Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bàn về nhu cầu vốn trong nền kinh tế nước ta, từ Đại hội Đại biểu toàn quốc khoá VII của Đảng đã khẳng định: “Để công nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước cần huy động được nguồn vốn sẵn có và sử dụng có hiệu quả, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn bên ngoài là quan trọng”.
Rõ ràng cung ứng vốn cho nền kinh tế đang là đòi hỏi rất lớn trong sự nghiệp phát triển đất nước, bởi vì vốn là nguồn đầu vào quyết định sự tăng trưởng và phát tri
73 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1349 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đánh giá năng lực nguồn vốn và khả năng mở rộng nguồn vốn của Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương (TechcomBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển, là yếu tố tiên quyết nhằm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu về kinh tế, tiến nhanh tiến kịp các nước trong khu vực và thế giới.
Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, hệ thống ngân hàng thương mại nước ta đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành kênh dẫn vốn quan trọng đóng vai trò chủ chốt trong nhu cầu giao lưu vốn của nền kinh tế.
Chính vì vậy, việc đẩy mạnh huy động vốn qua hệ thống ngân hàng thương mại là một vấn đề tất yếu, đảm bảo đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng, phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Làm thế nào để huy động, khai thác hết nguồn vốn tiềm tàng trong dân, trong các tổ chức kinh tế để đáp ứng nhu cầu vốn của toàn xã hội, đồng thời mở rộng hoạt động kinh doanh luôn là vấn đề đặt ra với các ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng thương mại cổ phần Techcombank nói riêng.
Chính vì những lý do trên tôi đã chọn đề tài: “Đánh giá năng lực nguồn vốn và khả năng mở rộng nguồn vốn của ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam” làm khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu.
Khoá luận đã hệ thống lại phần lý luận chung về công tác huy động vốn, các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn vốn huy động và vai trò của vốn với ngân hàng thương mại. Trên cơ sở đó, khoá luận đi sâu vào phân tích thực trạng huy động vốn tại ngân hàng cả về quy mô và kết cấu trong mối quan hệ với nền kinh tế và quan hệ so sánh với hoạt động này của các ngân hàng thương mại khác. Từ đó rút ra những kết quả đạt được cũng như các mặt còn tồn tại. Khoá luận đề xuất một số giải pháp nhằm thu hút thêm nguồn vốn trong dân cư.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Là các vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn có liên quan đến nguồn vốn huy động của ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng Techcombank nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu: Khoá luận đi sâu nghiên cứu thực trạng hoạt động huy động vốn của ngân hàng Techcombank trên cơ sở các thông tin, dữ liệu trong những năm gần đây.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Khoá luận chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Các phương pháp thống kê mẫu, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp... cũng được sử dụng.
5. Những đóng góp của khoá luận.
Khoá luận đã hệ thống lại những vấn đề lý luận chung về nguồn vốn huy động, vai trò của vốn trong nền kinh tế.
Về mặt thực tiễn, khoá luận đã nêu nên thực trạng hiện tại của công tác huy động vốn tại ngân hàng qua việc phân tích các số liệu. Khoá luận tìm ra nguyên nhân dẫn đến những mặt hạn chế trong công tác huy động vốn, từ đó đưa ra những giải pháp thích hợp.
Do khả năng và trình độ hiểu biết có hạn, thời gian thực tập tại ngân hàng chưa nhiều, nên khoá luận còn một số thiếu sót, sơ sài. Kính mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của thày cô trong khoa Tiền tệ - Thị trường vốn để khoá luận hoàn thiện hơn.
6. Kết cấu của khoá luận.
Khoá luận gồm 3 phần:
Phần mở đầu.
Phần nội dung: Chia làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại Techcombank.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường huy động vốn tại Techcombank.
Phần kết luận.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Nguyễn Thị Thái Hưng, cán bộ nhân viên phòng Quản lý nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ ngoại hối - Techcombank đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Chương 1: Một số vấn đề chung về hoạt động
huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1. Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, nó có số lượng lớn nhất trong hệ thống các tổ chức trung gian tài chính và thực hiện phần lớn các hoạt động của tổ chức trung gian tài chính nói chung. Từ hình thức ngân hàng sơ khai đầu tiên là những thương gia nhận nhiệm vụ trông coi cất giữ hộ tiền để thu phí đến nay ngân hàng đã trở thành một tổ chức kinh doanh tiền tệ chuyên nghiệp mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu vẫn là nhận tiền gửi của khách với cam kết hoàn trả lại đúng số tiền đó cộng thêm một phần lãi và sử dụng số tiền đó để cho vay, đầu tư và thực hiện thêm một số nghiệp vụ khác.
Trên toàn thế giới, ngân hàng là người cung cấp các khoản tín dụng cho người tiêu dùng với quy mô lớn nhất và là một trong những tổ chức tài chính cung cấp vốn lưu động quan trọng nhất cho các doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, ngân hàng còn tăng cường mở rộng cho vay dài hạn đối với doanh nghiệp để hỗ trợ cho việc xây dựng nhà máy hay mua sắm máy móc thiết bị.
Với tầm quan trọng như trên, ở bất kỳ quốc gia nào chính phủ đều xây dựng những khung pháp lý quy định, giới hạn hoạt động của ngân hàng. ở Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng(điều 20, luật số 02/1997/QH10) chỉ rõ:”Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Từ định nghĩa chung đó, căn cứ vào tính chất và mục tiêu hoạt động, Luật còn chỉ rõ các loại hình ngân hàng gồm: NHTM quốc doanh,NHTM cổ phần, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Ngày nay trong thế giới hiện đại, hoạt động của các tổ chức tài chính là môi giới trên thị trường tài chính ngày càng phát triển về số lượng và quy mô hoạt động, đa dạng và phong phú, hoạt động đan xen lẫn nhau. Người ta phân biệt NHTM với các tổ chức trung gian tài chính khác là ở chỗ NHTM là ngân hàng kinh doanh tiền gửi, chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn. Thông qua việc nhận tiền gửi không kỳ hạn hay loại tiền gửi phát hành séc mà NHTM còn làm dịch vụ thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế.
1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại ra đời do yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế, nền kinh tế càng phát triển càng cần đến hoạt động của các NHTM. Thông qua việc thực hiện các chức năng vai trò của mình, NHTM trở thành một bộ phận thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vai trò của NHTM thể hiện:
Vai trò làm thủ quỹ cho xã hội
Thực hiện vai trò này NHTM nhận tiền gửi của các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế, giữ tiền cho khách hàng của mình, đáp ứng nhu cầu rút tiền và chi tiền của họ.
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, thu nhập ngày càng cao, tích luỹ của doanh nghiệp và cá nhân ngày càng lớn cộng thêm nhu cầu bảo vệ tài sản và mong muốn sinh lời từ khoản tiền có được của các chủ thể kinh tế làm cho vai trò này của NHTM càng thể hiện rõ. Nó đem lại lợi ích cho cả khách hàng và ngân hàng. Đối với khách hàng, gửi tiền vào ngân hàng họ không những đảm bảo được an toàn về tài sản mà còn thu được một khoản lợi tức từ ngân hàng hoặc được hưởng các tiện ích thanh toán. Đối với ngân hàng, chức năng này là cơ sở để ngân hàng thực hiện vai trò thanh toán, đồng thời tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho NHTM.
Vai trò làm trung gian tín dụng
Ngân hàng thương mại làm trung gian tín dụng khi nó là “ cầu nối” giữa người có vốn dư thừa và người có nhu cầu về vốn. NHTM đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở mọi cá nhân tổ chức trong nền kinh tế để hình thành nên quỹ cho vay của mình rồi đem cho vay đối với nền kinh tế. Thông qua việc thu hút tiền gửi với một khối lượng lớn, ngân hàng góp phần giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu tín dụng cả về khối lượng vốn cho vay và thời hạn cho vay.
Thông qua vai trò trung gian tín dụng, NHTM góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên trong quan hệ là người gửi tiền, người vay tiền, ngân hàng và đảm bảo lợi ích của nền kinh tế. Người gửi tiền thu được lãi tiền gửi và có một sự đảm bảo an toàn cho khoản tiền nhàn rỗi của mình; người đi vay thoả mãn được nhu cầu vốn để kinh doanh, chi tiêu; còn NHTM thì tìm kiếm được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suât tiền gửi.
Với vai trò làm trung gian tín dụng, NHTM đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất. NHTM đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Vai trò thanh toán
NHTM thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.
