm giàu trên đồng đất quê hương.
- Dồn điền đổi thửa tạo ra những thửa đất lớn hơn, các hộ dân có điều kiện áp dụng cơ giới hoá trong sản xuất, tăng năng suất lao động, giảm thời gian lao động, giảm công lao động, giảm những hao phí không cần thiết khi ruộng đất manh mún, phân tán trên nhiều xứ đồng.. Từ đó khuyến khích, tạo điều kiện thúc đẩy phân công lao động trong hộ hợp lý, tạo điều kiện dịch chuyển lao động trong hộ từ sản xuất nông nghiệp thuần tuý sang hoạt động trong các lĩnh vực phi nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao.
- Dồn điền đổi thửa tao điều kiện thuận lợi cho hộ sản xuất với quy mô lớn, xây dựng nhiều mô hình sản xuất theo hướng hàng hoá, phấn đấu thực hiện cánh đồng 50 triệu, tăng thu nhập ổn định từ sản xuất nông nghiệp.
- Tạo điều kiện giúp hộ nông dân yên tâm sản xuất, giúp hộ chủ động, yên tâm sản xuất, đầu tư thâm canh tăng năng suất; sản xuất kết hợp những cây trồng, vật nuôi có hiệu quả, phù hợp với điều kiện nhân lực, vật lực của hộ cũng như điều kiện tại địa phương.
- Ruộng đất tập trung giúp hộ giảm được công lao động ở một số khâu chủ yếu, đặc biệt là những lúc chính vụ như thu hoạch, gieo trồng…Từ đó các hộ có điều kiện tập trung lao động sản xuất ở những lĩnh vực khác, cũng như giúp hộ có cơ cấu thu nhập đa dạng từ nhiều nguồnhơn, giảm tối đa rủi ro gặp phải trong sản xuất khi điều kiện sản xuất nông nghiệp bất lợi dẫn tới mất mùa, năng suất thấp.
- Ruộng đất lớn tạo điều kiện cho các hộ có khát vọng nghiên cứu, tiếp cận những giống cây trồng vật nuôi có năng suất, chất lượng cao hơn; các hộ có điều kiện áp dụng những tiến bộ KHKT mới vào trong sản xuất, tiết kiệm chi phí sản xuất đồng thời nâng cao thu nhập cho hộ.
2.1.5.3 Trình tự các bước dồn điền đổi thửa
Bước 1: Tổ chức quán triệt chủ trương ''Dồn điền đổi thửa''
a/ Chuẩn bị văn bản
Các địa phương cần căn cứ vào các văn bản của Nhà nước, các Nghị quyết của Đảng để xây dựng các Chỉ thị, Nghị quyết, Quyết định, Kế hoạch triển khai của địa phương mình.
b/ Tổ chức các Hội nghị quán triệt
Hội nghị quán triệt chủ trương dồn điền đổi thửa được tổ chức ở tỉnh, huyện và xã với thành phần Bí thư, Chủ tịch HĐNĐ, UBND các cấp, thủ trưởng các cơ quan, đoàn thể có liên quan.
Riêng cấp xã phải tổ chức Hội nghị quán triệt từ cấp uỷ Đảng cho đến đảng viên, thành viên HĐND, UBND, Mặt trận, các đoàn thể, cán bộ HTX, đội sản xuất, cán bộ thôn. Các xã phải có kế hoạch cụ thể để tổ chức quán triệt kỹ trong nhân dân để tạo sự đồng tình cao trong nội bộ thôn xóm. Phải coi đây là một cuộc vận động chính trị, tư tưởng sâu sắc, rộng khắp trong toàn Đảng, toàn dân, không được xem nhẹ công tác này.
Bước 2: Thành lập Ban chỉ đạo các cấp
Ban chỉ đạo thuộc cấp nào thì do cấp đó quyết định; tùy tình hình cụ thể từng huyện, từng xã mà quyết định số lượng thành viên tham gia Ban chỉ đạo. Các thành viên trong Ban chỉ đạo phải được phân công nhiệm vụ cụ thể. Ban chỉ đạo có trách nhiệm giúp UBND cùng cấp tổ chức thực hiện việc dồn điền đổi thửa; trực tiếp chỉ đạo, kiểm tra đôn đốc Ban chỉ đạo cấp dưới hướng dẫn nông dân chuyển đổi ruộng đất
Giúp việc cho ban chỉ đạo ở các cấp là Tổ công tác gồm cán bộ từ các ngành có thành viên tham gia Ban chỉ đạo; riêng cấp xã được hợp đồng một số lao động từ 5 đến 7 người tùy theo khối lượng công việc.
Bước 3: Chỉ đạo xây dựng phương án dồn điền đổi thửa và hướng dẫn nghiệp vụ
a/ Điều tra khảo sát hiện trạng, tình hình quản lý và sử dụng đất đai
- Tiến hành điều tra, thống kê chi tiết thực trạng quản lý và sử dụng đất trên cơ sở đó lập quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch giao thông thủy lợi nội đồng, quy hoạch sản xuất và lựa chọn phương án thực hiện cho phù hợp.
- Bản đồ hoặc sơ đồ ruộng đất theo hiện trạng, diện tích, danh sách các hộ có ruộng phải được niêm yết công khai tại từng thôn.
b/ Xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, nhất là kế hoạch sản xuất cây,con
Xây dựng quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch giao thông, thủy lợi, quy hoạch sản xuất để làm cơ sở cho việc xây dựng phương án chuyển đổi ruộng đất.
c/ Tổ chức cho nông dân tự đăng ký chuyển đổi ruộng đất cho nhau
Phát động cho các hộ nông dân tự đăng ký chuyển đổi ruộng đất cho nhau theo quy hoạch của địa phương (trước hết trong anh em, dòng họ), số thửa/hộ, diện tích một thửa (theo mức quy định trong phương án của địa phương)
Với loại ruộng trũng, điều kiện sản xuất có nhiều khó khăn ưu tiên cho các hộ nhận gọn 1 thửa, một vùng và cho làm thủ tục chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo quy hoạch nếu số người đăng ký nhận ruộng có tổng diện tích tương ứng với loại đất này; sau đó tập hợp tại và thể hiện trên bản đồ (sơ đồ) diện tích đã đăng ký tự chuyển đổi để dân biết thực hiện.
d/ Xây dựng phương án chuyển đổi ruộng đất :
- Trên cơ sở hiện trạng ruộng đất và các quy hoạch về giao thông, thủy lợi nội đồng, quy hoạch sản xuất xây dựng phương án chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn chung cho toàn xã, hợp tác xã (những nơi có hợp tác xã); dự kiến quy tập đất công ích (đất 5%), xây dựng hệ số quy đổi cho từng loại đất, phân hạng đất, số thửa cho 1 hộ, diện tích bình quân cho một thửa.
- Xây dựng phương án chi tiết đến hộ nông dân ở từng thôn.
Lưu ý khi xây dựng phương án chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn theo cách “rút bù diện tích” không nên phân đất thành nhiều loại, hạng đất trong 1 thôn mà nên căn cứ vào năng suất sản lượng để hình thành từ 2 đến 4 nhóm đất chính để khi dồn ghép giao đất cho hộ nông dân để thu nhỏ số thửa đất.
- Tổ chức lấy ý kiến phương án chuyển đổi ruộng đất sau khi xây dựng thông qua hội nghị đại biểu nông dân, để tu sửa hoàn chỉnh cho đến khi đạt được sự thống nhất theo quy chế dân chủ ở cơ sở thì trình UBNĐ huyện phê duyệt.
e/ Tổ chức cho hộ nông dân đăng ký chuyển đổi ruộng đất cho nhau
Tổ chức cho các hộ nhận ruộng đất trên phương án và trên hồ sơ sổ sách: có thể áp dụng hình thức đăng ký hoặc bốc thăm nhận ruộng; cho phép các hộ chọn ghép theo dòng họ hoặc theo thuận lơi tiện canh tiện cư để đăng ký hoặc bốc thăm nhận ruộng. Lưu ý dù tổ chức đăng ký hoặc bốc thăm thì cũng phải tiến hành theo thứ tự: đăng ký hoặc bốc thăm ruộng xấu trước, ruộng tốt sau.
f/ Tổ chức dồn điền đổi thửa gắn với huy động lao động công ích để kiến thiết lại giao thông nội đồng và bờ vùng bờ thửa
Bước 4: Chỉ đạo, tổ chức hướng dẫn giao ruộng ngoài thực địa
Tổ công tác giúp việc Ban chỉ đạo xã cùng hộ sử dụng đất tiến hành đo đạc cắm mốc giao ruộng theo mã bốc thăm ngoài thực địa. Lập biên bản giao đất ngoài thực địa và phiếu trích đo thửa đất để làm cơ sở hoàn thiện hồ sơ địa chính và cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Bước 5: Hoàn chỉnh hồ sơ địa chính và cấp lại giấy chứng nhận quyển sử dụng đất
Sau khi hoàn thành bàn giao đất ngoài thực địa, Ban chỉ đạo xã có trách nhiệm giúp UBND xã hoàn chỉnh, giao nạp về UBND huyện (qua Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) các loại tài liệu đã lập trong quá trình chuyển đổi ruộng đất. Ban chỉ đạo căn cứ vào phiếu nhận ruộng, biên bản nhận ruộng của từng hộ để chỉnh sửa, thiết lập hồ sơ đia chính theo Thông tư số 1990/2001/TT – TCĐC ngày 30/11/2001 của Tổng cục Địa chính (nay là Bộ Tài nguyên & Môi trường) về hướng dẫn đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ.
2.1.5.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực hiện dồn điền đổi thửa
Hiện nay vướng mắc lớn gây ảnh hưởng tiến độ DĐĐT là sự vào cuộc của các cấp chính quyền, đặc biệt là chính quyền ở cơ sở chưa thật sự tích cực. Bên cạnh đó, sự đồng thuận, hợp tác của một số hộ sản xuất nông nghiệp chưa cao. Việc thành lập lại hoặc củng cố Ban chỉ đạo DĐĐT, việc ban hành chỉ thị, nghị quyết, kế hoạch tiếp tục thực hiện DĐĐT gắn với chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên địa bàn các xã, thị trấn chậm được triển khai, hoặc có triển khai nhưng quá trình kiểm tra, đôn đốc không thường xuyên nên hiệu quả thấp. Một số địa phương, trình độ, năng lực, tinh thần trách nhiệm của cán bộ xã, HTX nông nghiệp, thôn, đội sản xuất còn hạn chế nên lúng túng, chậm trễ trong quá trình thực hiện chủ trương DĐĐT. Đặc biệt, công tác quản lý đất đai ở cơ sở thời gian qua còn buông lỏng, khi thực hiện DĐĐT phải quy chủ, xác định đúng diện tích ruộng đất nên tốn nhiều công sức và nảy sinh khó khăn, phức tạp. Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ, nhân dân chưa nhận thức đúng về chính sách giao ruộng ổn định lâu dài cho hộ sản xuất, do đó còn băn khoăn không muốn dồn ruộng, dẫn đến quá trình DĐĐT bị ách tắc.
Mặt khác thực tế ruộng đất của từng địa phương cũng như ruộng ở các vùng, các xứ đồng trong cùng một địa phương có điều kiện khác nhau nhiều cũng là cản trở không nhỏ để thực hiện dồn điền đổi thửa được thuận lợi. Một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp nữa là thiếu vốn cho thực hiện dồn điền đổi thửa. Thực tế hiện nay là nhiều khi địa phương cũng muốn thực hiện dồn điền đổi thửa nhanh tạo điều kiện phát triển sản xuất nhưng do thiếu kinh phí trong đo đạc, dụng cụ, cấp giấy chứng nhận QSD đất…nên tiến độ dồn điền đổi thửa bị chậm.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Tình hình nghiên cứu ở thế giới
Việc dồn điền đổi thửa được tiến hành lần đầu tiên trên thế giới tại châu Âu vào thời Trung cổ.
