Đánh giá năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn trong những năm 2003 - 2008

PHẦN MỞ ĐẦU I - TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI: Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước trong thời kỳ Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đã kéo theo sự phát triển rất nhanh chóng của ngành xây dựng và do đó sản xuất và kinh doanh xi măng là ngành đang thu hút được rất nhiều sự quan tâm. Điều đó đã và đang đẩy ngành kinh doanh xi măng vào sự cạnh tranh rất mạnh mẽ. Đã tồn tại, trưởng thành và phát triển gần 30 năm, Xi măng Bỉm Sơn đã đóng góp rất đáng kể nào sự phát triển của Tổng công ty xi măn

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1808 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn trong những năm 2003 - 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g Việt Nam cũng như vào ngân sách của Quốc gia. Tuy vậy, khả năng cạnh tranh của Công ty nói chung vẫn còn yếu so với không chỉ các Công ty thành viên trực thuộc Tổng mà còn với các Công ty tư nhân khác. Công ty xi măng Bỉm Sơn về cơ bản còn thiếu chiến lược cạnh tranh, thiếu kinh nghiệm tiếp cận thị trường, thiếu đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm cũng như trình độ trong công tác thị trường, marketing. Nguồn tài chính dành cho hoạt động marketing, quảng cáo của Công ty còn rất hạn chế. Trong điều kiện phát triển và bối cảnh nền kinh tế hội nhập như hiện nay thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty là một đòi hỏi cấp thiết. Nếu không có đủ năng lực tiếp cận thị trường, thiếu một chiến lược cạnh tranh linh hoạt thì Công ty sẽ khó có khả năng cạnh tranh được với các đối thủ cạnh tranh trong ngành, sẽ bị loại khỏi cuộc chơi trong việc tiếp cận thị trường và thu hút khách hàng. Hơn nữa, sau cổ phần hóa Công ty có điều kiện để mở rộng mạng lưới hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư xâm nhập vào các lĩnh vực kinh doanh mới. Chính vì vậy, hoạt động nâng cao năng lực cạnh tranh sẽ quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Công ty trong tương lai. II - MỤC TIÊU, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 1. Mục tiêu nghiên cứu: Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn để thu hút khách hàng cũng như thúc đẩy sự phát triển của Công ty trong giai đoạn sau cổ phần hóa. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Khái quát một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh trong Doanh nghiệp. Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh trong Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn. Đưa ra các định hướng chiến lược và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty, cũng như tăng cường vị thế trên thị trường để thu hút khách hàng trong giai đoạn sau cổ phần hóa. 3. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài giới hạn nghiên cứu năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn trong giai đoạn sau cổ phần hóa. 4. Phương pháp nghiên cứu: Để hoàn thành đề tài này, em đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp điều tra, thu thập thông tin, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê và phương pháp dự báo. 5. Nội dung nghiên cứu: Ngoài phần Mở đầu, kiến nghị và phần Kết luận thì đề tài này gồm 3 chương: Chương I: Năng lực cạnh tranh và sự cần thiết nâng cao năng lực của Doanh nghiệp. Chương II: Đánh giá năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn trong giai đoạn 2003 – 2008. Chương III: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn sau cổ phần hóa. Chương I: Năng lực cạnh tranh và sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp I – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH: 1. Khái niệm và vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: 1.1. Khái niệm về cạnh tranh: Cạnh tranh xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển của sản xuất, trao đổi hàng hóa và phát triển kinh tế thị trường. Trong bất kỳ một lĩnh vực, ngành nghề nào thì khái niệm về cạnh tranh cũng xuất hiện nhưng ở các góc độ và mục đích khác nhau. Chính vì vậy, mặc dù cạnh tranh không phải là một khái niệm mới song rất khó để đưa ra một định nghĩa cụ thể, rõ ràng và thống nhất. Theo Các Mác: “Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhắm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận siêu ngạch”. Theo từ điển kinh tế: “Cạnh tranh được hiểu là quá trình ganh đua hoặc tranh giành giữa ít nhất hai đối thủ nhằm có được những nguồn lực hoặc ưu thế về sản phẩm hoặc khách hàng về phía mình, đạt được lợi ích tối đa”. Theo từ điển kinh doanh của Anh, cạnh tranh được hiểu là “sự ganh đua, kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”. Với những quan niệm trên, phạm trù cạnh tranh được hiểu là quan hệ kinh tế, ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi. 1.2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất kinh doanh luôn gắn liền với lợi nhuận và cạnh tranh. Cạnh tranh tác động đến mọi thành phần trong nền kinh tế. Đối với toàn bộ nền kinh tế Cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế và nâng cao năng suất lao động xã hội. Như chúng ta đã biết, kết quả của cạnh tranh là loại bỏ các doanh nghiệp có chi phí sản xuất kinh doanh cao, kinh doanh không hiệu quả. Một nền kinh tế mạnh là khi có các công ty, doanh nghiệp vững mạnh và có khả năng cạnh tranh cao. Cạnh tranh sẽ đảm bảo việc điều chỉnh quan hệ cung cầu. Cạnh tranh sẽ là tiền đề thuận lợi làm cho sản xuất thích ứng linh hoạt dưới sự biến động của cầu và công nghệ sản xuất. Cạnh tranh tác động một cách tích cực đến việc phân phối thu nhập tạo sự cân bằng trên thị trường. Bên cạnh đó, cạnh tranh còn là nguyên nhân thúc đẩy sự đổi mới về mọi mặt của nền kinh tế. Đối với doanh nghiệp Cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là điều tất yếu và bất khả kháng. Cạnh tranh là cuộc đua mà trong đó các doanh nghiệp luôn phải tìm cách để vươn lên chiếm ưu thế và giành thắng lợi. Muốn vậy, doanh nghiệp cần phải xây dựng cho mình một chiến lược cạnh tranh hợp lý. Coi cạnh tranh như là một công cụ, là bàn đạp vươn lên. Cạnh tranh buộc các nhà sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học, công nghệ trong đó cao hơn... để đáp ứng với thị hiếu của khách hàng. Điều này đã khiến các doanh nghiệp cần phải lựa chọn phương án chiến lược tối ưu như: chi phí sản xuất thấp nhất, công nghệ hiện đại, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm... Cạnh tranh thúc đẩy sản xuất và phát triển, cạnh tranh sẽ đào thải những doanh nghiệp hoạt động yếu kém, giúp doanh nghiệp tìm tòi và khắc phục những yếu điểm để vươn lên nắm giữ thị trường. Doanh nghiệp nào có các chính sách cạnh tranh hiệu quả sẽ tạo ra được vị thế trên thị trường, tăng doanh thu và lợi nhuận. Tuy nhiên, vị thế cạnh tranh chỉ mang tính tương đối, không hoàn toàn triệt để. Vì vậy, doanh nghiệp phải luôn nhìn nhận cạnh tranh, điều kiện cạnh tranh là các căn cứ quan trọng để xây dựng chiến lược phát triển cho doanh nghiệp. Đối với khách hàng Cạnh tranh làm cho người tiêu dùng được tiêu dùng hàng hóa cũng như dịch vụ có chất lượng cao hơn với giá thành hợp lý hơn và nhu cầu của người tiêu dùng cũng được đáp ứng tốt hơn. Có được như vậy là vì có cạnh tranh nên hàng hóa trong nước và trao đổi quốc tế trở nên phong phú và đa dạng về chủng loại, bao bì, mẫu mã và hơn hết là chất lượng ngày càng tốt hơn mà giá lại rẻ hơn. 2. Phân loại cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: 2.1. Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường: - Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Trong thị trường sẽ xuất hiện hai đối tượng là người bán và người mua. Người bán đại diện cho bên cung còn người mua đại diện cho bên cầu. Người bán thì muốn bán giá cao, người mua mong mua được giá thấp, họ cạnh tranh với nhau nhằm thu được lợi ích cao nhất về mình. - Cạnh tranh giữa người mua với nhau: Người mua là những người tiêu dùng hàng hóa. Họ không chỉ cạnh tranh với nhau về tiêu dùng những loại hàng hóa giống nhau mà còn về những loại hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng khác nhau. Họ cạnh tranh để mua được nhiều loại hàng hóa, dịch vụ với một mức chi phí nhất định, nhưng lợi ích tiêu dùng lại lớn nhất. - Cạnh tranh giữa người bán với nhau: Người bán là những người cung cấp hàng hóa. Cũng giống như người mua, không chỉ những người cung cấp một loại hàng hóa, dịch vụ giống nhau mới cạnh tranh nhau mà những người cung cấp hàng hóa, dịch vụ khác nhau cũng cạnh tranh với nhau. Họ cạnh tranh để bán được nhiều hàng hóa với giá cao hơn và thu được nhiều lợi nhuận hơn. 2.2. Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế: - Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cạnh tranh giữa các công ty, doanh nghiệp cùng sản xuất một loại hàng hóa nhằm thu được lợi nhuận siêu ngạch. Do đó, để thu được lợi nhuận các doanh nghiệp thi đua cạnh tranh về khoa học kỹ thuật, phải luôn cải tiến công cụ sản xuất, máy móc thiết bị. - Cạnh tranh ngoài ngành: là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hay đồng minnh các doanh nghiệp của một ngành với những ngành khác nhằm đạt được lợi nhuận cao và tìm kiếm nơi đầu tư có lợi. 2.3. Căn cứ vào thị trường: - Cạnh tranh hoàn hảo: Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà trong đó không phải chỉ có một người sản xuất hay tiêu dùng nào đó là bộ phận lớn của thị trường có ảnh hưởng cá nhân đến giá cả của thị trường. Đặc điểm của thị trường này: + Có vô số người bán và người mua độc lập trên thị trường. + Hàng hóa có tính đồng nhất cao, chúng dễ thay thế cho nhau trên thị trường. + Người bán và người mua đều không ảnh hưởng đến giá cả, thị trường của sản phẩm, tức là phải chấp nhận giá của thị trường. + Trong thị trường của cạnh tranh hoàn hảo thì người bán và người mua đều có thể tự do tham gia hay rút khỏi thị trường mà không bị ràng buộc. - Cạnh tranh không hoàn hảo: Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo (gồm cạnh tranh độc quyền và cạnh tranh tập đoàn) là thị trường mà trong đó chỉ có một số hãng cung ứng mức cung ứng của toàn bộ thị trường về mọi loại hàng hóa và dịch vụ nào đó. + Cạnh tranh độc quyền: được hiểu là thị trường trong đó có nhiều hãng sản xuất và bán những sản phẩm tương tự như nhau, các sản phẩm này có thể thay thế cho nhau nhưng không hoàn hảo. Các hãng cạnh tranh với nhau bằng việc bán những sản phẩm “dị biệt hóa”. + Cạnh tranh tập đoàn: trong thị trường, hàng hóa và dịch vụ có thể giống nhau một ít, có thể khác nhau một ít, các hàng hóa mới thì khó gia nhập thị trường và giá cả thì luôn cứng nhắc. II – NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH: 1. Khái niệm năng lực cạnh tranh: Năng lực cạnh tranh là thuật ngữ ngày càng được sử dụng rộng rãi trong rất nhiều các lĩnh vực nhưng đến nay vẫn là khái niệm khó hiểu và rất khó đo lường. Theo Từ điển thuật ngữ kinh tế học, năng lực cạnh tranh là khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) định nghĩa năng lực cạnh tranh là “khả năng của các công ty, các ngành, các vùng, các quốc gia hoặc khu vực siêu quốc gia trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế trên cơ sở bền vững”. 2. Phân loại năng lực cạnh tranh: Đã có rất nhiều những nhà chuyên môn đã nghiên cứu và có những công trình nghiên cứu công phu về năng lực cạnh tranh. Chẳng hạn như Momaya (2002), Ambastha và cộng sự (2005), hoặc các tác giả người Mỹ như Henricsson và các cộng sự (2004)… đã hệ thống hóa và phân loại các nghiên cứu và đo lường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo 3 loại: nghiên cứu năng lực cạnh tranh hoạt động, năng lực cạnh tranh dựa trên khai thác, sử dụng tài sản và năng lực cạnh tranh theo quá trình. Năng lực cạnh tranh hoạt động là xu hướng nghiên cứu năng lực cạnh tranh chú trọng vào những chỉ tiêu cơ bản gắn với hoạt dộng kinh doanh trên thực tế như: thị phần, năng suất lao động, giá cả, chi phí v.v… Theo những chỉ tiêu này, doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao là những doanh nghiệp có các chỉ tiêu hoạt động kinh doanh hiệu quả, chẳng hạn như năng suất lao động cao, thị phần lớn, chi phí sản xuất thấp… Năng lực cạnh tranh dựa trên tài sản là xu hướng nghiên cứu nguồn hình thành năng lực cạnh tranh trên cơ sở sử dụng các nguồn lực như nhân lực, công nghệ, lao động. Theo đó, các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao là những doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực hiệu quả như nguồn nhân lực, lao động, công nghệ, đồng thời có lợi thế hơn trong việc tiếp cận các nguồn lực này. Năng lực cạnh tranh theo quá trình là xu hướng nghiên cứu năng lực cạnh tranh như các quá trình duy trì và phát triển năng lực năng lực cạnh tranh. Các quá trình bao gồm: quản lý chiếc lược, sử dụng nguồn nhân lực, các quá trình tác nghiệp (sản xuất, chất lượng…). 3. Các cấp độ năng lực cạnh tranh: 3.1. Năng lực cạnh tranh của Quốc gia: 3.1.1.Khái niệm: Năng lực cạnh tranh của Quốc gia hay của một nền kinh tế được hiểu là thực lực là lợi thế mà nền kinh tế hay quốc gia đó huy động được để duy trì và cải thiện vị trí của nó so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường thế giới một cách lâu dài và có ý chí nhằm thu được lợi ích ngày càng cao cho nền kinh tế hay cho quốc gia mình. 3.1.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của nền kinh tế: - Tiềm lực tài chính, kết cấu hạ tầng và trình độ công nghệ của nền kinh tế. - Độ mở và mức độ tham gia vào phân công lao động quốc tế của nền kinh tế. - Trình độ, tác phong làm việc và mức độ linh hoạt của đội ngũ nhân lực trong nền kinh tế. - Mức độ thông thoáng của cơ chếkinh doanh và hệ thống pháp luật phải đầy đủ, rõ ràng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp. - Quan hệ đối ngoại cũng như hình ảnh của Quốc gia đó trên thế giới. - Hệ thống kênh thông tin, khả năng khai thác các lợi thế của nền kinh tế. - Qui mô của nền kinh tế, sự ổn định về hệ thống chính trị Quốc gia. 3.2. Năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp: 3.2.1. Khái niệm: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững. 3.2.2. Một số tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp: - Số chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp cung ứng trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh. - Các mặt hàng doanh nghiệp có mức độ hấp dẫn cao hơn về mẫu mã, giá cả, dịch vụ sau bán hàng so với các đối thủ cạnh tranh. - Doanh nghiệp có sự thuận tiện hơn về hệ thống phân phối so với các đối thủ cạnh tranh. - Số mặt hàng có năng lực cạnh tranh cao hơn trên thị trường so với đối thủ cạnh tranh. - Số tiêu chí đo lường năng lực cạnh tranh mà doanh nghiệp đáp ứng so với các đối thủ cạnh tranh. Một doanh nghiệp kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực thường kinh doanh nhiều mặt hàng trong một lĩnh vực và nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, không phải tất cả các mặt hàng do doanh nghiệp sản xuất ra đều có năng lực cạnh tranh hoặc có năng lực cạnh tranh bằng nhau. Do đó, ta chỉ nên đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo một hoặc một số mặt hàng nhất định. 3.3. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm: 3.3.1. Khái niệm: Năng lực cạnh tranh sản phẩm là khả năng sản phẩm đó tiêu thụ được nhanh chóng trong khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó trên cùng một thị trường. Hay nói cách khác, năng lực cạnh tranh của sản phẩm được đo bằng thị phần của sản phẩm đó. 3.3.