NHTM thực hiện vai trò thanh toán trên cơ sở nó thực hiện vai trò làm thủ quỹ cho xã hội. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các khoản thu, chi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng là tiền đề để ngân hàng thực hiện vai trò trung gian thanh toán.
Vai trò trung gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh tế. Bởi vì, thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt và đảm bảo thanh toán an toàn. Thanh toán qua ngân hàng cho phép khách hàng thực hiện thanh toán nhanh chóng và hiệu quả. Điều này góp phần tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, tốc độ luân chuyển vốn và hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội. Khi cung cấp các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, ngân hàng càng có điều kiện để thu hút vốn tiền gửi để bổ sung cho nguồn vốn hoạt động của ngân hàng mình.
Vai trò thực hiện chính sách
Thông qua hoạt động của NHTM, Nhà nước có thể điều tiết vĩ mô nền kinh tế. NHTM thực hiện các chính sách kinh tế của chính phủ, góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội. NHTM làm được vai trò trên bởi vì hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Thông qua việc cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, NHTM thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều khỉên chúng một cách có hiệu quả.
Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế
Xu thế chung hiện nay là toàn cầu hoá, khu vực hoá, sự phát triển của các quốc gia không thể tách rời, độc lập riêng biệt mà luôn cần phải có sự giao lưu hợp tác tương trợ lẫn nhau. Trong nền kinh tế thị trường khi mà các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế- xã hội giữa các nước trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết. Việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Với các nghiệp vụ kinh doanh như nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác, NHTM đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng mở rộng. Thông qua các hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng với các NHTM nước ngoài, hệ thống NHTM đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.
1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm về vốn của ngân hàng thương mại
NHTM là một trung gian tài chính, ở mỗi nước khác nhau các trung gian tài chính lại được phân chia khác nhau. Tuy nhiên dù được phân chia theo cách nào đi chăng nữa, thì NHTM - xét về khối lượng tài sản và tầm quan trọng với nền kinh tế- vẫn giữ một vai trò chủ đạo. Để đạt được vị trí đó NHTM phải đặt yếu tố lợi nhuận lên hàng đầu và công cụ đầu tiên mà các NHTM phải có là vốn.
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Như vậy, trong tổng nguồn vốn hoạt động của ngân hàng, ngoài vốn chủ sở hữu là do ngân hàng tạo lập được còn có vốn huy động. Thực chất vốn huy động của ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu của chúng gửi vào ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Bằng việc nhận tiền gửi ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời chính các hoạt động đó lại quyết định đến sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nhìn chung, vốn chi phối toàn bộ các hoạt động và quyết định đối với việc thực hiện các chức năng, vai trò của NHTM.
1.2.2. Vai trò của vốn với hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có vốn, vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh.Riêng đối với ngân hàng, vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình. Ngân hàng không có vốn thì không thể thực hiện được các nghiệp vụ kinh doanh. Bởi vì, với đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ(thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán(thị trường vốn dài hạn). Những ngân hàng trường vốn là ngân hàng có nhiều thế mạnh trong kinh doanh. Do đó, ngoài vốn ban đầu cần thiết, tức là đủ vốn điều lệ theo luật định, thì ngân hàng phải thường xuyên chăm lo đến việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình.
Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng
Vốn của ngân hàng quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng. Trong khi các ngân hàng lớn cho vay được tại thị trường trong vùng thậm chí trong nước và cả quốc tế thì các ngân hàng nhỏ lại bị giới hạn trong phạm vi hẹp, mà chủ yếu trong từng khu vực nhỏ. Hơn nữa, vốn hạn hẹp nên các ngân hàng nhỏ thường không phản ứng nhanh nhạy trước các biến động về lãi suất, gây ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thu hút vốn đầu tư từ tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế. Chúng ta có thể lấy ví dụ, trên địa bàn ngân hàng hoạt động, nhu cầu vốn rất lớn, nếu ngân hàng không huy động vốn được thì không thể tiến hành cho vay. Đến đây xảy ra hai trường hợp: Nếu khả năng vốn của ngân hàng dồi dào, thì sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn cho vay, có thể mở rộng thị trường tín dụng và các dịch vụ ngân hàng; ngược lại, ngân hàng không huy động đủ vốn để đáp ứng nhu cầu vay thì sẽ đánh mất thị phần của mình ngay trên địa bàn mình hoạt động. Điều này càng khẳng định rõ tầm quan trọng của vốn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động đòi hỏi các ngân hàng phải coi uy tín lớn trên thị trường là điều trọng yếu. Uy tín của ngân hàng được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho khách hàng của mình. Loại trừ các nhân tố khác, thì khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và vốn khả dụng của ngân hàng nói riêng.Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành cạnh tranh có hiệu quả nhằm vừa giữ chữ tín, vừa nâng cao thanh thế trên thị trường.
Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh giúp các doanh nghiệp có khả năng tự hoàn thiện mình hơn. Với ngân hàng, vốn chính là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng mình. Thực tế đã chứng minh: Quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại của ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn, và nguồn vốn lớn là điều kiện thuận lợi với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay, đưa ra mức lãi suất hấp dẫn cho khách hàng. Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên nhanh chóng, là điều kiện thuận lợi để ngân hàng bổ sung vốn tự có, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và quy mô hoạt động của mình.
Khi vốn của ngân hàng lớn sẽ giúp cho ngân hàng có đủ khả năng tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn liên doanh liên kết, kinh doanh trên thị trường chứng khoán, kinh doanh dịch vụ cho thuê tài chính. Các hình thức kinh doanh đa năng này sẽ góp phần phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo thêm vốn cho ngân hàng, đồng thời tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trên thương trường.
1.2.3. Phân loại nguồn vốn của ngân hàng thương mại
Một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thu được lợi nhuận cao là doanh nghiệp biết tận dụng mọi khả năng của mình, nắm bắt thông tin chớp mọi thời cơ. Với ngân hàng, khả năng hàm chứa những nhân tố bản thân ngân hàng sẵn có và đi khai thác, vốn chính là yếu tố phản ánh khả năng của ngân hàng. Trong tổng nguồn vốn hoạt động của ngân hàng, mỗi loại có tính chất và vai trò riêng, do vậy nhiệm vụ của ngân hàng là phải phân loại vốn “ đầu vào” trên cơ sở đó phân bổ “ đầu ra” hợp lý.
Vốn kinh doanh của NHTM bao gồm: Vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay và vốn khác.
a. Vốn tự có
Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, song là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng.Vốn tự có của NHTM có các thành phần sau:
Vốn tự có cơ bản: Là vốn pháp định - vốn điều lệ: Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng do pháp luật quy định. Vốn điều lệ là vốn do các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ hoạt động của ngân hàng và theo quy định tối thiểu phải bằng vốn pháp định. Tuỳ theo hình thức sở hữu mà nguồn vốn này được hình thành từ những nguồn khác nhau: Đối với ngân hàng tư nhân, vốn điều lệ là vốn sở hữu riêng của doanh nghiệp và được hình thành sau một quá trình tập trung, tích tụ vốn; Các ngân hàng quốc doanh được phép hoạt động trên cơ sở vốn ban đầu do Ngân sách Nhà nước cấp; Vốn điều lệ của ngân hàng cổ phần do các cổ đông đóng góp dưới hình thức mua cổ phiếu; Đối với ngân hàng liên doanh là sự góp vốn từ các ngân hàng trong và ngoài nước.
Vốn tự có bổ sung: Vốn này có thể là được cấp thêm(bổ sung không mang tính chất thường xuyên vì nó chỉ có được khi cấp thêm, bán thêm cổ phần, cổ phiếu) hay bổ sung từ lợi nhuận( mang tính chất thường xuyên và chiêm tỷ trọng lớn nhất trong vốn tự có của ngân hàng). Ngoài ra, vốn tự có còn được bổ sung từ quỹ phúc lợi, khen thưởng, dự phòng rủi ro, quỹ thặng dư vốn(phần chênh lệch đánh giá lại tài sản).
Vốn tự có có đặc điểm là :
Chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng.
Có tính chất thường xuyên ổn định, không hoàn lại. Do vậy, ngân hàng chủ yếu sử dụng vốn tự có vào mục đích trang bị cơ sở vật chất, tài sản cố định(văn phòng, kho tàng, trang thiết bị ), tham gia đầu tư góp vốn liên doanh.
Vai trò của vốn tự có:
Là tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản vì vốn tự có giúp ngân hàng trang trải những thua lỗ về tài chính cho tới khi ban quản lý giải quyết khó khăn và đưa ngân hàng hoạt động sinh lời.