1/ Tập trung ruộng đất ở Trung Quốc
Từ thời phong kiến đến nay, quyền sở hữu ruộng đất luôn là yếu tố trung tâm trong mối quan hệ giữa chính quyền và nông dân Trung Quốc. Hiến pháp Trung Quốc quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý; nông dân chỉ có “quyền sử dụng” đất nông nghiệp theo hợp đồng 30 năm. Quyền sử dụng đất thuộc sở hữu tập thể, nông dân không được chuyển nhượng hoặc cho thuê vào mục đích phi nông nghiệp. Điều đó có nghĩa là chính quyền địa phương có thể thu hồi đất vào bất cứ lúc nào. Công nghiệp hóa và đô thị hóa trong 30 năm qua đã làm cho hàng chục triệu nông dân bị mất đất canh tác. Những cuộc biểu tình phản đối của nông dân bị mất đất là nguyên nhân chính gây bất ổn xã hội ở Trung Quốc hiện nay.
Một thực tế là ruộng đất ở Trung Quốc rất manh mún, mỗi nông._. hộ sử dụng một khoảnh đất nhỏ, bình quân 0,67 héc ta/hộ gia đình. Những nông dân ra thành phố kiếm việc làm - đã lên tới 200 triệu người trong những năm vừa qua - phải nhờ người thân canh tác những khoảnh ruộng đó hoặc bỏ ruộng hoang mà không thể bán đi được. Vì chưa trả đất canh tác lại cho nhà nước, những công nhân nhập cư này vẫn bị coi là nông dân và chỉ có thể làm những công việc đơn giản, có mức lương thấp. Trong khi đó, ở thành phố, cư dân đô thị từ lâu đã được phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất không hạn chế và rất nhiều người giàu lên rất nhanh cùng với sự sôi động của thị trường đất đô thị. Mặt khác, chính quyền địa phương thường xuyên có những quyết định ảnh hưởng xấu người nông dân.
Quá trình cải cách nông nghiệp chia 2 giai đoạn, giai đoạn một từ năm 1978 - 1984 và giai đoạn hai từ 1985 - 1990 sau đó đề ra phương hướng phát triển nông nghiệp nông thôn cho thập kỷ 90. Cách thực hiện cải cách nông nghiệp của nước này trong những năm qua là khoán ruộng đất cho các hộ nông dân theo nguyên tắc: Thứ nhất, tôn trọng nguyện vọng của quần chúng nhân dân, không được áp đặt. Hai là, phải đảm bảo theo nguyên tắc số lượng và giá trị ngang bằng (nghĩa là những thửa ruộng có cùng cấp độ hoặc đã được cải tạo nâng độ màu mỡ thì khi điều chỉnh phải qui đổi theo hệ số để đền bù về mặt kinh tế). Chỉ thị số 18 năm 1990 của Trung quốc quy định “ổn định quan hệ ruộng đất nhận khoán không có nghĩa là không cho phép có sự điều chỉnh về mảnh ruộng và số lượng ruộng khoán, những thửa ruộng quá phân tán, không thuận tiện cho việc canh tác thì có thể căn cứ nguyện vọng quần chúng mà điều chỉnh”.
Theo xu hướng cạnh tranh của nền kinh tế thị trường đặc biệt là trong nông nghiệp, Trung quốc đang tiến hành chủ trương dồn điền đổi thửa. Nước này dự kiến sẽ tăng thêm được 1,7 triệu ha đất trồng trọt tính tới năm 2020 thông qua việc dồn điền đổi thửa hiện nay. Công tác tăng cường hiệu quả cho nông nghiệp đang được chính phủ Trung Quốc quan tâm chặt chẽ trong thời gian gần đây, do một diện tích đất rất lớn đã bị đô thị hoá, chuyển đổi mục đích sử dụng trong những năm công nghiệp hoá.
Hiện nay Trung quốc tiếp tục chuẩn bị ra dự thảo cải cách ruộng đất theo hướng tự do hóa thị trường và hạn điền sử dụng đất canh tác cho nông dân từ 30 năm hiện nay lên 70 năm như với đất ở. Điều này sẽ tạo động lực mới cho công cuộc tích tụ ruộng đất phát huy hiệu quả cao.
2/ Tập trung ruộng đất ở Đài Loan
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng đối với nông nghiệp, có ảnh hưởng lớn đến tăng năng suất lao động nông nghiệp. Chính sách ruộng đất hợp lý sẽ khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tự nhiên này, nhất là ở những nước mà nông nghiệp còn chiếm vị trí chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân. Ở Đài Loan, đầu tiên Chính phủ thực hiện chính sách giảm tô để giảm bớt gánh nặng cho nông dân, sau đó đưa ra chính sách "hạn điền" quy định số lượng ruộng đất được phép tư hữu đối với các chủ đất. Số ruộng đất vượt mức hạn điền được Chính phủ định giá và tạo điều kiện về tín dụng cho nông dân mua trả góp trong thời hạn dài. Chính sách giao đất cho nông dân còn được áp dụng đối với cả đất thuộc sở hữu nhà nước. Vì vậy, người sản xuất nông nghiệp gắn bó với ruộng đất, yên tâm đầu tư, chủ động áp dụng khoa học – công nghệ nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Khi nông nghiệp phát triển, ruộng đất hạn hẹp đã cản trở nông dân kinh doanh lớn, Chính phủ Đài Loan đã đưa ra chủ trương khuyến khích nông dân "chung nhau kinh doanh", "uỷ thác kinh doanh"; "thay mặt kinh doanh" .v.v để tập trung ruộng đất đạt tới quy mô cần thiết của nông nghiệp hàng hoá, khai thác có hiệu quả hơn nguồn tài nguyên đất đai hạn hẹp, thúc đẩy tăng cường nông nghiệp với tốc độ khoảng 4%/năm trong suốt thời gian từ 1952 – 1981.
3/ Tập trung ruộng đất phát triển trang trại ở Hà Lan
Cơ sở của nền nông nghiệp Hà Lan là các trang trại gia đình theo chế độ tư hữu. Tỷ lệ sở hữu đất có tương đối lớn, các trang trại thuê đất sản xuất kinh doanh chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Nhưng do quỹ đất nhỏ, bình quân đất theo đầu người ít, việc mở rộng quy mô trang trại không dễ, biện pháp khả thi vẫn nhờ một phần vào đất thuê.
Hà Lan là nước có nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh, đảm bảo các chủ trang trại có toàn quyền quyết định hoạt động sản xuất và quyền định đoạt tài nguyên của mình, khuyến khích chủ trang trại hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận tối đa. Thoạt đầu là kinh tế tiểu nông, sản xuất tự cấp, tự túc, hiệu suất rất thấp, kinh tế hàng hóa phát triển, vốn được tích lũy, kinh tế hộ tiểu nông chuyển dần sang hộ sản xuất hàng hóa nhỏ, tiếp đó chuyển sang hộ sản xuất chuyên môn hóa, rồi dần dần chuyển thành trang trại lớn hiện đại, sản xuất vì lợi nhuận, tạo nên kinh tế tổng hợp “nông – công – thương”. Ngày nay, nền tảng của sức cạnh tranh quốc tế của nông nghiệp Hà Lan là những tổ hợp nông – công – thương, trong đó tế bào cấu thành những tổ hợp này chính là những trang trại gia đình tràn đầy sức sống.
Các trang trại được tích tụ ruộng đất để có quy mô đủ lớn, gắn liền với quá trình tạo việc làm phi nông nghiệp, đủ sức thu hút nông dân “ly nông”, giảm thiểu nhanh số lượng nông dân và giải thể các trang trại nhỏ, làm ăn kém hiệu quả.
Việc mở rộng quy mô trang trại dựa vào 2 chính sách của nhà nước. Một là, chính sách mua và thuê đất (ở Hà Lan có 2 loại hình sở hữu đất, đất tư hữu được múa bán, đất công hữu do nhà nước đầu tư quai đê lấn biển thì cho thuê thời gian dài). Hai là, chính sách khuyến khích trang trại làm ăn kém được giải thể.
Sự phát triển của nền kinh tế Hà Lan thúc đẩy chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp đã làm cho số lượng trang trại bớt dần. Năm 1950, cả nước Hà Lan có 400.000 trang trại, đến năm 1980 còn 14.500, năm 1990 còn 12.500, năm 2000 chỉ còn khoảng 100.000. Số lao động nông nghiệp từ 1959 đến 1980, giảm được một nửa, từ đó đã giảm nhanh số lượng nông dân và lực lượng nông dân làm nông nghiệp không hiệu quả đều rời khỏi nông nghiệp, lọc lại trong nông nghiệp là lực lượng nông dân làm ăn giỏi, đam mê với nghề nông, ham muốn lập nghiệp, làm giàu từ nghề nông. Đây là một nguyên nhân quan trọng đảm bảo hiệu quả sản xuất và năng lực cạnh tranh của nông nghiệp Hà Lan hơn hẳn nhiều nước khác trên thế giới.
2.2.2 Tình hình dồn điền đổi thửa ở nước ta
2.2.2.1 Tình trạng ruộng đất manh mún ở Việt Nam
Nghị quyết 10-TW ngày 5/4/1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp (gọi tắt là “Khoán 10”) đã giúp Việt Nam từ nước nhập khẩu lương thực trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới. Tuy nhiên, đến nay “Khoán 10” đã bộc lộ những hạn chế nhất định khi đất nước bước vào công cuộc CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn. Khảo sát mới đây của Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp cho thấy 100% số hộ nông dân cho rằng ruộng đất manh mún đã gây cản trở cho sản xuất.
Luật đất đai năm 1993 và được sửa đổi bổ sung năm 2003 đã thực hiện công bằng xã hội, sau đó là Nghị định 64/CP của Chính phủ ngày 27/09/1993 và gần đây là về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài với mục đích sản xuất nông nghiệp theo phương châm có tốt, có xấu, có gần, có xa. Điều này đã làm cho số thửa ruộng tăng lên đáng kể. Số thửa sau khi giao đất theo Nghị định 64/CP ở một số địa phương đã tăng lên hơn 2 lần so với khi thực hiện khoán theo Chỉ thị 100/CT-TW
Chủ trương dồn điền, đổi thửa được xem là nhu cầu cấp bách để phát triển nông nghiệp, nông thôn trong tình hình mới. Theo thống kê của Cục Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn, năm 2003, cả nước có 75 triệu thửa đất, bình quân mỗi hộ có 6,8 thửa với khoảng 0,3-0,5 ha/hộ, trong đó đất lúa từ 200 m2 đến 400 m2/thửa, đất rau màu dưới 100 m2/thửa, đất trồng cây lâu năm, cây cho thu nhập cao còn manh mún hơn…Điều này đã hạn chế đáng kể công cuộc CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn; sản xuất hàng hóa tập trung.
