Đánh giá tác động của đầu tư trực
tiếp nước ngoài đến sự phát triển các
ngành và lĩnh vực của Thành phố
Hồ Chí Minh
Nguyễn Thị Hồi Phương
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) có một vị trí đặc biệt quan trọng
cả về mặt chính trị, kinh tế, xã hội và giao lưu quốc tế, là một trung tâm
của khu vực phía Nam và cả nước. Với vị trí là một đô thị lớn nhất nước ta,
một trung tâm lớn về kinh tế, văn hoá, khoa học, công nghệ, đầu mối giao
lưu quốc tế quan trọng,
92 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1492 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến sự phát triển các ngành và lĩnh vực của Thàng phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thành phố (TP) luôn chịu sự tác động sâu sắc bởi
bối cảnh chung của trong nước và quốc tế. Mỗi thuận lợi hay không thuận
lợi, mỗi thành công hay không thành công, mỗi bước đi nhanh hay chậm,
bền vững hay thiếu bền vững của TP đều có ảnh hưởng trực tiếp đến nhịp
điệu phát triển chung của khu vực và cả nước. Bên cạnh những thuận lợi cơ
bản từ những thành tựu đạt được, những kinh nghiệm trong quá trình thực
hiện đường lối đổi mới của Đảng, sự mở rộng quan hệ hợp tác và liên kết
quốc tế… Thành phố cũng đã gặp không ít khó khăn (chủ quan lẫn khách
quan).
Nhằm tiếp tục phát huy vị trí và vai trò của TP, Nghị quyết của Đại
hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ 7 đã khẳng định: “tiếp tục giữ vững
vai trò một trung tâm thương mại-dịch vụ-công nghiệp của khu vực phía
Nam và cả nước”[7, tr.3]. Trong thời gian qua, TPHCM đã đạt được những
thành công quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn trung và dài hạn, trong
đó gồm thu hút đầu tư nước ngoài (ĐTNN). Do có ưu thế về vị trí địa lý, hạ
tầng kỹ thuật, nguồn nhân công lành nghề nhất cả nước, TP không những là
địa phương sớm thu hút được ĐTNN, mà còn liên tục nhiều năm dẫn đầu về
số dự án và nguồn vốn ĐTNN. Trước sức ép lộ trình giảm thuế quan,
TPHCM là cột mốc quan trọng của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, TP
phải bằng mọi cách tranh thủ tối đa ngoại lực, phát huy cao độ tiềm lực bên
trong, đẩy nhanh việc hoàn thiện môi trường chính sách, tạo điều kiện thu
hút ĐTNN hiệu quả nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược về phát triển
kinh tế - xã hội mà TP đặt ra.
Tình hình nghiên cứu trong nước: đã có nhiều nhà khoa học tiến hành
nghiên cứu. Một số trong đó là: đề tài “Đánh giá vai trò của Đầu tư trực
tiếp nước ngoài trong phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh” (do Th.s Nguyễn Văn Quang chủ nhiệm, Viện Kinh tế TPHCM
2004); đề tài “Khảo sát đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” (do Nguyễn
Thanh Hà, Nguyễn Võ Hưng, Viện Quản lý kinh tế Trung ương và Klaus
Meyer, trường kinh doanh London thực hiện, Hà Nội 2/2003); đề tài “Đầu
tư nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1991-2000” (do TS.
Nguyễn Ngọc Thanh và Nguyễn Đình Mai cùng các cộng sự thực hiện, năm
2000); đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Tthành phố Hồ Chí Minh - tình
trạng và giải pháp” (do TSKH. Trần Trọng Khuê, TS. Trương Thị Minh
Sâm, PGS.TS. Đặng Văn Phan và các cộng sự thực hiện); đề tài “Đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ 1988 đến nay” (của Trần Thị Hồng
Lê, ĐHSP TPHCM - 2004); đề tài “Tìm hiểu tình hình đầu tư nước ngoài tại
Thành Phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1991-2003” (của Cao Văn Biên, ĐHSP
TPHCM)… Các nghiên cứu trên phần lớn đề cập đến ĐTNN tại TPHCM,
Việt Nam trong mối tương quan chung các với nước trong khu vực và trên
thế giới. Ngoài ra còn có một số các bài báo, phóng sự… nhưng chỉ dừng ở
cấp độ cung cấp thông tin, gợi mở các vấn đề mang tính khái quát.
Như vậy, ĐTNN đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế của TPHCM về các mặt như giải quyết công ăn việc làm
cho người lao động, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của TP… Tuy
nhiên, nguồn vốn ĐTNN vào TP từ 1995-2004 có nhiều sự thay đổi, nhưng
so với một số nước trong khu vực thì khả năng thu hút vẫn còn hạn chế.
Trước tình hình đó đòi hỏi phải có một công trình nghiên cứu tổng thể
ĐTNN vào TP trong thời gian qua để tìm hiểu, đánh giá những mặt được và
chưa được từ đó đưa ra những biện pháp đúng đắn trong thời gian tới. Sự ra
đời của đề tài “Đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến sự
phát triển các ngành và lĩnh vực của Thành phố Hồ Chí Minh” cũng nằm
trong lý do đó.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đánh giá hiện trạng ĐTNN tại TPHCM trong những năm gần đây,
đặc biệt là giai đoạn sau khi có chủ trương chủ động tích cực thu hút ĐTNN
1998-2005.
Phân tích và chỉ ra các mặt mạnh, mặt yếu và chỉ ra được các nhân tố
tác động đến các ngành và các lĩnh vực của quá trình ĐTNN tại TPHCM.
Việt Nam nói chung và TPHCM nói riêng quan tâm quá nhiều vào đến số
lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khi các nước lại chú trọng thu
hút chất lượng các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong quá trình
cạnh tranh thu hút đầu tư ta quá coi trọng sẽ lấy được bao nhiêu dự án
nhưng dường như xem nhẹ lợi ích của dự án, tác động của dự án đến nền
kinh tế. Định hướng đưa TPHCM trở thành một trung tâm thương mại, dịch
vụ, sản xuất công nghiệp sử dụng nhiều chất xám, công nghệ cao, vì thế
đòi hỏi phải có những giải pháp thu hút đầu tư mạnh mẽ mà các giải pháp
này phải quan tâm đến chất lượng các dự án.
Trên cơ sở đó đề tài đưa ra một số kiến nghị nhằm thu hút mạnh mẽ
hơn nữa nguồn ngoại lực, tăng cường các tác động tích cực và hạn chế các
tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài để phục vụ công cuộc xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội của TP trong thời gian tới.
Đưa ra một số kiến nghị nhằm thu hút mạnh mẽ hơn nữa nguồn ngoại
lực để phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển TP trong thời gian tới.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
-Về nội dung: luận văn chỉ giới hạn vào việc phân tích, đánh giá các yếu
tố:
+Số dự án được cấp phép.
+Số dự án phân theo ngành kinh tế và lĩnh vực đầu tư.
+Quy mô dự án, số vốn bình quân một dự án.
+Đối tác đầu tư chủ yếu.
+Thu hút và sử dụng lao động.
-Về thời gian: từ 1995-2004, đặc biệt là giai đoạn 2000-2004.
-Về không gian: phạm vi nghiên cứu TPHCM.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
-Thu thập và phân tích các tài liệu, văn bản, số liệu liên quan đến ĐTNN
trong phạm vi cả nước và TPHCM.
-Kế thừa các tư liệu có sẵn.
-Phương pháp phân tích liên ngành.
-Sử dụng phân tích thống kê và phương pháp so sánh.
-Sử dụng phương pháp hệ thống thông tin địa lý (GIS), phần mềm
Photoshop.
5. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương chính sau:
Chương 1: Tầm quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự
phát triển cả nước và Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 2: Đánh giá tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành
và lĩnh vực kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3 : Các giải pháp thu hút và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG
Chương 1:
TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CẢ NƯỚC VÀ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1. Các khái niệm và hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI:
Foreign Direct Investment)
1.1.1. Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN) là một loại hình đầu tư
quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý
và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Nói cách khác, đây là hình thức đầu
tư trong đó người bỏ vốn đầu tư và người sử dụng vốn là một chủ thể. Các
doanh nghiệp (DN), các cá nhân người nước ngoài (các chủ đầu tư) trực tiếp
tham gia vào quá trình quản lý, sử dụng vốn đầu tư và vận hành các kết quả
đầu tư nhằm thu hồi đủ vốn đã bỏ ra.
Về thực chất FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng các
cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó.
FDI chủ yếu được thực hiện từ nguồn vốn tư nhân, vốn của các
công ty nhằm mục đích thu được lợi nhuận cao hơn qua việc triển khai hoạt
động sản xuất kinh doanh ở nước ngoài.
1.1.2. Đặc điểm của FDI
- Các chủ ĐTNN phải đóng góp một số tối thiểu vào vốn pháp định,
tuỳ theo luật lệ mỗi nước.
- Quyền quản lý, điều hành đối tượng đầu tư tuỳ thuộc vào mức độ
góp vốn. Nếu góp 100% vốn thì đối tượng đầu tư hoàn toàn do chủ ĐTNN
điều hành và quản lý.
- Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư phụ thuộc vào kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp
định.
- FDI được xây dựng thông qua việc xây dựng doanh nghiệp (DN)
mới, mua lại toàn bộ hay từng phần DN đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu
để thôn tính hay sáp nhập các DN với nhau.
1.1.3. Các hình thức đầu tư
Có nhiều hình thức đầu tư nhưng phổ biến các hình thức sau:
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp tác kinh doanh
- Doanh nghiệp liên doanh
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Tuỳ theo điều kiện từng quốc gia, các hình thức đầu tư trên được áp
dụng ở mức độ khác nhau.
1.1.3.1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Business Cooperation Contract)
Đây là một loại hình đầu tư, trong đó các bên tham gia hợp đồng
ký kết thoả thuận để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động sản xuất - kinh
doanh ở nước nhận đầu tư, trên cơ sở quy định rõ đối tượng, nội dung kinh
doanh, nghĩa vụ, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho các bên
tham gia.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh do đại diện có thẩm quyền của các bên
hợp doanh ký. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng do các bên thoả thuận và
được cơ quan có thẩm quyền của nước nhận đầu tư chuẩn y.
Trong các loại hình ĐTTTNN, hợp đồng hợp tác kinh doanh rất đa
dạng, không đỏi hỏi vốn lớn, các bên tham gia hợp đồng vẫn là những pháp
nhân riêng, thời hạn hợp đồng thường ngắn. Các nhà ĐTNN có ít tiềm lực
thường thích loại này.
1.1.3.2. Doanh nghiệp liên doanh (Join Venture Company)
Do các bên nước ngoài và nước chủ nhà cùng góp vốn, cùng kinh
doanh, cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Doanh nghiệp
liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có
tư cách pháp nhân theo luật pháp nước nhận đầu tư. Mỗi bên liên doanh
chịu trách nhiệm đối với bên kia, với DN liên doanh trong phạm vi phần
vốn của mình trong vốn pháp định. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài hoặc
của các bên nước ngoài do các bên liên doanh thoả thuận (theo Luật ĐTNN
của Việt Nam, vốn góp của bên nước ngoài không thấp hơn 30% vốn pháp
định của DN liên doanh và trong quá trình hoạt động không được giảm vốn
pháp định. Đối với các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng tại các vùng kinh tế
- xã hội khó khăn, các dự án đầu tư vào miền núi, vùng sâu, vùng xa, các
dự án trồng rừng tỷ lệ này có thể thấp hơn 20% nhưng phải được cơ quan
cấp giấy phép đầu tư chấp thuận).
Doanh nghiệp liên doanh là loại hình được nước chủ nhà ưa
chuộng vì có điều kiện để học tập kinh nghiệm quản lý, đào tạo lao động,
nhanh chóng có chỗ đứng trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, áp dụng hình
thức này đòi hỏi DN của nước chủ nhà phải có khả năng góp vốn, có đủ
trình độ tham gia quản lý DN với người nước ngoài thì nước chủ nhà mới
đạt được hiệu quả mong muốn.
1.1.3.3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà ĐTNN (tổ chức hoặc cá
nhân người nước ngoài) do nhà ĐTNN thành lập tại nước chủ nhà, tự quản
lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn có tư cách pháp nhân theo luật pháp của nước chủ nhà.
Đặc điểm chủ yếu của loại hình này là:
- Chủ ĐTNN bỏ ra toàn bộ vốn đầu tư, đi đủ để duy trì sản xuất,
kinh doanh tại Việt Nam (kể cả phần xây dựng cơ sở vật chất ban đầu).
- Chủ đầu tư thuê đất của chính phủ Việt Nam.
- Chủ đầu tư thuê và trả lương cho các chuyên gia Việt Nam và
nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài lúc đầu không được người
nước ngoài ưa thích vì họ muốn chia sẻ rủi ro với nước chủ nhà, còn nước
chủ nhà cũng không thích vì muốn được chia sẻ lợi ích, học tập kinh nghiệm
quản lý được hoạt động của DN. Tuy nhiên hình thức này ngày càng được
các chủ đầu tư ưa thích vì được tự mình quản lý và hưởng lợi nhuận do kết
quả đầu tư tạo ra (chủ đầu tư phải làm tròn nghĩa vụ tài chính với nước chủ
nhà) còn nước chủ nhà không phải lúc nào cũng có thể tham gia góp vốn
thành lập DN liên doanh. Vì vậy đối với những dự án đầu tư vốn lớn, thời
hạn thu hồi vốn lâu, độ mạo hiểm cao và không đòi hỏi tham gia quản lý
sát sao quá trình vận hành các kết quả đầu tư (như dự án dầu khí, các dự án
xây dựng hạ tầng cơ sở kỹ thuật) thì thường buộc phải để nhà ĐTNN đầu tư
100%.
1.1.3.4. Các hình thức đầu tư khác
Ngoài 3 hình thức trên, các nước chủ nhà còn áp dụng các hình
thức khác như: hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (B.O.T), xây
dựng - chuyển giao - kinh doanh (B.T.O) và xây dựng - chuyển giao (B.T).
