Đánh giá lợi thế cạnh tranh của ngành du lịch Việt Nam trên bán đảo Đông Dương

Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài. Trong bối cảnh thế giới hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế chung. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vừa tạo ra cơ hội cho các nền kinh tế, vừa tăng sức ép cạnh tranh. Trong điều kiện đó, nỗ lực của một nền kinh tế về cải cách, phát triển, tăng trưởng phải được so sánh với các nền kinh tế cạnh tranh chứ không chỉ so với nền kinh tế của chính mình trong quá khứ. Những tiến bộ đạt được trước đây rất đáng trân trọng, song mỗi quốc g

doc50 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1660 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá lợi thế cạnh tranh của ngành du lịch Việt Nam trên bán đảo Đông Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ia, mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành nghề phải tiến nhanh hơn các đối thủ cạnh tranh của mình để không bị tụt hậu và thua thiệt trong kinh doanh. Nước ta đang đứng trước những bước phát triển mới về hội nhập đòi hỏi phải nhanh chóng nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngành du lịch là một ngành quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế. Chính vì vậy, ngành du lịch cũng không thể tách mình ra khỏi xu thế chung của cả nền kinh tế. Điều đó có nghĩa là ngành du lịch Việt Nam cần nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trong nền kinh tế thế giới. Để làm được điều đó thì trước hết cần phải đánh giá được năng lực cạnh tranh của ngành du lịch Việt Nam đối với ngành du lịch của các nước khác trong khu vực. Nhận thấy sự cấp thiết của vấn đề này trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, chúng tôi quyết định nghiên cứu vấn đề “Đánh giá lợi thế cạnh tranh của ngành du lịch Việt Nam trên bán đảo Đông dương”. Nội dung và những đóng góp của đề tài. Đề tài này gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh Chương 2: Lợi thế so sánh của Du lịch Việt Nam trong khu vực Đông dương. Chương 3: Một số giải pháp để nâng cao lợi thế của du lịch Việt Nam. Tham gia nghiên cứu đề tài có: Bùi Việt Đức Lưu Văn Thi Nguyễn Trung Nghĩa dưới sự hướng dẫn của TS. Trần Thị Minh Hoà Trong công trình này, các tác giả sẽ hệ thống những lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh trên góc độ quốc gia, phân biệt một số khái niệm về năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ, đặc biệt là có một hệ thống các chỉ tiêu quan trọng và cần thiết để đánh giá năng lực cạnh tranh của một quốc gia. Đồng thời, các tác giả sẽ phân tích những lợi thế so sánh, cũng như những hạn chế của ngành du lịch Việt Nam so với hai nước láng giềng là Lào và Campuchia.Từ những cơ sở đó, các tác giả rút ra được những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. 3. Phương pháp nghiên cứu và phạm vi của đề tài. Các tác giả nghiên cứu đề tài này dựa trên phương pháp định tính. Nguồn thông tin chủ yếu là thứ cấp, được thu thập từ sách, báo, tạp chí và mạng internet. Từ những thông tin thu thập được, các tác giả so sánh và đưa ra những đánh giá về những thuận lợi cũng như những hạn chế của ngành du lịch Việt Nam so với ngành du lịch của hai nước Lào và Campuchia, từ đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành du lịch Việt Nam trong khu vực. Do thời gian hạn chế, nên phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ dừng lại ở tầm vĩ mô, tức là chỉ đánh giá năng lực cạnh tranh trên góc độ quốc gia. Các bạn sinh viên yêu thích đề tài này hoặc nếu có điều kiện, các tác giả có thể phát triển đề tài theo hướng định lượng và đi sâu đánh giá năng lực cạnh tranh trên tầm vi mô, tức là đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do thời gian hạn hẹp và hiểu biết còn nhiều hạn chế, nên đề tài không tránh khỏi các khuyết điểm. Rất mong các ý kiến đóng góp của Quý thầy Cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn! Hà Nội, tháng 4/2004 Các tác giả Chương 1: Cở sở lý luận và phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh. 1.1. Một số khái niệm cơ bản. Trước khi tiếp cận phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh, chúng ta cần phân biệt một số khái niệm cơ bản sau: 1.1.1. Năng lực cạnh tranh quốc gia. Đây là một khái niệm phức hợp, bao gồm các yếu tố vĩ mô, đồng thời cũng bao gồm năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong cả nước. Năng lực cạnh tranh quốc gia được định nghĩa là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của người dân. Một số tổ chức quốc tế (như diễn đàn kinh tế thế giới WEF, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD, Viện phát triển quản lý IMD ở Lausanne, Thụy Sỹ v.v.) tiến hành điều tra so sánh và xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia của các nền kinh tế trên thế giới. Các xếp hạng đó áp dụng phương pháp luận tương tự như nhau và đi đến kết quả giống nhau về xu thế, tuy không hoàn toàn giống nhau trong xếp hạng do đó có những khác biệt trong phương pháp luận (thí dụ như trọng số cho từng yếu tố, về cơ sở dữ liệu v.v.). Các nhà đầu tư quốc tế thường tham khảo các xếp hạng này như một căn cứ để lựa chọn địa điểm đầu tư. Vì vậy, các xếp hạng đó có ý nghĩa quan trọng đối với các chính phủ và doanh nghiệp. 1.1.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước. Một doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay nhiều sản phẩm và dịch vụ, vì vậy người ta còn phân biệt năng lực canh tranh của doanh nghiệp với năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ. 1.1.3. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ được đo bằng thị phần của sản phẩm hay dịch vụ cụ thể trên thị trường. Trong công trình này chỉ tập trung phân tích năng lực cạnh tranh của quốc gia, không đi sâu phân tích năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ, nhưng giữa ba cấp độ: năng lực cạnh tranh quốc gia; năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực canh tranh của sản phẩm, dịch vụ có quan hệ qua lại mật thiết với nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia cao phải có nhiều doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao, ngược lại để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh, môi trường kinh doanh của nền kinh tế phải thuận lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, có thể dự báo được, nền kinh tế phải ổn định; bộ máy nhà nước phải trong sạch, hoạt động có hiệu quả có tính chuyên nghiệp. Mặt khác, tính năng động, nhạy bén trong quản lý doanh nghiệp cũng là một yếu tố quan trọng, vì trong cùng một môi trường kinh doanh có doanh nghiệp rất thành công trong khi doanh nghiệp khác lại thất bại. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp được đo thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp, thể hiện qua chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Là tế bào của nền kinh tế, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho năng lực cạnh tranh quốc gia. Đồng thời, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay một số sản phẩm, hay dịch vụ có năng lực cạnh tranh. 1.2. Phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia. Nghiên cứu này được thực hiện dựa trên phương pháp của diễn đàn kinh tế thế giới là chủ yếu. Dưới đây sẽ tóm tắt những nội dung chính của phương pháp được tổ chức này sử dụng trong báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu hàng năm. 1.2.1. Cơ sở chung. Chúng ta biết rằng, vấn đề trung tâm trong phát triển kinh tế là làm thế nào để tạo ra các điều kiện để tạo ra năng suất nhanh và liên tục. Các thể chế chính trị và luật pháp ổn định cũng như các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp có thể tạo ra tiềm năng năng suất, nhưng năng suất thực tế được tạo ra ở cấp vĩ mô. Điều đó có nghĩa