Bảng 1: Mức độ manh mún ruộng đất ở các vùng trong cả nước
TT
Vùng
Tổng thửa/hộ
Diện tích BQ (m2)/thửa
TB
Cá biệt
Đất lúa
Đất rau
1
Trung du miền núi
10 – 20
25
150 - 300
100 – 150
2
Đồng bằng sông Hồng
7
25
300 - 400
100 – 150
3
Duyên hải Bắc trung bộ
7 – 10
30
300 - 500
200 – 300
4
Duyên hải Nam trung bộ
5 – 10
30
300 - 1000
200 – 1000
5
Tây nguyên
5
25
200 - 500
1000 – 5000
6
Đông nam bộ
4
15
1000 – 3000
1000 – 5000
7
Đồng bằng sông Cửu long
3
10
3000 - 5000
500 – 1000
(Nguồn Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2003)[5]
2.2.2.2 Một số khó khăn chính trong sản xuất nông nghiệp do ruộng đất manh mún
* Trước hết là khó khăn cho việc tổ chức sản xuất, làm giảm hiệu quả sản xuất và cản trở quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá sản xuất, cụ thể:
- Về hiệu quả trực tiếp: Chi phí sản xuất lớn, năng suất lao động thấp do phải tốn công đi lại giữa các thửa ruộng trên nhiều xứ đồng.
- Về thủy lơi: Việc điều tiết nước khó khăn do thời vụ giữa các thửa ruộng trong cùng một xứ đồng có nhiều trà. Hệ thống kênh mương và đường giao thông trên đồng ruộng xuống cấp do tình trạng đào đắp để phục vụ tưới tiêu.
- Về áp dụng khoa học kỹ thuật: Không kích thích người nông dân mạnh dạn đầu tư mua sắm máy móc phục vụ sản xuất. Nông dân là nhóm sản xuất dễ bị tổn thương, họ không chấp nhận rủi ro cao. Khi áp dung tiến bộ KHKT phải thấy rõ lợi ích kinh tế cao trước mắt thì họ mới chấp nhận.
* Khó khăn trong cơ giới hoá sản xuất
Qui mô thửa ruộng quá manh mún và không bằng phẳng trong sản xuất đã hạn chế khả năng đưa máy móc vào đồng ruộng, giải phóng sức lao động cho người nông dân trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất từ khâu làm đất, gieo trồng cho đến thu hoạch. Theo thống kê mới nhất của ngành nông nghiệp, cả vùng ĐBSCL mới có khoảng 1.000 máy GĐLH, 3.400 máy gặt xếp dãy, chỉ đảm bảo thu hoạch được 15% diện tích lúa của vùng; 85% diện tích còn lại phải chịu thất thoát sau thu hoạch với tỷ lệ từ 10-12%. Diện tích từng hộ quá nhỏ hẹp là một trở ngại lớn cho vấn đề cơ giới hóa. Hầu hết nông hộ chỉ có dưới 1 ha lúa, trong lúc năng suất của máy GĐLH là 3 - 5 ha/ngày, rất khó xoay trở từ mảnh ruộng này sang mảnh ruộng khác.
* Giảm diện tích đất canh tác nông nghiệp do diện tích đất dành cho đắp bờ ngăn giữa các thửa ruộng của các hộ quá nhiều.
Theo như một số cuộc điều tra đã tiến hành trước đây thì diện tích bờ ngăn trước khi thực hiện chuyển đổi ruộng đất thường chiếm tới 2 – 4% tổng diện tích sản xuất nông nghiệp ở các địa phương. Đây thực sự là một sự lãng phí không cần thiết, làm giảm sản lượng không đáng có.
* Chi phí cho đo đạc và đăng ký lập hồ sơ địa chính tăng lên nhiều lấn do phải đo đạc lập bảng tỷ lệ lớn hoặc trích đo bổ sung nhiều, chi phí lao động và vật tư, biểu mẫu cho công tác đăng ký đất đai cũng tăng thêm. Một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai gồm nhiều thửa đất làm trở ngại cho người sử dụng khi thực hiện các quyền theo quy định của pháp luật.
* Sản xuất nông nghiệp thiếu qui mô, thiếu qui hoạch, không kích thích sản xuất hàng hoá
2.2.2.3 Nguyên nhân của tình trạng manh mún, phân tán ruộng đất trong sản xuất nông nghiệp
* Chủ trương chính sách của Nhà nước về giao đất nông nghiệp trên cơ sở hiện trạng đảm bảo ổn định, công bằng trong nông thôn
Thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khóa VI và việc điều chỉnh lại theo Nghị định 64/CP, các địa phương đã tiến hành chia đều ruộng đất ở các HTX cho các hộ nông dân. Khi chuyển từ cơ chế khoán sang hình thức giao đất ổn định lâu dài, khắc phục manh mún ruộng đất bằng cách “rũ ra chia lại” đã tạo nên tranh chấp đất đai trong dân. Nghị định 64/CP của Chính phủ đã chủ trương thực hiện giao đất cho nông dân sử dụng lâu dài trên cơ sở hiện trạng đang sử dụng, hộ nào cũng có ruộng “tốt - xấu - xa - gần”, vận động tạo điều kiện cho các hộ chuyển đổi ruộng đất. Tuy nhiên khi thực hiện thì lại không đạt hiệu quả cao, không kích thích được người nông dân dồn đổi ruộng cho nhau; ruộng đất của các hộ sản xuất manh mun, phân tán cả về diện tích cũng như về số thửa.
* Công tác qui hoạch sử dụng đất chậm triển khai
Tình trạng nhiều diện tích đất nông nghiệp trong dự kiến chuyển mục đích phải dành lại để đấu thầu, diện tích đã giao rồi nhưng khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lại bị cắt bớt lại để qui hoạch hay đất công ích sử dụng tuy tiện…là hậu quả của việc thiếu qui hoạch sử dụng đất chi tiết ở các cấp, đặc biệt là ở các cấp địa phương do phải triển khai hoàn thành gấp rút chủ trương, kế hoạch thực hiện giao đất nông nghiệp của các cấp quản lý.
* Kinh phí thực hiện chuyển đổi đất nông nghiệp là rất lớn
Khi tiến hành thực hiện giao đất nông nghiệp cho hộ nông dân, vấn đề lớn mà nước ta đang gặp phải đó là kinh phi để thực hiện đo đạc, chi phí đồ dùng sử dụng trong qui hoạch, chi phí thiết kế, chi phí bản đồ…Theo thống kê trung bình mỗi héc ta mất từ 4-11 triệu đồng kinh phí đo đạc, không ít địa phương đã phải bán một phần đất công ích lấy kinh phí. Theo Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, tổng kinh phí chuyển đổi riêng tại đồng bằng sông Hồng mất khoảng hơn 100 tỷ đồng.
* Tư tưởng và trình độ hạn chế của người nông dân
Trong quá trình giao ruộng đất vẫn chưa có hệ thống phân chia hạng đất một cách công bằng. Trong khi sản xuất nông nghiệp lại không đồng nhất giữa các vùng đất, người dân tiến hành dồn đổi trên cơ sở ruộng tốt xấu theo hạng mức về năng suất, sản lượng, mức độ dễ dàng trong các khâu canh tác. Người dân ai cũng muốn lấy ruộng tốt, ruộng gần nên dẫn tới không thống nhất trong quyết định dồn đổi. Họ không mấy tin tưởng dồn đổi sẽ được thửa ruộng tốt hơn hiện tại. Do đó họ đòi hỏi hộ nào cũng phải có ruộng tốt, ruộng xấu, ruộng xa, ruộng gần. Mặt khác, tâm lý của người nông dân là muốn phân tán ruộng đất để giảm thiểu nguy cơ mất trắng do thiên tai, dịch hại. Cũng do khả năng trình độ KHKT kém, không được tiếp cận nhiều với tiến bộ kỹ thuật mới, không có vốn hoặc không mạnh dạn đầu tư nên người nông dân Việt Nam vẫn chưa có cái nhìn đúng đắn về hiệu quả của công tác dồn điền đổi thửa.
2.2.2.4 Một số chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước liên quan đến tập trung và tích tụ ruộng đất
a. Chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay
* Thời kỳ kháng chiến 1945 – 1954
Tháng 1/1948 Hội nghị lần thứ 2 BCHTW Đảng đã đề ra các chính sách ruộng đất trong thời kỳ kháng chiến, đã đề ra các định hướng cơ bản của việc tịch thu ruộng đất của địa chủ để chia cho dân nghèo.
Tháng 2/1949 Chính phủ ra sắc lệnh tạm cấp ruộng đất của Việt gian và chia ruộng đất của của thực dân Pháp cho dân cày nghèo.
Tháng 3/ 1952 Chính phủ đã ban hành điều lệ tạm thời về sử dụng đất công điền, công thổ. Đến thời điểm này số ruộng đất công ở 3.035 xã ở miền Bắc đã chia cho nông dân là 184.871 ha, chiếm 77% diện tích đất công điền, công thổ ở các địa phương .
Tháng 11/1953 Hội nghị lần thứ Năm BCHTW Đảng khóa II đã thông qua cương lĩnh ruộng đất
Tháng 12/1953 Quốc hội đã thông qua Luật Cải cách ruộng đất
* Thời kỳ khôi phục kinh tế 1955 – 1957 ở miền Bắc
Tháng 9/1954 Bộ Chính trị ra quyết định thực hiện hoàn thành CCRĐ và Kế hoạch 3 năm khôi phục kinh tế (1955-1957)
Tháng 5/1955 Quốc Hội ban hành 8 chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp
Khi chiến tranh kết thúc, 140.000 ha ruộng đất bị bỏ hoang hóa; 200.000 ha không có nước tưới. Sau 3 năm phục hồi kinh tế, 85% diện tích ruộng đất bỏ hoang đã được phục hóa; 3 công trình đại thuỷ nông ( sông Cầu, Bái Thượng, Đô Lương), được khôi phục, 14 công trình trung thủy nông được xây dựng, hệ thống đê sông Hồng, sông cầu, sông Đáy được gia cố. Sản xuất nông nghiệp phục hồi ( Sản lượng lương thực đạt 3.947.000 tấn ( so với 2.400.000 tấn năm 1939), đời sống nhân dân được cải thiện.
* Thời kỳ hợp tác hoá 1958 – 1960
Tháng 8/1955 Hội nghị lần thứ 8 BCHTW Đảng khóa II đã thông qua chủ trương xây dựng thí điểm hợp tác xã sản xuất nông nghiệp
Tháng 11/1958 Hội nghị lần thứ 14 BCHTW Đảng khóa II đã đề ra kế hoạch 3 năm cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế miền Bắc (1958-1960): Hợp tác hóa nông nghiệp là khâu chính trong toàn bộ dây chuyền cải tạo XHCN ở miền Bắc nước ta. Kết quả đến cuối năm 1960 toàn miền Bắc đã căn bản hoàn thành xây dựng HTX với 41.400 HTX, thu hút 2,4 triệu hộ nông dân với 85,8 % số hộ và 76% diện tích ruộng đất tập thể. Đồng thời với xây dựng HTX, trong 2 năm 1957, 1958 Nhà nước đã thành lập 6 tập đoàn sản xuất nông nghiệp, đến cuối năm 1959 đã thành lập 48 nông trường quốc doanh..
* Thời kỳ hợp tác hoá - tập thể hoá 1961 – 1985
Quá trình hợp tác hóa nông nghiệp đã diễn ra nhanh chóng, với sự tập trung cao độ ruộng đất và các tư liệu sản xuất, lao động; từ hợp tác xã bậc thấp chuyển lên hợp tác xã bậc cao, ruộng đất đã được tập thể hóa triệt để,. Chế độ sở hữu tập thể về ruộng đất đã được thiết lập.
Cuối năm 1974, đầu năm 1975 chủ trương xây dựng cấp huyện và tổ chức lại sản xuất nông nghiệp được được triển khai mạnh mẽ. Mô hình tập thể hóa nông nghiệp đã đạt đến đỉnh cao, hoàn chỉnh, phân công lao động trong HTX nông nghiệp theo hướng chuyên môn hóa. Vào năm 1975 cả nước có 17.000 HTX, bình quân 1 HTX có tích đất canh tác là 115 ha, , 199 hộ và 337 lao động trong độ tuổi.