+Hình thức B.O.T (Built - Operate- Transfer): các chủ đầu tư
chịu trách nhiệm xây dựng, kinh doanh công trình trong một thời gian đủ để
thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Sau khi dự án kết thúc, toàn bộ
công trình sẽ được chuyển giao cho nước chủ nhà mà không thu bất kỳ một
khoảng tiền nào.
+Hình thức B.T.O (Built - Transfer - Operate) : sau khi xây dựng
xong, nhà đầu tư chuyển giao cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà
dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian
nhất định để thu hồi đủ vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
+Hình thức B.T (Built - Transfer): sau khi xây dựng xong, chủ
đầu tư chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà, nước chủ nhà sẽ tạo
điều kiện cho nhà ĐTNN thực hiện dự án khác để thu hồi đủ vốn đầu tư và
có lợi nhuận hợp lý.
1.2. Bối cảnh quốc tế và trong nước
1.2.1. Xu thế hội nhập, toàn cầu hoá
Trong suốt thế kỷ XX, xu thế quốc tế hoá kinh tế trong quy mô
khu vực và toàn cầu diễn ra mạnh mẽ. Đặc biệt là khi xuất hiện nền văn
minh công nghiệp, mà trong đó khoa học và công nghệ đóng vai trò then
chốt đã thúc đẩy nền sản xuất mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu,
vượt ra khỏi ranh giới địa - chính trị chật hẹp truyền thống, góp phần gia
tăng quy mô và tốc độ nền sản xuất xã hội. Vào những năm cuối thế kỷ XX
- đầu thế kỷ XXI này thì quốc tế hoá ngày càng sâu rộng, đã đạt tới một
quy mô mới lớn hơn, ở một trình độ cao hơn - đó là toàn cầu hoá. Đây là
một xu thế khách quan, một quy luật tất yếu trong sự phát triển của xã hội
loài người. Đồng thời đây cũng là một xu thế chứa đựng các cơ hội và các
thách thức to lớn đối với mọi quốc gia hiện nay, đặc biệt đối với các nước
đang phát triển như Việt Nam.
Các luồng thương mại, dịch vụ, ĐTTTNN và tài chính, công nghệ,
nhân lực giữa các nước gia tăng mạnh mẽ cả về tốc độ lẫn quy mô, trong
đó FDI phát triển với tốc độ nhanh hơn thương mại quốc tế.
Từ cuối thập niên 80 - đến đầu thập niên 90, Liên Xô sụp đổ, hệ
thống xã hội chủ nghĩa bị tan rã đã phá vỡ toàn diện lưỡng cực cũ. Kết quả,
một trật tự thế giới mới đã được hình thành với những xu thế thay đổi lớn
về chất: từ đối đầu, xung đột, chạy đua chuyển sang ganh đua, cạch tranh
phát triển kinh tế, mở rộng giao lưu và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối
ngoại; chính sách mở cửa thay cho đóng cửa; liên kết kinh tế khu vực đồng
thời với toàn cầu hoá thị trường và kinh tế (tiêu biểu là sự hình thành tổ
chức liên kết kinh tế mang tính toàn cầu như APEC, AFTA, NAFTA, G-8…
).
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước trong khu vực
đã và đang có những bước chuyển biến mạnh mẽ. Sự hợp tác giữa các
thành viên ASEAN trong hầu hết tất cả các lĩnh vực đầu tư, công nghiệp tài
chính, du lịch… phát triển nhanh chóng và thu được nhiều kết quả quan
trọng, góp phần phát triển kinh tế từng nước và cả khu vực. Đặc biệt, khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) được bắt đầu thực hiện từ ngày
1/1/1993 và thực hiện đầy đủ đối với các nước Việt Nam vào năm 2005,
Lào và Myanma vào năm 2007 và Campuchia vào năm 2009. Các nước
ASEAN thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ AFTA sẽ mở ra một thị trường rộng
lớn gồm khoảng 500 triệu người tiêu dùng với những mức thuế quan ưu đãi
và hàng rào phi thuế quan được giảm thiểu, hứa hẹn những cơ hội đầu tư,
kinh doanh hấp dẫn cho các nhà ĐTNN.
Nhận thức được tầm quan trọng của vai trò FDI đối với tăng
trưởng kinh tế và giải quyết vấn đề việc làm nên các nước công nghiệp
phát triển lẫn các nước đang phát triển đều chú trọng thu hút ĐTNN. Với
việc hình thành NAFTA, EU… môi trường đầu tư tại các khu vực này trở
nên hấp dẫn cạnh tranh hơn do được mở và tự do hoá ở mức cao hơn. Nhiều
nước đang tiếp tục mở cửa tạo điều kiện thuận lợi cho FDI thông qua các
hiệp định song phương và những chính sách ưu đãi đầu tư trong phạm vi khu
vực và từng nước để tạo đà đi lên.
Báo cáo đầu tư thế giới năm 2004 của Liên hiệp quốc cũng cho
thấy làn sóng FDI đang hướng về Châu Á với giá trị khoảng 107 tỷ USD
trong năm 2003, chấm dứt sự giảm sút của năm 2000, 2001, 2002 [7, tr.9].
FDI luôn phát triển với tốc độ nhanh và trở thành một loại hình quan hệ
kinh tế có vai trò quan trọng có tính tất yếu đối với sự phát triển nền kinh
tế thế giới và hầu hết các quốc gia, trong đó các nước công nghiệp phát
triển là lực lượng chi phối chủ yếu.
Nhiều ngành trước đây được xem như đóng cửa đối với FDI như
viễn thông, bảo hiểm… đã được mở ra cho FDI và tự do hoá hơn.
Theo các chuyên gia kinh tế thế giới, dòng vốn FDI chuyển sang
lĩnh vực dịch vụ rõ rệt (bưu chính viễn thông, điện, nước, các loại dịch vụ
thương mại). Trong khoảng thời gian từ 1990 đến 2002, ĐTNN đổ vào
ngành điện, ga và nước tăng từ 10 tỷ lên 144 tỷ USD; các lĩnh vực viễn
thông, kho bãi, vận tải đón nhận 476 tỷ USD so với con số ít ỏi 29 tỷ USD
trước những năm 1990 [7, tr.9].
Ngoài ra đồng vốn FDI còn đầu tư vào các lĩnh vực khác như chế
tạo máy, điện tử, sản xuất ôtô. Khả năng thu lợi nhuận của các công ty lớn
hơn sẽ khuyến khích các tập đoàn kinh tế đa quốc gia nâng mức đầu tư ở
nhiều nước.
1.2.2. Chủ trương đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Vài thập kỷ gần đây, dân tộc Việt Nam cùng cả nhân loại đang
đứng trước một hiện thực khách quan là toàn cầu hoá nền kinh tế và đời
sống xã hội, mà động lực của nó là sự phát triển nhanh chóng của cách
mạng khoa học và công nghệ. Những năm gần đây, nhiều quốc gia lớn, nhỏ
đều dành ưu tiên cho phát triển kinh tế và do đó, ngày càng tham gia nhiều
hơn vào quá trình liên doanh, liên kết, hợp tác song phương và đa phương,
khu vực và quốc tế… Đây là điều kiện thuận lợi để các dân tộc xích lại
gần nhau, trao đổi học tập kinh nghiệm và giúp đỡ lẫn nhau… Chúng ta chủ
trương “tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế” với tinh thần
“Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” [7, tr.11].
Từ Đại hội VI (1986) tới nay, chúng ta bước vào thời kỳ đổi mới
từng bước, toàn diện trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội lâm vào khủng
hoảng nghiêm trọng và trong bối cảnh quốc tế biến động nhanh chóng,
phức tạp và gây cho chúng ta rất nhiều khó khăn. Cuộc khủng hoảng chủ
nghĩa xã hội trên thế giới, đặc biệt là sự sụp đổ các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu và Liên Xô đã dẫn đến nguồn viện trợ ưu đãi, có tính “bao cấp”
về tài chính, vật tư, kỹ thuật từ bên ngoài và thị trường truyền thống tiêu
thụ nhiều loại sản phẩm của ta giảm đột ngột làm đảo lộn những cân đối
quan trọng trong kế hoạch ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1986-
1990) những năm đầu của sự nghiệp đổi mới. Cuộc khủng hoảng của nhiều
nước xã hội chủ nghĩa trước đây ảnh hưởng lớn tới nhận thức tư tưởng, tâm
tư của đảng viên và nhân dân, cộng với khó khăn mới về các mối quan hệ
kinh tế, đồng thời Mỹ tiếp tục bao vây, cấm vận, các thế lực thù địch tiếp
tục tấn công về nhiều mặt, trong đó có những biến động trong thời kỳ đổi
mới, xuất hiện lạm phát phi mã… những khó khăn đó tưởng chừng không
thể vượt qua (Kết thúc 5 năm 1986-1990, công cuộc đổi mới đã đạt được
những thành tựu bước đầu rất quan trọng, GDP tăng 4,4%/ năm. Việc thực
hiện tốt 3 chương trình mục tiêu phát triển về lương thực, thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu được đánh giá là thành công bước đầu nhằm
cụ thể hoá nội dung của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng
đường đầu tiên đã được Đại hội IV thông qua; Trong 5 năm 1991-1995 nền
kinh tế đã đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và tương đối
toàn diện, thực hiện vượt mức hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5
năm, GDP bình quân hàng năm 1991-1995 tăng 8,2%, vượt mức kế hoạch
đề ra; 5 năm 2001-2005, kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh theo hướng tích
cực, năm sau cao hơn năm trước. GDP tăng bình quân 7,5%, đạt mục tiêu
kế hoạch đề ra).
Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, bình quân hàng năm thời
kỳ 1991-1995 tăng 17,8%/năm; thời kỳ 1996-2000 tăng 21%/năm; thời kỳ
2001-2005 tăng 17,5%/năm. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người
tăng từ 36,3 USD năm 1990 lên 390 USD năm 2005 [10].
Giai đoạn 1986-2000, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn
và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho bước phát triển tiếp theo. Tổng sản
phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 7%/ năm. Nông nghiệp phát triển
liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực (Việt Nam trở thành nước xuất
khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới). Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân tăng
13,5%/năm. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Các ngành dịch vụ,
xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng. Năm 2000, chúng ta đã chặn được đà
giảm sút mức tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt hoặc vượt
mức kế hoạch đề ra. Mỗi năm khoảng 1,2 triệu người có việc làm. Công tác
xoá đói, giảm nghèo trên phạm vi cả nước đạt kết quả nổi bậc, được dư
luận thế giới đánh giá cao. Chế độ xã hội ổn định và phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ
rệt… Có thể nói 20 năm đổi mới đã làm thay đổi bộ mặt của đất nước và
đời sống của nhân dân, nền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được củng
cố, vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.
Những năm cuối thế kỷ XX, Việt Nam đạt được những thành tựu
quan trọng, “hoá giải được những tác động kinh tế của sự tan vỡ chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu” [19, tr.259]. Quan hệ ngoại giao nói
chung và quan hệ kinh tế nói riêng giữa Việt Nam với các nước trên thế
giới ngày càng được củng cố và tăng cường, nhằm hướng đến hoà bình, ổn
định, hợp tác và phát triển. Việc tăng cường các cuộc tiếp xúc, tham gia các
tổ chức kinh tế khu vực và thế giới (APEC, AFTA… ); Hiệp định thương
mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, tích cực đàm phán gia nhập WTO… là
những biểu hiện cụ thể của xu hướng đó.
Đất nước đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, xây dựng nền kinh tế tự chủ, đưa đất nước trở thành nước công
nghiệp. Quá trình này đòi hỏi nguồn vốn rất lớn không những từ trong nước
mà còn từ nước ngoài. Ngày 1/1/1988, Luật ĐTTTNN tại Việt Nam chính
thức có hiệu lực, kể từ đó đến nay Việt Nam đã thu hút những kết quả to
lớn, tạo ra một động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội Việt Nam
không ngừng phát triển. Để tăng cường hiệu quả của việc thu hút nguồn
vốn ĐTTTNN, Luật và Nghị định về ĐTNN đã được sửa đổi, bổ sung nhiều
lần vào tháng 6/1992; tháng 11/1996; tháng 6/2000… Ngoài ra có nhiều cơ
chế chính sách chủ trương liên quan đến ĐTNN được Chính phủ, Bộ ngành,
địa phương ban hành. Tất cả các văn bản đó đều hướng tới xây dựng một
môi trường đầu tư hấp dẫn, thông thoáng, hiệu quả, tạo mọi điều kiện tốt
nhất cho các nhà ĐTNN yên tâm đầu tư và làm ăn lâu dài tại Việt Nam.
Điểm mới của ĐTNN đó là Nhà nước chủ trương chuyển sang loại hình
công ty cổ phần (Nghị định số 38/2003/ NĐ-CP ngày 24/5/2003 về chuyển
đổi một số DN có vốn ĐTNN sang hoạt động theo hình thức cổ phần). Như
vậy sau gần 18 năm thực hiện Luật ĐTNN, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN
đã không ngừng phát triển và cùng với khu vực kinh tế tư nhân trong nước
trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cũng phát triển mạnh. ĐTNN đã
góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới và thúc đẩy tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam với khu vực và thế giới. Việc các nước và
vùng lãnh thổ tích cực đầu tư vào Việt Nam đã góp phần mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại và sự tham gia phân công lao động quốc tế của các doanh
nghiệp Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình hội nhập kinh tế
của Việt Nam với khu vực và thế giới.
1.3. FDI đối với sự phát triển kinh tế cả nước
Từ khi công bố luật ĐTNN (12/1987), sau 3 lần sửa đổi - một đạo luật
đựơc đánh giá là rất thoáng và cởi mở - với những lợi thế về tài nguyên, lao
động, vị trí địa lý, thị trường… ĐTNN vào nước ta đã và đang tăng nhanh
cả về số lượng và quy mô. Các số liệu sau đây chứng tỏ điều đó.