Là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép tổ chức và hoạt động trước khi nó có thể huy động được khoản tiền gửi đầu tiên.
Vốn tự có được coi là tài sản đảm bảo gây lòng tin với khách hàng, quyết định khả năng và khối lượng vốn huy động của ngân hàng.
b. Vốn huy động
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua qúa trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh. Trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thì đây là phần vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất, có vai trò quan trọng nhất. Vốn huy động bao gồm:
Nếu căn cứ theo thời gian huy động
Vốn huy động ngắn hạn: Đặc điểm của nguồn vốn này là chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng nguồn vốn huy động, được sử dụng chủ yếu để cho vay với thời hạn dưới một năm, lãi suất huy động thường thấp.
Vốn huy động trung hạn: Loại vốn này có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm(ở Việt Nam chỉ từ 1 đến 3 năm trở lên). Ngân hàng sử dụng nguồn vốn này chủ yếu cho các doanh nghiệp vay khoản tín dụng trung hạn nhằm đầu tư cải tiến công nghệ, sản phẩm.
Vốn huy động dài hạn: Đây là khoản vay mà ngân hàng huy động từ 5 năm trở lên. Chi phí cho việc huy động thường này cao, do lãi suất thường cao. Là nguồn vốn để ngân hàng cho vay dài hạn như: đầu tư xây dựng cơ bản, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là nguồn vốn ổn định của ngân hàng.
Nếu căn cứ vào đối tượng huy động
Vốn huy động từ dân cư.
Vốn này có nguồn gốc là những khoản dự phòng cho tiêu dùng và rủi ro trong tương lai. Khi xã hội ngày càng phát triển thì những khoản dự phòng này cũng tăng lên. Nắm bắt được quy luật này, NHTM đã sử dụng nghiệp vụ huy động để tăng thêm nguồn vốn, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và tăng thêm lợi nhuận.
Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp do yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh nên các đơn vị này thường gửi một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng để hưởng tiện ích thanh toán. NHTM là một trung gian tài chính, nó quan hệ với các đối tượng này thông qua việc mở tài khoản, nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế và đáp ứng yêu cầu thanh toán của họ. Do có sự đan xen giữa các khoản phải thu và các khoản phải thanh toán nên luôn tồn một số dư tiền gửi nhất định tại ngân hàng. Nguồn huy động này có chi phí thấp, được ngân hàng sử dụng cho vay không chỉ ngắn hạn mà còn trung hạn. Tuy nhiên nguồn này có hạn chế là tính không ổn định và khối lượng vốn huy động được phụ thuộc vào quy mô và loại hình doanh nghiệp.
Nếu căn cứ vào công cụ huy động
Tiền gửi không kỳ hạn: Là khoản tiền gửi mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất cứ lúc nào và ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi, bao gồm hai loại sau:
+ Tiền gửi thanh toán: Là các khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử dụng để tiến hành thanh toán chi trả cho các hoạt động mua bán hàng hoá, dịch vụ và các khoản chi khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên an toàn thuận tiện. Đứng trên góc độ ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn là một khoản nợ mà ngân hàng luôn phải chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, trong mỗi ngân hàng do có sự không khớp nhịp giữa nhập và xuất trên mỗi tài khoản tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp làm cho nhập lớn hơn xuất, tạo nên tồn khoản mà ngân hàng được phép sử dụng như một phần vốn kinh doanh.
+ Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý: Là khoản tiền được ký gửi với mục đích an toàn tài sản, không mang tính chất phục vụ thanh toán. Cũng giống như trường hợp trên, ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu của khách hàng khi họ có nhu cầu rút tiền và chỉ được phép sử dụng tồn khoản khi đã đảm bảo khả năng thanh toán chi trả.
Tiền gửi có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi có sự thoả thuận trước giữa khách hàng và ngân hàng về thời hạn rút tiền. Nguồn tiền gửi này có nguồn gốc từ tích luỹ và với mục đích hưởng lãi. Có hai loại tiền gửi có kỳ hạn: Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi báo trước. Người gửi tiền có kỳ hạn không nhằm mục đích thanh toán và chỉ được rút tiền khi đến hạn như đã thoả thuận. Mức lãi suất cụ thể phụ thuộc vào thời hạn gửi tiền và sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng trên cơ sở xem xét đến mức độ an toàn của ngân hàng cũng như quan hệ cung - cầu về vốn tại thời điểm đó. Thông thường, tiền gửi có kỳ hạn là những khoản tiền gửi có thời hạn dài và lãi suất cao.
Đặc điểm của nguồn huy động vốn này là tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử dụng phần lớn tồn khoản vào kinh doanh. Chính vì vậy, các NHTM luôn tìm cách đa dạng hoá loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng
Tiền gửi tiết kiệm: Đi đôi với sự phát triển của nền kinh tế là sự gia tăng mức thu nhập của người dân. Khi mức thu nhập vượt quá chi tiêu lúc đó sẽ có tích trữ tiền. Thông qua tiền gửi tiết kiệm người ta không những đảm bảo an toàn cho số tiền của mình mà còn được hưởng một phần lãi từ số tiền đó. Tiền gửi loại này có rất nhiều hình thức: cổ điển và phổ biến nhất hiện nay là loại tiền gửi tiết kiệm(passbook saving account), ngoài ra còn có chứng chỉ tiết kiệm( savings certificates).
Huy động vốn tiền tệ bằng việc phát hành chứng từ có giá: Trong hình thức này ngân hàng chủ động phát hành phiếu nợ để huy động vốn thường nhằm mục đích đã định, ví dụ như phát hành kỳ phiếu để có tiền cho vay thu mua nông sản, để đầu tư cho một dự án...Hình thức tạo vốn này giúp cho các NHTM chủ động trong việc huy động vốn để thực hiện các dự án đầu tư dài hạn và vốn này có tính ổn định cao về thời hạn sử dụng và lãi suất.
c. Vốn vay
Vốn đi vay là quan hệ vay vốn giữa NHTM và NHTW hoặc giữa các NHTM với nhau hay với các tổ chức tín dụng khác. Các NHTM sẽ đi vay vốn để bổ sung vào vốn khả dụng của mình khi ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động.
Vay của NHTW: NHTW là người cho vay cuối cùng trong nền kinh tế, là ngân hàng của các ngân hàng. Các NHTM vay NHTW nhằm mục đích:
+ Vay ngắn hạn bổ sung: Là hình thức các NHTM xin vay vốn bổ sung vốn ngắn hạn của mình. Trong hình thức vay này các NHTM chỉ được vay khi còn hạn mức tín dụng và trong hạn mức tín dụng đã thoả thuận.
+ Vay để thanh toán: Các NHTM vay NHTW nhằm thực hiện công tác thanh toán giữa các ngân hàng nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán.
Hình thức tái cấp vốn được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện theo các cách:
+ Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng
+ Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Đây là hình thức NHTW nhận các chứng từ có giá mà các NHTM đã chiết khấu trước đây cho khách hàng của họ để thực hiện các nghiệp vụ giống như NHTM đã làm. Việc cho vay tái chiết khấu bị giới hạn bởi hạn mức tái chiết khấu.
+ Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Căn cứ trên tổng mệnh giá các chứng từ có giá làm đảm bảo, NHTW sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo sự quản lý của NHNN.
Vốn vay NHTW là quan hệ trực tiếp giữa các NHTM với NHTW nằm trong sự điều tiết của chính sách tiền tệ. Khi NHTW sử dụng công cụ thị trưởng mở mua bán các trái phiếu, kỳ phiếu ngắn hạn, NHTM phải chịu sự kiểm soát gắt gao của NHTW. Do vậy việc đi vay vốn của NHTW không phải lúc nào cũng diễn ra suôn sẻ và bị giới hạn bởi hạn mức chiết khấu và hạn mức tái cấp vốn.
Vay các tổ chức tín dụng khác: NHTM có thể vay vốn của tổ chức tín dụng khác nhằm đảm bảo nhu cầu vốn khả dụng trong thời gian ngắn. Trong quá trình hoạt động, một số NHTM có những ngày cho vay quá nhiều hoặc có nhu cầu lớn về các nghĩa vụ tài chính dẫn đến thiếu hụt dự trữ tại NHTW. Trong khi đó lại có một vài ngân hàng khác trong tình trạng thừa dự trữ. Hành vi vay lẫn nhau giữa các ngân hàng là nhằm điều hoà nhu cầu vốn khả dụng và đảm bảo nguồn vốn lưu chuyển liên tục trong hệ thống ngân hàng.
d. Vốn khác
Nguồn vốn này có được là nhờ vào lợi thế hoạt động của NHTM. Ví dụ, trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM đã tạo được một khoản vốn gọi là vốn trong thanh toán: Vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi séc bảo chi, séc định mức và các khoản tiền phong toả do ngân hàng chấp nhận các hối phiếu thương mại. Các khoản tiền tạm thời được trích khỏi tài khoản này nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng, nên tạm được coi là tiền nhàn rỗi. Hay thông qua nghiệp vụ làm đại lý, NHTM cũng thu được một lượng vốn đáng kể trong qúa trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho các tổ chức tín dụng khác, nhận và chuyên vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư. Do việc phát tiền được thực hiện theo tiến độ công việc, nên ngân hàng có thể sử dụng tạm thời tồn khoản đó vào kinh doanh.