Đại Hội Đảng CSVN lần thứ IV (12/1976) khẳng định: “Tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng tập trung, xóa bỏ kiểu tổ chức sản xuất và ăn chia theo đội. Thực hiện việc quản lý, sử dụng ruộng đất tập trung, thống nhất trên quy mô HTX. Các HTX phân phối lại ruộng đất cho các đội trên nguyên tắc tiện canh tiện cư với quy mô lớn, tránh phân tán, chia xẻ ruộng đất manh mún”.
- Ngày 13/1/1980 Ban Bí thư TW Đảng đã ban hành Chỉ thị số 100 về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong HTX nông nghiệp.
- Ngày 18/1/1984 Ban Bí thư TW Đảng đã ban hành Chỉ thị 35 “về khuyến khích phát triển kinh tế gia đình”; “Về đất cho phép các hộ gia đình nông dân tận dụng mọi nguồn đất đai mà HTX, nông lâm trường chưa sử dụng hết để đưa vào sản xuất”.
Với các chính sách trên, trong giai đoạn từ 1981-1985 sản xuất nông nghiệp đã có bước phát triển: Giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp tăng 6%, thu nhập quốc dân trong nông nghiệp tăng 5,6%, sản lượng lương thực tăng 27%, năng suất lúa tăng 23,8%; diện tích cây công nghiệp tăng 62,1%, đàn bò tăng 33,2%, đàn lợn tăng 22,1%
b. Thời kỳ đổi mới từ 1986 - nay
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
Về sản xuất nông nghiệp, Ngày 5 tháng 4 năm 1988, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 10 về “Đổi mới quản lý nông nghiệp” đã chỉ rõ: "Tiếp tục hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và hộ xã viên, đến người lao động... phải điều chỉnh diện tích giao khoán, khắc phục tình trạng phân chia ruộng đất manh mún, bảo đảm cho người nhận khoán canh tác trên diện tích cũ quy mô thích hợp và ổn định trong khoảng 15 năm"
Đổi mới cơ chế quản lý đất đai
Thể chế hoá chủ trương, chính sách đất đai của Đảng, Hiến Pháp CHXHCN Việt Nam năm 1992, đã quy định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân ( Điều 17); Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật (Điều 18).
Luật đất đai 1987, 1993, 1998, 2001, 2003 đã cụ thể hoá các quy định về đất đai của Hiến pháp. Luật Đất đai đã quy định các nguyên tắc quản lý và sử dụng đất đai: đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch, pháp luật, sử dụng đất đai hợp lý hiệu quả và tiết kiệm, bảo vệ cải tạo bồi dưỡng đất, bảo vệ môi trường để phát triển bền vững; Các quyền của người sử dụng đất: được cấp GCNQSDD, được hưởng thành quả lao động và kết quả đầu tư trên đất được giao, được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất, được góp vốn bằng quyền sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh; Nghĩa vụ của người sử dụng đất: sử dụng đúng mục đích, bảo vệ đất, bảo vệ môi trường, nộp thuế, lệ phí, tiền sử dụng đất, bồi thường khi được nhà nước giao đất, trả lại đất khi nhà nước có quyết định thu hồi. Bộ luật dân sự cũng quy định cụ thể các quan hệ dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất...
Tình hình giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp
* Quỹ đất Nhà nước đã giao cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đến năm 2007
Tình hình giao đất cho các đối tượng sử dụng và quản lý trong cả nước được thể hiện ở bảng 2.
Bảng 2: Thống kê tình hình giao đất cho các đối tượng trong cả nước.
Tiêu chí
DT
(triệu ha)
CC (%)
DT NN
(triệu ha)
CC (%)
DT phi NN (triệu ha)
CC (%)
Tổng DT tự nhiên
33,12
Nhà nước giao cho quản lý
9,15
Nhà nước giao sử dụng
23,97
100
21,907394
100
1,55535125
100
- Hộ gia đình
13,78
51,5
12,68
57,9
0,61843925
39,8
- Tổ chức trong nước
9,95
41,5
9,041872
41,3
0,914391
58,8
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài
0,038607
0,16
0,021513
0,09
0,016937
1,1
- Cộng đồng dân cư
0,201393
0,84
0,164009
0,71
0,005584
0,3
(Số liệu thống kê đất đai 01/01/2008)
* Kết quả cấp GCN của cả nước (số liệu tổng hợp đến 31/12/2007)
Bảng 3: Thống kê tình hình cấp GCNQSD cho các loại đất
Chỉ tiêu
Số lượng
(triệu giấy)
Diện tích
(triệu ha)
% so với tổng DT cần cấp
(%)
GCNQSD đất nông nghiệp
1,006738
8,44
65,6
GCN đất lâm nghiệp
13,99
7,59
83,8
GCN đất NTTS
0,759885
0,490852
71,6
(Số liệu thống kê đất đai 01/01/2008)
Nếu thống kê mức độ % hoàn thành diện tích cần cấp GCNQSDĐ theo số tỉnh thì chúng ta có như sau.
Bảng 4: Mức độ % hoàn thành diện tích cần cấp GCNQSDĐ theo số tỉnh
Mức hoàn thành cấp GCN (%)
ĐVT
Đất sản xuất NN
Đất sản xuất LN
Đất NTTS
Chưa cấp
tỉnh
6
Dưới 50
tỉnh
2
32
31
50 - 70
tỉnh
12
7
11
70 - 80
tỉnh
9
6
4
80 - 90
tỉnh
13
6
5
Trên 90
tỉnh
28
13
7
(Số liệu thống kê đất đai 01/01/2008)
2.2.2.5 Một số kết quả dồn điền đổi thửa đã đạt được ở nước ta
Từ năm 1997 đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam có chủ trương lớn là thực hiện dồn điển đổi thửa, dưới tên gọi “dồn ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn” với mục đích là cho xuất hiện những vùng chuyên canh lớn.
Ở nhiều tỉnh, cuộc vận động "dồn điền, đổi thửa" đã được nông dân hưởng ứng, tạo thuận lợi cho việc áp dụng tiến bộ KH&CN vào các khâu làm đất, gieo trồng, chăm bón, thuỷ lợi, thu hoạch, chi phí giảm, năng suất tăng.
Năm 2003, cả nước có 75 triệu thửa đất, bình quân mỗi hộ có 6 đến 8 thửa đất với khoảng 0,3 - 0,5 ha/hộ, trong đó đất lúa từ 200 – 400 m2/thửa, đất rau và các loại cây màu khác thường dưới 100 m2/thửa, đất trồng cây lâu năm, cây cho thu nhập cao còn manh mún hơn. Sau khi dồn điền đổi thửa, số thửa đất bình quân giảm 50 - 60%, có nơi giảm tới 80%, diện tích mỗi thửa tăng bình quân gấp 3 lần. Việc đó đã tạo điều kiện cho người nông dân cải tạo đồng ruộng, thâm canh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đạt mức thu nhập từ vài chục đến hàng trăm triệu đồng/ha. Mặt khác, dồn điền đổi thửa đã làm tăng diện tích đất canh tác do giảm được phần đất dùng làm bờ ruộng vốn chiếm từ 2 - 4% tổng diện tích đất canh tác. Cụ thể, tại tỉnh Hưng Yên, sau khi dồn điền đổi thửa, diện tích đất nông nghiệp toàn tỉnh đã tăng từ 89.000ha lên 92.000 ha.
Qua hơn 10 năm thực hiện, DĐĐT đã có những chuyển biến đáng kể. Ở Đồng bằng sông Hồng mở đầu bằng phong trào “đổi ruộng ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn” của huyện ứng Hoà - Hà Tây (tháng 2/1993), đến nay hầu hết các tỉnh - thành phố ở Đồng bằng sông Hồng triển khai DĐĐT, số thửa giảm từ 21.548.260 thửa xuống còn 10.309.812 thửa. Mỗi hộ trước đây sử dụng ruộng từ 8 - 18 thửa/ha, nay chỉ còn 3,5 - 4 thửa/ha.
Dồn điền đổi thửa đã giúp nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ lợi nội đồng là cơ sở để tăng năng suất và sản lượng các loại cây trồng, vật nuôi. Kết quả điều tra tại 6 xã thuộc 4 tỉnh Hải Dương, Hà Nam, Vĩnh Phúc, Thái Bình cho thấy diện tích đất giao thông thuỷ lợi tăng 2-20%, tỷ lệ đất chuyển đổi từ trồng lúa kém hiệu quả sang làm trang trại kết hợp chăn nuôi, trồng cây ăn quả, nuôi trồng thuỷ sản đạt 32-63%. Đáng chú ý là diện tích đất canh tác sau dồn điền đổi thửa của các loại hộ có sự biến động lớn do nhóm hộ khá đấu thầu, thuê thêm đất công để mở rộng sản xuất. Từ đó, thu nhập của các loại hộ đều tăng nhanh, đặc biệt tại những vùng chuyển đất lúa sang trồng cây ăn quả, nuôi trồng thuỷ sản có thể tăng thu nhập 2-3 lần so với trước khi dồn điền đổi thửa. Tỉnh Bắc Ninh trong những năm qua, do việc dồn điền đổi thửa đã chuyển đổi 2.991 ha ruộng trũng sang nuôi trồng thuỷ sản đã tăng thu nhập cho nông dân từ 3-4 lần. Trong cuộc khảo sát của Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp tại 563 hộ nông dân cho thấy 100% số hộ đều cho rằng ruộng đất manh mún đã gây cản trở cho sản xuất nông nghiệp. Đối với chính quyền địa phương, việc dồn điền đổi thửa cũng giúp quản lý tốt hơn diện tích đất ở địa phương đồng thời tăng nguồn thu ngân sách xã do việc đấu thầu đất mang lại.
Xu hướng tích tụ và tập trung ruộng đất để phát triển kinh tế ngày càng được mở rộng với nhiều hình thức như: nhận chuyển nhượng đất, thuê đất, mượn đất, dồn đổi, tập trung ruộng đất…
Dồn điền, đổi thửa không chỉ giúp CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn thuận lợi mà còn giảm chi phí sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân. Tuy nhiên hiện nay việc thực hiện vẫn quá chậm, không theo kịp yêu cầu phát triển nông nghiệp trong tình hình mới.
Ở Đồng bằng sông Hồng, sau 10 năm thực hiện chủ trương “dồn điền, đổi thửa” mới chỉ có 2 tỉnh Hà Nam, Bắc Ninh cơ bản khắc phục tình trạng manh mún đất đai. Khó khăn lớn nhất khiến việc dồn điền đổi thửa bị chậm trễ là thiếu kinh phí đo đạc. Trung bình mỗi héc ta mất từ 4 - 11 triệu đồng, không ít địa phương đã phải bán một phần đất công ích lấy kinh phí. Theo Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, tổng kinh phí dồn điền, đổi thửa tại 2.011 xã ở vùng đồng bằng sông Hồng mất khoảng hơn 100 tỷ đồng.
Qua quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất đã bộc lộ những tồn tại, vướng mắc cần được tháo gỡ về cơ chế chính sách như:
* Chưa có quy hoạch về phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn, theo hướng hiện đại bền vững;
* Mức hạn điền thấp, thời hạn sử dụng đất ngắn đã không khuyến khích nông dân tích tụ ruộng đất và yên tâm đầu tư phát triển sản xuất lâu dài.
* Chưa có chính sách khuyến khích đầu tư cơ sở hạ tầng phù hợp với tích tụ ruộng đất để sản xuất hàng hoá lớn.