Bảng 1.1. Số dự án và vốn ĐTNN được cấp giấy phép tại Việt Nam
1988-2004
Năm Dự án Vốn đầu tư Vốn pháp định
Số
lượng
Mức
tăng(%)so
với năm
Tăng
vốn
(triệu
Mức
tăng(%)so
với năm
Số lượng
(triệu
USD)
Mức
tăng(%)so
với năm
trước USD) trước trước
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
37
68
108
151
197
274
367
408
387
358
285
311
389
523
754
550
679
183,8
158,8
139,8
130,5
139,1
133,9
111,2
94,9
92,5
79,6
109,1
125,1
134,4
144,2
72,9
123,5
371,8
582,5
839,0
1322,0
2165,0
2589,0
3746,0
6848,8
8979,0
4894,2
4138,0
1568,0
2018,0
5536,0
1557,7
2592,0
2084,5
156,7
144,0
157,6
163,7
119,6
144,7
182,8
131,1
54,5
84,6
37,9
128,7
274,3
28,1
170,8
80,4
288,4
311,5
407,5
663,6
1418,0
1468,5
1899,0
3157,6
3280,3
2404,4
1976,0
693,3
1625,0
1044,1
721,4
1044,1
985,6
108,0
103,8
162,8
213,7
103,6
129,3
166,3
103,9
73,3
82,2
35,1
234,4
64,3
69,1
144,7
94,4
T.Số 5846 51.830
Nguồn: Niên giám Thống kê, Cục Thống kê TPHCM 1998-2004
Đầu tư nước ngoài thật sự trở thành một nguồn lực quan trọng, đảm
bảo duy trì sự tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm ở mức 8,5 - 9,6%. Đến
nay đã có 58 quốc gia, vùng lãnh thổ với trên 700 công ty đầu tư vào Việt
Nam. Khi đi vào hoạt động, các DN có vốn nước ngoài đóng góp cho ngân
sách hàng năm 1510 tỷ đồng, thu hút 170.000 lao động trực tiếp, hàng vạn
chục lao động gián tiếp, kim ngạch xuất khẩu của các DN này đạt 600 triệu
USD; số hàng hoá Việt Nam đã đến được thị trường Âu, Mỹ, Nhật Bản.
Nhiều loại hình kinh tế mới như KCX, KCN xuất hiện, góp phần đẩy nhanh
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Riêng 1996, tuy số lượng dự án giảm, nhưng tổng vốn ĐTTTNN vẫn
tăng trên 30%, xuất khẩu đạt 300 triệu USD (tăng gấp 1,5 lần năm 1995) và
chiếm 13% GDP cả nước [15]. Năm 1996 đánh dấu những thay đổi tích cực
về chất lượng trong hoạt động đầu tư.
Về cơ cấu lĩnh vực đầu tư, khác với các năm trước, năm 1996 số dự
án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất vật chất chiếm tuyệt đại bộ phận (75-80%),
cung cách làm ăn ngắn hạn, chụp giật dường như không còn. Các lĩnh vực
trước đây thu hút nhiều FDI nhất như kinh doanh khách sạn, xây dựng văn
phòng cho thuê giảm 53-70% vì đã có xu hướng bão hoà. Trong khi đó,
ngoài 3 ngành viễn thông, vận tải, thăm dò và khai thác dầu khí không có
dự án nào, thì các lĩnh vực sản xuất khác tăng vượt bậc: “đầu tư vào ngành
công nghiệp tăng 90%; công nghiệp nhẹ tăng 81%; xây dựng tăng 154%;
nông-lâm-ngư tăng 40%. Tính bình quân mỗi dự án có số vốn nhiều hơn,
đạt 17,5 triệu USD (năm 1995 là 16,3 triệu USD)” [15].
Năm 1996, có nhiều dự án có quy mô tầm cỡ. Chẳng hạn như dự án
xây dựng đô thị Nam Thăng Long (Hà Nội) với số vốn 2,1 tỷ USD; dự án
xây dựng khu đô thị An Định (TPHCM) có số vốn đăng ký 940 triệu USD…
[14]. Đây là những dự án dài hạn, thực hiện phức tạp, qua nhiều giai đoạn
và khi hoàn thành sẽ đem lại một diện mạo mới cho các thành phố lớn.
Đến cuối năm 2005, cả nước đã thu hút được khoảng 50 tỷ USD vốn
đầu tư từ 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Vốn ĐTNN đã đóng
góp trên 15% tổng sản phẩm quốc nội; 37,5% giá trị công nghiệp và 54%
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Riêng năm 2005, Việt Nam đã thu hút
được hơn 6 tỷ USD vốn đăng ký, trong đó vốn thực hiện là khoảng 3,3 tỷ
USD, tăng 15% so với năm 2004, chiếm 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội;
nộp ngân sách từ khu vực ĐTNN là 1,29 tỷ USD, tăng 40% so với năm 2004
và chiếm 125 tổng thu ngân sách [4].
Về đối tác nước ngoài, ngoài các nước châu Á, tốc độ đầu tư của các
nước châu Âu, Mỹ gia tăng nhanh, nhiều công ty liên quốc gia đã được cấp
giấy phép hoạt động. Sự có mặt của các cường quốc kinh tế, các công ty
xuyên quốc gia sẽ góp phần thúc đẩy FDI tại Việt Nam đi vào chiều sâu,
nước ta có nhiều cơ hội để tiếp nhận các công nghệ tiên tiến, hiện đại, kinh
nghiệm quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô. Tính đa dạng của các đối tác
nước ngoài càng làm cho hoạt động đầu tư thêm sôi động.
Những thay đổi trong địa bàn phân bố các dự án là nét nổi bật, đặc
sắc nhất của hoạt động FDI năm 1996. Trước đây, FDI chỉ tập trung tại các
thành phố lớn như Hà Nội, TPHCM (thường chiếm 60 -70% số dự án và số
vốn đăng ký [15]). Năm 1996 đầu tư vào hai thành phố này đang chững lại.
Trong khi đó các tỉnh xung quanh, do có những ưu thế riêng về giá đất, lao
động rẻ, thị trường giàu tiềm năng, cơ sở hạ tầng được cải thiện đang trở
thành những điểm nóng thu hút FDI. Việc tăng nhanh số lượng các dự án và
số vốn FDI tại các tỉnh là một xu hướng phổ biến, đã từng thấy ở nhiều
nước trong khu vực như Thái Lan, Inđônêsia, Malaysia… có ý nghĩa tích
cực, phù hợp với chương trình hoạch định phát triển kinh tế - xã hội, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng nhanh kinh tế nông thôn, hạn chế và khắc phục
chênh lệch lớn giữa các vùng lãnh thổ, các miền đất nước.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996), tình hình chính trị
nước ta tiếp tục ổn định, hệ thống luật pháp từng bước được hoàn thiện,
tăng trưởng kinh tế cao tăng dần sức mua của dân chúng, mở rộng thị
trường nội địa… tất cả các yếu tố đó cùng với nhiều tiềm năng đất nước
chưa được khai thác đã dẫn đến ĐTTTNN vào Việt Nam không những giữ
nguyên được tốc độ và nhịp điệu mà còn có tăng thêm.
Tuy nhiên, chúng ta cũng đang gặp phải những trở ngại, ách tắc cần
tháo gỡ. Theo đánh giá của các cơ quan tư vấn quốc tế và nhiều nhà đầu tư,
môi trường._. đầu tư của Việt Nam đã có nhiều cải thiện, nhưng vẫn còn hạn
chế, nhất là trong quản lý nhà nước và nguồn nhân lực có chất lượng cao,
đã qua đào tạo. Bộ máy nhà nước còn quá cồng kềnh, quan liêu, tham
nhũng, phải qua nhiều khâu vòng vèo, dễ làm nản chí các chủ dự án. Thông
thường con đường đầu tư phải qua 3 khâu chính: vận động thu hút đầu tư,
thẩm định và cấp giấy; triển khai thực hiện dự án. Trong 3 khâu đó, khâu
thứ 2 đã có chuyển biến tích cực, rút ngắn thời hạn cấp giấy phép xuống
còn 1 tháng hoặc 2 tuần theo cơ chế “một cửa, một con dấu”. Khâu cấp
giấy phép xây dựng, giải toả mặt bằng, đền bù thì vẫn hết sức rắc rối,
chậm, lắm nhiêu khê và thiếu sự chỉ đạo thống nhất (nhiều dự án mất khá
nhiều thời gian), trong khi đó nguồn nhân lực đông đảo Việt Nam đang mất
dần lợi thế. Số công nhân lành nghề, thạo việc thiếu hụt trầm trọng, hiện
tại rất khó tuyển dụng được số lượng lớn công nhân có chuyên môn cao,
giỏi ngoại ngữ, có năng lực quản lý, văn hoá công nghiệp…
Chương 2:
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀO CÁC NGÀNH VÀ LĨNH VỰC KINH TẾ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Những nhân tố tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài, thách thức và
cơ hội
2.1.1. Những thuận lợi
Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích 2029 km², dân số 5.554.800
triệu người (2003), là khu vực đông dân nhất cả nước, có vị trí địa lý thuận
lợi. Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm văn hoá, khoa học kỹ thuật lớn,
trung tâm công nghiệp - thương mại dịch vụ năng động nhất cả nước, dù chỉ
chiếm 0,6% dân số và 6,6% dân số nhưng đóng góp 19,3% GDP cả nước;
31,6% tổng thu ngân sách quốc gia. Theo báo cáo Chính trị tại Đại hội với
nội dung chủ yếu về kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
TP lần VII (2001-2005) và nhịêm vụ xây dựng, phát triển và bảo vệ TP
trong 5 năm 2006-2010. “Đổi mới toàn diện và mạnh mẽ hơn nữa, phát huy
dân chủ và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, động viên mọi nguồn
lực, nắm bắt thời cơ, vượt qua thử thách, chủ động hội nhập kinh tế khu vực
và quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững,
không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị - xã
hội; xây dựng TP ngày càng văn minh, hiện đại, từng bước trở thành một
trung tâm công nghiệp, dịch vụ, khoa học công nghệ của khu vực Đông Nam
Á; góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới và bảo vệ tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa” [Báo người lao động, số 9985, tr.11].
Theo dự báo của các tổ chức kinh tế - tài chính quốc tế kinh tế thế
giới phát triển khả quan trong những năm tới. Các nền kinh tế là đối tác
chủ yếu về thương mại và đầu tư của Việt Nam đều tăng trưởng khá. Đặc
biệt, các nền kinh tế khu vực Đông Á, sau giai đoạn khủng hoảng trước
đây, nay đã phục hồi và phát triển mạnh. Đây là điểm thuận lợi để phát
triển ngoại thương và ĐTNN.
Với những thành tựu nổi bật trong công cuộc đổi mới, dư luận quốc
tế đánh giá cao tiềm năng phát triển kinh tế của Việt Nam và các nỗ lực
của Chính phủ Việt Nam trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển. Đây
là cơ sở thuận lợi để đẩy mạnh hợp tác quốc tế, quan hệ thương mại và xúc
tiến đầu tư. Thành phố Hồ Chí Minh còn được cộng đồng quốc tế biết đến
như là một địa phương năng động, sáng tạo, đi đầu trong cả nước về việc
thử nghiệm các chính sách phát triển mới, đóng góp cho cả nước nhiều kinh
nghiệm thực tiễn quý báu.
Nét nổi bậc 2001-2005 là các ngành khu vực dịch vụ bắt đầu phát
triển khởi sắc hơn so với giai đoạn 1996-2000 (chỉ tăng 8,4%/năm). Điều
đáng quan tâm là tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước (năm 2000
là 7%, năm 2001 là 7,4%, năm 2004 là 11,1%). Xét về cơ cấu các ngành
dịch vụ tài chính - ngân hàng có tốc độ tăng trưởng rất cao (12,2% năm
2001; 28,6% năm 2002; 20% năm 2003; 18,7% năm 2004); kế đến là lĩnh
vực vận tải, kho bãi và viễn thông (10,6% năm 2001; 12,8% năm 2002;
10,9% năm 2003; 9,4% năm 2004). Lĩnh vực thương mại, sau ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế - tài chính các nước trong khu vực cũng đang trên đà
phục hồi (tăng 7% năm 2002; 9,4% năm 2003; 10,3% năm 2004) [10], thị
trường nội địa phát triển ổn định, hàng hoá phong phú, đa dạng, nhiều sản
phẩm của TP đã chiếm lĩnh được thị trường, dành được thị phần vững chắc,
cơ sở vật chất hạ tầng ngành thương mại đã được quan tâm đầu tư xây
dựng, bước đầu phát huy tác dụng, góp phần tăng cường vai trò, vị trí trung
tâm của TP trong điều phối, cung ứng hàng hoá trong khu vực và ra nước
ngoài qua nhiều kênh phân phối đa dạng và ngày càng lớn mạnh.
Các loại dịch vụ khác như du lịch, giáo dục, y tế, khoa học - công
nghệ cũng tăng trưởng cao với tốc độ bình quân hơn 10%/ năm trong 5 năm
qua. Đây là những ngành mà TP thật sự có thế mạnh để phát triển phù hợp
với định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang các ngành dịch vụ cao cấp.
Về cơ cấu nguồn vốn đầu tư, tỉ lệ đầu tư của khu vực kinh tế dân
doanh và kinh tế có vốn ĐTNN của cả nước thấp hơn của TP nhiều. Đối với
cả nước, giai đoạn 2001-2005 đầu tư khu vực dân doanh chiếm 26% (TP là
41%), ĐTNN là 16,4% (TP là 22%) [10]. Điều này cho thấy đầu tư trên địa
bàn TP ít phụ thuộc hơn vào ngân sách và DN Nhà nước so với cả nước, thể
hiện sự năng động của TP trong việc thu hút các nguồn lực xã hội tham gia
đầu tư phát triển.
Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn TP tăng bình quân
16,8%/năm giai đoạn 2001-2005, đóng góp 30,6% nguồn thu ngân sách Nhà
nước. Tốc độ này cao hơn mức tăng trưởng kinh tế và lạm phát cộng lại,
cho thấy mức độ huy động ngân sách trên tổng sản phẩm nội địa (GDP)
ngày càng tăng.
Hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật về tài chính tiếp tục được
đổi mới theo hướng tạo môi trường đầu tư và môi trường kinh doanh thuận
lợi, đảm bảo tập trung nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu của nền
kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, từng bước sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực tài chính. Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/1/2002
của Chính phủ về thực hiện cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có
thu đã tăng quyền chủ động, phát huy được tính năng động của TP, của các
đơn vị sử dụng ngân sách, nhất là đối với lĩnh vực quản lý, điều hành thu-
chi ngân sách, ngoài ngân sách địa phương sẽ được điều tiết thêm một số
nguồn thu như thu thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nội địa, phí xăng dầu, các
nguồn lực xã hội với hình thức đa dạng hơn đã được huy động, phần nào
đáp ứng kịp thời cho nhu cầu phát triển của TP.