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm: - Mức độ doanh thu của mặt hàng đó trong từng năm. - Thị phần của mặt hàng đó trên thị trường trong từng năm so với các đối thủ cạnh tranh. - Mức độ hấp dẫn của sản phẩm đó về mẫu mã, kiểu dáng,…so với các đối thủ cạnh tranh. - Mức độ chênh lệch về giá cũng như chất lượng của mặt hàng đó so với các đối thủ cạnh tranh. 4. Các chiến lược cạnh tranh của Doanh nghiệp: 4.1. Chiến lược khác biệt hóa: Chiến lược khác biệt hóa sản phẩm là một chiến lược mà theo đó các doanh nghiệp tìm cách tạo ra lợi thế cạnh tranh thông qua việc tạo ra các giá trị đặc thù được khách hàng hoặc thị trường thừa nhận và đánh giá cao. Ưu điểm: Doanh nghiệp nào theo đuổi chiến lược khác biệt hóa sẽ ít bị cạnh tranh từ các đối thủ vì họ có lòng trung thành về nhãn hiệu sản phẩm của khách hàng. Và vì vậy cũng không bị áp lực từ phía khách hàng do họ cung cấp các sản phẩm đặc biệt duy nhất. Còn đối với các nhà cung cấp sức ép đối với công ty cũng rất ít, họ có thể chịu việc tăng giá đầu vào ở một mức độ nào đó do mục tiêu hàng đầu của họ cần tạo ra sự khác biệt hóa. Cuối cùng là lòng trung thành của khách hàng là rào cản lớn để ngăn chặn sự đe dọa từ các đối thủ tiềm ẩn và các sản phẩm thay thế. Nhược điểm: Khả năng duy trì sự khác biệt của công ty là không lâu dài và không ổn định, dễ bị các đối thủ cạnh tranh bắt chước sản phẩm giống như của công ty. Mối nguy hiểm nữa là sự khác biệt hóa và mức giá cao hơn mức trung bình của công ty không được thị trường chấp nhận. Điều này sẽ là nguy cơ dẫn đến chiến lược khác biệt hóa không thành công. Bên cạnh đó phải đầu tư tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm là rất lớn, chi phí quảng cáo lại rất cao nên chiến lược rất dễ dẫn đến nguy cơ khác biệt hóa quá mức, khác biệt hóa khó biết hoặc khác biệt hóa quá đắt. 4.2. Chiến lược chi phí thấp: Chiến lược chi phí thấp trong các doanh nghiệp là chiến lược theo đó doanh nghiệp tập trung mọi nỗ lực của mình cho một mục tiêu ưu tiên là giảm thiểu giá thành nhằm kiểm soát lợi thế cạnh tranh về chi phí trên thị trường toàn ngành. Ưu điểm: Các doanh nghiệp theo đuổi chiến lược chi phí thấp có thể cạnh tranh với các đối thủ trong ngành vì có lợi thế về chi phí, và nếu như cạnh tranh ngành tăng lên, các doanh nghiệp bắt đầu cạnh tranh về giá thì doanh nghiệp có chi phí thấp sẽ có khả năng chịu được sự cạnh tranh tốt hơn các doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp cũng ít bị tác động khi các nhà cung cấp tăng giá và khi khách hàng yêu cầu giảm giá. Hơn nữa, các doanh nghiệp này thường có thị phần lớn, mua với số lượng nhiều nên họ có quyền mặc cả giá với người cung cấp. Và cuối cùng là doanh nghiệp có chi phí thấp tạo ra cản trở xâm nhập ngành cao với các đối thủ tiềm ẩn. Nhược điểm: Các đối thủ cạnh tranh có thể bắt chước phương pháp sản xuất với chi phí thấp hơn hoặc do khoa học công nghệ phát triển nên ngày càng có nhiều công nghệ sản xuất tiên tiến có khả năng là mất lợi thế của công ty với chi phí thấp hơn, rất dẫn đến nguy cơ chiến tranh về giá cả. Hơn nữa, chiến lược chi phí thấp tạo nên sự cứng nhắc trong hệ thống sản xuất và quản lý. 4.3. Chiến lược trọng tâm: Chiến lược trọng tâm trong các doanh nghiệp là chiến lược mà theo đó doanh nghiệp phải tìm cách tạo ra lợi thế cạnh tranh trong phạm vi một hoặc một số bộ phận đoạn thị trường đặc thù gần bằng nhu cầu đặc thù. Nhu cầu đặc thù này không có nhiều doanh nghiệp đáp ứng được do đó tạo nên lợi thế của doanh nghiệp. Các thị trường đặc thù hay còn gọi là các khoảng trống, các ngách của doanh nghiệp. Ưu điểm: Lợi thế cạnh tranh của công ty theo chiến lược này bắt nguồn từ năng lực khác biệt của nó – hiệu quả, chất lượng, đổi mới hoặc đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Công ty có thể cạnh tranh với các đối thủ vì nó cung cấp sản phẩm và dịch vụ mà các đối thủ không thể có. Khả năng này giúp cho công ty có quyền lực với khách hàng vì khách hàng không thể mua hàng hóa như vậy ở chỗ khác. Chiến lược này cho phép công ty gần gũi với khách hàng và phản ứng nhanh với những nhu cầu thay đổi. Nhược điểm: Các doanh nghiệp theo đuổi chiến lược này chỉ tập trung vào một phân đoạn thị trường nên sản xuất với số lượng nhỏ. Do vậy, chi phí sản xuất thường cao hơn công ty theo đuổi chiến lược chi phí thấp và chiến khác biệt hóa sản phẩm. Các doanh nghiệp theo chiến lược này rất dễ gặp rủi ro mất thị trường khi nhu cầu của khách hàng thay đổi, rủi ro bị đối thủ lớn cạnh tranh khi thị trường trở nên hấp dẫn, mang lại nhiều lợi nhuận lớn hơn. III – CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP: Hình 1.1: Mô hình 5 áp lực cạnh tranh của Micheal Porter Khách hàng Người cung cấp Sản phẩm thay thế Các công ty trong ngành Kinh tế Công nghệ Chính trị Xã hội Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn Môi trường ngành Môi trường vĩ mô 1. Các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp: 1.1. Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô: 1.1.1. Yếu tố kinh tế: Các nhân tố kinh tế có vai trò quan trọng hàng đầu và ảnh hưởng có tính quyết định đến hoạt động kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Các nhân tố kinh tế ảnh hưởng mạnh nhất đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thường là: tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ lãi suất. Tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái là sự so sánh về giá trị của đồng tiền trong nước với đồng tiền của các quốc gia khác. Thay đổi về tỷ giá hối đoái có tác động trực tiếp đến tính cạnh tranh của sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất trên thị trường quốc tế. Khi giá trị của đồng tiền trong nước thấp hơn so với giá trị của các đồng tiền khác, hàng hóa sản xuất trong nước sẽ tương đối rẻ hơn , còn hàng hóa sản xuất ngoài nước sẽ tương đối đắt hơn. Một đồng tiền thấp hay đang giảm giá sẽ làm giảm sức ép từ các công ty nước ngoài, tạo ra nhiều cơ hội để tăng sản phẩm xuất khẩu và ngược lại. Tỷ lệ lạm phát Lạm phát có thể gây xáo trộn nền kinh tế làm cho sự tăng trưởng kinh tế chậm lại, tỷ lệ lãi suất tăng và sự biến động của đồng tiền trở nên không lường trước được. Nếu lạm phát tăng liên tục, các hoạt động đầu tư trở thành công việc hoàn toàn mới. Thực trạng của lạm phát là làm cho tương lai kinh doanh trở nên khó dự đoán được, khi đó nó sẽ hạn chế sự hoạt động của nền kinh tế, gây nên tình trạng thất nghiệp, và cuối cùng thì đẩy nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng. Tỷ lệ lãi suất Tỷ lệ lãi suất có thể tác động đến mức cầu đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Tỷ lệ lãi suất rất quan trọng khi người tiêu dừng thường xuyên vay tiền để thanh toán các khoản mua bán hàng hóa của mình. Tỷ lệ lãi suất còn quyết định mức chi phí về vốn và do đó quyết định mức đầu tư. Chi phí này là nhân tố chủ yếu khi quyết định tính khả thi của chiến lược. 1.1.2. Yếu tố kỹ thuật - công nghệ: Ngày nay công nghệ được coi là yếu tố quan trọng trong cạnh tranh. Thay đổi về công nghệ có thể làm cho các sản phẩm hiện đang sản xuất trở nên lỗi thời trong một khoảng thời gian ngắn. Cũng với thời gian đó có thể tạo ra được sản phẩm mới. Như vậy, công nghệ đồng thời có thể vừa là cơ hội cũng như mối đe dọa của doanh nghiệp. Do sự phát triển nhanh chóng của công nghệ đã diễn ra xu hướng làm ngắn lại chu kỳ sống của sản phẩm. Bên cạnh đó, công nghệ cũng tạo ra nhiều phương pháp sản xuất mới, những phương pháp này cũng sẽ là những cơ hội hoặc thách thức của doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp phải lường trước được những thay đổi do công nghệ mang lại. 1.1.3. Các yếu tố chính trị - pháp luật: Các yếu tố chính trị - pháp luật cũng có tác động lớn đến mức độ thuận lợi và khó khăn của môi trường kinh doanh trong doanh