* Chưa có chính sách hỗ trợ đào tạo quản lý, kỹ thuật, thông tin thị trường, khuyến khích liên kết, chế biến và tiêu thụ nông sản cho nông dân tích tụ ruộng đất phát triển kinh tế trang trại.
* Chưa có chính sách đào tạo, chuyển đổi nghề cho nông dân để rút bớt lao dộng nông nghiệp, tạo tiền đề cho tích tụ ruộng đất
2.2.3 Một số mô hình dồn điền đổi thửa của các địa phương ở nước ta
1. Phong trào ở Hà Tây
Phong trào DĐĐT ở Hà Tây khởi điểm từ mô hình DĐĐT ở Ngọc Động, huyện Ứng Hòa những năm 1996 – 1997, sau đó được nhân rộng ra toàn tỉnh, thực hiện trong hai giai đoạn: 1997 – 2005 và 2006 – 2007. Giai đoạn 1997 – 2005, số thửa ruộng của tỉnh từ 2,96 triệu thửa giảm xuống còn 1,15 triệu thửa.
Một số huyện thực hiện tốt việc DĐĐT trong giai đoạn này là Phú Xuyên, Ứng Hòa và một số xã đã thực hiện DĐĐT được 100% diện tích như Liên Châu (Thanh Oai), Ngọc Động (Ứng Hòa), mỗi hộ dân từ chỗ sử dụng 20 – 25 thửa ruộng, giảm xuống chỉ còn 1 – 2 thửa. Sau DĐĐT, Hà Tây đã hình thành 1.491 trang trại, vườn trại. Giá trị thu nhập, hiệu quả trên một đơn vị canh tác tăng cao, các mô hình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi được hình thành và nhân rộng. Có địa phương hoàn chỉnh quy hoạch đất đai, quy hoạch cây trồng rồi phân vùng trồng cây ăn quả, vùng lúa và cây vụ đông, vùng chuyên màu, vùng lúa và vùng nuôi cá... Sau đó các hộ xã viên tự nguyện đăng ký nhận khoán tại các vùng và tiến hành chia hoặc gắp thăm nhận ruộng. Một số địa phương thì tập trung quy hoạch vùng trũng, vùng xa để các hộ tự nguyện đăng ký và chuyển đổi sang mô hình lúa - cá - chăn nuôi; Vùng ruộng tốt sẽ bù giữa các hộ hoặc gắp thăm chia lại. Cũng có địa phương do có nghề phụ hoặc nhiều hộ gia đình đi làm ăn xa, rất sáng tạo, phân vùng các thửa ruộng thành các lô rộng từ 1 – 5 ha rồi tổ chức đấu thầu hoặc đăng ký nhận ruộng theo nhóm hộ, và giao cho một hộ canh tác, chia giá trị trả lợi những hộ không làm. Nhiều địa phương, tập thể làm trung gian, khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ gia đình tự nguyện chuyển đổi ruộng.
Tuy nhiên, số thửa ruộng bình quân 1 hộ trước khi chuyển đổi có 7,7 thửa, sau khi DĐĐT vẫn còn 4,2 thửa; Số xã, thôn vẫn chưa thực hiện được DĐĐT còn nhiều..., do đó Hà Tây tiếp tục thực hiện DĐĐT giai đoạn 2, với mục tiêu mỗi hộ sản xuất nông nghiệp chỉ có từ 1 – 2 thửa ruộng; Quy hoạch và tăng diện tích vùng chuyển đổi, góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Từ năm 2006 đến nay, toàn tỉnh đã thực hiện DĐĐT thêm khoảng 15.000 ha đất nông nghiệp.
2/ Phong trào huyện Lâm Thao – Phú Thọ
Năm 2004, trước khi triển khai NQ 18, huyện Lâm Thao đã tiến hành quy hoạch lại vùng sản xuất nông nghiệp. Huyện đầu tư kinh phí hợp đồng với các cơ quan chuyên môn khảo sát thiết kế từ tổng thể tới từng xã. Nội dung quy hoạch được các khu dân cư, HĐND xã, thị trấn thông qua. Từ đó làm cho nhân dân địa phương nắm bắt sâu, hiểu kỹ về thực trạng sản xuất, địa hình ở địa phương. Qua đó có suy nghĩ, định hướng cho gia đình, khu, xóm để bố trí sản xuất phù hợp. Đặc biệt những hộ có điều kiện về vốn, kỹ thuật, lao động... có thể tìm được ngành nghề, địa bàn phát triển sản xuất phù hợp vào các loại hình như vùng sản xuất cây lương thực; cây lương thực với cây mầu; đất nuôi trồng thủy sản; đất trang trại, bố trí phát triển ngành nghề TTCN, dịch vụ. Qua quy hoạch, huyện đã xác định được quỹ đất làm hạ tầng, hướng huy động nguồn lực đầu tư phát triển. Sau quy hoạch, các xã bám vào đây để triển khai phương án dồn đổi. Trong đó có 2 xã Sơn Dương và Tứ Xã đã cơ bản hoàn thành. Những xã mới triển khai phương án dồn đổi song nhờ có quy hoạch nên đã khoanh vùng đất chuyên dụng, chuyển mục đích sản xuất tạo điều kiện cho hộ dân đầu tư vốn, kỹ thuật, lao động phát triển kinh tế trang trại, ngành nghề. Tiêu biểu như các xã: Sơn Vi, Cao Xá, Bản Nguyên, Vĩnh Lại... đã chuyển hàng trăm ha sang nuôi, trồng thủy sản mang lại hiệu quả cao hơn hẳn trồng lúa. Nhiều xã đã hình thành cụm làng nghề TTCN.
3/ Phong trào ở Hưng Yên
“Khoán 10” lần đầu tiên nông dân được làm chủ trên mảnh ruộng của mình. Nhưng tư tưởng làm ăn manh mún._.h sản xuất của các hộ nhằm tăng năng suất cây trồng.
Qua kết quả phỏng vấn về chi phí sản xuất của các nông hộ, chúng tôi tiến hành quy đổi ra cùng một đơn vị so sánh để biểu hiện rõ được những sự thay đổi về các khoản chi phí sản xuất của các hộ do tác động của dồn điền đổi thửa mà ít chịu tác động của lạm phát trong những năm qua nhất. Tình hình chi phí sản xuất được chúng tôi tổng hợp, thể hiện qua bảng 25.
Bảng 25: So sánh chi phí sản xuất trên 1 sào lúa trước và sau dồn điền đổi thửa
Chỉ tiêu
ĐVT
Nhóm hộ
<= 4 khẩu
5 – 6 khẩu
>= 7 khẩu
T
S
+/-
T
S
+/-
T
S
+/-
CP vật chất
Ngđ
213,518
235,854
+22,336
210,234
233,142
+22,908
181,708
222,340
+40,632
CP DV
Ngđ
416,85
567,76
+150,91
311,03
412,52
+101,49
252,8
336
+83,2
Công LĐ
Công
10,55
7,182
- 3,368
10,85
8,12
-2,73
10,68
9,12
-1,56
(Nguồn: Tổng hợp điều tra hộ nông dân)
Với giá cả tính quy đổi theo năm 2008 như sau:
P lúa: 4.000 đồng/kg
P giống: 7.000 đồng/kg
P đạm: 7.000 đồng/kg
P Kali: 14.000 đồng/kg
P NPK: 3.400 đồng/kg
90.000 đồng/công làm đất (thuê máy hoặc trâu bò cày)
100.000 đồng/công gieo trồng (cấy)
100.000 đồng/công thu hoạch (gặt)
40.000 đồng vận chuyển/sào
Theo ý kiến phỏng vấn các hộ thì chi phí dịch vụ là khoản chịu ảnh hưởng trực tiếp, thể hiện rõ nhất của dồn điền đổi thửa. Chi phí dịch vụ nhóm hộ = 7 khẩu là những hộ có mức chi phí dịch vụ ít hơn cả và cũng ít thay đổi nhất khi mà hiện nay họ chi hết 336 nghìn đồng/sào, tăng 83,12 nghìn đồng/sào so với trước dồn điền đổi thửa. Điều này cho thấy các hộ đông nhân khẩu thường có nhiều lợi thế hơn trong việc tiết kiệm chi phí dịch vụ sản xuất. Chi phí dịch vụ tăng lên chủ yếu thể hiện ở các khâu sản xuất sau:
+ Làm đất:
Trước dồn điền đổi thửa, máy làm đất còn ít, các hộ chủ yếu dùng sức kéo trâu bò. Nhiều hộ thửa ruộng nhỏ chủ yếu làm đất bằng cày cuốc nhỏ thủ công, tốn rất nhiều công lao động. Sau dồn điền đổi thửa nhiều hộ đã đầu tư mua máy cày, máy bừa vừa thực hiện cho gia đình mình vừa tăng thu nhập khi tranh thủ làm thuê vào những lúc chính vụ cho nhiều hộ trong vùng. Tuy nhiên để kịp thời vụ sản xuất, giảm công lao động để lao động có thời gian làm việc khác, làm cho đất bằng dễ canh tác…nhiều hộ có xu hướng thuê nhiều hơn. Qua khảo sát trước dồn điền đổi thửa có tới 35 hộ thuê dịch vụ làm đất thì sau dồn điền đổi thửa có 46 hộ phải thuê dịch vụ này. Chi phí trung bình thuê làm đất của các hộ trước chuyển đổi khoảng 30 nghìn đồng/sào, sau chuyển đổi là 50,4 nghìn đồng/sào.
+ Gieo trồng, chăm sóc:
Trước dồn điền đổi thửa việc gieo cấy cũng như chăm sóc gặp rất nhiều bất tiện. Hầu hết các hộ đều phải sản xuất trên nhiều thửa ruộng manh mún, phân tán trên rất nhiều xứ đồng vì thế mà viẹc di chuyển giữa các thửa ruộng tốn rất nhiều thời gian và công sức. Sau dồn điền đổi thửa ruộng đất các hộ tập trung hơn làm giảm rất nhiều công đi lại thăm đồng, chăm sóc cây trồng. Chính đỡ công đi lại nên các hộ chú ý tốt hơn tới sự phát triển cây trồng, phát hiện và phòng ngừa kịp thời các loại sâu bệnh cũng như các yếu tố làm giảm năng suất, chất lượng cây trồng. Sau dồn điền đổi thửa việc gieo trồng thuận tiện nên mức độ thuê mướn hay đổi công cho nhau giữa các hộ tăng lên. Trước chuyển đổi chi phí cho khâu này vào khoảng 156 nghìn đồng/sào thì sau chuyển đổi là 216 nghìn đồng/sào.
+ Thu hoạch, vận chuyển:
Trước dồn điền đổi thửa giao thông thuỷ lợi khó khăn, vận chuyển vật tư phân bón cũng như sản phẩm thu hoạch là mất rất nhiều thời gian và công sức của các hộ. Nhiều hộ sản xuất có khoảng cách từ đường giao thông nội đồng vào ruộng là rất xa nên mỗi khi thu hoạch rất vất vả. Việc dồn điền đổi thửa cùng với việc quy hoạch hệ thống giao thông nội đồng tạo điều kiện giải phóng sức lao động, giảm thời gian vận chuyển, các hộ có điều kiện thuê xe chở vào tận ruộng. Chính vì thế chi phí dịch vụ vận chuyển tăng lên đáng kể.
Việc áp dụng cơ giới hoá trong sản xuất cũng như ruộng đất được quy hoạch tập trung và hệ thống giao thông thuỷ lợi nội đồng thuận tiện sau khi dồn điền đổi thửa đã giúp các hộ giảm công lao động là khá lớn đặc biệt là với các hộ >= 4 khẩu. Công lao động đã giảm từ 2 – 4 công/sào ở hầu hết các hộ.