Xuất khẩu trên địa bàn TP tiếp tục tăng trưởng khá, 2001-2005 tăng
bình quân 14,2%/năm [10], thị trường xuất khẩu được mở rộng , nhất là thị
trường mới ở Bắc Mỹ và Châu Âu, trong đó Mỹ đã trở thành thị trường xuất
khẩu lớn nhất của TPHCM vài năm gần đây, một số thị trường lớn nhất như
Sigapore, Trung Quốc tương đối ổn định. Tỷ trọng sản phẩm công nghiệp
(không kể dầu thô) trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu khá cao và sản phẩm
xuất khẩu ngày càng đa dạng, nhất là các sản phẩm công nghiệp chế tác (
như: điện - điện tử, phần mềm, gỗ, nhựa… ). Ngoài xuất khẩu hàng hoá,
xuất khẩu dịch vụ - địa bàn TP đã bước đầu khẳng định được vai trò ngày
càng quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, loại hình dịch vụ xuất khẩu
ngày càng đa dạng hơn. Ngoài du lịch, đã hình thành nhiều dịch vụ xuất
khẩu khác như xuất khẩu lao động, đào tạo, y tế.
Hoạt động du lịch của TP phát triển mạnh, tổng số lượt khách quốc
tế đến thành phố tăng từ 1,1 triệu lượt người năm 2000 lên 1,6 triệu lượt
người năm 2004 (tăng bình quân 14%/năm, đạt 54% tổng số lượng khách
quốc tế đến Việt Nam hàng năm). Tổng doanh thu du lịch 2004 đạt 10.812
tỷ đồng, chiếm trên 40,8% doanh thu ngành du lịch cả nước, góp phần đáng
kể vào tăng trưởng của khu vực dịch vụ [10].
Thành phố còn là nơi hội tụ của nhiều trường đại học, cao đẳng và
trường dạy nghề với đội ngũ trí thức, công nhân có tay nghề đông đảo.
Thành phố hiện có khoảng 32 trường đại học, 20 trường cao đẳng, 29 trường
trung học chuyên nghiệp với tổng số cán bộ giảng dạy là 11254 người; hơn
60 viện và trung tâm nghiên cứu; 230.000 người có trình độ cao đẳng trở
lên, trong đó gần 3000 tiến sĩ và 5000 thạc sĩ [4]. Như vậy có thể nói, thế
mạnh về nhân lực, khoa học- công nghệ là một thế mạnh cơ bản về phát
triển dài hạn của TP. Đồng thời TP còn là một khu vực hấp dẫn đối với một
lượng lớn lao động tỉnh.
Khoa học và công nghệ trên địa bàn trong thời gian qua đã đẩy
mạnh nghiên cứu các đề tài ứng dụng, chuyển giao công nghệ phục vụ phát
triển kinh tế như công nghệ thông tin, sinh học, cơ khí tự động, vật liệu mới,
trong đó công nghệ thông tin đã có bước phát triển đáng kể, góp phần tăng
trưởng kinh tế, đổi mới quản lý trên các lĩnh vực. Thành phố đã thành lập
các trung tâm công nghệ thông tin lớn như Công viên phần mềm Quang
Trung, thành lập khu công nghệ cao, các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Các chương trình, mục tiêu phát triển ngành kinh tế, chương trình hỗ trợ DN
tăng năng suất, chất lượng và hội nhập tiếp tục được thực hiện. Chợ tư vấn
khoa học - công nghệ và quản lý đã được tổ chức trên địa bàn TP thời gian
qua. Sự gắn kết giữa khoa học với quá trình phát triển kinh tế - xã hội đã có
bước tiến bộ mới. Sự liên kết giữa các DN, cơ quan nghiên cứu và cơ quan
quản lý Nhà nước được hình thành, thị trường khoa học công nghệ được tạo
lập qua việc tổ chức thi thiết bị và công nghệ, tư vấn, bước đầu tạo ra
những công nghệ, thiết bị mới, thay thế nhập khẩu với chi phí thấp, góp
phần tăng thêm năng lực và lợi nhuận cho các DN.
Thành phố đã xác định rõ hướng phát triển một số ngành công
nghiệp chủ lực của TP, đó là dệt may, da giày, phát triển điện tử, công
nghệ phần mềm, hoá chất, cơ khí chế tạo, chế biến lương thực, thực phẩm.
Đây là cơ sở quan trọng giúp cho việc thu hút có trọng điểm nguồn FDI.
Thành phố là nơi thu hút vốn ĐTNN mạnh nhất cả nước, từ khi Luật
đầu tư được ban hành. Số dự án đầu tư vào TP chiếm khoảng 1/3 tổng số dự
án ĐTNN trên cả nước giai đoạn 1988-2004 cả nước có 5846 dự án với tổng
số vốn đăng ký 51830 triệu USD thì TP có 1925 dự án với tổng số vốn đăng
ký 16433 triệu USD (bảng 2.1), chiếm 32,928% về số dự án và 31,7% về
vốn đăng ký so với cả nước.
Thành phố là một trong những địa phương đi đầu trong cả nước về
thực hiện cải cách hành chánh giai đoạn 2001-2010. Cơ chế hành chánh
một dấu, một cửa ở các quận - huyện và một cửa ở một số cơ sở - ngành
tiếp tục được củng cố và hoàn thiện. Việc ứng dụng công nghệ thông tin và
ISO trong quản lý hành chính Nhà nước và phục vụ nhân dân được các
ngành, các cấp quan tâm thực hiện. Công tác tin học hoá và giải quyết thủ
tục hành chính qua mạng bước đầu đạt được nhiều kết quả khả quan. Đối
thoại giữa lãnh đạo Thành phố với DN Thành phố thông qua mạng là một
cầu nối thông tin quan trọng hiện nay.
2.1.2. Những khó khăn và thử thách
Bên cạnh những thuận lợi trên, trong khi thực hiện thu hút ĐTNN
TP còn gặp một số khó khăn và thử thách.
Mặc dù, Nhà nước đã có những chính sách, chủ trương mới nhằm
thu hút ĐTNN, nhưng các hướng dẫn cụ thể nhằm thực hiện các chính sách
chủ trương thường chậm nên chưa phát huy được tác dụng.
Quy trình và thủ tục cấp giấy phép đầu tư chưa được cải thiện
nhiều, mặc dù TP kiên quyết cải cách thủ tục hành chính (các thủ tục hành
chính còn rườm ra, gây khó khăn cho người dân và DN). Năng lực của một
số cán bộ, công chức còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển ngày
một cao của TP. Tình trạng quan liêu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm còn
khá phổ biến trong các cơ quan công quyền: tiêu cực, nhũng nhiễu đã gây
cản trở cho hoạt động kinh doanh chân chính của DN, làm chi phí sản xuất
DN bị tăng cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của DN trên thương trường
trong và ngoài nước. Hoạt động tiêu cực, nhũng nhiễu tồn tại từ lâu nhưng
những nổ lực khắc phục mang lại hiệu quả còn chậm.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào TP trong những năm qua đạt tốc độ
tăng trưởng thấp. Có nhiều nguyên nhân giải thích cho hiện tượng này, cả
chủ quan lẫn khách quan, nhưng có thể nói môi trường đầu tư của TP, tuy
đã được cải thiện nhưng tốc độ cải thiện còn chậm, thêm vào đó là thủ tục
triển khai dự án đầu tư vẫn còn phức tạp, kéo dài khiến cho TP trở nên kém
hấp dẫn đối với các nhà ĐTNN.
Quỹ đất TP có hạn, việc đền bù giải toả gặp nhiều khó khăn, giá
đền bù biến động theo chiều hướng tăng, đối với các dự án lớn thì việc đền
bù lớn dẫn đến sự khó khăn và chậm trễ trong quá trình triển khai các dự
án đầu tư.
Khoảng 2 năm gần đây, sự phát triển công nghiệp hoá - đô thị hoá
các tỉnh, đặc biệt là các tỉnh lân cận dẫn đến thiếu nguồn nhân lực cho các
dự án FDI triển khai ở TP.
Thành phố không đủ nguồn lực tài chính công để giải quyết các nhu
cầu về phát triển hạ tầng kỹ thuật và xã hội đã và đang rất cấp bách: ô
nhiễm môi trường, ùn tắc giao thông, ngập nước và các vấn đề xã hội phát
sinh… trong khi sự gia tăng nhanh chóng người nhập cư vào TP đã tiếp tục
tạo nên áp lực rất lớn đối với hạ tầng kỹ thuật và xã hội của TP. Các ngành
kinh tế phát triển sẽ thu hút thêm lao động, nhất là lao động nhập cư và đẩy
nhanh quá trình đô thị hoá, bên cạnh đó cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển sẽ dẫn đến quá tải và ô nhiễm môi trường
nặng hơn.
Việc phát triển các Khu công nghiệp trên địa bàn TP thời gian qua
không đồng bộ với việc quy hoạch phát triển khu dân cư và bảo vệ môi
trường, trong quá trình quy hoạch chưa xem xét đến các yếu tố địa lý (liên
quan đến cơ sở hạ tầng, nguồn tài nguyên, khu dân cư… của các khu vực)
mà phát triển chủ yếu dựa vào các tuyến đường giao thông chính có sẵn,
không quy hoạch các tuyến giao thông mới phục vụ phát triển Khu công
nghiệp. Quy hoạch tổng thể TP qua nhiều lần chỉnh sửa nhưng đến nay quy
hoạch phát triển công nghiệp trên địa bàn vẫn bị chi cắt, chưa có kết nối
tổng thể các Khu công nghiệp với khu vực xung quanh. Thiếu đồng bộ
trong xây dựng hạ tầng giữa trong và ngoài hàng rào Khu công nghiệp,
thiếu đồng bộ với các công trình phục vụ cho các Khu công nghiệp. Việc
quy hoạch hệ thống các Khu công nghiệp, Khu chế xuất thiếu sự phối hợp
trong một tổng thể giữa TP và các tỉnh lân cận, còn bị chia cắt địa giới hành
chính nặng nề. Hậu quả là một lượng lớn lao động tỉnh nhập cư vào TP (50-
70%), trong khi đó TP còn nhiều bất cập như: nhà ở, quản lý hộ khẩu, quy
hoạch khu dân cư mới, tệ nạn xã hội… đã tạo áp lực rất lớn cho TP.
Nhiều quyết định thường xuyên thay đổi về xuất - nhập khẩu, về
thuế, tín dụng, tài chính DN đã tạo ra nhiều khó khăn cho các thành phần
kinh tế trong đầu tư và kinh doanh, nhất là những nhà đầu tư muốn tính toán
làm ăn lâu dài, bài bản.
Sự thiếu đồng bộ trong hệ thống chính sách và các định chế tài
chính - tín dụng - đầu tư đã làm hạn chế khả năng huy động các nguồn vốn
trong nước để tài trợ cho các dự án đầu tư có tác dụng đến sự chuyển dịch
cơ cấu sản xuất và sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của cả nền kinh tế.
Sự cạnh tranh trong việc thu hút vốn ĐTNN của các nước đang phát
triển, nhất là các nước trong khu vực ngày càng gay gắt. Dòng vốn
ĐTTTNN chảy vào các khu vực vừa có nhiều lợi thế (thuế, giá thuê đất,
giá nhân công… ), vừa có thị trường nội địa to lớn. Thành phố tuy vẫn là
địa phương thu hút vốn ĐTTTNN khá cao, nhưng số tuyệt đối về vốn đã
giảm liên tục trong thời gian qua, đặc biệt là các cơ hội đầu tư có khả năng
sinh lời cao, thời gian thu hồi vốn nhanh không còn nhiều nữa.
Mặc dù kinh tế TP trong những năm qua tăng trưởng cao và liên tục
nhưng vẫn chủ yếu dựa vào các nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng, là gia
tăng đầu tư và sản xuất gia công lắp ráp, phụ thuộc rất lớn vào thiết bị và
nguyên nhiên liệu nhập khẩu, do đó dễ bị tác động tiêu cực từ các biến
động trên thị trường thế giới. Cơ cấu công nghiệp trên địa bàn TP không
khác biệt mấy so với các địa phương khác, chiếm tỷ trọng lớn vẫn là các
ngành công nghiệp thâm dụng lao động như công nghiệp chế biến thực
phẩm, dệt - may, giày - da, cao su - nhựa… Các ngành công nghiệp được
xác định là mũi nhọn phát triển còn chậm, một số ngành công nghiệp khác
còn chưa định hình hay còn rất manh mún và nhỏ bé như cơ khí, sản xuất
vật liệu mới… Tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm so với tổng sản phẩm nội địa trên
địa bàn vẫn còn thấp so với tiềm năng và yêu cầu phát triển. Tình trạng
tiền tiết kiệm của dân cư hoặc của DN thay vì được huy động vào đầu tư lại
được đầu cơ vào đất đai hay được cất giữ dưới dạng vàng, đô la, tiền mặt
vẫn còn khá lớn. Tỷ trọng vốn ĐTNN vào TP giai đoạn 2001- 2005 có xu
hướng giảm. Nguồn lực phát triển chưa được sử dụng có hiệu quả. Tài
chính công và tài chính DN Nhà nước còn lãng phí, quản lý còn chưa chặt
chẽ. Một số công trình xây dựng chất lượng còn thấp, tình trạng lãng phí và
thất thoát trong xây dựng cơ bản chưa được khắc phục có hiệu quả.
Một nguyên nhân khác cản trở quá trình phát triển TP là giá nhà,
đất quá cao. Giá nhà, đất TP hiện tại cao tương đương hoặc cao hơn với
nhiều thành phố lớn khác trong cùng khu vực, trong khi thu nhập bình quân
đầu người của chúng ta thấp hơn họ nhiều lần. Giá đất quá cao làm cho chi
phí đầu tư, sản xuất tăng cao, làm hạn chế quá trình phát triển công nghiệp
và các dịch vụ sử dụng nhiều mặt bằng, làm lãng phí các nguồn tài chính
khan hiếm vì một lượng vốn lớn được đầu tư vào đất.