là các thể chế chính trị luật pháp cũng như các chính sách kinh tế vĩ mô có vai trò tạo ra môi trường chung, còn bản thân năng suất vào cải thiện năng lực ở cấp vĩ mô, tức là cấp ngành và cấp doanh nghiệp. Theo WEF, năng lực cạnh tranh quốc gia được xác định bởi tám nhóm nhân tố: * Mức độ mở cửa của nền kinh tế, bao gồm mở cửa thương mại và đầu tư; * Vai trò của chính phủ; * Tài chính – tiền tệ; * Kết cấu hạ tầng; * Quản lý doanh nghiệp; * Lao động; * Công nghệ; * Thể chế. Mỗi nhóm nhân tố trên được xem xét trên các tiểu nhóm nhân tố khác nhau. 1.2.2. Các nhóm nhân tố đánh giá năng lực cạnh tranh. Chùm các yếu tố bao gồm 8 nhóm yếu tố quan trọng nhất được đề cập tới trong mục 1.1.2.1 bao gồm nhiều tiêu chí được định lượng hóa và so sánh với nhau. Tuỳ theo tầm quan trọng của từng giai đoạn phát triển mỗi nhóm yếu tố có một trọng số nhất định. Thí dụ như yếu tố về khoa học và công nghệ trước năm 1999 có trọng số 1/9, đến năm 2000 trọng số được nâng lên 1/3. Diễn đàn kinh tế thế giới WEF xem xét 155 – 250 tiêu chí tuỳ theo từng năm để phản ánh năng lực cạnh tranh của từng nước. 1.2.2.1. Mức độ mở cửa. Mức độ mở cửa, chúng ta có thể phân tích dựa trên mức độ hội nhập vào nền kinh tế thế giới và mức độ tự do hóa ngoại thương và đầu tư. Nhóm yếu tố này bao gồm các chỉ tiêu sau: - Thuế quan và hàng rào phi thuế quan (thuế nhập khẩu; hạn ngạch và các hàng rào hạn chế nhập khẩu khác; khả năng mua ngoại tệ để thanh toán nhập khẩu). - Khuyến khích xuất khẩu (mức độ ưu tiên cho xuất khẩu, tín dụng xuất khẩu và bảo hiểm). - Chính sách tỷ giá (tỷ giá thực, tác động tới xuất khẩu, mức độ dao động). - Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), (Liên doanh, phạm vi bảo hộ đầu tư). Như vậy mức độ mở cửa hay mức độ hội nhập của nền kinh tế bao gồm các chính sách về xuất, nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, các dịch vụ trợ giúp xuất khẩu, khả năng chuyển đổi của đồng tiền đối với các giao dịch vãng lai v.v.. Chính sách tỷ giá linh hoạt, phản ánh giá trị thực của đồng tiền cũng được coi là một yếu tố quan trọng của mức độ mở cửa của nền kinh tế. Một thước đo khác của mức độ mở cửa nền kinh tế là tỷ lệ của giá trị xuất và nhập khẩu so với GDP, trong đó giá trị gia tăng của xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng để đánh giá mức độ mở cửa đích thực của nền kinh tế. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế tỷ lệ thuận với mức độ mở cửa của nền kinh tế đó. 1.2.2.2. Vai trò Chính phủ. Vai trò của Chính phủ ở đây ta hiểu là vai trò của nhà nước, tác động của chính sách tài khoá (thu thuế và chi tiêu), phạm vi can thiệp của Chính phủ và chất lượng của các dịch vụ do Chính phủ cung cấp. Để đánh giá vai trò của Chính phủ ta có các chỉ số cụ thể như sau; - Mức độ can thiệp của nhà nước (Các qui định của Chính phủ, can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh doanh tư nhân, tình trạng quan liêu của bộ máy); - Năng lực của Chính phủ (Trợ cấp, năng lực nhân viên trong khu vực công, ảnh hưởng của các nhóm lợi ích lên các chính sách của Chính phủ, tính công khai và minh bạch trong các qui định của Chính phủ, áp lực chính trị đối với dịch vụ dân sự, hiệu quả trong chi tiêu của Chính phủ); - Gánh nặng thuế khoá và trốn thuế ( hệ thống thuế, trốn lậu thuế); - Qui mô của Chính phủ (Mức chi tiêu của Chính phủ); - Chính sách tài khoá (Tiết kiệm của Chính phủ so với GDP, cân đối chính sách Chính phủ Trung ương); - Mức thuế (Mức thuế lợi nhuận công ty trung bình, mức VAT, mức thuế thu nhập cá nhân,...) - Lạm phát. Như vậy, các tiêu chí xem xét đến vai trò của Chính phủ bao gồm mức độ can thiệp của chính phủ vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, sự ưu đãi của Chính phủ đối với doanh nghiệp nhà nước, ảnh hưởng nhóm lợi ích tới ưu sách của Chính phủ, sự công khai, minh bạch trong chính sách của Chính phủ, mức độ quan liêu, tham nhũng, tính chuyên nghiệp của bộ máy quản lý, quan hệ của bộ máy với doanh nghiệp. Qui mô của Chính phủ, mức tiết kiệm của ngân sách và bội chi ngân sách cũng là một tiêu chí được xem xét. Ngoài ra chính sách thuế, mức thuế giá trị gia tăng, mức độ trốn và lậu thuế cũng được coi trọng. 