Tình hình chi tiết các khoản chi phí/sào lúa trước và sau dồn điền đổi thửa ở các khâu sản xuất được thể hiện ở bảng phụ lục 5.
4.3.2.2.2 Dồn điền đổi thửa làm giảm đất sản xuất của hộ nông dân
Đây là tác động không mong muốn đối với những người sản xuất nông nghiệp trên địa bàn nhưng cũng không thể tránh khỏi trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Qua quá trình dồn điền đổi thửa diện tích đất sản xuất của các hộ đã bị thu hẹp lại. Nguyên nhân là thực hiện chủ trương của Ban chỉ đạo dồn điền đổi thửa thị trấn Nghèn, Ban chỉ đạo các HTX, các hộ nông dân đã đồng tình bớt diện tích 10 m2/sào để thực hiện quy hoạch thiết kế lại giao thông thuỷ lợi nội đồng để thuận lợi cho sản xuất và chủ động trong tưới tiêu nước. Những hộ trước chuyển đổi có diện tích ít thì không mấy bị ảnh hưởng, còn những hộ trước chuyển đổi có diện tích lớn thì quỹ đất sản xuất bị mất đi đáng kể, làm giảm sản lượng và thu nhập của hộ.
4.4 Ý kiến của người dân khi thực hiện dồn điền đổi thửa
Dồn điền đổi thửa là chủ trương lớn của Đảng và nhà nước nhằm tạo điều kiện phát triển nền nông nghiệp có sức cạnh tranh, giúp người sản xuất khai thác, sử dụng đất hiệu quả, tăng năng suất, chất lượng cây trồng vật nuôi; bố trí cơ cấu sản xuất có hiệu quả, mang lại thu nhập cao. Tuy nhiên khi thực hiện dồn điền đổi thửa cần căn cứ vào điều kiện tình hình thực tế tại địa phương, thực trạng sản xuất của hộ, xuất phát từ nhu cầu nguyện vọng của nhân dân thì mới đạt kết quả cao.
Khi đánh giá sự hành công hay thất bại của việc dồn điền đổi thửa ở một đia phương thì ý kiến của nhân dân tại địa phương ấy là căn cứ quan trọng nhất đánh giá mức độ phù hợp hay không của nó. Qua trao đổi với các hộ điều tra thì có trên 80% số hộ cho rằng dồn điền đổi thửa đã mang lại sư thuận lợi hơn ở các mặt trong sản xuất. Đặc biệt các hộ đều cho rằng dồn điền đổi thửa đã giúp sản xuất thuận lợi hơn nhiều ở những khâu mà trước đây tốn rất nhiều thời gian lao động chân tay như làm đất, chăm sóc (đặc biệt là làm cỏ, bón phân…) hay thuỷ lợi.
Tuy nhiên, theo ý kiến đánh giá của các hộ được điều tra thì sau khi dồn điền đổi thửa còn tồn tại nhiều vấn đề gây cản trở sản xuất, ảnh hưởng đến sinh kế của người nông dân. Khi nói về sản xuất sau chuyển đổi ông Nguyễn Đình Bổng (HTX Phúc Sơn) cho biết: "Nhà bác nhận được 5 mảnh mà có đến 1 mảnh gần sào rưỡi ở xa quá, ruộng lại xấu không cấy lúa được nên phải cho họ thuê kiếm ít tạ thóc công thuê mỗi mùa". Điều này đặt ra vấn đề là tiến hành dồn điền đổi thửa phải gắn với công tác cải tạo lại ruộng đồng nhằm hạn chế tối đa mức độ chênh lệch về vị trí, chất lượng đất giữa các thửa ruộng được giao.
Một số ý kiến bộc lộ bức xúc về chính sách của Nhà nước: "Đất sản xuất đã ít mà Nhà nước năm nào cũng tiến hành thu hồi thì sau này không biết con cháu lấy đất mô mà sống". Điều này đặt ra vấn đề về việc làm cho lao động nông thôn khi đất nông nghiệp bị thu hẹp và việc dồn điền đổi thửa phải tính đến vấn đề hạn điền đất sản xuất nông nghiệp cho người nông dân ví nếu không người dân sẽ không yên tâm sản xuất ma đất thì lại bị khai thác tài nguyên cạn kiệt. Hay như anh Bùi Văn Thao (HTX Bắc Sơn) bày tỏ: "Nhà anh đang muốn đấu thầu thêm đất để mở rộng mô hình sản xuất nhưng thời gian cấp đất để sử dụng ít quá không bỏ công tu bổ cải tạo".
Bảng 26: Ý kiến đánh giá của người dân về dồn điền đổi thửa
Tiêu chí
Ý kiến đánh giá
Hộ <= 4 khẩu
5 – 6 khẩu
>= 7 khẩu
Làm đất
Thuận lợi hơn
95,45
100
88
Không đổi
4,55
0
8
Kém hơn
0
0
4
Gieo trồng
Thuận lợi hơn
86,36
96,4
96
Không đổi
13,64
3,6
0
Kém hơn
0
0
4
Chăm sóc
Thuận lợi hơn
91
100
100
Không đổi
9
0
0
Kém hơn
0
0
0
Bảo vệ
Thuận lợi hơn
100
96,4
96
Không đổi
0
3,6
0
Kém hơn
0
0
4
Giao thông, thuỷ lợi nội đồng
Thuận lợi hơn
95,45
96,4
92
Không đổi
4,55
0
8
Kém hơn
0
3,6
0
Áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
Thuận lợi hơn
77,3
89,3
88
Không đổi
18,2
7,1
8
Kém hơn
4,5
3,6
4
Bố trí cơ cấu mùa vụ
Thuận lợi hơn
86,36
89,3
88
Không đổi
13,64
10,7
8
Kém hơn
0
0
4
Thu hoạch
Thuận lợi hơn
95,45
92,86
100
Không đổi
5,55
7,14
0
Kém hơn
0
0
0
Vận chuyển
Thuận lợi hơn
91
92,8
100
Không đổi
4,5
3,6
0
Kém hơn
4,5
3,6
0
Sản xuất hàng hoá
Thuận lợi hơn
81,82
89,3
84
Không đổi
13,64
7,1
12
Kém hơn
4,54
3,6
4
Mang lại hiệu quả sản xuất
Thuận lợi hơn
86,4
89,3
96
Không đổi
13,6
10,7
4
Kém hơn
0
0
0
Mong muốn tiếp tục chuyển đổi
Có
95,45
100
96
Không
4,55
0
4
(Nguồn: Tổng hợp điều tra hộ nông dân)
Khi hỏi về những khó khăn trong sản xuất thì hầu hết các hộ đều cho rằng vốn sản xuất, thiên tai bất thường, sâu bệnh dễ bùng phát lây lan, giá cả vật tư cao trong khi giá các đầu ra thấp, sản phẩm tiêu thụ khó khăn. Ngoài ra một số hộ còn cho rằng KHKT mới vẫn khó tiếp cận, giao thông thuỷ lợi còn chưa đáp ứng hết nhu cầu sản xuất.
4.6 Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình dồn điền đổi thửa tại thị trấn
4.6.1 Những thuận lợi
- Quá trình dồn điền đổi thửa đã tạo được những thửa đất lớn, tập trung thuận lợi cho tổ chức sản xuất, đầu tư thâm canh tăng vụ, chuyển giao tiến bộ KHKT, ứng dụng cơ giới hoá vào sản xuất, áp dụng giống mới cho năng xuất tăng 10 – 20%, giảm được 20 – 30% chi phí lao động/sào nhờ việc bố trí lao động hợp lý, giảm công đi lai giữa các thửa ruộng.
- Gắn liền với công tác chuyển đổi ruộng đất, thị trấn đã triển khai quy hoạch thiết kế lai đồng ruộng tạo điều kiện giao thông thuận tiện, thuỷ lợi được kiên cố hoá đảm bảo tưới tiêu tốt hơn giúp nông dân yên tâm sản xuất, hạn chế nỗi lo ruộng cao thiếu nước ruộng thấp lại hay úng ngập.
- Sau chuyển đổi diện tích đất công ích, đất xấu, đất khó giao được bố trí tập trung hơn, thuận lợi cho thiết kế, cho thuê, tổ chức đấu thầu sản xuất kinh doanh.
- Dồn điền đổi thửa là dịp để kiểm tra lại quỹ đất, quá trình sử dụng đất sản xuất nông nghiệp trên địa bàn thị trấn, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý nhà nước về đất đai.
- Sau khi chuyển đổi về cơ bản ruộng đất mỗi hộ đã được giao tại 1 – 2 vùng, có sự chuyển biến mạnh mẽ về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả, đa dạng hoá cây trồng vật nuôi, giá trị thu nhập tăng từ 2 – 3 lần so với trước lúc chưa chuyển đổi, có nhiều hộ sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao trên 50 triệu đồng/ha/năm.
Qua thực tế tại thị trấn có nhiều hộ sau chuyển đổi đã phát triển mạnh chăn nuôi kết hợp với trồng trọt, nâng hiệu quả kinh tế tăng rõ rệt.
- Một thời gian sản xuất sau khi đã chuyển đổi một số hộ mong muốn tiếp tục mở rộng quy mô đất đai, tập trung ruộng đất, đấu thầu thêm ruộng để phát triển sản xuất.
4.6.2 Những khó khăn, tồn tại
* Một số khó khăn tồn tại:
- Ruộng đất giao cho các xóm còn trên nhiều vùng (bình quân 10 – 12 vùng); ruộng giao cho các hộ còn manh mún, phân tán trên nhiều xứ đồng. Số thửa có diện tích dưới 500m2 còn nhiều, bình quân số thửa/hộ còn cao, một số hộ đang còn 7 – 8 thửa. Do đó đã hạn chế phần nào việc đầu tư thâm canh, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp chưa phát triển, áp dụng các tiến bộ KHKT vào xản xuất còn hạn chế; hiệu quả kinh tế/1 đơn vị diện tích đất canh tác còn thấp, hệ số sử dụng đất thấp, hiệu quả sản xuất khiêm tốn.
- Hệ thống giao thông thuỷ lợi nội đồng tuy đã được củng cố nhưng các tuyến đường, mương nội đồng vẫn chưa đáp ứng được cho việc cơ giới hoá nông nghiệp nông thôn, ảnh hưởng đến việc đi lại, đặc biệt là đối với các tuyến đường mương đất như tuyến đường Ông Hai, tuyến Dân Sinh, tuyến Chà bày...vẫn nhỏ, mấp mô, khó khăn đi lại khi thời tiết mưa ngập.
- Sau khi dồn điền đổi thửa đất sản xuất được tập trung thuận lợi hơn cho cơ giới hoá, song lượng máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp của thị trấn còn ít thì chủ máy thường làm nhanh làm ẩu tranh ruộng khi được thuê dẫn tới chất lượng dịch vụ không được đảm bảo.
* Nguyên nhân:
- Thị trấn Nghèn do địa hình phức tạp, ruộng đất không được bằng phẳng, chất đất không đồng đều, một số xứ đồng nằm cách xa khu vực dân cư nên tư tưởng của một số người dân ngại chuyển đổi vì sợ nhận ruộng xấu, ruộng xa.
- Tuy công tác chuyển đổi phải gắn liền với quy hoạch mà đặc biệt là quy hoạch giao thông thuỷ lợi nội đồng song để thực hiện hoàn thiện đòi hỏi tốn kém nhiều kinh phí và sự huy dộng nhiều ngày công lao động của nhân dân. Trong khi nguồn kinh phí của thị trấn không có nhiều mà hỗ trợ của các ban ngành cấp trên còn ít.