Sự phối hợp với các tỉnh xung quanh còn chậm, chưa phát huy đầy
đủ vai trò của TP như là hạt nhân của vùng, vừa hợp tác, vừa hỗ trợ các tỉnh
phát triển, kết nối hạ tầng đồng bộ trong vùng còn nhiều bất cập.
2.2. Đầu tư FDI vào kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Kể từ 1995 tổng số dự án đầu tư vào TP ngày càng tăng nhanh. Tuy
nhiên, trong hai năm 1997 và 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ khu vực châu Á, số dự án và số vốn ĐTTTNN vào TP có sự
sụt giảm so với năm 1996. Từ năm 1999 đến năm 2000 ta thấy tổng số dự
án hàng năm tăng nhưng tổng vốn đầu tư và vốn pháp định lại giảm (từ 471
triệu USD còn 224 triệu USD). Điều này cho thấy rằng lượng vốn trong mỗi
dự án có xu hướng giảm dần. Nhưng từ năm 2001, dòng vốn FDI vào TP có
sự tăng lên trở lại về mặt số lượng nhưng quy mô có sự giảm sút rất lớn
(bảng 2.1).
Bảng 2.1. Số dự án ĐTNN được cấp giấy phép và tổng vốn đầu tư ở Việt
Nam và TPHCM
Số dự án Tổng vốn đầu tư(Triệu.USD)
Việt
Nam
TP.HCM Tỷ lệ
(%)
Việt
Nam
TP.HCM Tỷ lệ
(%)
1988 37 16 43 321,8 70 22
1989 69 25 36 525,2 375 71
1990 108 46 43 735,0 531 72
1991 151 73 48 1275,0 621 49
1992 197 87 44 2027,0 714 35
1993 274 102 37 2589,0 1585 61
1994 367 121 33 3746,0 1575 42
1995 408 155 38 6848,0 2498 36
1996 387 114 29 8979,0 2376 26
1997 358 89 25 4894,0 1179 24
1998 285 90 32 4138,0 707 17
1999 311 109 35 1568,0 471 30
2000 389 122 31 2018,0 224 11
2001 523 182 33,09 2536,0 619 24,4
2002 754 223 27,81 1557,7 314 20,15
2003 550 203 36,90 2592,0 315 12,15
2004 679 247 36,37 2084,5 459 22
Tổng số 5.846 1.925 32,92 51.830,0 16.433 33,93
Nguồn: Niên giám Thống kê, Cục Thống kê TP.HCM 1999-2004
Xét theo tổng vốn đầu tư trung bình mỗi dự án theo một số năm
1995, 1996, 1997, 1998, 1999, 2000 lần lượt là 16,1 triệu USD; 20,8 triệu
USD; 13,2 triệu USD; 7,8 triệu USD; 4,32 triệu USD; 1,18 triệu USD.
Trung bình mỗi dự án cho cả giai đoạn này là 10,56 triệu USD. Tổng số
vốn đầu tư trung bình vào TP chiếm khoảng 24%.
Từ 2001 đến 2004 số dự án tiếp tục tăng lên (trừ năm 2003 giảm
xuống) từ 182 lên 247 dự án. Nhưng xét theo tổng vốn đầu tư thì lại tăng
giảm không ổn định, ví dụ năm 2001 tổng vốn đầu tư là 619 triệu USD,
trong khi đó năm 2003 chỉ có 315 triệu USD, giảm khoảng một nửa. Xét
bình quân mỗi loại dự án cho một số năm 2001, 2002, 2003, 2004 là; 3,4
triệu USD; 1,4 triệu USD; 1,55 triệu USD; 1,86 triệu USD. Và trung bình
mỗi dự án cho cả giai đoạn này là 2,05 triệu USD, như vậy là thấp hơn 5
lần so với giai đoạn 1995-2000. Tổng vốn đầu tư trung bình vào TP chiếm
khoảng 19,68%. Như vậy là thấp hơn giai đoạn đầu rất nhiều.
Một số nhận xét:
- Giai đoạn 1995-1996, đây là giai đoạn đầu tư FDI sôi động, các nhà
đầu tư đã thấy được lợi thế của TP so với cả nước, nguồn nhân lực dồi dào,
cơ sở hạ tầng tốt. Với 4874 triệu USD đã thực sự tác động đến kinh tế - xã
hội của TP.
- Giai đoạn 1997-2000, là giai đoạn dòng vốn FDI giảm mạnh và đột
ngột. Sự sụt giảm này không chỉ riêng TP mà còn đối với cả nước. Nguyên
nhân thì đây chính là giai đoạn khủng hoảng tiền tệ châu Á, mà các nhà
đầu tư chính lại chủ yếu từ châu Á nên họ gặp khó khăn về vốn. Mặt khác,
các lợi thế so sánh của TP về môi trường đầu tư với các nước trong khu vực
ngày càng mờ nhạt khiến cho dòng vốn FDI chuyển sang các khu vực khác.
- Giai đoạn 2001-2002, đây là giai đoạn phục hồi chậm, dư âm khủng
hoảng tiền tệ vẫn còn, nhưng chính quyền TP đã có nhiều động thái tích
cực trong việc thu hút ĐTNN (cải cách thủ tục hành chính, Luật ĐTNN
được sửa đổi, cải cách tài chính, tiếp tục thực hiện cam kết hội nhập quốc tế
và khu vực… ).
- Giai đoạn 2003-2004, TP tiếp tục luôn dẫn đầu cả nước về FDI với
247 dự án, có tổng vốn đầu tư 459 triệu USD (tăng 1,46 lần so với năm
2003), điều này chứng tỏ rằng TP ngày càng có những giải pháp hấp dẫn
hơn trong việc thu hút các nhà đầu tư trong việc đẩy mạnh tốc độ thu hút
ĐTNN.
2.2.1. FDI góp phần tăng trưởng kinh tế Thành phố và tăng trưởng
GDP. Đóng góp vốn vào đầu tư phát triển.
Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN có mức đóng góp khá quan trọng
trong tổng giá trị GDP toàn TP với mức tỷ trọng tăng dần qua các năm. Tỷ
trọng GDP có vốn ĐTNN năm 1995 chiếm khoảng 11,11%, đến năm 2000
là 18,43% và tiếp tục tăng lên 18,88% vào năm 2004. Vốn FDI đầu tư vào
TP ngày càng tăng về số lượng và tỷ trọng cũng tăng dần qua các năm.
Năm 2001 giá trị sản phẩm tạo ra từ vốn FDI là 10695 tỷ đồng, đến năm
2002 là 11897 tỷ đồng, năm 2003 là 13341 tỷ và 2004 là 14974 tỷ (bảng
2.2.). Nguồn vốn FDI ngày càng đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh
tế TP.
Bảng 2.2. Tỷ trọng của GDP khu vực FDI trong GDP chung của TP
Năm GDP TP GDP FDI Tỉ trọng GDP FDI/ GDP TP (%)
1995 32.596 3.623 11,11
1996 37.380 5.235 14,00
1997 41.900 6.528 15,58
1998 45.683 7.911 17,32
1999 48.499 8.870 18,29
2000 52.754 9.723 18,43
2001 57.787 10.695 18,51
2002 63.670 11.897 18,69
2003 70.947 13.341 18,80
2004 79.171 14.947 18,88
Nguồn: Niên giám Thống kê TP.HCM 2004
Tốc độ tăng trưởng khu vực có vốn ĐTNN thường cao hơn mức tăng
trưởng kinh tế toàn TP (bảng 2.3), sự tăng trưởng nhanh này của GDP từ
FDI cũng có khuynh hướng làm tăng mức đóng góp của GDP có nguồn vốn
nước ngoài vào tốc độ tăng trưởng chung GDP Thành phố. Tuy nhiên, mức
đóng góp của khu vực FDI vào tốc độ tăng trưởng chung của kinh tế TP là
rất không ổn định qua các năm. Mặc dù vậy, có thể thấy tỷ lệ đóng góp
vào tăng trưởng TP của khu vực có vốn ĐTNN thường chiếm khoảng 20%
tốc độ tăng trưởng chung của kinh tế TP.
Bảng 2.3. Tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ đóng góp của thành phần FDI
Năm Tốc độ GDP TP
(%)
Tốc độ GDP FDI
(%)
Tỷ lệ đóng góp (%)
1995 15,3 55,7 29,96
1996 14,7 44,5 33,70
1997 12,1 24,7 28,61
1998 9,0 21,2 36,56
1999 6,2 12,1 34,06
2000 8,8 9,6 20,05
2001 9,5 10,0 19,31
2002 10,2 11,2 20,43
2003 11,4 12,1 19,84
2004 11,6 12,0 19,53
Nguồn: Niên giám Thống kê, Cục Thống kê TP 2004
Tỷ trọng trong tổng sản phẩm của vốn FDI tạo ra trên địa bàn TP
cũng tăng dần qua các năm: năm 2001 là 18,51%, năm 2002 là 18,69%,
năm 2003 là 18,8%, năm 2004 là 18,91% (bảng 2.4). Ta thấy tỷ trọng giá trị
của vốn FDI ngày càng cao trong GDP Thành phố nhưng tốc độ tăng trưởng
không cao và không nhanh bằng khu vực kinh tế tư nhân (năm 2001 khu
vực kinh tế tư nhân chỉ chiếm 14,64% trong tổng sản phẩm TP, xếp vị trí
thứ 4; nhưng đến năm 2004 đã chiếm 22,32%, vươn lên vị trí thứ 2).
Bảng 2.4 . Cơ cấu của các thành phần kinh tế (%)
Năm 2001 2002 2003 2004
Thành phần kinh tế
Kinh tế Nhà nước 42,17 41,03 39,97 38,96
Kinh tế tập thể 1,72 1,59 1,3 1,19
Kinh tế tư nhân 14,64 17,48 19,94 22,32
Kinh tế cá thể 22,96 21,22 19,99 18,62
Kinh tế có vốn ĐTNN 18,51 18,69 18,8 18,91
Nguồn: Niên giám Thống kê TP 2004
Qua bảng 2.6, cho thấy sự đóng góp của khu vực FDI vào GDP là
tương đối cao và tăng đều hàng năm. Cụ thể năm 1995 là 11,11%; năm
1998 là 17,33%; năm 2000 là 18,6%; năm 2001 là 18,51% có giảm so với
năm 2000 nhưng sau đó tăng lên trở lại vào năm 2002 là 18,69%; năm 2004
là 18,88% nhưng tỷ lệ tăng trưởng từ năm 2000 trở đi chậm hơn so với giai
đoạn trước.
Về sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khu vực II và III ngày càng tăng.
Như vậy, đầu tư là một nhân tố mang tính quyết định đến tốc độ và quy mô
chuyển đổi. Dòng vốn FDI góp phần vào việc thúc đẩy ngành dịch vụ phát
triển nhanh hơn các ngành kinh tế nông nghiệp và công nghiệp. Đang từng
bước giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng ngành dịch vụ, công
nghiệp trong GDP.
Bảng 2.5. Tổng sản phẩm (GDP) trên địa bàn TP
Phân theo khu vực kinh tế và ngành kinh tế (Theo giá so sánh 1994)
Tỷ đồng
1995 1998 2000 2004
TỔNG SỐ 32.596 45.638 52.860 79.171
A.Theo thành phần và theo khu vực
1.Khu vực kinh tế trong nước 28.973 37.772 43.015 64.224
2.Có vốn đầu tư nước ngoài 3.623 7.911 9.845 14.947
B.Theo ngành kinh tế
1.Nông lâm thuỷ sản 1.136 1.100 1.165 1.415
2.Công nghiệp và xây dựng 12.551 19.096 23.370 37.406
3.Các ngành dịch vụ 18.882 25.487 28.325 40.350
Nguồn: Niên giám Thống kê, Cục thống kê TP.HCM(1998-2004)
FDI còn góp phần làm thay đổi cấu trúc của các thành phần kinh tế:
tỷ trọng thành phần DN Nhà nước giảm và tỷ trọng khu vực có vốn ĐTNN
tăng (năm 1995 chiếm 11,11%, đến năm 2004 chiếm 18,88%) (bảng 2.6).
Bảng 2.6. Cơ cấu GDP trên địa bàn TP phân theo khu vực và ngành kinh tế
(%)
1995 1998 2000 2004
TỔNG SỐ 100,00 100,00 100,00 100,00
A.Theo thành phần và theo khu vực
1.Khu vực kinh tế trong nước 88,89 82,69 81,40 81,12
2.Có vốn đầu tư nước ngoài 11,11 17,31 18,60 18,88
B.Theo ngành kinh tế
1.Nông lâm thuỷ sản (KVI) 3,57 2,40 2,20 1,79
2.Công nghiệp và xây dựng (KV II) 38,50 41,80 44,21 47,24
3.Các ngành dịch vụ (KV III) 57,93 55,80 53,59 50,97
Nguồn: Niên giám Thống kê, Cục thống kê TP.HCM(1998-2004)
Hình 2.2. Số dự án ĐTNN được cấp giấy phép tại TPHCM 1988-2004
Nguồn: Niên giám Thống kê TPHCM (1988-2004)
Bắt đầu từ năm 1988, mốc đánh dấu cấp phép đầu tiên dự án FDI,
đến cuối năm 2004, TP đã cấp phép cho 1925 dự án FDI với tổng vốn đầu
tư là 16433 triệu USD (bảng 2.1). Đối với TP nguồn vốn ĐTTTNN là nguồn
Số dự án ĐTNN được cấp giấy phép tại TPHCM
89 90
16 25
46
73 87
102
121
155
114 109
122
182
223
203
347
0
50
100
150
200
250
300
350
400
1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
vốn nước ngoài chủ yếu, nguồn vốn này đã góp phần quan trọng trong việc
thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của TP.
Số dự án cấp phép của TP từ 1988 đến 2004 chiếm 32,93% (bảng
2.1) so với dự án được cấp phép của cả nước và chiếm 31,7% so với tổng
vốn đầu tư FDI của cả nước. Số dự án còn hiệu lực của TP là khá cao so
với các địa phương khác nói riêng và cả nước nói chung. Đây là nổ lực rất
lớn của TP trong lĩnh vực thu hút dòng vốn FDI.