1.2.2.3. Tài chính. Nhóm chỉ tiêu này ta phân tích dựa theo vai trò của các thị trường tài chính trong hỗ trợ mức tiêu dùng tối ưu theo thời gian, tỷ lệ tiết kiệm và hiệu quả của các trung gian tài chính trong việc chuyển tiền tiết kiệm thành vốn đầu tư hiệu quả. Nhóm chỉ tiêu này bao gồm các chỉ số sau: - Phạm vi chuyển tiết kiệm thành vốn đầu tư (tài sản của khu vực ngân hàng, tỷ lệ tín dụng cho khu vực tư nhân) - Hiệu quả và mức độ cạnh tranh (chênh lệch lãi suất) - Rủi ro tài chính, phân loại tín dụng quốc gia. - Đầu tư và tiết kiệm (tổng tiết kiệm trong nước so với GDP thay đổi trong tổng đầu tư trong nước, tổng tiết kiệm quốc gia so vơi GDP, mức tăng thực của tổng tiết kiệm quốc gia). Như vậy, sự phát triển của thể chế kinh tế thị trường với hệ thống tài chính, tiền tệ, ngân hàng làm trung tâm. Qui mô của hệ thống tài chính tiền tệ so với GDP; sự đa dạng của các loại hình dịch vụ tài chính, tiền tệ; tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư của nền kinh tế; chất lượng và trình độ phát triển của hệ thống tài chính tiền tệ như mức độ xếp hạng của các công ty tư vấn tài chinh quốc tế, tỷ lệ nợ khó đòi v.v.. theo các tiêu chuẩn Basel của hệ thống ngân hàng. Hệ thống tài chính – tiền tệ càng phát triển, khả năng tiếp cận tín dụng càng dễ dàng, rủi ro tín dụng càng thấp thì doanh nghiệp kinh doanh càng thuận lợi hơn, năng động hơn. 1.2.2.4. Công nghệ. Cở sở phân tích của nhóm yếu tố công nghệ chính là sự nghiên cứu và ứng dụng (R&D), trình độ công nghệ và kiến thức tích luỹ được. Nhóm yếu tố này bao gồm các chỉ tiêu sau: - Năng lực công nghệ nội sinh (trình độ công nghệ, giáo dục khoa học cơ bản, mức độ chi ngân sách cho R&D phi quân sự, hợp tác nghiên cứu ra các viện và các ngành kinh tế) - Công nghệ chuyển giao qua FDI hoặc từ nước ngoài (năng lực hấp thụ công nghệ mới, chuyển giao công nghệ qua FDI, giấy phép sử dụng công nghệ nước ngoài). Nhóm yếu tố về công nghệ và khoa học xét đến trình độ khoa học và công nghệ so với thế giới (có bao nhiêu công nghệ đứng đầu thế giới, có bao nhiêu sản phẩm dẫn đầu thế giới về công nghệ), trình độ phát triển của thị trường công nghệ, mức độ đầu tư của ngân sách và doanh nghiệp vào khoa học và công nghệ, quan hệ giữa viện, trường đại học và doanh nghiệp, số bằng phát minh sáng chế, giải pháp khoa học, kiểu dáng sản phẩm mới, mức độ chuyển giao công nghệ qua đầu tư nước ngoài, khả năng thu hút và tiếp thu công nghệ mới qua các kênh khác nhau, tỷ lệ sử dụng Internet v.v.. Năm 2000, Diễn đàn kinh tế thế giới đã nâng trọng số của các yếu tố khoa học và công nghệ lên gấp 3 lần, thể hiện vai trò quyết định của khoa học công nghệ trong nâng cao năng lực cạnh tranh ở tất cả các cấp độ, từ quốc gia đến doanh nghiệp, sản phẩm, dịch vụ. 1.2.2.5. Kết cấu hạ tầng. Kết cấu thể hiện ở số lượng và chất lượng hệ thống giao thông vận tải, mạng viễn thông, điện, bến bãi, kho tàng và các điều kiện phân phối với tư cách là cơ sở vật chất hạ tầng giúp nâng cao hiệu quả đầu tư. Kết cấu hạ tầng bao gồm các chỉ số: - Điện thoại cố định và di động, điện thoại quốc tế quay số trực tiếp. - Kết cấu hạ tầng (Đầu tư của chính phủ cho kết cấu hạ tầng, đảm bảo vốn cho kết cấu hạ tầng, tư nhân tham gia các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng). Như vậy, trình độ phát triển, hiệu quả vận hành và sử dụng kết cấu hạ tầng được đánh giá dựa trên các tiêu chí về hệ thống giao thông đường sắt, thuỷ, bộ, hàng không, hệ thống bến cảng và sân bay, hệ thống kho tàng bến bãi, Internet, chi phí về tiền bạc và thời gian của dịch vụ kết cấu hạ tầng (phí Internet, chi phí