1.2.4. Các hình thức huy động vốn chủ yếu của ngân hàng thương mại
NHTM làm nhiệm vụ đi vay (tạo vốn) và cho vay hoặc đầu tư với mục đích hưởng chênh lệch lãi suất. Quá trình tạo vốn của NHTM được thực hiện dưới các hình thức sau:
Huy động tiền gửi không kỳ hạn.
Đây là loại tiền gửi mà chủ nhân của nó có thể rút tiền hoặc trả cho bên thứ ba bằng cách phát hành séc. ở các nước phát triển loại tiền gửi này phần lớn được rút qua các máy rút tiền tự động ATM hay thông qua điện thoại. Khách hàng gửi tiền không kỳ hạn quan tâm đến khả năng chuyển nhượng dễ dàng, mục đích giao dịch là chính, còn việc hưởng lãi với số tiền gửi là không quan trọng. Do vậy, loại tiền gửi này còn được gọi là tiền gửi theo yêu cầu, không đem lại lãi suất cụ thể. Đối với ngân hàng, chỉ phải bỏ ra chi phí cho việc quản lý tài sản hoặc trả lãi(nếu có thì rất nhỏ). Lợi thế này phụ thuộc vào từng thời kỳ trong năm và khả năng của ngân hàng trong việc dự đoán về sự biến động của loại vốn huy động này.
Ngân hàng thường bảo quản loại tiền gửi huy động không kỳ hạn trên hai loại tài khoản: Tài khoản thanh toán và tài khoản vãng lai.
+ Tài khoản tiền gửi thanh toán: Là loại tài khoản mà chủ nhân của tài khoản có toàn quyền sử dụng số tiền trong phạm vi số dư tiền gửi. Khách hàng mở tài khoản này nhằm mục đích đảm bảo thế năng và sử dụng dễ dàng thuận tiện đồng vốn khi cần. Loại tài khoản này luôn dư có.
+ Tài khoản vãng lai: Là tài khoản có lúc dư nợ có lúc dư có, thường được sử dụng cho các tổ chức kinh tế. Dư bên có phản ánh số tiền hiện có trong tài khoản của khách hàng, ngược lại số dư bên nợ phản ánh khoản tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng vay. Lãi suất bên nợ và bên có do ngân hàng và khách hàng thoả thuận.
Do tiền gửi không kỳ hạn có chi phí huy động thấp, nếu thu hút được số lượng khách hàng lớn, đảm bảo luôn có một số dư ổn định, ngân hàng có thể dễ dàng trong việc đa dạng hoá nghiệp vụ của mình thông qua việc mua các chứng khoán có tính linh hoạt cao như kỳ phiếu, tín phiếu kho bạc. Trên thực tế, các ngân hàng đang dần xoá bỏ sự khác biệt giữa hai loại tài khoản này.
ở Việt Nam, loại tiền gửi này tồn tại thông qua các hình thức: tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế và tài khoản tiền gửi cá nhân. Việt Nam là nước có tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt thấ._.p, để khuyến khích việc thanh toán qua ngân hàng, các NHTM Việt Nam đã từng áp dụng việc trả lãi cho loại tiền gửi này (0,5% đối với tài khoản tiền gửi giao dịch của các đơn vị, tổ chức kinh tế).
Tóm lại, loại tiền gửi này có đặc điểm là tính ổn định thấp (muốn sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này phải mở rộng quy mô huy động vốn); chi phí huy động rẻ (có những ngân hàng áp dụng mức lãi suất 0% hoặc có thì cũng rất thấp); luôn là đối tượng phải chịu dự trữ bắt buộc, điều này tạo nên một chi phí thực cao hơn chi phí danh nghĩa; loại tiền gửi này có tính thanh khoản cao.
Huy động tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm
Nếu tiền gửi không kỳ hạn có số dư tăng giảm phục thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng gửi tiền, thì tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn lại phụ thuộc vào lãi suất
+ Tiền gửi có kỳ hạn.
Là loại tiền mà người gửi tiền có thể có quyền rút ra theo như thời hạn đã thoả thuận với ngân hàng, mục đích của loại tiền gửi này là hưởng lãi chứ không phải là hưởng các tiện ích trong thanh toán. Hiệu quả sử dụng nguồn vốn này đối vối ngân hàng là rất cao vì nó có thời hạn rõ ràng, chi phí để huy động đối với ngân hàng là khá đắt vì lãi suất huy động thường cao (thông thường lãi suất tỷ lệ thuận với thời gian: thời gian gửi càng dài thì lãi suất phải trả càng cao). Mức lãi suất với các chứng chỉ tiền gửi có thể cố định hoặc linh hoạt tuỳ theo sự lựa chọn của khách hàng.
ở Việt Nam hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi (kỳ phiếu) đã xuất hiện với thời hạn 3 tháng, 6 tháng. Tuy hình thức này mới xuất hiện và được sử dụng vài năm gần đây nhưng nó đã phát huy vai trò trong việc tạo vốn cho các NHTM bằng chứng là tỷ trọng huy động vốn bằng cách phát hành kỳ phiếu ngân hàng cao hơn các hình thức huy động khác.
+ Tiền gửi tiết kiệm.
Tiền gửi tiết kiệm được coi là công cụ huy động vốn truyền thống của các NHTM. Vốn huy động từ các tài khoản tiết kiệm thường chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tiền gửi của các ngân hàng. Ngân hàng thường phân chia loại tiền gửi này làm 3 loại:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Với loại tài khoản này, chủ tài khoản có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào mà không cần báo trước. Số dư loại tài khoản này không lớn nhưng ưu điểm hơn tiền gửi giao dịch ở chỗ ít biến động. Để thu hút khách hàng gửi tiền vào loại tài khoản này, ngân hàng thường trả lãi suất cao hơn so với tiền gửi thanh toán.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Nguyên tắc của loại tiền gửi này là một khi khách hàng đã gửi tiền vào tài khoản này, họ sẽ không được rút ra (cả gốc lẫn lãi) trừ khi đã hết hạn gửi tiền. Tuy nhiên, do yếu tố cạnh tranh thu hút tiền gửi, một số NHTM vẫn cho phép khách hàng rút tiền trước thời hạn; đồng thời để hạn chế việc khách hàng rút tiền trước hạn, một phần lãi mà khách hàng được hưởng đã bị khấu trừ. ở Việt Nam đây là hình thức khá phổ biến và quen thuộc, kỳ hạn mà các ngân hàng Việt Nam thường áp dụng là huy động tiết kiệm với kỳ hạn từ 3 tháng đến 1 năm.
Tiền gửi tiết kiệm dài hạn: Loại tiền gửi này rất phổ biến ở một số nước công nghiệp nhằm thu hút số tiền nhàn rỗi tạm thời trong thời hạn dài. Đặc điểm của loại tiền gửi này là chủ tài khoản có thể gửi vào với số lượng không hạn chế và mọi lúc, mọi nơi, nhưng chỉ được rút ra khi đến hạn. Đây là loại hình tiết kiệm mà ngân hàng cần tận dụng để tạo ra nguồn vốn có tính ổn định cao phục vụ cho hoạt động cấp tín dụng trung dài hạn của mình.
Huy động qua phát hành giấy tờ có giá.
Đây là nguồn vốn ngân hàng có thể huy động một cách chủ động trên thị trường tài chính, bao gồm: Thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Là trung gian tài chính, phải luôn đáp ứng nhu cầu về vốn, do vậy việc ngân hàng thiếu vốn là không thể tránh khỏi. Trong những trường hợp này, ngân hàng có thể sử dụng nghiệp vụ huy động vốn trên thị trường tài chính: phát hành các giấy tờ có giá như giấy tờ vay nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Việc chuyển nhượng các giấy tờ trên từ chủ sở hữu này sang chủ sở hữu khác phụ thuộc vào thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu và trái phiếu.