nghiệp. Các doanh nghiệp hoạt động phải tuân theo các quy định của chính phủ về thuê mướn nhân công, thuế, quảng cáo, nơi đặt nhà máy và bảo vệ môi trường,… Những quy định này cũng có thể là cơ hội hoặc mối đe dọa với doanh nghiệp. Việc tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh thông qua luật pháp và quản lý nhà nước sẽ đảm bảo cho sự phát triển, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là bình đẳng và lành mạnh. 1.1.4. Các yếu tố văn hóa, tự nhiên và xã hội: Cùng với sự phát triển kinh tế, các yếu tố xã hội ngày càng có tác động nhiều hơn đến họat động kinh doanh của các doanh nghiệp. Yếu tố xã hội bao gồm các vấn đề nhân khẩu như quy mô và tốc độ dân số, cơ cấu dân số, tình trạng hôn nhân và gia đình, sự đô thị hóa,…; vấn đề văn hóa như bản sắc, truyền thống, phong tục tập quán, lối sống, trào lưu, xu hướng,… 1.2. Các yếu tố thuộc môi trường vi mô (môi trường ngành): Sử dụng mô hình 5 áp lực cạnh tranh của Micheal Porter, theo mô hình này thì ảnh hưởng đến cầu trúc cạnh tranh trong một ngành có các yếu tố sau: 1.2.1. Áp lực cạnh tranh từ đối thủ tiềm ẩn: Đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện không ở trong ngành nhưng có khả năng nhảy vào hoạt động kinh doanh trong ngành đó. Tác động của các doanh nghiệp này đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đến đâu hoàn toàn phụ thuộc vào sức mạnh cạnh tranh của các doanh nghiệp đó như công nghệ chế tạo, quy mô…. Sự xuất hiện của các đối thủ mới này có thể là yếu tố làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp hay còn làm thay đổi bức tranh cạnh tranh ngành. Dù thay đổi cục diện cạnh tranh cạnh tranh kiểu nào thì sự xuất hiện của chúng cũng làm gia tăng mức cạnh tranh của ngành. Do đó, các doanh nghiệp đang hoạt động tìm mọi cách để hạn chế các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn nhảy vào lĩnh vực kinh doanh của họ. Theo M. Porter, những nhân tố tác động đến quá trình tham gia thị trường của các đối thủ mới đó là: các rào cản thâm nhập thị trường, hiệu quả kinh tế của quy mô, bất lợi về chi phí do các nguyên nhân khác, sự khác biệt hóa sản phẩm, yêu cầu về vốn cho sự thâm nhập, chi phí chuyển đổi, sự tiếp cận đường dây phân phối, các chính sách thuộc quản lý vĩ mô,… 1.2.2. Sự cạnh tranh của sản phẩm thay thế: Sản phẩm thay thế là những sản phẩm của các doanh nghiệp trong những ngành khác nhau nhưng thỏa mãn những nhu cầu của người tiêu dùng giống như các công ty trong ngành. Những doanh nghiệp này thường cạnh tranh gián tiếp với nhau. Càng nhiều loại sản phẩm thay thế xuất hiện bao nhiêu sẽ càng tạo ra sức ép lớn đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp bấy nhiêu. Đặc điểm của sản phẩm thay thế như: sản phẩm sẽ được tiếp tục đưa vào sản xuất hay sẽ được sử dụng trong tiêu dùng cũng như tính chất của sản phẩm thay thế đều tác động trực tiếp, tạo ra sức ép đối với doanh nghiệp. Như vậy, sự tồn tại những sản phẩm thay thế hình thành, một sức ép cạnh tranh rất lớn, nó giới hạn mức giá mà một doanh nghiệp có thể định ra và do đó giới hạn mức lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu sản phẩm của một doanh nghiệp có rất ít các sản phẩm thay thế, doanh nghiệp có cơ hội để tăng giá và kiếm được lợi nhuận tăng thêm. 1.2.3. Sức ép từ khách hàng: Khách hàng của doanh nghiệp là những người có cầu về sản phẩm hay dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp. Đối với mọi doanh nghiệp, khách hàng không chỉ là các khách hàng hiện tại mà phải tính đến cả khách hàng tiềm ẩn. Khách hàng là người tạo ra lợi nhuận, tạo ra sự thắng lợi của doanh nghiệp. Họ được xem như là sự đe dọa mang tính cạnh tranh khi đẩy giá cả xuống hoặc khi họ yêu cầu chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt hơn làm cho chi phí hoạt động của doanh nghiệp tăng lên. Ngược lại, nếu người mua có những yếu thế sẽ tạo cho doanh nghiệp cơ hội để tăng giá và kiếm nhiều lợi nhuận hơn. Người mua có thể gây áp lực với doanh nghiệp đến mức nào phụ thuộc vào thế mạnh của họ trong mối quan hệ với doanh nghiệp. Theo M. Porter, những yếu tố tạo áp lực cho người mua đó là: Khi ngành cung cấp gồm nhiều doanh nghiệp nhỏ còn người mua chỉ là số ít doanh nghiệp nhưng có quy mô lớn. Khi người mua mua với số lượng lớn, họ có thể sử dụng sức mua của mình như một đòn bẩy để yêu cầu được giảm giá. Khi người mua có thể lựa chọn đơn đặt hàng giữa các doanh nghiệp cung ứng cùng loại sản phẩm. 1.2.4. Áp lực từ phía nhà cung cấp: Người cung cấp được coi là sự đe dọa với doanh nghiệp khi họ có thể đẩy mức giá hàng cung cấp cho doanh nghiệp lên, ảnh hưởng đến mức lợi nhuận của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thường phải quan hệ với các tổ chức cung cấp các nguồn hàng khác nhau như thiết bị vật tư, nguồn lao động và tài chính. Yếu tố làm tăng thế mạnh của các tổ chức cung ứng cũng tương tự như các yếu tố làm tăng thế mạnh của người mua sản phẩm. Các nhân tố tác động trực tiếp và tạo ra sức ép từ phía các nhà cung cấp tới hoạt động mua sắm và dự trữ cũng như tuyển dụng lao động của từng doanh nghiệp: số lượng nhà cung cấp nhiều hay ít, tính chất thay thế của các yếu tố đầu vào khó hay dễ, tầm quan trọng của các yếu tố đầu vào đối với hoạt động của doanh nghiệp, khả năng của các nhà cung cấp và vị trí quan trọng đến mức độ nào của doanh nghiệp đối với nhà cung cấp. 1.2.5. Sự cạnh tranh nội bộ ngành: Cạnh tranh nội bộ là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện đang có mặt trong ngành. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành là yếu tố quan trọng tạo ra cơ hội hoặc mối đe dọa cho các doanh nghiệp. Nếu sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành yếu, các doanh nghiệp có cơ hội nâng giá nhằm thu được lợi nhuận cao hơn. Nếu sự cạnh tranh này là gay gắt thì sẽ dẫn đến cạnh tranh quyết liệt về giá, nguy cơ làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp. Áp lực cạnh tranh nội bộ ngành chịu tác động tổng hợp của 3 yếu tố cấu thành: cơ cấu ngành, mức độ cầu và những trở ngại ra khỏi ngành. - Cơ cấu ngành: đó là sự phân bố về số lượng và quy mô của các công ty trong ngành. Có thể phân biệt hai loại cơ cấu chính: Thứ nhất, ngành phân tán, bao gồm số lượng lớn các công ty có quy mô vừa và nhỏ, không có công ty nào có vai trò chi phối toàn bộ ngành như ngành sản xuất lương thực trong nông nghiệp, ngành dệt, ngành kinh doanh khách sạn, du lịch, nên không có sức mạnh chi phối thị trường và thường phải chấp nhận mức giá của thị trường. Thứ hai, ngành hợp nhất, bao gồm số lượng ít các công ty có quy mô lớn hoặc chỉ có một công ty độc quyền như ngành sản xuất ôtô, sản xuất điện. Các công ty trong nhóm ngành hợp nhất hoạt động phụ thuộc vào nhau và do đó hoạt động cạnh tranh của một công ty sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mức lợi nhuận của các công ty khác trong ngành. - Mức độ cầu: tình trạng về cầu trong ngành cũng là một yếu tố tác động đến cạnh tranh. Tăng nhu cầu tạo ra cơ hội cho việc mở rộng sản xuất, làm dịu bớt sự cạnh tranh. Cầu tăng lên khi trên thị trường có thêm người tiêu dùng mới hoặc làm tăng sức mua của người tiêu dùng hiện tại. Các doanh nghiệp có thể tăng doanh thu mà không làm ảnh hưởng đến thị trường của các doanh nghiệp khác. Như vậy việc tăng cầu đưa đến cơ hội mở rộng hoạt động cho các doanh nghiệp. Ngược lại cầu giảm khi có người tiêu dùng rời bỏ thị trường của ngành, hoặc sức mua của những người tiêu dùng hiện tại giảm. Khi đó sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trở nên mạnh mẽ hơn, một doanh nghiệp chỉ có thể đạt tới sự tăng trưởng mạnh bằng cách lấy đi thị phần của những doanh nghiệp khác. Sự biến động của mức cầu phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của ngành. - Những trở ngạ._.i ra khỏi ngành: Những trở ngại ra khỏi ngành đe dọa khi cầu đang có xu hướng giảm. Nếu như những trở ngại này rất khó vượt qua thì các doanh nghiệp có thể bị buộc chặt vào nhau, mặc dù hoạt động kinh doanh không có hứa hẹn gì tốt đẹp, và nó sẽ làm cho sự cạnh tranh trở nên gay gắt. Các trở ngại chính ra khỏi ngành đó là: Thứ nhất, các mày móc thiết bị khó có thể sử dụng vào ngành khác, do vậy doanh nghiệp không bán được, khi doanh nghiệp ra khỏi ngành phải bỏ toàn bộ tài sản này. Thứ hai, những chi phí cố định rất lớn khi ra khỏi ngành như trả lương cho công nhân khi chưa hết hợp đồng. Thứ ba, đó là sự gắn bó về tình cảm đối với ngành như những công ty thuộc gia đình, dòng họ. 2. Các yếu tố thuộc nội bộ doanh nghiệp: Phân tích nội bộ doanh nghiệp nhằm làm rõ những điểm mạnh, điểm yếu của chính doanh nghiệp trong từng lĩnh vực kinh doanh để cuối cùng chỉ ra doanh nghiệp có những năng lực riêng biệt nào đó và những năng lực riêng biệt này tạo ra lợi thế cạnh tranh. 