và thời gian bốc xếp ở cảng v.v..). Một trong những tiêu chí là mức độ độc quyền, khả năng thu hút khu vực tư nhân trong nước và ngoài nước để xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng. 1.2.2.6. Chất lượng quản lý kinh doanh. Chất lượng quản lý kinh doanh bao gồm chiến lược cạnh tranh phát triển sản phẩm, kiểm tra chất lượng, hoạt động tài chính cty, nguồn nhân lực, khả năng tiếp thị. Bao gồm các chỉ số: - Các chỉ số chung về quản lý kinh doanh (chất lượng quản lý nói chung, hiệu quả sản xuất, quản lý chất lượng, tiếp thị, định hướng khách hàng). - Quản lý nhân lực (quản lý nhân lực ở doanh nghiệp, đào tạo nhân viên, uỷ quyền cho cấp dưới, chính sách tiền lương, năng lực cán bộ nhân viên tài chính). Quản lý doanh nghiệp được đo bằng số các doanh nghiệp đã xây dựng chiến lược kinh doanh (bao gồm chiến lược mặt hàng, chiến lược chất lượng sản phẩm, khoa học và công nghệ, nguồn nhân lực, chiến lược về tài chính, khả năng tiếp thị v.v...), phân tích các đối thủ cạnh tranh, đề xuất một chiến lược thích hợp cho doanh nghiệp. 1.2.2.7. Lao động. Cơ sở phân tích của nhóm nhân tố lao động là sự hiệu quả và linh hoạt của thị trường lao động. Nó bao gồm các chỉ số cơ bản sau: - Tay nghề và năng suất (số năm học phổ thông trung bình, hệ thống giáo dục tiểu học và trung học, đào tạo lại tay nghề, năng suất lao động trung bình). - Tính linh hoạt trong qui chế điều tiết, hiệu quả của các chương trình xã hội (thực hiện và sa thải nhân công, qui chế về lao động, bảo hiểm thất nghiệp, hệ thống phúc lợi xã hội) - Quan hệ nghề nghiệp (bãi công, quan hệ chủ thợ, sức mạnh đàm phán tập thể của người lao động). Lao động được đánh giá về số lượng lao động, chất lượng lao động về đào tạo (ngoại ngữ, đào tạo về ngành chuyên môn, trình độ chuyên môn trên các ngành và các lĩnh vực khác nhau), sức khoẻ, kỉ luật lao động, tần số đình công trong kinh tế, mức độ thay đổi chỗ làm việc v.v... Một tiêu chí quan trọng là chi phí tiền lương trên một đơn vị sản phẩm để so sánh chi phí tiền công với năng suất lao động. Chi phí tiền lương bao gồm cả chi phí đào tạo, thuế thu nhập và bảo hiểm, tức là tổng chi phí về lao động đối với doanh nghiệp. 1.2.2.8. Thể chế. Nhóm yếu tố thể chế thể hiện ở tính đúng đắn của thể chế pháp lý và xã hội đặt nền tảng cho nền kinh tế thể hiện cạnh tranh và hiện đại, bao gồm hệ thống luật pháp và bảo hộ quyền sở hữu. Các chỉ số cụ thể để phân tích nhóm yếu tố thể chế bao gồm: - Tình hình cạnh tranh (mức độ tích tụ trên thị trường, chính sách chống độc quyền) - Chất lượng của các thể chế pháp lý (mức độ rủi ro bị tước đoạt, hiệu lực thi hành các hợp đồng thương mại, hợp đồng với Chính phủ, các công cụ pháp lý khiếu kiện cơ quan hành chính, lòng tin vào Chính phủ) - Cảnh sát và việc phòng chống tội phạm của cảnh sát, tổn phí xã hội do tội phạm có tổ chức gây ra). Trong các yếu tố về thể chế, hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật, sự phù hợp của pháp luật với cơ chế thị trường, trong đó cạnh tranh theo pháp luật và độc quyền được coi là yếu tố quan trọng. Sự khách quan và hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật, hiệu lực của hợp đồng thương mại và vai trò của cơ quan trọng tài cũng được xem xét. Trên đây là 8 nhóm nhân tố được sử dụng để đánh giá năng lực cạnh tranh của một quốc gia. Tuy nhiên việc dựa theo các nhóm yếu tố này để đánh giá năng lực cạnh tranh của một quốc gia chỉ là tương đối. Việc tham khảo để đánh giá năng lực cạnh tranh là cần thiết, song không nên tuyệt đối hóa các tiêu chí đó mà cần kết hợp xem xét với các tiêu thức bổ sung khác chẳng hạn như qui mô của của nền kinh tế, qui mô của một ngành kinh tế cụ thể, sức tiêu dùng của thị trường và cũng cần lưu ý đến sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô vì đây là một yếu tố quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững. Chương 2: Đánh giá năng lực