Bảng 2.7. Vốn đầu tư phát triển trên địa bàn 1995-1999
Triệu đồng
1995 1998 2000 2004
TỔNG SỐ 13.569.266 23.934.512 25.853.900 42.996.110
1.Vốn ngân sách Nhà
nước
5.603.622 9.013.978 10.728.814 14.504.533
Trung ương 225.607 222.444 368.545 339.800
Địa phương 824.611 2.055.696 2.611.103 7.138.531
Tín dụng 856.058 837.328 856.058 4.708.160
Vốn tự có của Nhà
nước
3.697.346 5.898.520 6.893.108 2.318.042
2.Vốn các tổ chức
doanh nghiệp ngoài
quốc doanh
1.203.471 2.806.028 4.240.282 14.658.112
Vốn nội địa 1.401.625 3.897.332 3.255.366 7.558.163
3.Vốn đầu tư nước
ngoài
5.360.548 8.217.174 7.629.438 6.275.302
Nguồn: Niên giám Thống kê, Cục Thống kê TP.HCM (1998-2004)
FDI đã có những đóng góp đáng kể vào vốn đầu tư phát triển của
TP, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế.
Năm 1995, FDI đóng góp vào vốn đầu tư phát triển nhiều hơn rất
nhiều so với vốn các tổ chức DN ngoài quốc doanh (gấp 4,45 lần). Đến
năm 2004 thì chiều hướng dường như ngược lại, vốn của các DN ngoài quốc
doanh tăng rất nhanh, trong khi đó vốn ĐTNN có xu hướng giảm (vốn các
DN ngoài quốc doanh gấp 2,33 lần so với vốn ĐTNN hay nói cách khác
nguồn vốn FDI chỉ chiếm 28,25% so với nguồn vốn ngoài nhà nước) (bảng
2.7). Điều đó cho thấy kinh tế tư nhân trong thời gian qua phát triển rất
nhanh nên cần phải đẩy mạnh hơn nữa trong việc thu hút ĐTTTNN.
Bảng 2.8. Cơ cấu vốn đầu tư phát triển trên địa bàn 1995-2004
%
1995 1998 2000 2004
TỔNG SỐ 100,00 100,00 100,00 100,00
1.Vốn ngân sách Nhà
nước
41,30 37,66 41,50 33,73
Trung ương 1,66 0,93 1,43 0,80
Địa phương 6,10 8,59 10,10 16,60
Tín dụng 6,30 3,49 3,30 10,95
Vốn tự có của Nhà
nước
27,24 24,65 26,67 5,38
2.Vốn các tổ chức
doanh nghiệp ngoài
quốc doanh
8,87 11,72 16,40 34,09
Vốn nội địa 10,32 16,28 12,59 17,58
3.Vốn đầu tư nước
ngoài
39,51 34,34 29,51 14,60
Nguồn: Niên giám Thống kê, Cục Thống kê TP.HCM (1998-2004)
Cơ cấu vốn đầu tư phát triển cho thấy khu vực FDI giảm từ 39,51%
năm 1995 xuống còn 14,6% năm 2004, trong khi đó vốn ngoài quốc doanh
tăng nhanh từ 8,87% năm 1995 tăng lên 34,09% vào năm 2004 (bảng 2.8).
Nên cần phải thúc đẩy sử dụng hiệu quả nguồn vốn FDI.
2.2.2. FDI đóng góp vào ngân sách
Bảng 2.9. Thu ngân sách trên địa bàn
Tỷ đồng
1995 1998 2000 2004
TỔNG SỐ 16.418,8 23.787,8 26.074,0 46.827,0
A.Thuế xuất nhập khẩu 6.571,3 9.111,3 11.048,8 19.125,9
B.Các khoảng thu nội địa 9.847,5 14.676,5 15.025,2 27.701,1
-Quốc doanh trung ương 3.528,9 4.710,1 4.114,9 5.999,3
-Quốc doanh địa phương 1.319,9 1.271,6 1.560,3 2.705,0
-Đơn vị có vốn nước ngoài 1.225,3 1.733,8 1.833,4 11.154,4
-Khu v._.dựng dở dang, chất lượng
thấp, TP mất một số cán bộ do làm ăn gian dối, thiếu trách nhiệm. Thành
phố mong muốn xây dựng nền tảng hành chính từng bước hiện đại, chuyên
nghiệp hoá, thật sự dân chủ, trong sạch và vững mạnh, phù hợp với yêu cầu
phát triển và quản lý một đô thị lớn trong quá trình hội nhập.
Chương trình nhà ở, công trình xây dựng KCNC, công trình xây
dựng khu đô thị mới Thủ Thiêm, thực hiện chỉnh trang đô thị cùng với việc
di dời và tái định cư các hộ dân sống ven và trên kênh rạch, xây dựng quỹ
nhà ở cho người có thu nhập thấp; công trình xây dựng KCNC sẽ tạo môi
trường thu hút ĐTTTNN trong lĩnh vực này, kết hợp với nguồn lực trong
nước tạo động lực phát huy tiềm năng khoa học - kỹ thuật của TP. Riêng
công trình Khu đô thị mới Thủ Thiêm với chức năng là trung tâm thương
mại - tài chính - dịch vụ sẽ đảm nhận chức năng là trung tâm mới của TP,
kết nối với khu vực trung tâm hiện hữu Quận 1 để tạo ra trung tâm hoàn
chỉnh của một đô thị lớn vào năm 2020. Thành phố với vai trò là đòn bẩy vì
vậy cần phải tìm cho ra những cán bộ thật sự có năng lực, có quyết tâm,
dám nghĩ, dám lám, dám chịu trách nhiệm cùng những biện pháp thiết thực,
cụ thể.
-Về khoa học - công nghệ: phát huy vị trí, vai trò của một trung tâm
khoa học - công nghệ lớn của cả nước; tập trung chủ yếu vào nghiên cứu
ứng dụng, thúc đẩy phát triển thị trường công nghệ; khi tiềm lực khoa học
TP đủ lớn, sẽ đi vào nghiên cứu chọn lọc một số lĩnh vực khoa học cơ bản.
Một trong những hướng đi tiên phong của TPHCM là tập trung đầu
tư phát triển công nghiệp phần mềm, xây dựng KCNC và phát triển các
ngành kinh tế ứng dụng công nghệ cao. Nói cách khác, công nghệ cao sẽ là
chìa khoá giúp TP đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Cụ
thể giai đoạn 2006-2010, TP sẽ tập trung vốn Nhà nước cho các dự án công
nghiệp trọng điểm có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao, thực
hiện chuyển dịch có hiệu quả cơ cấu công nghiệp. Đồng thời, xây dựng đề
án thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm, với sự tham gia phần vốn của ngân
sách, có chính sách thu hút các DN và các tổ chức tài chính tham gia, xem
xét sự tài trợ và liên kết với các quỹ đầu tư mạo hiểm quốc tế.
-Về giáo dục, đào tạo, y tế: Thành phố sẽ là trung tâm lớn về giáo
dục - đào tạo và y tế của cả nước, trực tiếp phục vụ cho vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam. Nâng cao chất lượng giáo dục của TP lên bằng với các
nước trong khu vực. Thành phố là nơi tập trung thu hút đầu tư các cơ sở đào
tạo có uy tín của nước ngoài ở Việt Nam.
-Về xã hội: Thành phố sẽ thực hiện sớm hơn so với cả nước các mục
tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên Hiệp Quốc, tập trung giải quyết các
vấn đề xoá đói giảm nghèo, phổ cập giáo dục bậc trung học, bình đẳng giới
và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
-Về văn hoá: phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá.
Văn hoá vừa là nền tảng, vừa là động lực cho sự phát triển. Sự giàu có về
vật chất phải đi liền với sự phát triển tương xứng về đời sống văn hoá, để
đảm bảo cho một xã hội phát triển văn minh, hiện đại và bền vững. Xây
dựng TP thành một trung tâm văn hoá lớn của cả nước, phát triển các lĩnh
vực văn hoá đỉnh cao. Phải đẩy mạnh giáo dục hơn nữa, tạo ra bước chuyển
căn bản về nâng cao chất lượng toàn diện và đa dạng hoá các loại hình đào
tạo nguồn nhân lực, khai thác có hiệu quả các tiềm năng về khoa học và
công nghệ. Phát triển văn hoá TP theo hướng văn minh giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc, kết hợp hài hoà giữa văn hoá truyền thống và văn
hoá hiện đại mang nét đặc trưng của dân TP. Phát triển mạnh các ngành
văn hoá giải trí.
-Về an ninh - chính trị và trật tự an toàn xã hội: phải luôn luôn giữ
vững ổn định an ninh - quốc phòng trong mọi tình huống và phải được xem
như là tiền đề quyết định của sự phát triển. Hết sức coi trọng thế trận lòng
dân làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, trong đó xây dựng quân đội và công an làm nòng cốt, thực sự trong
sạch, trung thành, đủ sức ngăn chặn và kịp thời làm thất bại mọi âm mưu,
thủ đoạn diễn biến hoà bình, bạo loạn, lật đổ các thế lực thù địch. Tiếp tục
thực hiện có hiệu quả cao việc phòng, chống tội phạm, ma tuý, mại dâm,
làm trong sạch môi trường xã hội TP. Thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn
giáo của Đảng và Nhà nước trong tình hình mới.
Tiếp tục thu hút ĐTTTNN vào những địa bàn có nhiều lợi thế,
khuyến khích và dành ưu đãi cho các nhà ĐTNN vào những địa bàn có điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng của
các địa bàn này bằng các nguồn vốn khác để tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động ĐTTTNN.
Khuyến khích các nhà ĐTTTNN từ tất cả các nước và vùng lãnh thổ
đầu tư vào TP, đặc biệt là những nhà ĐTNN có tiềm năng lớn về tài chính
và nắm công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển. Tiếp tục thu
hút các nhà ĐTTTNN ở khu vực, khuyến khích, tạo thuận lợi cho người
Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước.
Việc thu hút ĐTTTNN phải hết sức thận trọng, cần có những bước đi
thích hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của TP, giúp các DN trong nước
tranh thủ về vốn, công nghệ, kĩ năng quản lý của các công ty, tập đoàn đa
quốc gia, đồng thời thúc đẩy cạnh tranh trong các hoạt động kinh doanh
cũng như gián tiếp cải thiện môi trường đầu tư.
3.1.2. Giải pháp một số lĩnh vực cụ thể
Tập trung phát triển các ngành dịch vụ hiện đại, dịch vụ hỗ trợ sản
xuất. Nguyên tắc là tập trung phát triển các ngành, các sản phẩm TP có lợi
thế cạnh tranh so với các địa phương khác. Khuyến khích chuyển các ngành
mà TP không có lợi thế cạnh tranh sang các địa phương khác có lợi thế hơn.
3.1.2.1. Dịch vụ
-Tài chính, tiền tệ, ngân hàng, bảo hiểm: Tập trung phát triển
sản phẩm tài chính, định chế tài chính và thị trường tài chính. Hiện đại hoá
hệ thống thanh toán, khuyến khích người dân sử dụng hệ thống tài khoản
và các loại thẻ điện tử trong giao dịch, giảm thiểu giao dịch bằng tiền mặt,
phát triển thị trường chứng khoán, các loại quỹ đầu tư, các tổ chức bảo
hiểm. Khuyến khích mở rộng thị trường ra cả nước và bắt đầu tham gia vào
thị trường vốn quốc tế như niêm yết ở thị trường chứng khoán nước ngoài,
phát hành trái phiếu ra thị trường thế giới, mở chi nhánh ngân hàng ra các
nước lân cận.
-Thương mại: tiếp tục là đầu mối xuất nhập khẩu hàng hoá lớn
nhất nước, là nơi đặt trụ sở giao dịch của các công ty lớn trong nước và
quốc tế. Thiết lập kênh phân phối bán buôn và bán lẻ hàng hoá hiện đại
nhất nước. Ưu tiên đầu tư phát triển thương mại điện tử trên địa bàn. Xây
dựng trung tâm hội chợ, triễn lãm tầm cỡ quốc tế. Phát triển TP thành một
trung tâm mua sắm của khu vực.
-Vận tải và kho bãi: xây dựng hệ thống kho, bãi hiện đại, đáp
ứng nhu cầu là trung tâm về đường bộ, đường thuỷ, đường sông. Làm đầu
mối chính trung chuyển hàng hoá cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Di dời hệ thống cảng biển ra khỏi nội thành, kêu gọi đầu tư xây dựng cảng
biển Hiệp Phước thay thế cụm cảng Sài Gòn hiện hữu, gắn với các loại
dịch vụ hậu cần hàng hải và xây dựng đô thị cảng ở phía Nam TP. Khai
thác tối đa sân bay Tân Sơn Nhất để kết nối hạ tầng với sân bay quốc tế
Long Thành trong tương lai.
-Dịch vụ viễn thông: gắn với sự phát triển của công nghệ thông
tin và phần mềm. Phát triển dịch vụ xử lí, quản lý dữ liệu từ xa cho các
khách hàng trong nước và quốc tế, hội nhập giữa dịch vụ viễn thông - tin
học - truyền thông, phát triển dịch vụ đa chức năng.
-Bất động sản: phát triển mạnh dịch vụ cho thuê nhà ở, cao ốc,
dịch vụ giao dịch nhà, đất. Thực hiện chính sách đất đai, xây dựng để tăng
khối lượng cung về nhà ở và các giải pháp về tài chánh để kích thích khối
cầu, gắn kết với chương trình nhà ở của TP và khu đô thị mới Thủ Thiêm.
-Du lịch: đặc biệt là du lịch quốc tế. Thành phố là trung tâm tiếp
nhận khách du lịch quốc tế và tổ chức các chương trình du lịch đến các địa
phương. Liên kết với các tỉnh xây dựng và phát triển các khu du lịch đạt
tiêu chuẩn quốc tế, tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng và hệ thống khách sạn
đạt chuẩn quốc tế, xây dựng sản phẩm du lịch có lợi thế cạnh tranh, tăng
cường quảng bá vào các thị trường trọng điểm, xây dựng chiến lược phát
triển thương hiệu du lịch của TP.