2.1. Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị là tổng hợp các bộ phận khác nhau có mối liên hệ và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hóa, được giao những trách nhiệm và quyền hạn nhất định và được bố trí theo từng cấp nhằm thực hiện các chức năng quản trị doanh nghiệp. Trình độ tổ chức và quản lý là yếu tố quan trọng hàng đầu. Có tổ chức tốt doanh nghiệp sẽ làm tốt mọi việc. Để tổ chức quản lý tốt cần phải có phương pháp quản lý tốt, có hệ thống tổ chức gọn nhẹ, linh hoạt, có văn hóa doanh nghiệp tốt. Cần phải có một cơ cấu tổ chức hợp lý, phân công trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng giữa các bộ phận, các phòng ban chức năng thì mọi hoạt động sẽ trôi chảy, có năng suất hơn. Trong cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp thì cơ cấu ban lãnh đạo, phẩm chất và trình độ, tài năng của họ có vai trò quan trọng bậc nhất, ảnh hưởng mang tính quyết định tới sự thành công của doanh nghiệp. Ban lãnh đạo của một tổ chức là người nắm toàn bộ nguồn lực của tổ chức, vạch ra đường lối,chiến lược, chính sách, kế hoạch hoạt động; vạch ra sách lược hoạt động từng thời kỳ; hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, đánh giá mọi hoạt động của các phòng ban để đưa hoạt động của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. 2.2. Hoạt động Marketing: Chức năng cơ bản của hoạt động Marketing là tạo ra khách hàng cho doanh nghiệp. Chỉ có marketing mới có vai trog quyết định và điều phối sự kết nối các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với thị trường, có nghĩa là đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hướng theo thị trường, biết lấy thị trường – nhu cầu và ước muốn của khách hàng làm chỗ dựa vững chắc nhất cho mọi quyết định kinh doanh. Tính chất cạnh tranh của thị trường ngày càng gay gắt, thôi thúc của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế chắc chắn sẽ là nguyên nhân trọng yếu thúc đẩy các doanh nghiệp phải hiểu biết và vận dụng marketing một cách linh hoạt vào kinh doanh, tạo dựng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ngày một cao hơn. 2.3. Nghiên cứu và phát triển: Trong hoạt động đầu tư, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển thường đưa lại kết quả rất lớn. Nghiên cứu và phát triển bao gồm việc nghiên cứu tiến bộ khoa học – kỹ thuật của thế giới để ứng dụng những tiến bộ đó vào hoạt động của tổ chức mình. Nghiên cứu sáng tạo cái mới, đó là nhân tố cực kỳ quan trọng, quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của quốc gia. Ở đây bao gồm sáng tạo công nghệ mới, sản phẩm mới, tạo ra kết cấu, tổ chức mới, phương pháp quản lý mới và khai thác thị trường mới. Để hoạt động nghiên cứu – triển khai tiến hành tốt thì doanh nghiệp không thể thiếu công tác đào tạo. Đào tạo trước hết để nâng cao nhận thức cho mọi người về hội nhập và toàn cầu hóa, về cạnh tranh, về vị trí vai trò của doanh nghiệp trong ngành… Sau nữa là để nâng cao hiểu biết về công nghệ, kỹ thuật sản xuất, nâng cao tay nghề làm ra sản phẩm có chất lượng và năng suất ngày càng cao. 2.4. Năng lực tài chính của doanh nghiệp: Tài chính là một nguồn lực mà các doanh nghiệp cần phải có trước tiên trong quá trình thành lập và phát triển. Tình hình tài chính tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh trong mọi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Mọi hoạt động đầu tư, mua sắm, dự trữ, lưu kho,… cũng như khả năng thanh toán của doanh nghiệp ở mọi thời điểm đều phụ thuộc vào khả năng tài chính của nó. Năng lực tài chính là yếu tố rất quan trọng để xem xét tiềm lực của doanh nghiệp mạnh yếu như thế nào? Doanh nghiệp có đủ nguồn lực tài chính để tài trợ cho chiến lược hay không? Doanh nghiệp có thể huy động các nguồn lực tài chính khi cần hay không? Vấn đề sử dụng vốn của doanh nghiệp như thế nào? Một doanh nghiệp có năng lực tài chính mạnh, năng lực cạnh tranh cao khi doanh nghiệp có nguồn vốn dồi dào bằng cách đa dạng hóa nguồn cung vốn, luôn đảm bảo huy động được vốn trong những điều kiện cần thiết, có nguồn vốn huy động hợp lí; bên cạnh đó, doanh nghiệp phải có kế hoạch sử dụng đồng vốn có hiệu quả để phát triển lợi nhuận; và hơn hết, phải hạch toán chi phí rõ ràng để xác định được hiệu quả một cách chính xác. IV – CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP: 1. Hiệu quả kinh doanh: Hiệu quả kinh doanh là trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu xác định. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp được thẻ hiện thông qua các chỉ tiêu như: lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận, doanh thu, tăng trưởng doanh thu, tăng trưởng lãi gộp… Các chỉ tiêu này phản ánh kết quả sử dụng các yếu tố vốn, trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, lao động, kỹ thuật của doanh nghiệp. Phân tích, so sánh các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kỳ này với kỳ trước, so sánh chỉ tiêu trung bình ngành và chỉ tiêu kế hoạch với chỉ tiêu thực hiện, ta đánh giá được hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là cao hay thấp. Nếu doanh nghiệp có hiệu quả kinh doanh cao, lợi nhuận cao và theo chiều hướng phát triển thì nội bộ doanh nghiệp ổn định, mọi thành viên an tâm làm việc, mang lại lợi ích lớn cho doanh nghiệp và doanh nghiệp đó sẽ có năng lực cạnh tranh cao. 2. Thị phần của doanh nghiệp trên thị trường: Thị phần là phần thị trường doanh nghiệp bán được sản phẩm của mình một cách thường xuyên và có xu hướng phát triển. Thị phần thể hiện vị thế, phản ánh năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa, thị phần còn nói lên sức chi phối thị trường của doanh nghiệp, nó xác định vai trò thống trị thị trường của doanh nghiệp. Thị phần mà càng lớn chứng tỏ sản phẩm của doanh nghiệp được người tiêu dùng ưa chuộng, năng lực cạnh tranh của sản phẩm cao, và do đó năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cao, doanh nghiệp có chỗ đứng vững chắc trên thị trường, có triển vọng trong lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp đó. Để phát triển thị phần, ngoài giá cả, chất lượng của sả phẩm, doanh nghiệp còn phải tiến hành công tác xúc tiến thương mại, tổ chức các dịch vụ đi kèm, cung cấp sản phẩm kịp thời, thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp. Như vậy, thị phần là một tiêu chí quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. + Công thức tính thị phần của doanh nghiệp: Trong đó: Tp: thị phần của doanh nghiệp Ddn: Doanh thu của doanh nghiệp trên thị trường ∑Di: Tổng doanh thu của các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam. + Ý nghĩa: chỉ tiêu thị phần của doanh nghiệp càng lớn, thể hiện sức mạnh của doanh nghiệp trên thị trường càng lớn, phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường lớn. 3. Giá