cạnh tranh của Du Lịch Việt Nam Trong Khu Vực Đông Dương. Trong chương 1, chúng tôi đã đề cập đến 8 nhóm nhân tố cần thiết để đánh giá năng lực cạnh tranh Quốc gia. Nhưng trong công trình này, trên góc độ đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành du lịch, chúng tôi sẽ đánh giá những nhóm nhân tố sau: Tài nguyên du lịch Kết cấu hạ tầng Mức độ mở cửa của ngành du lịch Vai trò của Chính phủ Lao động trong du lịch Cở chế chính sách và sự quản lý 2.1. Tài nguyên du lịch. Từ cơ sở lý luận của chương 1 ta thấy rằng, năng lực cạnh tranh của quốc gia phụ thuộc vào năng lực cạnh của các doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp lại thể hiện qua năng lực cạnh tranh của các sản phẩm. Mà năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc rất lớn vào bản chất của nó, tức là vào nguồn nguyên liệu tạo ra nó. Chính vì vậy, khi đánh giá năng lực cạnh tranh trong ngành Du lịch, trước tiên chúng tôi đánh giá năng cạnh tranh về Tài nguyên du lịch, đây chính là điều kiện cốt yếu tạo ra các sản phẩm du lịch. 2.1.1. Tài nguyên thiên nhiên. 2.1.1.1. Lợi thế so sánh về vị trí địa lý và địa hình Ba nước Đông Dương, Việt Nam, Lào, Campuchia nằm trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương, được coi là khu vực có xu hướng vận động có tính chất thời đại của luồng khách du lịch quốc tế. Đồng thời, lại nằm trong khu vực Đông Nam á là nơi có luồng khách du lịch quốc tế tăng trung bình hàng năm cao nhất thế giới. Đây là khu vực ổn định về kinh tế, xã hội, tốc độ tăng trưởng về kinh tế nói chung và du lịch nói riêng nhanh nhất trên thế giới, là khu vực có tài nguyên thiên nhiên và nhân văn phong phú, đa dạng, môi trường sinh thái ít bị ô nhiễm so với nhiều vùng du lịch khác trên thế giới, có nguồn lao động dồi dào, giá cả hàng hoá tương đối rẻ. Các lợi thế này giúp cho du lịch phát triển nhanh, mạnh. Nhưng khi chúng ta xét từng nước riêng, chúng ta sẽ thấy mỗi nước lại có lợi thế phát triển riêng về kinh tế nói chung và về du lịch nói riêng, tuỳ thuộc vào vị trí địa lý và địa hình khác nhau. * Nước Cộng hoà XHCN Việt Nam nằm ở trung tâm Đông Nam á, phía Đông bán đảo Đông Dương, kéo dài từ 130 45’ đến 220 0’ vĩ tuyến Bắc, phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào và Campuchia, phía Đông Nam và Tây Nam trông ra biển Đông và Thái Bình Dương. Nhìn trên bản đồ, dải đất Việt Nam lượn cong hình chữ S, kéo dài từ Bắc đến Nam, toàn bộ phần đất liền Việt Nam nằm trọn trong mũi giờ số 7 GMT. Khoảng cách từ biên giới phía Đông sang biên giới phía Tây không kể thềm lục địa nơi rộng nhất 600km (Bắc Bộ),400 km (Nam Bộ ),nơi hẹp nhất 50 km (Quảng Bình). * Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào là một nước lục địa nằm trên bán đảo Đông Dương ở khu vực Đông Nam châu á và kéo dài từ 13045' đến 220 0' vĩ tuyến bắc. Phần lớn đất đai Lào nằm giữa dãy Phu Luồng và sông Mê Kông, theo chiều Bắc - Nam từ Nhọt U đến Kẹng Li- Phi, dài 1.700 km. Nước Lào có trên 5.280 km biên giới đất liền với 5 nước: Trung Quốc, Việt Nam, Campuchia, Thái Lan và Myanma, đặc biệt có biên giới dài nhất với Việt Nam 1.957km và với Thái Lan 1.730 km. Nước Lào không có đường thông ra biển, đường tiếp xúc với biển từ lâu nay là các cảng chủ yếu ở miền Trung Việt Nam (Cửa Lò, cửa Việt, Đà Nẵng). Chiều ngang của Lào chỉ có khoảng từ 100 – 4000 km (từ kinh độ 100005' kinh đông đến kinh độ 107037' kinh đông), chủ yếu là nằm giữa một bên là dãy Phù Luồng và một bên là sông Mê Kông (chỉ có hai tỉnh Xay nhabuly và Chămpasắc là nằm giữa phía hữu ngạn sông Mê Kông). Phần biên giới quốc gia và lãnh thổ của Lào hiện nay là dựa trên cơ sở hiệp định của Pháp - Thái Lan được ký kết tại Bangkok năm 1893 sau khi thực dân Pháp xâm lược Lào. * Đất nước Campuchia với diện tích 181.035 km2, có biên giới với Thái Lan và Lào ở phía Bắc, với Việt Nam ở phía Đông và Nam , phía Tây – Nam tiếp giáp