Trái phiếu ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn dưới hình thức giấy nhận nợ do các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn, trong đó cam kết trả lãi và gốc cho người mua sau một thời gian nhất định. Đối với người mua, trái phiếu ngân hàng là giấy chứng nhận việc đầu tư vốn và quyền được hưởng thu nhập của người mua. Trái phiếu ngân hàng được phân ra thành nhiều loại
+ Nếu theo thời hạn: Trái phiếu ngắn hạn và trái phiếu dài hạn.
+ Nếu theo tính chất chuyển đổi: Trái phiếu vô danh, trái phiếu đích danh.
Việc phát hành trái phiếu của ngân hàng được tiến hành trong toàn hệ thống ngân hàng, chủ yếu là để huy động vốn trung và dài hạn phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh có quy mô lớn và dài hạn. Do tính chất chủ động trong việc huy động vốn nên lãi suất trái phiếu phải hấp dẫn, cao hơn lãi suất của các công cụ khác và tỷ lệ thuận với kỳ hạn của khoản nợ.
Kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy nhận nợ ngắn hạn do ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trong dân cư, chủ yếu là để phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh xác định của ngân hàng như một dự án, một chương trình kinh tế. Kỳ phiếu ngân hàng được phát hành theo từng đợt hay còn gọi là kỳ phiếu có mục đích, phát hành dựa trên cơ sở tình hình nguồn vốn và nhu cầu sử dụng vốn trong thời kỳ trước mắt của ngân hàng. Loại này có ưu điểm vốn huy động được khá linh hoạt, có tính lỏng cao, dễ dàng chuyển đổi sang tiền và các hình thức khác; mệnh giá, loại tiền sử dụng, phương thức trả lãi đa dạng đáp ứng nhu cầu của người mua. Lãi suất của kỳ phiếu thường ổn định và hấp dẫn(mức độ tuỳ thuộc và mức độ cần thiết của ngân hàng ).
Tạo vốn qua đi vay
Các khoản vay ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động của các NHTM không chỉ là về mặt quy mô mà chủ yếu mang ý nghĩa như một biện pháp quản lý các mục tài sản nợ. Các NHTM có thể vay từ nhiều nguồn khác nhau:
+ Vay NHTW:
Hình thức vay thường gặp là vay tái chiết khấu. Với vai trò là người cho vay cuối cùng, NHTW cho các NHTM vay với một mức giá nhất định: đó là lãi suất tái chiết khấu. Lãi suất tái chiết khấu được NHTW sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô, tuỳ vào yêu cầu điều tiết của nền kinh tế mà lãi suất này có thể được nâng cao hay hạ thấp. Các NHTM có thể vay NHTW khi có nhu cầu nhưng NHTW kiểm soát khả năng vay của NHTM bằng các công cụ như hạn mức tái chiết khấu hay lãi suất tái chiết khấu. Song đây cũng là một biện pháp nhằm làm tăng vốn khả dụng trong kinh doanh của các NHTM.
+ Vay từ các tổ chức tín dụng khác:
Đó là các khoản vay thông thường mà các NHTM vay lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Các NHTM thường chỉ sử dụng biện pháp đi vay tổ chức tín dụng khác khi thật cần thiết như hạn mức tái chiết khấu đã hết hoặc để giữ khách hàng truyền thống trong khi đang gặp khó khăn về vốn.
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại techcombank
2.1. Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam.
Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam, gọi tắt là ngân hàng kỹ thương Việt Nam (tên tiếng Anh: Viet Nam Technological and Commercial Joint Stock Bank, gọi tắt là Techcombank) được thành lập ngày 27 tháng 09 năm 1993 theo giấy phép thành lập số 1534/QĐ - UB do Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 04/09/1993; giấy phép hoạt động số 0040/NH - GP do thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 06/08/1993; giấy phép kinh doanh số 055679 do trọng tài kinh tế Hà Nội (nay là Sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội) cấp ngày 07/09/1993.
2.1.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của Techcombank
Ngày 27/09/1993, Techcombank được thành lập với số vốn điều lệ là 20 tỷ đồng, với mục đích trở thành một ngân hàng hoạt động hiệu quả, nối liền những nhà tiết kiệm với nhà đầu tư đang cần vốn để kinh doanh, phát triển nền kinh tế trong thời kỳ mở cửa. Trụ sở chính ban đầu được đặt tại số 24 Lý Thường Kiệt, Hà Nội.
Đến năm 1995, vốn điều lệ của Techcombank được tăng lên 51,495 tỷ đồng. Trong năm này, chi nhánh Techcombank thành phố Hồ Chí Minh được thành lập khởi đầu cho qúa trình phát trỉên nhanh chóng của Techcombank tại các đô thị lớn với mục tiêu trở thành ngân hàng đô thị đa năng hàng đầu ở Việt Nam.
Năm 1996, chi nhánh Techcombank Thăng Long cùng phòng giao dịch Nguyễn Chí Thanh được thành lập tại Hà Nội, đồng thời phòng giao dịch Thắng Lợi trực thuộc Techcombank Hồ Chí Minh cũng được khai trương. Vốn điều lệ của Techcombank tăng lên 70 tỷ đồng.
Năm 1998, trụ sở chính Techcombank được chuyển sang địa chỉ 15 Đào Duy Từ. Chi nhánh Techcombank Đà Nẵng được thành lập đã làm cho Techcombank có mạng lưới giao dịch ở cả 3 miền Bắc, Trung Nam.
Năm 1999, vốn điều lệ của Techcombank tăng lên 102,345 tỷ đồng. Để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, Techcombank đã chủ động đầu tư phát triển công nghệ ngân hàng bằng việc ký kết hợp đồng với nhà cung cấp phần mềm hệ thống ngân hàng hàng đầu thế giới là Temenos Holding NV về việc triển khai hệ thống phần mềm Globus cho toàn hệ thống Techcombank.
Năm 2002, chi nhánh Chương Dương, chi nhánh Hoàn Kiếm tại Hà Nội, chi nhánh Hải Phòng, chi nhánh Thanh Khê - Đà Nẵng, chi nhánh Tân Bình - Hồ Chí Minh được thành lập, phòng giao dịch Thái Hà được nâng cấp thành chi nhánh cấp 2. Vốn điều lệ tăng lên 104,435 tỷ đồng.
Năm 2003, thành lập chi nhánh Chợ Lớn - Hồ Chí Minh. Vốn điều lệ là 180 tỷ đồng.
Đến nay, sau hơn 10 năm hoạt động và trưởng thành, ngân hàng đã có trên 450 nhân viên và số vốn điều lệ là 202 tỷ đồng. Techcombank tự tin là một trong những ngân hàng cổ phần có mạng lưới giao dịch rộng khắp cả nước, Techcombank đang có tốc độ phát triển nhanh chóng và ổn định, tổng doanh thu hoạt động tăng liên tục qua các năm.
2.1.2. Định hướng phát triển của Techcombank.
Ban quản trị muốn phát triển Techcombank thành một ngân hàng cổ phần hàng đầu cung cấp các dịch vụ tài chính cho khách hàng vì sự thoả mãn cao nhất nhu cầu của khách hàng, lợi ích của các cổ đông và người lao động, đóng góp vào sự phát triển của cộng đồng. Chiến lược phát triển 5 năm từ 2001 - 2005 được xác định là : 1/ phát triển Techcombank thành một NHTM cổ phần đô thị đa năng; 2/ trở thành một trong 5 ngân hàng cổ phần tốt nhất.
Techcombank - ngân hàng đô thị đa năng: Chủ trương mở rộng và phát triển cấu trúc dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp trên nền tảng cung ứng một hệ thống các sản phẩm và dịch vụ tài chính có chất lượng cao và cạnh tranh cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Techcombank đẩy mạnh phát triển cấu trúc dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại các đô thị nhằm phục vụ đối tượng người tiêu dùng là cá nhân và kinh doanh cá thể với quan điểm dịch vụ đa dạng, thuận tiện, dựa trên nền tảng công nghệ cao. Techcombank nỗ lực thực hiện vai trò là một trong các trung tâm cung ứng các dịch vụ thị trường tiền tệ, thị trường vốn có uy tín nhằm phục vụ các định chế tài chính, ngân hàng, bảo hiểm...thông qua hệ thống dịch vụ mang tính chuyên nghiệp và công nghệ cao.