- Một bộ phận cán bộ và nhân dân có tư tưởng bảo thủ, muốn đồng đều phải có tốt, có xấu, có gần, có xa; đặc biệt hiện nay một số cán bộ và nhân dân có vị trí ruộng thuận lợi nên không muốn bị xáo trộn diện tích của hộ gia đình mình. Đối với một số xóm, một số cán bộ thực hiện công tác chuyển đổi sợ va chạm, ngại khó khăn.
- Một vài đơn vị trong thị trấn thực hiện việc chuyển đổi vẫn không được tốt, kinh phí chi trả không kịp thời để cán bộ và những người làm công tác thiếu nhiệt tình, nhân dân mất lòng tin.
4.7 Một số khuyến nghị nâng cao hiệu quả của việc dồn điền đổi thửa trong phát triển kinh tế hộ nông dân tại thị trấn Nghèn
1. Đối với Nhà nước
- Hoàn thiện chính sách đất đai nói chung, đất nông nghiệp nói riêng; khuyến khích nông dân tích tụ và tập trung ruộng đất, đặc biệt quan tâm đến hạn điền và thời gian sử dụng, tạo điều kiện hỗ trợ cho dồn điền đổi thửa ở các địa phương.
- Hoàn thiện các chính sách về vốn, lao động, xây dựng CSHT…hõ trợ cho phát triển nông nghiệp nông thôn có hiệu quả sau dồn điền đổi thửa.
- Hạn chế tối đa những can thiệp hành chính, mệnh lệnh; Nhưng chỉ nên giữ vai trò điều chỉnh, định hướng, hỗ trợ.
- Quản lý giám sát hoạt động dồn điền đổi thửa ở các địa phương, khắc phục hạn chế những khó khăn, khuyết điểm trong quá trình thực hiện; làm tố công tác tư tưởng, tạodựng lòng tin ở nhân dân.
2. Đối với địa phương
- Cấp uỷ Đảng, chính quyền thị trấn cần có sự phối hợp chặt chẽ, có hệ thống trong quá trình thực hiện dồn điền đổi thửa, tạo điều kiện cho các hộ tích tụ và tập trung đất sản xuất.
- Bên cạnh việc dồn điền đổi thửa cần thường xuyên cải tạo đồng ruộng, hạn chế tình trạng không đồng đều giữa các thửa ruộng, các vùng.; đảm bảo chất lượng, sự bền vững, ổn định trong sản xuất nông nghiệp ở thị trấn.
- Làm tốt công tác tuyên truyền, khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho việc tích tụ, tập trung ruộng đất ở các hộ; khuyến khích các hộ sản xuất không hiệu quả chuyển nhượng lại đất cho các hộ sản xuất có nhu cầu tích tụ...khắc phục tình trạng ruộng đất còn manh mún, phân tán sau dồn điền đổi thửa như hiện nay nhằm đạt hiệu quả sản xuất cao nhất, tăng thu nhập cho người nông dân trên địa bàn thị trấn.
- Kết hợp tốt việc thực hiện dồn điền đổi thửa với tổ chức quản lý đất đai, thiết lập hồ sơ, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hoàn thiện hệ thống giao thông thuỷ lợi nội đồng tạo thuận lợi cho sản xuất.
- Có chính sách đào tạo nghề, mở rộng phát triển ngành nghề tại thị trấn, thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động hợp lý.
- Thường xuyên kiểm tra, theo dõi, tư vấn cho các hộ nông dân trên địa bàn về kỹ thuật sản xuất; mở các lớp tập huấn theo, xây dựng các mô hình trình diễn có chất lượng, tổ chức tham quan mô hình sản xuất giỏi...nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng sản xuất cho các hộ nông dân, giúp các hộ nâng cao năng suất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiệu quả, tăng thu nhập.
- Hỗ trợ các hộ nông dân về vốn, KHKT; nâng cao kỹ năng sản xuất nông nghiệp, hướng dẫn tạo điều kiện cho các hộ xây dựng mô hình sản xuất có hiệu quả kinh tế cao, tăng thu nhập cho người nông dân.
- Quy hoạch tập trung đất công ích, tiến hành tổ chức đấu thầu cho các hộ nông dân có khả năng và nguyện vọng mở rộng sản xuất, xây dựng mô hình sản xuất với thời gian dài (nên trên 30 năm)
3. Đối với hộ nông dân
- Các hộ nông dân cần tiếp thu KHKT tiến bộ, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi hợp lý, nâng cao nhận thức về sản xuất hàng hoá, kiến thức về thị trường; tiến hành trao đổi ruộng đất một cách có hiệu quả.
- Các hộ nông dân nên có sự thoả thuận ổn định (có thể hợp đồng) với các chủ máy móc, dịch vụ làm thuê để đảm bảo chất lượng dịch vụ tốt hơn, đặc biệt là trong các khâu làm đất, thu hoạch.
- Tích cực trao đổi, tham quan các mô hình sản xuất giỏi, đúc rút kinh nghiệm trong sản xuất; tham gia các khoá tập huấn, hội nghị, hội thảo tại địa phương...
- Tuân thủ các nguyên tắc sử dụng đất, bảo đảm môi trường nông thôn bền vững, giảm hoá chất độc hại trong sản xuất.
- Sau dồn điền đổi thửa các hộ nghiên cứu tìm hiểu, áp dụng những mô hình sản xuất có hiệu quả kinh tế cao, ổn định, phù hợp cới điều kiện của gia đình, địa phương; chú ý các mô hình sản xuất mới như tôm, ếch thương phẩm…
PHẦN V KẾT LUẬN
Đất sản xuất nông nghiệp luôn là vấn đề mang tính chiến lược trong phát triển kinh tế xã hội nông nghiệp nông thôn, xây dựng đất nước qua các thời kỳ. Trong những năm qua đặc biệt là từ sau đổi mới, chính sách đất sản xuất nông nghiệp luôn được bổ sung, điều chỉnh theo hướng phù hợp với đièu kiện cụ thể, phục vụ phát triển nền nông nghiệp hiệu quả bền vững.
Việc giao ruộng theo Nghị định 64/NĐ – CP của Chính phủ đảm bảo tính công bằng và ổn định nhưng đã gây ra tình trạng manh mún về diện tích, ô thửa là cản trở lớn trong việc phát triển nền nông nghiệp hàng hoá quy mô lớn, làm giảm hiệu quả sản xuất do khó khăn trong cơ giới hoá sản xuất, áp dụng KHKT tiến bộ, bố trí cơ cấu mùa vụ…Vì thế dồn điền đổi thửa là việc làm cần thiết và cấp bách nhằm giải quyết tình trạng manh mún đất đai, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Thực hiện dồn điền đổi thửa thành công đã đem lại những sự thay đổi lớn trong sản xuất nông nghiệp tại thị trấn Nghèn - Can lộc - Hà tĩnh.
Dồn điền đổi thửa ngoài việc làm thay đổi ruộng đất của các nông hộ: số ô thửa giảm (giảm gần 4000 thửa), diện tích/thửa tăng lên khá nhiều (tăng bình quân gần 70m2/thửa… còn góp phần quy hoạch lại hệ thống giao thông thuỷ lợi nội đồng thuận tiện cho sản xuất nông nghiệp. Sau khi dồn điền đổi thửa các nông hộ có điều kiện thuận lợi áp dụng cơ giới hoá, tiến bộ KHKT; đầu tư thâm canh, xây dựng các mô hình sản xuất có hiệu quả kinh tế cao; sản xuất tập trung, bố trí mùa vụ, cơ cấu lao động hợp lý. Từ đó làm tăng hiệu quả sử dụng đất, nâng cao thu nhập cho người nông dân, phát triển kinh tế nông hộ trên địa bàn.
Thực hiện dồn điền đổi thửa còn gặp những khó khăn, tồn tại do điều kiẹn về đất đai, về tài chính, về nhận thức và trình độ của một bộ phận cán bộ và quần chúng nhân dân…
Đề tài có đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc dồn điền đổi thửa trong phát triển kinh tế nông hộ tại thị trấn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS.PTS Phạm Thị Mỹ Dung. Giáo trình Phân tích kinh tế nông nghiệp. Trang 144. NXB Nông nghiệp.
Đặng Văn Tiến. Bài giảng Kinh tế hộ nông dân (Trang 43 - Chương 5). NXB Nông nghiệp.
Báo cáo đề dẫn tích tụ ruộng đất để phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững. tác giả: Lã Văn Lý - Cục trưởng Cục Kinh tế Hợp tác và PTNT, Bộ NN&PTNT.
Website ipsard.gov.vn và Hướng dẫn việc DĐĐT trong sản xuất nông nghiệp, Bộ TN và MT(2003), Hà Nội.
Website
Nghị định số 85/1999/NĐ-CP ngày 28/8/1999 về giao đất cho thuê đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất.
Phạm Vân Đình, Đỗ Kim Chung (1997). Kinh tế nông nghiệp. NXB Nông nghiệp.
Luật đất đai 2003. NXB Chính trị quốc gia. Hà nội.
Bùi Thị Ngát. Luận văn tốt nghiệp đại học. 2008. Tác động của thực hiện dồn điền đổi thửa đến sản xuất nông nghiệp của huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Lê Trí Nhượng. Luận án thạc sỹ. 2002. Đánh giá thực trạng chuyển đổi ruộng đất nông nghiệp và ảnh hưởng của nó đến phát triển kinh tế nông hộ ở huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hoá.
Bài: “Sức sống mãnh liệt của trang trại nông nghiệp gắn với các tổ chức mạnh của nông dân Hà Lan”. Tạp chí Nông thôn mới. Số 180/2006.
Bài “Dồn điền đổi thửa ở Đồng bằng sông Hồng tiền đề phát triển hàng hóa lớn”. Tác giả: ĐÌNH NAM. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Đào Thắm. Báo Hưng yên. Số 1.214 ngày 13/01/2009
Website:
Tài liệu kỳ họp thứ 11 – HĐND thị trấn Nghèn khoá III (năm 2008).
Bản dự thảo phương án chuyển đổi ruộng đất của các HTX.
Đề án chuyển đổi ruộng đất nông nghiệp tại thị trấn Nghèn năm 2002
Bản tổng hợp kết quả dồn điền đổi thửa, thị trấn Nghèn năm 2003.
Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng năm. 2006 phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng năm 2007.
Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng năm 2007 phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng năm 2008.
Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng năm 2008 phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng năm 2009.