-Giáo dục - đào tạo: tiếp tục là trung tâm giáo dục - đào tạo hàng
đầu của phía Nam. Quyết tâm đào tạo ở 2 lĩnh vực là kỹ thuật và quản lý.
Tập trung đào tạo nghề, các ngành khoa học - kỹ thuật theo nhu cầu đòi hỏi
của thị trường để đáp ứng cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tiếp tục xã hội hoá giáo dục đào tạo hơn nữa. Khuyến khích các trường, cơ
sở giáo dục quốc tế thành lập chi nhánh tại TP.
3.1.2.2. Công nghiệp
Phải chuyển mạnh theo hướng tăng nhanh các ngành công
nghiệp công nghệ kỹ thuật cao, có hàm lượng tri thức như cơ khí chế tạo
máy, công nghệ điện tử tin học, phần mềm, hoá chất, vật liệu mới. Phát
triển mạnh các ngành công nghiệp đang là thế mạnh, có khả năng cạnh
tranh, có thị trường trong nước và xuất khẩu.
Quy hoạch lại, sắp xếp, điều chỉnh các khu, cụm công nghiệp
trên địa bàn theo hướng chuyên môn hoá kết hợp với phân bổ hợp lý, tập
trung xây dựng một số KCN chuyên ngành như KCN cơ khí chế tạo, KCN
hoá chất để tạo điều kiện thuận lợi ứng dụng công nghệ cao. Hoàn thiện
kết nối hạ tầng trong và ngoài KCN nhằm đảm bảo về giao thông, điện,
nước, viễn thông phục vụ tốt cho DN. Di dời bớt các ngành công nghiệp
gây ô nhiễm, sử dụng nhiều lao động giản đơn ra khỏi nội thành.
3.2. Kiến nghị và các giải pháp
3.2.1.Các giải pháp vĩ mô
Công tác đào tạo nghề chưa đáp ứng với thị trường lao động, cộng
với chưa có chính sách thu hút, trọng dụng người tài, tạo môi trường cạnh
tranh, công bằng nên vẫn tồn tại nghịch lý thiếu - thừa lao động. Thành phố
có khoảng 50 trường đại học, cao đẳng và hàng trăm trường, trung tâm dạy
nghề ngắn và dài hạn. Mỗi năm, hệ thống các trường này đào tạo ra hơn
100.000 lao động (báo Đầu tư 26/12/2005), nhưng nhiều người trong số đó
lại không đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của các DN. Theo số liệu Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội TP.HCM, hàng năm, số sinh viên tốt nghiệp
đại học thất nghiệp khoảng 8.000 đến 10.000 người. Số tốt nghiệp ra trường
đáp ứng yêu cầu chỉ chiếm khoảng 25%, có tới 57% phải đào tạo bổ sung.
Để tháo gỡ những khó khăn này, các nhà đầu tư ở các KCX đã cố gắng
chăm lo đời sống, cải thiện chỗ ở, tăng phụ cấp… Tuy nhiên, về lâu dài, TP
cần có giải pháp đào tạo nghề hợp lý, thích ứng với công nghệ mới, cập
nhật các kiến thức, kỹ năng cần thiết; đồng thời, có chính sách cho DN
nước ngoài đầu tư vào các trung tâm dạy nghề; ưu đãi, khuyến khích DN tổ
chức đào tạo lao động tại xí nghiệp; khuyến khích các DN sử dụng nguồn
lao động hợp lý, tăng hàm lượng chất xám, hướng đến phát triển bền
vững… Đồng thời phải hạn chế tình trạng các chủ DN vi phạm Bộ Luật lao
động (tuỳ tiện cắt tiền lương, tiền thưởng, bắt tăng ca đêm liên tục… )
nhằm bảo vệ chính đáng cho lợi ích người lao động.
Thực hiên có hiệu quả cơ chế một cửa và giải quyết kịp thời các
vấn đề vướng mắc, giúp các DN triển khai thuận lợi, khuyến khích DN đầu
tư theo chiều sâu, coi đó là cách tốt nhất thuyết phục môi trường ĐTNN ở
Việt Nam. Theo Bộ Kế hoạch và đầu tư, tính đến 31/12/2005, có 6030 dự
án còn hiệu lực, với tổng vốn đăng kí khoảng 51,018 tỷ USD, đã thực hiện
trên 27,986 tỷ USD [Báo Đầu tư 8/3/2006], đây là dấu hiệu tốt cho TP.
Tỷ lệ các dự án giải thể trước thời hạn vẫn còn cao (năm 2005 có
khoảng 80 dự án với tổng vốn đăng kí 1,298 tỷ USD bị giải thể) [Báo Đầu
tư 8/3/2006], thu hồi giấy phép do không triển khai vì thiếu năng lực tài
chính hoặc hoạt động kém hiệu quả. Công tác phối hợp xúc tiến giữa Trung
ương và địa phương còn chưa chặt chẽ, xảy ra tình trạng tổ chức các đoàn
vận động đầu tư trùng lặp tại một số nước và vùng lãnh thổ. Ngoài ra, tình
trạng đình công tại các xí nghiệp đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả
sản xuất kinh doanh. Vì vậy, để thúc đẩy và nâng cao hơn nữa hiệu quả
hoạt động ĐTNN, cần triển khai thực hiện tốt Luật Đầu tư và Luật DN
nhằm giữ vững sự ổn định, không làm ảnh hưởng đến hoạt động của các
DN có vốn ĐTNN hiện hữu.
Công viên phần mềm Quang Trung (CVPMQT) được thành lập và
đi vào hoạt động năm 2003, là nơi tập trung các hoạt động nghiên cứu -
chuyển giao công nghệ CNTT của TP.HCM. Mục tiêu đến 2010 CVPMQT
sẽ trở thành khu sản xuất phần mềm có quy mô 6.000 người trực tiếp làm
việc, với doanh thu thu gần 100 triệu USD/năm (hiện tại có 70 DN và 30
nhà đầu tư hoạt động, thu hút trên 1650 tỷ đồng vốn đầu tư và vốn kinh
doanh với 4300 người học tập và làm việc thường xuyên [18]). Liệu
CVPMQT có thu hút được ĐTNN như mục tiêu đề ra? Khi mà CVPMQT
vẫn còn phải đối diện với nhiều thách thức. Thứ nhất là sự cạnh tranh ngày
càng quyết liệt trên phạm vi quốc tế. Thứ hai là sự thiếu hụt nhân lực có
trình độ, đáp ứng nhu cầu tăng trường của các nhà đầu tư. Đây là nhân tố
quan trọng tác động và ảnh hưởng tới khả năng thu hút khách hàng đến
CVPMQT. Ngoài ra tình trạng giao thông khó khăn từ trung tâm TP đến
CVPMQT vẫn là vấn đề quan ngại với nhiều DN. Những điều này đòi hỏi
CVPMQT phải không ngừng hoàn thiện và xây dựng những chuẩn mực về
cơ sở hạ tầng, chính sách thu hút đầu tư, hệ thống cung ứng dịch vụ, các
hoạt động hỗ trợ đầu tư và kinh doanh để đạt được mục tiêu đề ra.
Đối với lĩnh vực công nghệ cao, muốn thu hút nhiều vốn ĐTNN,
cần đẩy mạnh áp dụng cơ chế đăng ký đầu tư. Cần gấp rút hoàn thiện và
công bố các chính sách đối với ĐTNN ổn định, thông thoáng và minh bạch
(quy định về quyền sở hữu trí tuệ, ban hành tiêu chí công nghệ cao là gì,
thực hiện phân cấp, cải cách hành chính, đào tạo kỹ năng xúc tiến… để nhà
đầu tư thấy được khả năng tìm kiếm lợi nhuận qua việc đầu tư vào các dự án
này). Chính sách ổn định, lâu dài và thông thoáng là điều kiện hàng đầu để
nhà đầu tư xem xét đầu tư vào Việt Nam. Một khó khăn đặt ra cho các nhà
ĐTNN là quá trình tuyển dụng lao động lành nghề có trình độ cao. Thị
trường lao động Việt Nam đang tồn tại một nghịch lý: thất nghiệp nhiều
nhưng DN vẫn thiếu lao động. Lao động Việt Nam khéo léo, thông minh,
sáng tạo, tiếp thu nhanh công nghệ và kỹ thuật hiện đại nhưng thiếu tính
chuyên nghiệp. Việc đào tạo ồ ạt và “lệch pha” trong nhiều năm đã dẫn
đến sự mất cân đối nguồn nhân lực. Tìm lao động phổ thông thì dễ, nhưng
những vị trí quản lý cao cấp lại rất hiếm, gây ra tình trạng lãng phí chất
xám. Chương trình đào tạo của các trường hiện nay chỉ chú trọng lý thuyết,
chưa quan tâm đến kỹ năng thực hành nên sinh viên ra trường thường phải
đào tạo lại. Vì vậy hệ thống giáo dục nước ta cần quan tâm, đổi mới về
hiện trạng giáo dục hiện nay để phù hợp với sự chuyển mình trong quá
trình hội nhập và phát triển.
Trong quá trình xúc tiến đầu tư, khi tiếp xúc với các danh mục dự
án (trang web google.com), có những dự án quy mô rất lớn nhưng cũng có
những dự án quy mô quá nhỏ không phù hợp với danh mục, nên việc xây
dựng danh mục đầu tư cần phải bắt đầu từ những định hướng rõ ràng ngay
từ chiến lược, chính sách thu hút ĐTNN, để từ đó đưa ra các dự án cụ thể.
Phải xác định các kế hoạch hành động một cách rõ ràng ngay từ đầu theo
những chiến lược cụ thể, mỗi thị trường hướng tới cần có chiến lược riêng,
có nhóm tuyên truyền và xúc tiến phù hợp. Những thông tin về đầu tư cần
phải nhanh chóng, kịp thời, chi tiết hoá và cụ thể hơn nữa, đồng thời khẩn
trương gửi các thông tin này tới các nhà đầu tư, thông báo thường xuyên
trên các phương tiện thông tin, liên tục cập nhật để tránh gây hiểu lầm cho
các nhà đầu tư. Thành phố ký kết với các nhà tư vấn thiết kế có năng lực
để tiến hành rà soát quy hoạch TP liên quan đến các địa phương khác, xây
dựng các dự án đầu tư cụ thể, đặc biệt là các danh mục dự án công nghiệp,
dự án có hàm lượng chất xám cao, từ đó có cơ chế và chính sách kêu gọi
vốn đầu tư đối với từng dự án nhằm huy động mọi nguồn lực tham gia phát
triển.
Cần thành lập các bộ phận xúc tiến đầu tư ở một số nước như Hoa
Kỳ, Nhật, Pháp, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapo… nhằm giới thiệu tiềm
năng của TP, đồng thời nghiên cứu về thị trường kinh tế, thị trường đầu tư
của các công ty, tập đoàn lớn để có chính sách thu hút đầu tư phù hợp;
nghiên cứu chính sách, luật pháp của các nước để có đối sách thích hợp và
kịp thời.
Luôn đổi mới hình thức xúc tiến đầu tư, đẩy mạnh cải cách hành
chính theo hướng chuyển mạnh nền hành chính nặng về quản lý sang nền
hành chính phục vụ là chủ yếu, tăng cường uỷ quyền, phân cấp hơn nữa cho
các sở - ngành và quận - huyện theo hướng cái gì cấp dưới làm được và làm
tốt thì cấp trên mạnh dạn chuyển giao cho cấp dưới, còn cấp trên tập trung
vào vai trò kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm. Hạn chế nạn quan liêu,
Thành phố còn cần hoàn thiện quy hoạch tổng thể để tránh gặp khó khăn
trong việc xác định địa điểm, hỗ trỡ vốn để giảm chi phí giải phóng mặt
bằng và tăng cường chính sách thúc đẩy đào tạo lao động. Bên cạnh đó cần
thực hiện tốt công tác cải cách hành chính bộ phận hải quan ngay tại cửa
khẩu để cải thiện môi trường đầu tư và đón du khách; triển khai công tác
thông quan điện tử để giảm thiểu thời gian và chi phí cho DN xuất nhập
khẩu; lãnh đạo TP, các sở, ban, ngành chức năng cần thường xuyên gặp gỡ
các nhà đầu tư, các nhà nhập khẩu của các nước để quảng bá giới thiệu sản
phẩm của TP.
Từ năm 2005 đến nay thị trường địa ốc đang “tê liệt” dần, không
còn nóng như trước do bị tác động nhiều yếu tố như các chính sách mới về
đất đai. Hiện nay TP đang kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực nhà tái định cư, xây
dựng căn hộ cao cấp Phú Mỹ (hiện đang đàm phán với tập đoàn Yon Woo
Incoporated của Hàn Quốc để thực hiện một số công trình tại khu Nam Sài
Gòn như khu dân cư Tân Phong, căn hộ cao cấp Tân Thuận… ). Để tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ổn định ở lĩnh vực này: tăng cường
hiệu quả công tác giải phóng mặt bằng, các luật cần phải mở thoáng hơn
như chính sách cần phải công khai minh bạch, thuế chuyển nhượng sử dụng
đất không nên “đổ đồng” cho tất cả các đối tượng, cho phép Việt kiều mua
nhà ở…
Đẩy mạnh cổ phần hoá DN Nhà nước (DNNN), mở cửa hơn nữa
cho sự gia nhập thị trường của DN có vốn ĐTNN mà hiện nay vẫn do DN
Nhà nước nắm giữ. Đồng thời thực hiện cam kết về giảm thuế quan theo lộ
trình hội nhập nhằm tạo áp lực cạnh tranh cho tất cả các DN và giảm thiểu
mức độ bảo hộ đối với một số ngành đang được ưu đãi.
Theo sở kế hoạch và đầu tư TP, định hướng thu hút ĐTNN của TP
trong những năm tới là tập trung vào các lĩnh vực viễn thông, vận tải, địa
ốc, giáo dục, tài chính, ngân hàng… Do đó, công tác xúc tiến đầu tư trong
thời gian tới cần có những định hướng thông qua các dự án cụ thể, với các
biện pháp đồng bộ.