Techcombank - một trong 5 ngân hàng cổ phần tốt nhất: Với mục tiêu tài chính xác định đến 2005 là kinh doanh hiệu quả cao, thể hiện qua: Vốn điều lệ từ 320-350 tỷ đồng, tổng tài sản có 5400 tỷ đồng, dư nợ tín dụng 3565 tỷ đồng, tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5% tổng dư nợ, tỷ suất lợi nhuận ròng trên vốn tự có là 15%, giá trị cổ phiếu bằng 150%-200% mệnh giá. Mục tiêu phi tài chính được xác định là đến 2005, Techcombank là 1 trong 5 ngân hàng được khách hàng ưa chuộng nhất, hoạt động an toàn với quy mô đủ lớn.
2.1.3. Cơ cấu quản trị của Techcombank.
Cơ cấu quản trị của Techcombank được tóm tắt bằng sơ đồ sau, trong đó:
Cơ cấu cổ đông và Đại hội đồng cổ đông: Cổ đông là các doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 14,26% vốn điều lệ, cổ đông là thể nhân chiếm 85,74% vốn điều lệ. Đại hội đồng cổ đông là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của ngân hàng có quyền quyết định về chiến lược phát triển của ngân hàng và bầu ra Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát.
Hội đồng quản trị có 7 thành viên, thường trực hội đồng quản trị gồm chủ tịch, 1 phó chủ tịch thứ nhất và 3 phó chủ tịch. Hội đồng quản trị là cơ quan quản trị ngân hàng, có toàn quyền nhân danh ngân hàng để quyết định những vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của ngân hàng, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông.
Ban điều hành của Techcombank do Hội đồng quản trị lập ra trên cơ sở sự phê duyệt nhân sự của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Các thành viên trong Ban điều hành là những người xuất sắc để đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ điều hành hoạt động kinh doanh của Techcombank cũng như công tác triển khai kế hoạch chiến lược do Hội đồng quản trị bầu ra.
Ban kiểm soát có 3 thành viên: Trưởng ban kiểm soát kiêm kiểm soát viên chuyên trách, 1 kiểm soát viên chuyên trách và 1 kiểm soát viên. Ban kiểm soát là cơ quan kiểm tra hoạt động tài chính của ngân hàng, giám sát việc chấp hành chế độ hạch toán, hoạt động của hệ thống kiểm tra và kiểm toán nội bộ ngân hàng.
Hội đồng tín dụng là tổ chức do Hội đồng quản trị thành lập và do Phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng quản trị làm chủ tịch. Hội đồng tín dụng bao gồm các chuyên viên, các cán bộ có trình độ chuyên môn tốt trong hoạt động tín dụng. Hội đồng tín dụng thực hiện chức năng tham mưu cho Hội đồng quản trị và Ban điều hành trong việc xem xét các khoản tín dụng lớn, các khoản tín dụng tiềm ẩn nhiểu rủi ro cũng như các chính sách của ngân hàng trong hoạt động tín dụng.
Uỷ ban quản lý tài sản nợ - tài sản có (ALCO) được thành lập theo quyết định của Hội đồng quản trị và do tổng giám đốc làm chủ tịch. Uỷ ban này được thành lập nhằm tham mưu cho Hội đồng quản trị và Ban điều hành về các chính sách huy động vốn, các chính sách về giá dịch vụ đầu vào, đầu ra của Techcombank cũng như các chính sách về quản lý rủi ro. Thành phần của uỷ ban này là các thành viên của Ban điều hành, lãnh đạo các phòng ban chủ chốt trong ngân hàng để đảm bảo tính chính xác và trung thực so với tình hình thực tế kinh doanh và nhu cầu khách hàng của các chính sách mà ngân hàng đề ra.
2.1.4. Tình hình hoạt động kinh doanh của Techcombank.
Kết quả kinh doanh của Techcombank.
Techcombank đang có một tốc độ phát triển nhanh và ổn định thể hiện qua các chỉ tiêu sau:
Thời điểm cuối năm(tỷ VND)
2000
2001
2002
2003
Tổng tài sản
Tiền gửi huy động và tiền vay
Vốn điều lệ và các quỹ dự trữ
Dư nợ tín dụng
Tổng doanh thu hoạt động(tỷ VND)
Lợi nhuận trước thuế, trước dự phòng rủi ro (tỷ VND)
Lợi nhuận trước thuế, trước dự phòng rủi ro/ Tài sản có (%)
Lợi nhuận trước thuế, trước dự phòng rủi ro/Vốn chủ sở hữu (%)
1496,05
1378,57
88,1
850,73
80,19
5,84
0,39
6,62
2268,54
2388,2
109,09
1424,73
149,03
20,27
0,73
16
4059,82
3923,96
135,85
2103,3
311,61
38,12
1,29
44,37
5600
5197
180,87
2380
520,1
89,46
1,48
50,1
Nguồn: Báo cáo thường niên Techcombank năm 2003.
Với nỗ lực trong nhiều năm, cộng với một chiến lược kinh doanh rõ ràng, Techcombank đã thu được kết quả tốt trong những năm qua thể hiện ở quy mô tổng tài sản từ chỗ chỉ có 1496,05 tỷ đồng vào thời điểm năm 2000, đến năm 2003 đã tăng lên 5600 tỷ đồng, tổng doanh thu hoạt động cũng tăng liên tục qua các năm.
Vốn điều lệ của Techcombank tăng trưởng đều đặn qua các năm. Đến cuối năm 2003 vốn điều lệ là 180 tỷ đồng, khẳng định sự tin tưởng của cổ đông và khách hàng truyền thống, tạo uy tín cho ngân hàng và tạo thuận lợi cho quá trình mở rộng và phát triển tiếp theo.
Các con số cũng cho thấy Techcombank đang đi đúng hướng và thực hiện tốt những cam kết của mình với cổ đông là tạo ra giá trị gia tăng cho vốn đầu tư. Với những kết quả đạt được, đặc biệt là tốc độ tăng trưởng cao, ngân hàng Techcombank đang thể hiện tiềm năng phát triển lớn với sức cạnh tranh cao.
Hoạt động cho vay
Trong những năm gần đây, hoạt động tín dụng của Techcombank đạt được sự tăng trưởng tương đối tốt.
Bảng 1-1: Hoạt động cho vay của Techcombank
1999
2000
2001
2002
2003
Doanh số (tỷ đồng)
% tăng giảm
Doanh số (tỷ đồng)
% tăng giảm
Doanh số (tỷ đồng)
% tăng giảm
Doanh số (tỷ đồng)
% tăng giảm
Doanh số cho vay
946
1617
70,9
3035
87,6
3625
19,4
4350
20
Doanh số thu nợ
821
1292
57,3
2411
86,6
3110
28,9
4074,1
31
Dư nợ tín dụng
526
850,73
61,7
1424,73
67,4
2103,3
47,6
2380
13,1
Nguồn: Báo cáo thường niên Techcombank năm 2003.
Tính đến 31/12/2001, tổng doanh số cho vay của Techcombank đạt 3035 tỷ đồng, tăng 87% so với năm 2000, đưa tổng dư nợ đến cuối năm đạt 1424,73 tỷ đồng tăng 67,4% so với dư nợ cuối năm 2000. Có thể nói năm 2000 và 2001, hoạt động tín dụng của Techcombank tăng trưởng vượt bậc. Đến năm 2002, doanh số cho vay và doanh số thu nợ có tăng nhưng tốc độ tăng trưởng giảm, dư nợ tín dụng năm 2002 chỉ tăng 47,6% so với 2001 nhưng đạt mức cao so với mức độ tăng của toàn nghành là 27,6%.
Cơ cấu cho vay theo thành phần kinh tế.
Đi đôi với sự tăng trưởng về mặt lượng, chất lượng tín dụng cũng có những chuyển biến tốt. Ta hãy xét về cơ cấu cho vay của Techcombank theo thành phần kinh tế.
Bảng 1-2: Cơ cấu cho vay theo thành phần kinh tế.
Thành phần
2001
2002
2003
Số dư(tỷ đồng
Tỷ trọng(%)
Số dư(tỷ đồng)
Tỷ trọng(%)
Số dư(tỷ đồng)
Tỷ trọng(%)
Tổng dư nợ
1424,73
100
2103,3
100
2380
100
DNTN, công ty cổ phần, TNHH
637,28
44,73
1168,8
55,57
1352,55
56,83
Khu vực kinh tế Nhà nước
336,23
23,6
258,7
12,3
214,2
9
DN có vốn đầu tư nước ngoài
55,56
3,9
78,66
3,74
83,3
3,5
Cá nhân, hộ gia đình
287,79
20,2
390,58
18,57
527,646
22,17
Đồng tài trợ, uỷ thác
107,85
7,57
206,54
9,82
202,3
8,5
Nguồn: Báo cáo thường niên Techcombank năm 2003.