với vùng biển vịnh Thái Lan. Là quốc gia được coi là nằm ở vị trí trung tâm Đông Dương. Từ đây ta thấy rằng trong ba nước Đông Dương thì Việt Nam là nước có vị trí địa lý thuận lợi nhất cho phát triển kinh tế nói chung và cho phát triển du lịch nói riêng, vị trí đó của Việt Nam tạo điều kiện cho du khách vào ra bằng cả đường bộ, đường biển và hàng không. Hơn nữa, phía Đông Việt Nam giáp với biển Đông, chúng ta có thể thu hút khách đi du lịch bằng tàu biển. Nước Lào thì không có biển, còn biển của Campuchia thì lại giáp với Thái Lan, tận trong vịnh Thái Lan, đó là lợi thế của Việt Nam. Chúng ta đều biết rằng, thị trường mục tiêu của du lịch ba nước Đông Dương đều là Nhật,Trung Quốc, mà Việt Nam lại là nước gần với các nước này, Việt Nam nằm ở vị trí đón đầu, nên Việt Nam là nước có khả năng đón được nhiều nhất lượng khách du lịch đến từ các quốc gia này. Sự đa dạng của bề mặt địa hình có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động du lịch tạo nên sự phong phú của các loại hình du lịch. Trong đó mỗi dạng địa hình với đặc điểm riêng biệt để tạo nên những loại hình du lịch đặc trưng. Ba phần tư lãnh thổ Việt Nam là đồi núi, trừ một vài vùng đồng bằng châu thổ rộng lớn, khắp nơi đều nhìn thấy cảnh núi rừng trùng điệp. Đặc biệt suốt chiều dài miền Trung, rừng núi và đồng bằng xen kẽ nhau làm thành một tổng thể hài hoà. Việt Nam có bốn vùng núi chính, mỗi vùng mang một sắc thái riêng. Vùng núi Đông Bắc, kéo dài từ thung lũng sông Hồng ra đến Vịnh Bắc Bộ, có nhiều danh thắng nổi tiếng như: động Tam Thanh, Nhị Thanh (Lạng Sơn), hang Pác Bó, thác Bản Giốc (Cao Bằng), hồ Ba Bể (Bắc Cạn), núi Yên Tử, vịnh Hạ Long (Quảng Ninh). Vùng núi Tây Bắc từ biên giới phía Bắc, đây là vùng núi hùng vĩ, có Sapa (Lao Cai ) ở độ cao 1.500 m so với mặt nước biển, quanh năm khí hậu mát mẻ, có di tích Điện Biên Phủ lừng danh và đỉnh Phan - xi-păng, nóc nhà của Đông Nam á, cao 3143m. Vùng Trường Sơn Bắc chạy theo hướng Tây Bắc Đông Nam kéo dài từ miền tây Thanh Hoá đến đèo Hải Vân, có Phong Nha kỳ thú (Quảng Bình) và những đèo nổi tiếng như: đèo Ngang (Hà Tĩnh), đèo Hải Vân (Đà Nẵng ). Đặc biệt có đường mòn Hồ Chí Minh được thế giới biết đến bởi những kì tích của người Việt Nam trong cuộc kháng chiến vĩ đại lần thứ hai. Vùng Trường Sơn Nam, nằm ở phía Tây các tỉnh Nam Trung Bộ, có vùng đất Tây Nguyên đầy huyền thoại. Rừng và đất rừng ở Việt Nam chiếm khoảng 50% diện tích. Việt Nam có hai đồng bằng lớn, đồng bằng châu thổ sông Hồng rộng khoảng 15.000 km2, được bồi tụ phù sa của hai con sông lớn: sông Hồng và sông Thái Bình. Đây cũng là địa bàn cư trú của người Việt từ bao đời. Nền văn minh lúa nước cũng được tạo ra từ vùng đông bằng này. Đồng bằng châu thổ sông Cửu Long rộng khoảng 36.000 km2 là vựa lúa lớn nhất Việt Nam. Trên lãnh thổ Việt Nam có hàng nghìn con sông lớn nhỏ. Dọc bờ biển cứ khoảng 20 km lại có một cửa sông, hai hệ thống sông quan trọng là sông Hồng (miền Bắc ) dài 500 km, sông Mêkông còn gọi là sông Cửu Long. Việt Nam có bờ biển dài 3260 km, cả ba phía đông, nam, tây đều trông ra biển. Dọc bờ biển Việt Nam có nhiều bãi tắm đẹp: Trà Cổ, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Cửa Lò, Thuận An, Non Nước, Vũng Tàu, HàTiên… và vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Bờ biển Việt Nam có nhiều hải cảng như: cảng Hải Phòng, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Cam Ranh, Vũng Tàu, Sài Gòn … Cam Ranh là cảng tự nhiên thuộc loại lớn và tốt so với nhiều cảng trên thế giới. Vùng biển Việt Nam còn có vùng thềm lục địa rộng lớn, có khoảng ba nghìn hòn đảo lớn nhỏ. ở giữa biển Việt Nam có quần đảo Hoàng Sa, gồm 30 đảo đá, cồn cát san hô, có bãi đá ngầm và quần đảo Trường Sa có rạn đá ngầm và bãi san hô. Vùng biển phía Tây Nam có huyện đảo Phú Quốc. Đặc điểm nổi bật của địa hình Lào là địa hình đa dạng có cả núi, cao nguyên, đồng bằng, thung lũng, chiếm 