PHỤ LỤC
1) Bảng 1: Một số yếu tố thời tiết khí hậu ở Thị trấn Nghèn từ năm 2002 – 2008
Tháng
Nhiệt độ trung bình (0c)
Lượng mưa TB (mm)
Độ ẩm (%)
Số giờ nắng (h)
1
19.5
30.5
87
180
2
21.1
16.5
85
185
3
23.0
60.5
86
190
4
26.5
70
85
170
5
27.1
240.5
79
230
6
29.2
40.2
78
252
7
30.6
123.5
80
240
8
29.4
141.5
75
210
9
28.6
145.0
85
184
10
26.2
426.6
82
120
11
23.1
260.5
84
105
12
21.2
65.5
87
97
Cả năm
25.46
1620.8
82.75
2163
(Nguồn: Trạm khí tượng thuỷ văn Can Lộc)
2) Bảng 2: Tình hình cơ sở vật chất của Thị trấn Nghèn qua 3 năm
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
I. Hệ thống điện
1. Trạm biến áp
Trạm
2
2
2
2. Đường dây điện
Km
87
94
105
II. Hệ thống đường giao thong
1. Đường bê tông
Km
30
55
78
2. Đường đất
Km
72
45,5
18,5
3. Đường rải nhựa
Km
3
4,5
8,5
III. Hệ thống thủy lợi
1. Trạm bơm điện
Trạm
1
1
1
2. Kênh mương tưới tiêu
Km
15
15,7
17
- Bằng bê tong
Km
10,5
14,7
16,5
- Bằng đất
Km
4,5
1
0,5
IV. Hệ thống công trình công cộng
1. Chợ
Trường
2
2
2
2. Trường học
Trường
- Trường THPT
Trường
2
2
2
- Trường THCS
Trường
2
2
2
- Trường tiểu học
Trường
2
2
2
- Trường mầm non
Trường
2
2
2
3. Cơ sở y tế
Đơn vị
1
1
1
4. UBND xã
Cái
1
1
1
5. Nhà văn hóa
Nhà
11
12
12
6 Bưu điện văn hóa
Cái
1
1
1
(Nguồn: Ban thồng kê thị trấn Nghèn)
3) Bảng 3: Khối lượng giao thông thuỷ lợi nội đồng được mở rộng nâng cấp và đắp mới trong năm 2008
Diễn giải
Độ dài tuyến (m)
* 65 tuyến đường nội đồng
32.030
- Đường sỏi
12.230
- Đường đất
19.800
* 60 tuyến kênh mương
35.085
- Kênh cứng
10.170
- Kênh đất
24.915
(Nguồn: Ban thồng kê thị trấn Nghèn, năm 2008)
4) Bảng 4: Cơ cấu diện tích một số loại đất sản xuất chính ở các hộ điều tra
ĐVT: Sào
Diện tích
Nhóm hộ theo khẩu
<= 4
5 - 6
>= 7
- Lúa
51,84
113,11
131,17
- Lúa + Cá
8
77
20,5
- Cá + Vịt
4
11
17
(Nguồn: Tổng hợp điều tra hộ nông dân)
5) Bảng 5: So sánh chi phí sản xuất/sào sản xuất lúa trước và sau chuyển đổi.
Khoản chi
Nhóm hộ
<= 4 khẩu
5 – 6 khẩu
>= 7 khẩu
T
S
+/-
T
S
+/-
T
S
+/-
- Giống (kg)
4.27
3.61
-0,66
4.6
3.8
-0.8
4.42
3.76
-0.66
- Đạm (kg)
8.48
8.73
0,25
8.3
9.1
0.8
7.72
9.38
1.66
- Kli (kg)
3.82
4.87
1,05
3.78
4.61
0.83
2.46
3.92
1.46
- NPK (kg)
20.82
23.91
3.09
19.71
23.03
3.32
18.32
22.2
3.88
- Làm đất (ngđ)
61.36
85.91
24.55
28.93
22.5
-6.43
36
50.4
14.4
- Gieo trồng (ngđ)
213.64
277.27
63.63
142.86
214.29
71.43
120
164
44
- Thu hoạch (ngđ)
136.4
186.4
50
132.1
164.3
32.2
92
112
20
- Vận chuyển (ngđ)
5.45
18.18
12.73
7.14
11.43
4.29
4.8
9.6
4.8
- Công lao động (công)
10.55
7.182
- 3,368
10.85
8.12
-2,73
10.68
9.12
-1,56
(Nguồn: Tổng hợp điều tra hộ nông dân)
6) Bảng 6: Ý kiến đánh giá của người dân về thực hiện dồn điền đổi thửa
Tiêu chí
Ý kiến đánh giá
Hộ <= 4 khẩu
5 – 6 khẩu
>= 7 khẩu
Làm đất
Thuận lợi hơn
21
28
22
Không đổi
1
0
2
Kém hơn
0
0
1
Gieo trồng
Thuận lợi hơn
19
27
24
Không đổi
3
1
0
Kém hơn
0
0
1
Chăm sóc
Thuận lợi hơn
20
28
25
Không đổi
2
0
0
Kém hơn
0
0
0
Bảo vệ
Thuận lợi hơn
22
27
24
Không đổi
0
1
0
Kém hơn
0
0
1
Giao thông, thuỷ lợi nội đồng
Thuận lợi hơn
21
27
23
Không đổi
1
0
2
Kém hơn
0
1
0
Ad TB KHKT
Thuận lợi hơn
17
25
22
Không đổi
4
2
2
Kém hơn
1
1
1
Bố trí cơ cấu mùa vụ
Thuận lợi hơn
19
25
22
Không đổi
3
3
2
Kém hơn
0
0
1
Thu hoạch
Thuận lợi hơn
21
26
25
Không đổi
1
2
0
Kém hơn
0
0
0
Vận chuyển
Thuận lợi hơn
20
26
25
Không đổi
1
1
0
Kém hơn
1
1
0
Sản xuất hàng hoá
Thuận lợi hơn
18
25
21
Không đổi
3
2
3
Kém hơn
1
1
1
Mang lại hiệu quả sản xuất
Thuận lợi hơn
19
25
24
Không đổi
3
3
1
Kém hơn
0
0
0
Mong muốn tiếp tục chuyển đổi
Có
21
28
24
Không
1
0
1
(Nguồn: Tổng hợp điều tra hộ nông dân)
7) Sơ đồ 1: Tình hình giao đất cho các đối tượng quản lý và sử dụng trong cả nước
8) Mức độ % hoàn thành diện tích cần cấp GCNQSDĐ theo số tỉnh trong cả nước
CÂU HỎI PHỎNG VẤN NÔNG HỘ
Ngày …..tháng…..năm 2009
Hộ số:…………………………………………………………………
Họ tên chủ hộ: Ông(bà)…….…………………………………………
Giới tính:…………………………………………................................
Địa chỉ:………………………………………………….. ……………..
Tuổi:……………………………………………………………………
Học vấn:
Cấp I
Cấp II
Cấp III
Ông (bà) vui lòng cho biết:
I. TÌNH HÌNH CHUNG
1.1 Hộ ông (bà) là hộ:
Giàu Khá
Trung bình
Nghèo
1.2 Gia đình ông bà có bao nhiêu người?
- Nam: ……………….
- Nữ:…………………
1.2.1 Số lao động
- Lao động nông nghiệp: Năm 2002 ........……… Năm 2008.…………
- Lao động bán nông nghiệp: Năm 2002 ........……Năm 2008.…………
- Lao động đi làm thuê ngoài:Năm 2002 .......…… Năm 2008.…………
1.2.2 Theo độ tuổi:
- Dưới 18: …………người.
- Từ 18- 60: ……….người.
- Trên 60: ………….người.
1.3 Nguồn thu nhập chính của hộ (Triệu đồng)
Lĩnh vực
Năm 2002
Năm 2008
Trồng trọt
Chăn nuôi
Nghề khác
1.4 Quỹ đất của hộ năm 2008
- Ruộng 3 vụ………..m2
- Ruộng 2 vụ:……….m2
- Ruộng 1 vụ:………..m2
- Đất màu:……………m2
- Đất lâm nghiệp:……..m2
- Đất thổ cư:………..m2:
+ Đất ở:…….m2
+ Đất vườn:………m2
II. TÌNH HÌNH DỒN ĐIỀN ĐỔI THỬA CỦA HỘ
2.1 Tình hình đất nông nghiệp của hộ.
Chỉ tiêu
Trước DĐĐT
Sau DĐĐT
Diện tích (m2)
Số thửa (thửa)
Diện tích (m2)
Số thửa (thửa)
I. Tổng DT đất NN
1. Đất trồng lúa
2. Đất trồng màu
3. Đất trồng cây lâu năm
4. Đất lâm nghiệp
5. Đất NTTS
6. Đất Lúa – cá
7. Đất Cá - lúa - vịt
II. Nguồn gốc
1. Đất được giao
2. Đất đi thuê, đấu thầu
3. Đất cho thuê
2.2 Cơ cấu diện tích canh tác năm 2008 của hộ thay đổi thế nào so với trước dồn điền đổi thửa? (ĐVT: sào)
Cơ cấu
Nhóm hộ
Năm 2002
Năm 2008
Đông – Xuân
- Lúa xuân sớm
- Lúa xuân trung
- Lúa xuân muộn
Hè – Thu
- Hè thu – lúa lai
- Hè thu – lúa khác
Cá
Vịt
- Tình hình bố trí cơ cấu cây trồng vật nuôi của gia đình ông (bà) thay đổi như thế nào trước và sau dồn điền đổi thửa?
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… .
2.3 Chi phí sản xuất trên một đơn vị diện tích sào lúa trước và sau DĐĐT
Chỉ tiêu
ĐVT
2008
2002
1. Giống
Kg
2. Phân bón
Kg
- Phân đạm
Kg
- Phân lân
Kg
- Phân NPK
Kg
3. Thuốc BVTV
Nghìn đồng
4. Làm đất
Nghìn đồng
5. Vận chuyển
Nghìn đồng
6. Bảo vệ, chăm sóc
Nghìn đồng
7. Gieo trồng
Nghìn đồng
8. Thu hoạch
Nghìn đồng
9. Công lao động
Công
2.4 Những nguồn thu chính của hộ năm 2008 (triệu đồng)
Từ trồng trọt:
+ Từ lúa:……………………………………. …+ Từ rau màu:………………………………. …+ Từ các loại cây lương thực khác……………..
Từ chăn nuôi và NTTS
+ Từ Lợn:……………………………………….
+ Từ Gà, vịt:……………………………………
+ Từ trâu, bò:……………………………………
+ Từ Cá:………………………………...............
Các khoản thu khác:……………………………
- Thu nhập của các khoản trên của hộ ông (bà) thay đổi so với trước khi dồn điền đổi thửa bao nhiêu %?
2.5 Mức độ đầu tư sản xuất của hộ ông (bà) thay đổi như thế nào như thế nào?
- Tư liệu sản xuất của gia đình ông (bà) trước (2002) và sau dồn điền đổi thửa (năm 2008) thay đổi như thế nào ở các loại sau:
Chỉ tiêu
ĐVT
Trước
Sau
- Trâu, bò
- Máy cày, bừa
- Máy bơm trong sx NN
- Bình phun thuốc
- Máy tuốt
2.6 Lao động trong hộ ông (bà) thay đổi như thế nào giữa sau so với trước lúc dồn điền đổi thửa?
Phân loại
ĐVT
Năm 2002
Năm 2008
LĐ NN
LĐ
LĐ CN – TTCN
LĐ
LĐ TM – DV
LĐ
2.7 Sau khi thực hiện chính sách DĐĐT so với trước đó, ông(bà) thấy:
Tiêu chí
Thuận lợi hơn
Không đổi
Không thuận lợi bằng
Làm đất
Gieo trồng
Chăm sóc
Bảo vệ
Giao thông, thuỷ lợi nội đồng
Ad TB KHKT
Bố trí cơ cấu mùa vụ
Thu hoạch
Vận chuyển
Sản xuất sản phẩm bán
(Đánh dấu X tại ý kiến ông (bà) lựa chọn và giải thích ý kiến tại sao ông (bà) lại lựa chọn ý kiến ấy (nếu có)?
2.8 Ông (bà) thấy:
2.8.1 DĐĐT có thực sự mang lại hiệu quả cho sản xuất của hộ ông (bà)?
a. Có
b. Không
c. Không thay đổi
2.8.2 Dồn điền đổi thửa có thích hợp thực hiện với địa phương không?
a. Có:
b. Không:
2.8.3 Sau khi dồn điền đổi thửa thì ông (bà) thấy có những thuận lợi và khó khăn gì trong sản xuất?
a. Những thuận lợi trong sản xuất:
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
b. Những khó khăn trong sản xuất:
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
c. Ông (bà) có ý kiến gì khác không?
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN ÔNG (BÀ)!
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25. BÁO CÁO TÔT NGHIỆP_NGÔ VIỆT PHƯƠNG.doc