Căn cứ vào tình hình thực tế cũng như điều kiện và năng lực của ngân hàng, Techcombank xác định: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thể nhân - lực lượng kinh tế đang lớn mạnh và có nhiều triển vọng phát triển là đối tượng khách hàng chính của ngân hàng. Từ định hướng trên, cơ cấu tín dụng của Techcombank đang dần chuyển dịch tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các khách hàng cá nhân và giảm dần cho vay doanh nghiệp Nhà nước.
Năm 2001, dư nợ cho vay doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, trách nhiệm hữu hạn đạt 637,28 tỷ đồng chiếm 44,73% tổng dư nợ thì đến 2002 đã lên tới1168,8 tỷ đồng (55,57% tổng dư nợ tín dụng). Năm 2003, dư nợ của khối doanh nghiệp vừa và nhỏ đạt 1352,55% chiếm 56,83% tổng dư nợ tín dụng. Tính đến 31/12/2003, dư nợ cho vay bán lẻ đạt số dư là 527,64 tỷ đồng chiếm 22,17% tổng dư nợ so với tỷ lệ 18,57% vào cuối năm 2002, tăng 137,06 tỷ đồng. Sở dĩ dư nợ tín dụng bán lẻ tăng mạnh là do Techcombank đưa thêm vào một số loại sản phẩm mới như “Ô tô xịn”, “Nhà mới” đạt mức dư nợ tới 140 tỷ đồng và 202 tỷ đồng sau 2 năm đưa ra sản phẩm.
Dư nợ cho vay doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục giảm dần cả về gía trị tuyệt đối và tương đối (đạt số dư 214,2 tỷ đồng, chiếm 9% tổng dư nợ so với 336,23 tỷ đồng vào cuối 2001).
Trong sự tăng trưởng mạnh của dư nợ tín dụng qua các năm có sự đóng góp rất lớn của khối doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng cá nhân, điều này càng thể hiện tính đúng đắn của chiến lược mà Techcombank đã lựa chọn. Trong thời gian tới Techcombank vẫn sẽ tiếp tục chuyển dịch cơ cấu khách hàng sang các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng cá nhân. Đồng thời ngân hàng cũng không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ như đã cam kết với khách hàng.
Cơ cấu cho vay theo kỳ hạn.
Phân tích cơ cấu cho vay theo kỳ hạn sẽ cho ta thấy rõ hơn thực trạng hoạt động tín dụng của Techcombank trong thời gian qua.
Bảng 1-3: Cơ cấu cho vay theo kỳ hạn.
Kỳ hạn
2001
2002
2003
Số dư (tỷ đồng)
Tỷ trọng (%)
Số dư (tỷ đồng)
Tỷ trọng (%)
Số dư (tỷ đồng)
Tỷ trọng (%)
Ngắn hạn
1088,5
76,4
1284,99
61,09
1384,7
58,18
Trung -dài hạn
336,23
23,6
818,31
38,91
995,3
41,82
Tổng dư nợ
1424,73
100
2103,3
100
2380
100
Nguồn: Phòng kế hoạch - tổng hợp Techcombank
Với các khách hàng chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong các lĩnh vực thương mại dịch vụ, công nghiệp nhẹ nên cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ của Techcombank.
Năm 2001, cho vay ngắn hạn đạt 1088,5 tỷ đồng chiếm 76,4%, năm 2002 con số này là 1284,99 tỷ đồng chiếm 61,09%. Năm 2003, cho vay ngắn hạn đạt 1384,7tỷ đồng tương đương 58,18%.
Như vậy, cơ cấu này đang dần thay đổi theo hướng giảm dần cho vay ngắn hạn, tăng tỷ lệ cho vay dài hạn. Sự chuyển dịch trên mang tính tích cực vì cho vay trung - dài hạn mang lại lợi nhuận cao hơn cho ngân hàng, mặt khác nó có ý nghĩa quan trọng đối với việc quản trị rủi ro của ngân hàng, giúp ngân hàng đa dạng hoá danh mục cho vay.
Cơ cấu cho vay theo loại tiền.
Việc cho vay bằng ngoại tệ mà chủ yếu bằng đô la Mỹ được quan tâm chú ý tại hầu hết các đơn vị Techcombank. Năm 2003, dư nợ cho vay bằng ngoại tệ đạt 718,76 tỷ đồng chiếm 30,2% trong tổng dư nợ so với tỷ lệ 29,16 % trong năm 2002. Xét trong giai đoạn 2001-2003, dư nợ cho vay bằng VND tăng 44,25%, dư nợ cho vay bằng ngoại tệ tăng 163,16%. Như vậy dư nợ cho vay bằng ngoại tệ tăng mạnh với tốc độ tăng lớn hơn dư nợ cho vay bằng VND.
Bảng 1-4: Cơ cấu cho vay theo loại tiền.
Loại tiền
2001
2002
2003
Số dư (tỷ đồng)
Tỷ trọng (%)
Số dư (tỷ đồng)
Tỷ trọng (%)
Số dư (tỷ đồng)
Tỷ trọng (%)
VND
1151,61
80,83
1490
70,84
1661,24
69,8
Ngoại tệ
273,12
19,17
613,3
29,16
718,76
30,2
Tổng dư nợ
1424,73
100
210,3
100
2380
100
Nguồn: Phòng kế hoạch - tổng hợp Techcombank.
Công tác kiểm soát nợ quá hạn.
Công tác xử lý thu hồi nợ quá hạn đã được tích cực triển khai bước đầu đã đạt một số thành tích nhất định. Tổng nợ quá hạn phát sinh từ 2001 trở về trước đã thu hồi được là 28,272 tỷ đồng.Tính đến 31/12/2002, tổng dư nợ quá hạn của Techcombank là 98,64 tỷ đồng, chiếm 4,69% so với tổng dư nợ của Techcombank giảm 36,83 tỷ đồng so với thời điểm 31/12/2001. Đến 31/12/2003 nợ quá hạn của Techcombank chiếm 3,48% dư nợ tín dụng đạt 82,824 tỷ đồng. Nợ quá hạn còn ở tỷ lệ cao nhưng đang giảm dần cho thấy chất lượng tín dụng được cải thiện. Đó là kết quả của việc đẩy mạnh công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng khoản vay được thực hiện hàng tháng tại các chi nhánh và tại phòng Quản lý tín dụng hội sở. Hệ thống tái thẩm định và phân tích rủi ro tín dụng đã dần được hình thành tại các đơn vị lớn, tạo ra một kênh phân tích độc lập hỗ trợ cho việc đánh giá của cấp phê duyệt tín dụng. Qua hoạt động đã phát huy hiệu quả tốt, góp phần nâng cao một bước chất lượng công tác thẩm định tín dụng trước khi cho vay, hạn chế ở mức thấp nhấp các khoản nợ quá hạn mới phát sinh (dưới 1%).
Hoạt động dịch vụ.
Dịch vụ thanh toán quốc tế.
Năm 2002, Techcombank áp dụng SWIFT cho hoạt động thanh toán quốc tế, mặc dù mới tham gia SWIFT nhưng ngân hàng đã đạt tỷ lệ điện chuẩn trên 98%, thuộc loại cao nhất trong nước. Chất lượng thanh toán quốc tế được nâng cao rõ rệt, đưa Techcombank trở thành một trong những ngân hàng hàng đầu Việt Nam về chất lượng thanh toán quốc tế; rủi ro trong thanh toán quốc tế cũng được giảm thiểu và kiểm soát chặt chẽ. Techcombank phấn đấu dần dần phủ vùng đại lý tại hầu hết các nước và khu vực trên thế giới. Hiện nay Techcombank có trên 400 đại lý ở 67 nước và lãnh thổ trên toàn thế giới với trên 7000 địa chỉ chi nhánh của ngân hàng đại lý.
Với những nỗ lực nâng cao chất lượng dịch vụ, điều chỉnh phù hợp lại biểu phí thanh toán, mở rộng quan hệ thanh toán với các ngân hàng đại lý đã góp phần nâng cao kết quả của họat động thanh toán quốc tế. Doanh số thanh toán quốc tế 2003 đạt 430,5 triệu USD tăng 43% so với 2001.
Biểu 1-1: Doanh số thanh toán quốc tế.
Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: Phòng kế hoạch - tổng hợp
Dịch vụ thanh toán trong nước.