cả: Giá cả là mối tương quan trao đổi trên thị trường. Giá còn là biểu tượng giá trị của sản phẩm, dịch vụ trong hoạt động trao đổi. Bên cạnh đó, giá cũng là một trong các chỉ tiêu định lượng để đánh giá năng lực cạnh tranh. Trong cơ chế cạnh tranh trên thị trường thế giới hiện nay, giá cao không đồng nghĩa với năng lực cạnh tranh thấp, mà giá cao chỉ thể hiện sản phẩm được người tiêu dùng ưa thích và họ sẵn sàng trả giá cao cho sản phẩm đó. 4. Chất lượng sản phẩm dịch vụ chủ yếu của doanh nghiệp: Chất lượng sản phẩm, dịch vụ là yếu tố cấu thành quan trọng hàng đầu trong năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ đó, mà năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ là yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Người tiêu dùng luôn luôn ưa chuộng những sản phẩm có chất lượng cao và có các dịch vụ ưu đãi, chăm sóc khách hàng tốt. Chất lượng sản phẩm và dịch vụ hàng hóa là một yếu tố quan trọng, giúp doanh nghiệp có được lợi thế cạnh tranh, nhất là khi doanh nghiệp theo đuổi chiến lược khác biệt hóa sản phẩm. Do đó, chất lương sản phẩm và dịch vụ là tiêu chí xem xét, đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 5. Uy tín thương hiệu của doanh nghiệp: Uy tín hay danh tiếng của doanh nghiệp được hình thành là cả một quá trình phấn đấu lâu dài, kiên trì, theo đuổi mục tiêu chiến lược đúng đắn, hợp lý của doanh nghiệp. Doanh nghiệp càng uy tín, thương hiệu cũng như tên tuổi của doanh nghiệp, của sản phẩm càng nổi tiếng thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp càng mạnh. Khi đó, doanh nghiệp sẽ được nhiều người tiêu dùng biết đến, tin tưởng và sử dụng hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp. V - SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP SAU CỔ PHẦN HÓA: Theo thống kê của Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp Trung ương cho thấy, sau cổ phần hóa, quy mô, hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp hầu hết đều tăng rõ rệt. Vốn điều lệ bình quân của các doanh nghiệp tăng 44%, doanh thu tăng 23,6%, lợi nhuận tăng 140%, hơn 90% số công ty cổ phần hóa làm ăn có lãi, nộp ngân sách nhà nước tăng 24,9%, cổ tức bình quân đạt hơn 17%/năm. Như vậy, sau cổ phần hoá các doanh nghiệp nước ta đang đứng trước những thời cơ, cơ hội mới rất quan trọng, nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức mới cần phải vượt qua. 1. Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp sau cổ phần hóa: 1.1. Cơ hội: Sau cổ phần hoá, nhiều doanh nghiệp đã có những bước chuyển lớn cả về quy mô, giá trị và hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Bước chuyển đó được đánh giá thực tế từ thị trường, từ sự phát triển của doanh nghiệp. Hơn nữa, sau cổ phần hóa, thị giá cổ phiếu tăng, giá trị doanh nghiệp cũng tăng, nhưng quan trọng hơn là khả năng quản lý doanh nghiệp sẽ phát huy trước yêu cầu tăng cường kiểm soát đối với ban điều hành, trong trách nhiệm quản lý đối với kết quả sản xuất kinh doanh, khai thác và sử dụng có hiệu quả nhân lực, vật lực của doanh nghiệp mình. Mặt khác, cổ phần hóa cũng là cách giúp doanh nghiệp nhanh chóng mở rộng mạng lưới hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư xâm nhập vào các lĩnh vực kinh doanh mới. Đồng thời, sau cổ phần hóa các doanh nghiệp có thể tách quan hệ sở hữu với quá trình kinh doanh, tách quyền sở hữu với quyền quản lý, sử dụng, giúp doanh nghiệp đã có thể tự chủ, độc lập hơn về những quyết định cho sự phát triển của doanh nghiệp. Nhờ cổ phần hóa mà doanh nghiệp đã tận dụng được những kinh nghiệm trong quản lý, cũng như tiếp cận được một cách bình đẳng công nghệ, vốn tín dụng và nhân lực từ bên ngoài. Đó chính là những yếu kém của doanh nghiệp nước ta mà trước cổ phần hóa chúng ta chưa tự giải quyết được. Ngoài ra, cổ phần hóa còn tạo điều kiện cho thị trường được mở rộng hơn, môi trường kinh doanh sẽ được cải thiện. Nó thúc đẩy các cơ quan nhà nước tích cực đổi mới thể chế, chính sách, sắp xếp lại tổ chức quản lý và làm trong sạch đội ngũ công chức, cải cách thủ tục hành chính, chống nạn quan liêu, tham nhũng,… thuận lợi hơn cho yêu cầu nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh hiện có và thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp hơn nữa. Khi cổ phần hóa cũng có nghĩa là doanh nghiệp đã phân bố được rủi ro, đồng thời tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển. Không những thế, các doanh nghiệp còn có khả năng thu hút vốn đầu tư hiệu quả hơn, tiến hành tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của doanh nghiệp. 1.2. Thách thức: Ngoài những thuận lợi, những cơ hội có được từ cổ phần hóa thì các doanh nghiệp cũng phải đối mặt với những thách thức rất lớn từ cổ phần hóa như sau: Sau cổ phần hóa, áp lực cạnh tranh trên thị trường của doanh nghiệp tăng lên, yêu cầu của thị trường khắt khe hơn, sẽ phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh hơn, nên doanh nghiệp cần phải chuẩn bị thật tốt về mọi mặt cho quá trình cổ phần hóa. Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp tiến hành quá trình cổ phần hóa khi mà chưa nắm vững về quy trình thực hiện cũng như giá trị mà mô hình quản trị doanh nghiệp sau cổ phần hóa mang lại nên còn rất lúng túng trong quá trình điều hành và quản lý, khiến doanh nghiệp trong những giai đoạn đầu sau cổ phần hóa đã gặp phải rất nhiều khó khăn. Nhiều doanh nghiệp cổ phần chưa có sự đổi mới thực sự trong quản trị công ty; phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư duy quản lý vẫn còn như doanh nghiệp nhà nước. Hạn chế này rõ nhất là ở những doanh nghiệp mà Nhà nước còn giữ cố phần chi phối, ban lãnh đạo của doanh nghiệp đều từ doanh nghiệp nhà nước trước đó chuyển sang. Trong một số doanh nghiệp cổ phần, người lao động - cổ đông do nhận thức chưa đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình, phần do sự hiểu biết pháp luật về doanh nghiệp cổ phần còn hạn chế, nên có nơi quyền làm chủ chưa được phát huy, ngược lại có nơi lạm quy định của pháp luật gây khó khăn cho công tác quản lý của Hội đồng quản trị, sự điều hành của giám đốc. Nhiều nội dung của cơ chế, chính sách quản lý doanh nghiệp cổ phần như: chính sách tiền lương, tiền thưởng … vẫn còn áp dụng như doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và việc huy động vốn trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế. Thời kỳ đầu do chưa khuyến khích việc bán cổ phần ra bên ngoài nên số vốn huy động ngoài xã hội vào sản xuất, kinh doanh còn hạn chế. Chưa có doanh nghiệp nào tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa. Ngoài ra, vốn nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn trong vốn điều lệ ở nhiều doanh nghiệp không thuộc diện cần giữ cố phần chi phối, phổ biến nhất là trong các tổng công ty nhà nước thuộc các ngành xây dựng, giao thông. Việc thu hút vốn cổ đông ngoài doanh nghiệp mới đạt 24,1% vốn điều lệ; mới có trên 20 công ty có cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài; các cổ đông chiến lược vì thế cũng không có nhiều cơ hội để tham gia vào phát triển sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc người lao động trong một số doanh nghiệp bán bớt cổ phần ưu đãi sau khi mua đã làm giảm tác dụng của chính sách khuyến khích người lao động có cổ phần trong doanh nghiệp cổ phần hóa. 2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sau cổ phần hóa: Mỗi doanh nghiệp kinh doanh phải có những nguồn lực nhất định. Để duy trì và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh buộc các doanh nghiệp phải phát huy triệt để mọi tiềm lực, mọi thế mạnh để tạo lợi thế bằng hoặc hơn các doanh nghiệp khác. Có như vậy mới đảm bảo cho doanh nghiệp vững vàng trong cạnh tranh. Để thực hiện được mục tiêu này buộc các doanh nghiệp phải tăng cường khả năng cạnh tranh của mình. Thực chất của khả năng cạnh tranh là tạo ra nhiều hơn một ưu thế về tất cả các mặt: giá cả, giá trị sử dụng của sản phẩm, uy tín, thương hiệu, thị phần của doanh nghiệp đó trên thị trường… Muốn vậy, doanh nghiệp phải áp dụng tổng hợp các biện pháp khác nhau như cắt giảm chi phí sản xuất để hạ giá thành sản phẩm, hạ giá bán, áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao trình độ đội ngũ nhân công,… Hay nói cách khác, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là thay đổi mối tương quan về thế lực của doanh nghiệp đó trên thị trường về mọi mặt của quá trình sản xuất. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay thì việc các doanh nghiệp cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh là một yêu cầu tất yếu khách quan. Cùng với tốc độ phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, đòi hỏi của người tiêu dùng ngày càng khắt khe, họ có xu hướng tiêu dùng những sản phẩm chất lượng cao với giá cả hợp lý. Để đáp ứng được nhu cầu đó thì doanh nghiệp phải luôn tìm tòi mọi cách để cải tiến sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ, đổi mới công nghệ,… hay phát huy mọi lợi thế của mình so với các đối thủ cạnh tranh trong thỏa mãn cao nhất đòi hỏi của thị trường. Để duy trì và phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh buộc các doanh nghiệp phải phát huy triệt để mọi tiềm lực, mọi thế mạnh để tạo lợi thế bằng hoặc hơn các doanh nghiệp khác. Muốn vậy, buộc các doanh nghiệp phải tăng cường khả năng cạnh tranh của mình. Hơn nữa, khi nền kinh tế mở cửa, thuận lợi hơn với các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần hóa trong tiến trình hội nhập ngày càng mạnh mẽ thì nâng cao năng lực cạnh tranh là vấn đề sống còn. Mặt khác, khi nước ta chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp Nhà nước không được bao cấp nữa mà phải tự quyết định các vấn đề mang tính sống còn của doanh nghiệp mình thì buộc phải chấp nhận các quy luật của thị trường và chấp nhận cạnh tranh. Chính điều đó đã thúc đẩy các doanh nghiệp phải hướng mình vào guồng quay của sự cạnh tranh nếu không muốn phải tự đào thải khỏi thị trường. Chương II: Đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn trong những năm 2003 – 2008 I - KHÁI QUÁT KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XI MĂNG BỈM SƠN TRONG GIAI ĐOẠN 2003 – 2008: Trong thời gian vừa qua, công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn đã thu được những kết quả tốt về mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh, là một trong những đơn vị sản xuất và tiêu thụ xi măng lớn trong Tổng Công ty công nghiệp xi măng Việt Nam, xứng đáng là đơn vị Anh hùng trong thời kỳ đổi mới. Sản lượng sản xuất và tiêu thụ tăng đều hàng năm, các chỉ tiêu tài chính luôn luôn ổn định và có hiệu quả, đặc biệt chỉ tiêu lợi nhuận hàng năm đều tăng từ 15% đến 50% so với các năm trước đó. Thu nhập bình quân của người lao động tăng cao và ổn định. Hơn nữa, Xi măng Bỉm Sơn luôn chú trọng đầu tư đổi mới máy móc thiết bị hiện đại, tăng cường công tác đào tạo để nâng cao trình độ, tay nghề của công nhân với mục tiêu tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Với đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm và công nhân kỹ thuật lành nghề, năng lực thiết bị ngày càng hiện đại. Xi măng Bỉm Sơn đã và đang tham gia cung cấp cho xây dựng dân dụng vào rất nhiều những công trình trọng điểm của đất nước như: Thuỷ điện Hoà Bình, Bảo tàng Hồ Chí Minh, đường dây 500kw Bắc- Nam,… 1. Đánh giá về doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách và thu nhập bình quân đầu người/ tháng: Bảng 2.1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của CTCP xi măng Bỉm Sơn từ 2003 – 2008 Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Doanh thu Tỷ đồng 1.307,1  1.560,2 1.553,2 1.602,8 1.547,0 1.936,1 Tốc độ tăng doanh thu %  16,22 - 0,44  3,16  -3,43  25,15  Nộp ngân sách Tỷ đồng  83,664 89,129 99,821 88,152 88,920 84,327 Lợi nhuận trước thuế Tỷ đồng 65,016 84,513 107,602 117,272 139,044 216,011 TNBQ 1người/ tháng Nghìn đồng  3.519  3.754  4.152  4.287  4.896  4.571 (Nguồn: phòng kế toán thống kê tài chính và phòng kinh tế kế hoạch ) Từ bảng trên ta có một số nhận xét như sau: - Tổng doanh thu tăng giảm, biến động không đều qua các năm: Biểu đồ 2.1: Biểu đồ doanh thu của CTCP xi măng Bỉm Sơn qua các năm 2003 – 2008 (Nguồn: phòng kinh tế kế hoạch và kế toán thống kê tài chính) Doanh thu của CTCP xi măng Bỉm Sơn biến động không đáng kể qua các năm, doanh thu tăng đều từ năm 2003 đến 2006, giảm ở năm 2007 và tăng mạnh vào năm 2008. Có kết quả như vậy là do năm 2007, Công ty đã áp dụng một số chính sách thuế, đồng thời cải cách hệ thống bán hàng nên hầu hết các đại lý bán hàng vẫn chưa thích nghi được với hình thức bán hàng mới. Đến năm 2008, mọi sự thay đổi đã đi vào khuôn khổ, các đại lý đã quen dần với cung cách bán hàng mới nên kết quả kinh doanh đã có sự cải thiện đáng kể. Phần lớn doanh thu của Công ty là từ xi măng bao còn các sản phẩm khác như xi măng bột, clinker chiếm tỷ lệ rất ít trong cơ cấu doanh thu. - Cùng với sự tăng lên của tổng doanh thu, lợi nhuận trước thuế tăng đều qua các năm và không có những biến động đáng kể. Mặc dù công tác tiêu thụ gặp rất nhiều khó khăn do giá bán giảm nhưng do việc quản lý sản xuất kinh doanh có hiệu quả nên lợi nhuận ngày càng cao. - Tỷ lệ nộp ngân sách của Công ty tăng giảm thất tjhường: Tỷ lệ nộp ngân sách Nhà nước của Xi măng Bỉm Sơn có mức biến động đáng kể, như tỷ lệ nộp ngân sách cao nhất trong giai đoạn này là năm 2005 với mức tăng là 12% còn năm 2006 lại giảm đột ngột là 11.69%, tuy nhiên sự biến động đó hoàn toàn phù hợp với sự tăng giảm, biến động của lợi nhuận qua các năm trong giai đoạn này. Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ nộp ngân sách của CTCP xi măng Bỉm Sơn giai đoạn 2003 – 2008 (Nguồn: Phòng kinh tế kế hoạch và kế toán thống kê tài chính) - Thu nhập bình quân 1 tháng của các cán bộ công nhân viên trong Công ty có xu hướng tăng lên, nhưng mức tăng trung bình, không cao. Cao nhất là năm 2007 tăng được 609 nghìn đồng/ người, còn thấp nhất là năm 2006 chỉ tăng được 135 nghìn đồng/ người. Năm 2007 là năm Công ty có những thay đổi cơ bản về công tác tổ chức và nhân sự. Chuyển đổi chi nhánh thành Văn phòng đại diện; bổ nhiệm, sắp xếp lại lao động cho phù hợp với tình hình thực tế của Công ty; giải quyết chế độ chính sách cho 143 người (chủ yếu là lao động dôi dư ở các chi nhánh) và tiếp nhận 62 lao động (trong đó có 61 trường hợp là đổi hạt bố mẹ về con vào). Chính vì vậy đã cắt giảm được một số khoản chi phí cùng với đó là sự thuận lợi trong quá trình sản xuất và tiêu thụ, thu được nhiều lợi nhuận nên mức lương của các cán bộ trong năm 2007 đã được cải thiện đáng kể. Tạo động lực, khuyến khích người lao động hăng say hơn, yêu công việc của mình hơn, giúp cho tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty ngày một đi lên. Biêu đồ 2.3: Mức tăng thu nhập bình quân/ tháng của CBCNV CTCP xi măng Bỉm Sơn giai đoạn 2003 – 2008 ( Nguồn: Phòng kế toán thống kê tài chính) Năm 2007 là năm Công ty có những thay đổi cơ bản về công tác tổ chức và nhân sự. Chuyển đổi chi nhánh thành Văn phòng đại diện; bổ nhiệm, sắp xếp lại lao động cho phù hợp với tình hình thực tế của Công ty; giải quyết chế độ chính sách cho 143 người (chủ yếu là lao động dôi dư ở các chi nhánh) và tiếp nhận 62 lao động (trong đó có 61 trường hợp là đổi hạt bố mẹ về con vào). Chính vì vậy đã cắt giảm được một số khoản chi phí cùng với đó là sự thuận lợi trong quá trình sản xuất và tiêu thụ, thu được nhiều lợi nhuận nên mức lương của các cán bộ trong năm 2007 đã được cải thiện đáng kể. Tạo động lực, khuyến khích người lao động hăng say hơn, yêu công việc của mình hơn, giúp cho tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty ngày một đi lên. Tuy mức thu nhập của cán bộ công nhân viên của Công ty có tăng chứng tỏ đời sống của họ có tăng lên song vẫn không đáng kể. Năm 2007 có tăng nhưng trong điều kiện giá cả lương thực, thực phẩm và tất cả các mặt hàng đều tăng thì mức tăng đó cũng không thể bù đắp được. Do đó, mục tiêu những năm sắp tới của Công ty cần phải đạt được là nâng cao hơn nữa thu nhập của cán bộ công nhân viên. Từ đó nâng cao đời sống lao động của Công ty nó riêng và của xã hội nói chung. 