Đề nghị Trung ương cho phép TP áp dụng các chế tài đủ mạnh để
hạn chế tình trạng bán phá giá, bán hàng kém chất lượng ra thị trường, gian
lận thương mại, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu và quyền lợi chính
đáng của người tiêu dùng, để đảm bảo quyền lợi cho nhà ĐTNN tại TP, tạo
môi trường cạnh tranh và hoạt động thương mại lành mạnh. Tập trung xây
dựng một trung tâm thông tin kinh tế của TP, đủ năng lực cung cấp thông
tin kinh tế cần thiết cho các DN, giúp DN định hướng thị trường, xây dựng
sản phẩm và chuẩn bị đầu tư.
Quỹ đất của TP đang ngày càng ít, số diện tích đất mà TP cung ứng
cho các nhà đầu tư vẫn chưa đủ, vì vậy nên tiến hành rà soát lại các quỹ
đất đang không được sử dụng trong nhiều dự án để tiến hành thu hồi nếu
nhà đầu tư không còn khả năng triển khai để đưa vào mục đích đầu tư khác.
Đồng thời cho phép các nhà ĐTNN tham gia đấu giá đất đô thị để xây dựng
nhà ở, cho thuê và mục đích thương mại khác, với thời hạn sử dụng nhất
định.
3.2.2. Các giải pháp vi mô
Tăng cường đầu tư, nâng cấp các công trình cơ sở hạ tầng như điện,
nước, giao thông, cảng biển, sân bay nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các
nhà đầu tư. Thành phố sẽ phát triển theo hướng đa trung tâm, kết nối với
các tỉnh trong khu vực bằng những hành lang đô thị, gắn với các KCN, phải
cùng với các địa phương trong khu vực thống nhất xây dựng thiết kế quản
lý đô thị để kiểm soát chặt chẽ kiến trúc đô thị, bảo đảm hình thành cho
được đô thị văn minh và hiện đại, đảm bảo là đầu kéo phát triển kinh tế
vùng và cả nước. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng có sự kết nối liên vùng tức
là cần xây dựng các tuyến đường cao tốc TPHCM - Cần Thơ, TPHCM -
Long Thành - Vũng Tàu, TPHCM - Long Thành - Dầu Dây - Đà Lạt… đẩy
nhanh tốc độ xây dựng mạng lưới đường giao thông, hệ thống cầu qua sông,
xe điện chạy trên cao và chạy ngầm qua lòng đất. Nghiên cứu xây dựng
các tuyến đường sắt từ TPHCM đi Vũng Tàu, Tây Nam bộ, Tây Nguyên,
Phnôm Pênh. Việc mở các tuyến đường sắt sẽ góp phần chuyên chở hàng
hoá, lưu thông phân phối hàng hoá trong khu vực tốt hơn và giá rẻ hơn,
cạnh tranh được với các nước trong khu vực và thế giới.
Cần quy hoạch điều chỉnh trong toàn vùng 2 khu vực Tây Bắc và
Đông Nam TP về hệ thống hạ tầng kết nối đồng bộ trong và ngoài KCN,
KCX, giữa các KCN, KCX và giữa TPHCM với các địa phương trong vùng,
có sự kết nối giữa các ngành kinh tế, kỹ thuật, xã hội và bố trí dân cư liên
quan đến sự phát triển các huyện Bình Chánh, Hóc môn, Củ Chi, Nhà Bè
trong quan hệ phát triển với vùng lân cận 2 tỉnh Long An, Tậy Ninh (ví dụ
cụm công nghiệp Phú Mỹ sẽ tạo ra sự phố hợp với công nghiệp các khu vực
lân cận của tỉnh Long An, Đồng Nai, Bình Dương tạo nên những vùng
(hoặc tiểu vùng) công nghiệp, làm nền tảng hình thành các đô thị mang tính
liên tỉnh.
Về điều chỉnh cơ cấu không gian các khu, cụm công nghiệp: trên cơ
sở hình thành mạng lưới giao thông vùng TPHCM đến 2010 và tầm nhìn
đến 2020, quy hoạch phát triển các KCN, cụm công nghiệp trên địa bàn TP
sẽ hướng tới tập trung ở 2 khu vực chủ đạo tạo thành các cánh cung công
nghiệp: phía Tây - Tây Bắc TP (Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh), phía Đông
Nam (Nhà Bè, Bình Chánh), phía Đông Bắc (Quận 9, Thủ Đức) hiện đã có
một vài khu công nghiệp, sẽ hạn chế phát triển về quy mô và ngành nghề
để không làm ảnh hưởng đến không gian phát triển toàn đô thị (tình hình
quy hoạch, điều chỉnh các KCN đến 2010, 2020 xem phụ lục 13, 14, 15).
Cần nâng cao chất lượng quy hoạch, khắc phục tình trạng phân lô
bán nền, thực hiện di dời để cải thiện môi trường sống của TP, nhà ở cho
người có thu nhập thấp… Đồng thời UBND Thành phố và các sở ngành rất
quan tâm đến việc xây dựng thí điểm chính quyền đô thị, tạo điều kiện về
nguồn lực cho phát triển đô thị. Với một đô thị lớn như TPHCM cần phải có
những chính sách riêng, mang tính đặc thù để có thể phát triển nhanh và
bền vững. Cần khắc phục những yếu kém còn tồn tại trong mấy năm qua,
đặc biệt là tiến độ xây dựng và chất lượng các công trình trọng điểm cơ sở
hạ tầng. Thành phố phải nâng cao chất lượng vận tải công cộng, xử lý rác,
chống ngập… đặc biệt cần tìm nguồn vốn đầu tư hệ thống Metro.
Tháng 4/2004 Sở kế hoạch và đầu tư TP, là địa phương đầu tiên
trong cả nước đưa ra chương trình “Cấp phép đầu tư qua mạng” cho các nhà
ĐTNN, hỗ trợ cho các nhà ĐTNN soạn thảo đơn đăng kí , sau đó các nhà
ĐTNN sẽ gởi đơn đăng kí cho Sở kế hoạch và đầu tư qua mạng Internet.
Điều này giúp các nhà đầu tư giảm được chi phí, thời gian và nắm bắt
nhanh chóng các dự án đầu tư để từ đó để từ đó lựa chọn dự án đầu tư phù
hợp. Nhưng đồng thời TP phải cải tiến khâu thẩm định dự án, khẩn trương
xem xét và để nghị Chính phủ cho phép một số lĩnh vực không cần thẩm
định, chuyển sang đăng kí và cấp phép cho đầu tư. Rút ngắn hơn nữa tời
gian cấp phép đầu tư theo quy định.
Lập và công bố công khai thông tin về quy hoạch, ưu đãi, quy định
thủ tục và thời gian giải quyết các dự án đầu tư bằng nhiều hình thức: mạng
điện tử, báo chí, chuyên san, triễn lãm…
Riêng đối với khâu thẩm định vẫn còn phức tạp, thời gian thẩm định
một số dự án kéo dài do các văn bản pháp quy và quy hoạch phát triển
ngành chưa rõ ràng. Mặt khác, thiếu ý kiến thống nhất giữa các Bộ, ngành
và các địa phương. Do đó TP cần mở rộng diện đăng kí cấp phép đầu tư, rút
ngắn thời hạn thẩm định.
Khi tiến hành đền bù, giải phóng mặt bằng cần tiến hành xem xét,
thẩm định giá và thời hạn đền bù. Cần tiến hành kiên quyến, dứt điểm để
sớm có mặt bằng giao cho nhà đầu tư. Một trong những yếu kém của TP là
đền bù giải toả chậm, làm ảnh hưởng đến kế hoạch đầu tư của các nhà đầu
tư nên họ chuyển sang đầu tư ở các nước khác.
Thực hiện mô hình liên kết kinh doanh giữa các nhà đầu tư mới và
cũ, thường xuyên tổ chức hội thảo, trao đổi kinh nghiệm giữa các nhà
ĐTNN đang hoạt động tại TP cũng như các địa phương khác, qua sự thành
công của các nhà đầu tư cũ mà thu hút và tạo hấp dẫn cũng như lòng tin đối
với các nhà đầu tư mới.
Xử lý kiên quyết các hiện tượng tiêu cực, nhũng nhiễu trong các
ngành như hải quan, thuế, quản lý thị trường, nhà đất nhằm giảm tối đa các
chi phí “ngầm” có tính chất tiêu cực và giảm phiền hà, kiên quyết chống
gian lận thương mại để lành mạnh hoá môi trường đầu tư. Tạo đường giây
nóng giữa DN và lãnh đạo TP, tổ chức bộ phận thường trực để giải quyết
hoặc đầu mối liên hệ giải quyết ngay những vướng mắc của DN. Tiếp tục
duy trì đối thoại trực tiếp qua mạng điện tử giữa lãnh đạo TP và DN.
Một điểm yếu của TP là khi so sánh lợi thế thu hút FDI với các địa
phương khác là đất đai và lao động. Với mức chi tiêu cao nhất nước, nguồn
lao động trong các KCN, KCX phần lớn là từ các tỉnh lân cận. Nhưng đến
nay trước sự thu hút ĐTNN của các tỉnh lân cận hiện nay như Bình Dương,
Đồng Nai… đang đặt ra cho TP nhiều vấn đề cần giải quyết. Thành phố
cần xây dựng điều kiện sống ổn định cho công nhân, xây nhà ở, trường
học… đồng thời khuyến khích các nhà ĐTNN đầu tư vào các lĩnh vực công
nghệ cao, ít sử dụng lao động. Đồng thời TP có phương án đào tạo lao động
theo đơn đặt hàng của các DN.
Điều chỉnh quy hoạch ngành giáo dục - đào tạo phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế - xã hội của TP, lập các danh mục thu hút FDI (như
trường ngoại ngữ Anh, Pháp, Nhật, Trung…, các trường đào tạo nghề,
trường đào tạo sau Đại học). Đối với các trường Đại học hiện nay cần cải
tiến nội dung chương trình đào tạo theo hướng coi trọng thực hành, gắn chặt
quá trình đào tạo ngành nghề với các doanh nghiệp FDI, khuyến khích các
DN tham gia vào quá trình đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động phù
hợp với đặc thù DN. Mặt khác, TP cần đẩy mạnh việc xã hội hoá trong đào
tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật, khuyến khích các tổ chức tập
thể, cá nhân tham gia vào quá trình đào tạo lao động.
Tiếp tục phát hành trái phiếu đô thị và trái phiếu công trình để đáp
ứng các nhu cầu đầu tư cấp thiết. Trong thẩm quyền cho phép, Thành phố
tổ chức bán đấu giá để giao quyền sử dụng đất đối với những khu đất có
giá trị cao, đã được thu hồi, giải phóng mặt bằng và có quy hoạch sử dụng
chi tiết. Chủ trương mở rộng bán đấu giá quyền sử dụng đất tạo ra một
nguồn thu lớn cho ngân sách, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
Thu hút mạnh hơn nữa đầu tư của Việt Kiều là một trong những lợi
thế lớn nhất mà TP có được so với các địa phương khác. Tuy nhiên, tiềm
năng này chưa khai thác đúng mức. Thành phố đã có Hiệp hội doanh nhân
Việt kiều nên TP cần đẩy mạnh hợp tác với Hiệp hội trong việc quảng bá
các cơ hội đầu tư với các nhà đầu tư tiềm năng là Việt Nam ở nước ngoài.
Xúc tiến quảng bá đầu tư qua mạng hoặc thông qua Đại sứ quán Việt Nam
tại nước ngoài để các nhà đầu tư Việt kiều liên hệ trực tiếp.
Thành phố cần chuyển nhanh từ cơ chế bao cấp cho các DN công
ích đối với các loại dịch vụ đô thị sang cơ chế đấu thầu, đấu giá sản phẩm
công ích do các thành phần kinh tế cung cấp dựa theo chất lượng và giá cả
cạnh tranh, thực hiện xã hội hoá mạnh mẽ để thu hút các nguồn lực đầu tư.
KẾT LUẬN
Như vậy, vấn đề thu hút ĐTNN, đặc biệt là nguồn vốn FDI đóng một
vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam nói
chung và TPHCM nói riêng, là yếu tố rất quan trọng để nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế. Vốn FDI không chỉ góp phần vào sự phát triển
kinh tế mà còn vào quá trình hội nhập, bản thân nguồn vốn FDI là một
trong những yếu tố góp phần vào sự phát triển ngành, lĩnh vực cụ thể của
TP thông qua sự đòi hỏi nâng cao khả năng cạnh tranh đối với các thành
phần kinh tế khác. Nguồn vốn FDI góp phần bổ sung vào nguồn vốn quan
trọng cho đầu tư phát triển, góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử
dụng các nguồn lực trong nước, tạo ra thế và lực cho nền kinh tế.
Trong mấy năm qua, Thành phố vẫn là địa phương dẫn đầu cả nước
về thu hút ĐTNN (tính từ 1988-2004 cả nước có 5846 dự án ĐTNN với tổng
số vốn là 51830 triệu USD thì TP có 1925 dự án với tổng số vốn đăng kí là
16433 triệu USD chiếm 32,9% về số dự án và 31,7% về tổng vốn đăng kí
so với cả nước) (bảng 1.1). Như vậy số dự án ĐTNN vào TP luôn chiếm
khoảng 1/3 so với cả nước.
Quá trình thu hút ĐTNN tại TPHCM trải qua nhiều giai đoạn với
những bước thăng trầm khác nhau, đặc biệt giai đoạn 1997-2000 giảm sút
nghiêm trọng. Giờ đây đang có dấu hiệu phục hồi.
Nghiên cứu FDI tại TPHCM, bao gồm nghiên cứu tổng thể các yếu
tố: tổng số vốn đầu tư, số lượng các dự án được cấp phép, các đối tác đầu
tư… đóng góp FDI vào phát triển kinh tế - xã hội của TP. Trên cơ sở đó tìm
ra những nguyên nhân thành công cũng như thất bại trong lĩnh vực thu hút
FDI, từ đó góp phần thúc đẩy lĩnh vực này nhanh chóng ổn định và phát
triển.
Việc thu hút ĐTNN vẫn là vấn đề tiếp tục cần nghiên cứu. Làm thế
nào để tạo ra môi trường đầu tư làm hài lòng các nhà đầu tư song không
đánh mất tính tự chủ về kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư. Vì vậy đây là
một vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng và cần được giải
quyết.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5229.pdf