Bên cạnh việc phát triển các hoạt động thanh toán quốc tế, hoạt động dịch vụ trong nước cũng có sự tăng trưởng đáng kể. Tổng doanh thu từ dịch vụ trong nước đến cuối tháng 12/2002 đạt 4035 trong đó thu phí bảo lãnh đạt 2236 tỷ đồng bằng 158,13% so với 2001. Nguồn thu từ dịch vụ trong nước gia tăng liên tục phù hợp với chiến lược mở rộng và phát triển dịch vụ của Techcombank.
Hoạt động trên thị trường liên ngân hàng
Trong những năm gần đây, hoạt động trên thị trường 2 của Techcombank có bước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là năm 2002 tổng nguồn vốn huy động được trên thị trường 2 đến 31/12/2002 đạt 2075,1 tỷ đồng tăng 1022,4 tỷ đồng so với 2001, đến 2003, huy động được 2857,9 tỷ đồng trên thị trường 2. Điều này khẳng định uy tín của Techcombank đối với ngân hàng bạn. Hoạt động giao dịch với các tổ chức tín dụng ngày càng được mở rộng. Tổng số khách hàng là các tổ chức tín dụng, công ty tài chính có giao dịch với Techcombank đã tăng từ 68 đơn vị năm 2001 lên 155 đơn vị vào cuối 2002. Bên cạnh việc đảm nhiệm tốt công tác điều hoà, kế hoạch sử dụng vốn cho toàn hệ thống, phòng Quản lý nguồn vốn đã tích cực mở rộng, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh trên thị trường 2. Doanh thu thu lãi tiền gửi 2002 đạt 74 tỷ đồng bằng 223,55% so với 2001. Thu nhập thuần từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ đạt 4,45 tỷ đồng bằng 127,73% so với cuối 2001.
2.2. Thực trạng hoạt động huy động vốn tại techcombank
2.2.1. Diễn biến quy mô tổng nguồn vốn.
Nhìn vào biểu 1-1 ta thấy nguồn vốn của ngân hàng tăng mạnh qua các năm trong đó chủ yếu là tăng trưởng của nguồn vốn huy động. Nếu lấy năm 2000 là gốc, xét giai đoạn 2000-2003, tổng nguồn vốn tăng 266,67%, trong đó vốn huy động tăng 276,8%, vốn tự có tăng 105,3%.
Vốn điều lệ của ngân hàng có tăng qua các năm nhưng tốc độ tăng còn chậm và chưa đạt mức 200 tỷ vào cuối năm 2003 theo kế hoạch. Tuy nhiên đến cuối tháng 3/2004, Techcombank đã tăng vốn điều lệ lên 202 tỷ đồng.
Biểu 1-1: Diễn biến quy mô tổng nguồn vốn.
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn: Phòng quản lý nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ ngoại hối.
2.2.2. Diễn biến quy mô vốn huy động.
2000
2001
2002
2003
Vốn huy động
Chênh lệch so năm trước(tỷ đồng)
Tốc độ tăng trưởng(%)
1378,57
2388,2
1009,63
73,23
3923,96
1535,76
64,3
5197
1273,04
32,44
Số liệu trên cho thấy huy động vốn năm sau đều tăng hơn năm trước nhưng tốc độ tăng trưởng vốn huy động lại giảm. Năm 2001, nguồn vốn huy động có sự tăng trưởng đột biến, tăng tới 73,23%. Năm 2002,nguồn vốn huy động đạt 3923,96 tỷ đồng tăng 1535,76 tỷ đồng (64,3%) so với năm 2001 và đến năm 2003 đạt 5197 tỷ đồng tăng 1273,04 tỷ đồng (32,44%).
Trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng, vốn huy động tại hội sở chiếm tỷ trọng lớn nhất, tới 51% tổng nguồn vốn huy động (năm 2002). Ta hãy xem biểu đồ thể hiện cơ cấu nguồn vốn huy động theo đơn vị.
Biểu 1-2: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo đơn vị
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2002
Nếu xét chung cho toàn bộ giai đoạn 2000-2003, nguồn vốn huy động tăng 276,98%, tức là đến năm 2003, tổng nguồn vốn huy động của Techcombank đã tăng gần gấp 3 lần so với năm 2000. Nguồn vốn huy động được tăng trưởng với tốc độ cao là cơ sở để ngân hàng mở rộng hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh và uy tín của ngân hàng trên thương trường.
Đạt được thành qủa trên là do ngân hàng đã có nhiều cố gắng trong việc huy động vốn như đa dạng hình thức huy động, mở rộng mạng lưới giao dịch. Tuy nhiên, để đánh giá chính xác về nguồn vốn huy động ta còn phải xem xét kết cấu của từng loại so với tổng nguồn vốn huy động.
2.2.3. Cơ cấu vốn huy động.
Trong những năm qua nguồn vốn huy động không ngừng tăng trưởng với tốc độ khá cao. Tuy nhiên cơ cấu nguồn vốn huy động được còn nhiều bất hợp lý, ta hãy xem xét số liệu sau:
Cơ cấu vốn huy động phân theo hình thức huy động.
Bảng 1-5: Cơ cấu vốn huy động
2001
2002
2003
Từ thị trường 1(%)
56
47,12
45,01
Từ thị trường 2(%)
44
52,88
54,99
Đóng góp vào sự tăng trưởng chung của vốn huy động chủ yếu là nguồn vốn huy động từ thị trường 2 bao gồm khoản tiền gửi và vay tổ chức tín dụng khác. Năm 2001, huy động trên thị trường 2 đạt 1052,7 tỷ đồng thì đến 2003 lên tới 2857,9 tỷ đồng tăng 171,4%. Trong suốt giai đoạn 2001-2003 tiền gửi tổ chức tín dụng vẫn tập trung nhiều vốn huy động nhất.
Trong năm 2003, hoạt động giao dịch tiền tệ tiếp tục được đẩy mạnh cùng với việc mở rộng các hoạt động giao dịch trên thị trường liên ngân hàng, kết qủa là tổng nguồn vốn huy động trên thị trường này chiếm tới 54,99% tổng lượng vốn huy động của Techcombank và phần lớn nguồn vốn này được sử dụng để đầu tư lại thị trường này.
Nguồn vốn huy động từ thị trường 1 tức là khu vực dân cư và tổ chức kinh tế chưa phải là thế mạnh của Techcombank và có xu hướng giảm dần tỷ trọng trong tổng nguồn vốn huy động.
Nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động từ thị trường 1. Năm 2003, nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế đạt 780 tỷ đồng chiếm 33,34% tổng nguồn vốn huy động từ thị trường 1và chỉ chiếm 15% trong tổng nguồn vốn huy động của Techcombank. Điều này được thể hiện ở bảng 1-6:
Bảng 1-6: Tỷ trọng vốn huy động từ thị trường 1
Cơ cấu
2001
2002
2003
Số dư(tỷ đồng)
Tỷ trọng(%)
Số dư(tỷ đồng)
Tỷ trọng(%)
Số dư(tỷ đồng)
Tỷ trọng(%)
Tổng NVHĐ từ thị trường 1
1337,39
100
1848,96
100
2339,17
100
Từ tổ chức kinh tế
459,23
34,33
554,82
30
780
33,34
Từ dân cư
878,26
65,67
1294,14
70
1559,17
66,67
Nguồn: Phòng quản lý nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ ngoại hối.
Nguồn vốn huy động từ dân cư - một thị trường đầy tiềm năng lại có xu hướng giảm dần tỷ trọng trong tổng nguồn vốn huy động. Năm 2001,vốn huy động từ dân cư chiếm 36,7% thì đến năm 2003 chỉ còn 30% trong tổng nguồn vốn huy động.
Bảng 1-7: Cơ cấu vốn huy động từ dân cư, tổ chức kinh tế.
Đơn vị: Tỷ đồng
2001
2002
2003
- Tiền gửi thanh toán
+ Không kỳ hạn
+ Có kỳ hạn
451,23
251,96
199,27
551,91
338,87
213,04
615,75
395,35
220,4
- Tiền gửi tiết kiệm
+ Không kỳ hạn
+ Có kỳ hạn
883,47
14,13
869,34
1238,8
18,58
12200,22
1658,39
25,9
1632,49
- Tiền gửi khác
2,69
58,25
65,03
Nguồn: Phòng quản lý nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ ngoại hối.
Về cơ cấu vốn huy động từ dân cư, tổ chức kinh tế được ngân hàng phân thành 3 nhóm với tính chất ổn định khác nhau. Nhóm được coi là khá ổn định là tiền gửi tiết kiệm trong đó có khả năng kế hoạch hoá cao là tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Nhóm kém ổn định là tiền gửi thanh toán. Nhóm tiền gửi khác hay tiền gửi vốn chuyên dù._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36169.doc