2. Đánh giá về sản lượng sản xuất và tiêu thụ: Bảng 2.2: Sản lượng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn từ 2003 – 2008 Diễn giải Đơn vị 2003 2004 2005 2006 2007 2008 1.SL sản xuất Nghìn tấn Clinker Nghìn tấn 1.443,08 1.682,19 1.635,32 1.564.302 1.688.480 1.731.571,00 Xi măng Nghìn tấn 1.817,02 2.247,85 2.233,43 2.315.371,93 2.255.750,60 2.427.417,57 2.SL tiêu thụ: Nghìn tấn Clinker Nghìn tấn 152,40 235,99 105,70 46,44 20,97 71.214,51 Xi măng Nghìn tấn 1.825,46 2.188,18 2.266,06 2.365,29 2.287,67 2.565.125,79 (Nguồn: phòng kinh tế kế hoạch và phòng kế toán thống kê tài chính) Từ bảng số liệu trên có thể thấy, trong những năm gần đây sản lượng sản xuất và tiêu thụ của công ty tương đối ổn định, mặc dù công tác tiêu thụ gặp rất nhiều khó khăn và giá bán giảm dần. Sản lượng sản xuất tăng dần theo các năm, điều đó phù hợp với sự phát triển cũng như nhu cầu tiêu dùng của xã hội, và do đó cũng kéo theo sự gia tăng của tổng giá thành. Clinker cũng có sản lượng sản xuất tăng dần theo các năm, nhưng khả năng tiêu thụ lại tăng giảm thất thường và đóng góp vào sản lượng tiêu thụ là rất ít mặc dù vẫn sản xuất nhiều, điều đó chứng tỏ Công ty đã tự cung tự cấp được cho sản xuất, có đủ cliker để dùng cho sản xuất xi măng, không phải mua từ các công ty khác. Bên cạnh đó, do thị trường xi măng biến động lớn, mức sản xuất trong phạm vi toàn quốc tăng lên rất nhanh do đã có nhiều nhà máy lớn đi vào hoạt động và sản xuất ổn định. Xi măng liên doanh có lượng tương đối lớn, là những công ty liên doanh vốn chủ yếu của nước ngoài do đầu tư mới nên được miễn giảm thuế. Vì vậy công tác xử lý giá cả đến từng thị trường rất linh hoạt, không bị ràng buộc bởi cơ chế quản lý của nhà nước. Cho nên việc tăng giảm thị phần trên thị trường đối với những công ty này hoàn toàn là do chủ quan, vì một lượng không nhỏ xi măng lò đứng là do địa phương quản lý cho nên việc xây dựng các công trình dân dụng, cơ sở hạ tầng trong địa phương luôn được các địa phương ưu tiên cho loại xi măng của mình. Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Tổng công ty xi măng Việt Nam cũng như việc tổ chức và đề ra những biện pháp có hiệu quả linh động của lãnh đạo công ty như chính sách khuyến mại hoa hồng đã thực sự tạo được động lực thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. 3. Đánh giá sản phẩm chủ yếu: Gần 30 năm xây dựng và trưởng thành, Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn đã cung cấp cho thị trường gần 30 triệu tấn sản phẩm chất lượng cao. Hiện sản phẩm của Công ty rất đa dạng và đảm bảo chất lượng như: Xi măng Pooc Lăng hỗn hợp PCB 30, PCB 40 được sản xuất theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 6260:1997; Xi măng Pooc Lăng PC 40, PC 50 được sản xuất theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 2682:1999; Clinker thương phẩm Ppc40 được sản xuất theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 7024:2002. Các sản phẩm của Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn đều có chất lượng ổn định, độ dư mác cao, có lợi cho người tiêu dùng, an toàn trong quá trình lưu kho, vận chuyển, sử dụng và giá cả hợp lý nhất. Trước sự tín nhiệm của người tiêu dùng, hiện các nhà máy luôn phải hoạt động hết công suất để cố gắng cung cấp sản phẩm cho thị trường. II – PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XI MĂNG BỈM SƠN TRONG NHỮNG NĂM 2003 – 2008: 1. Phân tích môi trường vĩ mô: 1.1. Yếu tố kinh tế: Trong những năm vừa qua, các yếu tố kinh tế đã tác động mạnh mẽ tới hoạt động của các doanh nghiệp nói chung, hay hoạt động của Tổng công ty xi măng Việt Nam nói riêng mà cụ thể là công ty cổ phần xi măng Việt Nam. Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tốc độ tăng (%) 7.34 7.79 8.44 8.17 8.5  11 Bảng 2.3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ năm 2003 – 2008 (Nguồn: Tạp chí kinh tế Việt Nam 2008 – 2009) Trong giai đoạn 2003 – 2008, kinh tế Việt Nam tăng trưởng ở mức cao và tương đối ổn định. Đời sống nhân sân được cải thiện. Điều này đã tác động tích cực đến sự phát triển của ngành xây dựng nói chung, Tổng công ty xi măng Việt Nam nói riêng và cụ thể hơn nữa là Công ty CPXM Bỉm Sơn. Tốc độ kinh tế tăng cao làm phát sinh thêm nhiều nhu cầu mới. Đây là cơ hội cho Công ty mở rộng sản xuất và phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội dó là mối đe dọa của sự xuất hiện thêm nhiều đối thủ mới, chi phí và tiền lương của Công ty cũng tăng lên làm giảm khả năng cạnh tranh của Công ty. Tốc độ tăng tưởng kinh tế tăng , tỷ lệ lạm phát cũng tăng mạnh làm xáo trộn nền kinh tế, lãi suất tăng và sự biến động của đồng tiền trỏe nên khó lường hơn trước. Đặc biệt trong năm 2008, cuộc khủng hoảng nền kinh tế Mỹ đã nhanh chóng lan ra toàn cầu và nước ta cũng đã chịu ảnh hưởng rất lớn, lãi suất ngân hàng tăng cao, biến động khôn lường, các hoạt động đầu tư, sản xuất của Công ty trở thành hoạt động măng tính may rủi nhiều hơn, làm cho tương lai kinh doanh trở nên khó đoán hơn. Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tỷ lệ lạm phát (%) 3.1 8.4 6.6 12.36 22 Bảng 2.4: Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam từ năm 2003 – 2008 ( Nguồn: Tạp chí kinh tế Việt Nam 2008 - 2009) Lạm phát tăng cao làm tăng giá nguyên vật liệu và chi phí nhân công. Tỷ giá hối đoái là nhân tố tác động trực tiếp đến hiệu qiả sản xuất kinh doanh của các công ty, đặc biệt là những công ty có tỷ lệ hàng hóa nhập khẩu lớn. Trong giai đoạn này, Công ty CPXM Bỉm Sơn đang được đầu tư, nâng cấp và xây dựng các dự án dây chuyền mới, thường xuyên phải nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hàng hóa từ nước ngoài với giá trị lớn. Vì vậy, mọi sự thay đổi, dù nhỏ của tỷ giá hối đoái cũng tác động không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của Công ty. Nếu không dự đoán được sự thay đổi của đồng ngoại tệ thì Công ty sẽ bị thiệt hại rất lớn. Chính vì vậy, đây là một chướng ngại lớn đối với Công ty CPXM Bỉm Sơn. 1.2. Yếu tố chính trị - pháp luật: Việt Nam là một trong những quốc gia có nền chính trị ổn định nhất trên thế giới. Hiện nay, nước ta đang tạo điều kiện tốt để thu hút các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài đầu tư và kinh doanh. Sự ổn định về chính trị là nền tảng quan trọng để các doanh nghiệp an tâm kinh doanh, đạt được hiệu quả tốt. Ngoài ra, để các hoạt động kinh doanh có hiệu quả và đúng hướng thì mỗi quốc gia quản lý bằng các văn bản pháp luật, các chế tài chính sách có liên quan. Để quản lý tốt các hoạt động của nền kinh tế, Nhà nước quy định và công bố các chính sách cụ thể đối với từng thị trường , từng khu vực. Các quy định của Nhà nước buộc các doanh ngihiệp phải tuận theo như là các chính sách thuế, quy định về lao động, tiền lương, quy định về bảo vệ môi trường, xử lý chất thải,… Những quy định đó có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của Công ty CPXM Bỉm Sơn, nó chính là cơ hội đồng thời cũng là mối đe dọa của Công ty. 1.3. Yếu tố công nghệ: Trong tất cả các ngành đều đòi hỏi máy móc, thiết bị kỹ thuật cao mới đảm bảo về chất lượng và số._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22391.doc
Tài liệu liên quan