3/4 diện tích. Địa hình ở nước Lào chia thành hai vùng lớn: vùng phía Bắc từ sông Nặm Ca Đinh trở lên, núi trùng điệp, hiểm trở chia cắt thành nhiều thung lũng hẹp vực thẳm đi lại khó khăn và đại bộ phận địa hình nghiêng dần từ phía Bắc xuống phía Nam. Vùng Trung và Hạ Lào từ Nặm Ca Đinh đổ về Nam do ảnh hưởng nhẹ của các cuộc vận động tạo núi địa hình ít uốn nếp, nhiều cao nguyên lớn, đồng bằng rộng, bằng phẳng và nghiêng dần từ Đông sang Tây. Địa hình thượng Lào có thể chia thành 4 vùng: + Vùng núi Đông Bắc từ Phông xa Ly đến Hùa Phăn có độ cao trung bình từ 1000 - 1500 m với dãy núi Phù Lời, đỉnh Phù Hoạt (2.425) là điểm cao nhất trong vùng. + Vùng núi Tây Bắc thuộc các tỉnh Luồng Nặm Tha, Bo Kẹo, U Đôm Xay, Luồng Pha Bang, Xay Nha Bu Ly độ cao trung bình từ 1.500 - 2.000m, núi non triền miên xen kẽ các thung lũng nhỏ, vực sâu. Đáng chú ý có hai đồng bằng tương đối lớn là Mường Sinh và Nặm Tha. + Nằm giữa hai vùng nói trên là cao nguyên Mường Phuôn (Xiêng Khoảng) rộng độ 2.000 km2, độ cao trung bình 1.200 m, đỉnh Phù Bía (2.820m), nằm ở phía Nam cao nguyên này là đỉnh cao nhất của địa hình nước Lào. Cao nguyên Mường Phuôn vừa chứa trong lòng đất nhiều khoáng sản, vừa là nơi đất đai phì nhiêu, khí hậu mát mẻ cùng nhiều đồng cỏ rộng bao la rất thuận lợi cho việc trồng trọt và chăn nuôi theo qui mô lớn. + Đồng bằng Viêng Chăn rộng độ 4.000 km2 là vùng địa hình thượng Lào, một trong những đồng bằng phù sa trù phú và vựa lúa lớn của nước Lào. Địa hình Trung Lào gồm có các tỉnh: Bo Ly Khăm Xay, Khăm Muộn, Xa Văn Na Khệt, từ dãy Phu Luồng nghiêng dần về lưu vực sông Mê Kông qua nhiều cao nguyên lớn và thấp, độ cao trung bình từ 300 đến 700 m trong đó có cao nguyên Khăm Kợt và cao nguyên Na Kay là quan trọng hơn cả. ở khu vực Đông Nam Trung Lào có đồng bằng Xa Văn Na Khẹt là đất đai phì nhiêu và vựa lúa quan trọng của nước Lào. Địa hình Hạ Lào có thể chia thành ba khu vực: Khu vực vùng dựa lưng vào dãy Phu Luồng phía Đông giáp với Tây nguyên của Việt Nam. Khu vực phía Tây do đồng bằng Chămpasắc cấu tạo nên sát với bờ sông Mê Kông và nối liền với đồng bằng phía Tây thành một dải liên hoàn. Đây cũng là vùng trú phú dân cư đông đúc và là vựa thóc lớn của Lào. Các cao nguyên Bolavên, độ cao trung bình từ 800 - 1.000 m trải rộng khoảng 3.600 km2 giữa vùng Phu Luồng và vùng đồng bằng Chămpasắc ven sông Mê Kông. Đây là vùng đất đỏ phì nhiêu, có khả năng trồng nhiều loại cây công nghiệp và cây dược liệu như: cà phê, sa nhân, canh Kina ... khí hậu mát mẻ lại nhiều đồng cỏ mượt rộng thích hợp cho chăn nuôi và trồng cây công nghiệp theo qui mô lớn. ở vùng phía Bắc Lào phần lớn là núi non hiểm trở tạo thành các dạng địa hình đặc biệt có giá trị du lịch. Địa hình Kars (đá vôi) với những hang động, thác nước, những đỉnh núi nhọn và những mỏm núi chênh vênh, đã tạo nên những phong cảnh kỳ thú. Vùng này còn giữ được nhiều khu rừng nguyên sinh, có nhiều loại cây quý hiếm như: Gỗ lim, gỗ Pơmu (Fokienia) ... và nhiều loại động vật như: Hổ, voi, tê giác ... Ngoài ra còn có nước khoáng, khoáng sản ... nổi bật nhất ở vùng này là tỉnh Luồng Phạ Bang. Vùng Trung và Hạ Lào dựa lưng vào dãy Phù Luồng hùng vĩ, có núi đá vôi và các cao nguyên lớn. Vùng này vẫn còn giữ được khu rừng nguyên sinh, có nhiều loại động thực vật quí, thác gềnh địa hình Kars và rất nhiều hang động. Lào là một nước có nguồn tài nguyên tự nhiên phong phú và giầu khoáng sản. Campuchia có bờ biển dài 443 km, trong đó có 40 bãi tắm đẹp với những bãi cát dài và thời tiết rất thuận lợi cho du khách đi nghỉ biển. Trong đó có 5 bãi tắm đạt quy mô và tiêu chuẩn phục vụ khách quốc tế. Vùng cao nguyên Campuchia trải dài xen kẽ là thung lũng, rừng Campuchia có diện tích khá lớn chiếm 40 % diện tích đ._.ất đai. Campuchia có nhiều hồ lớn, trong đó Tonle Sap có vị trí nằm ở trung tâm của đất nước là hồ lớn nhất của Campuchia và cũng là một trong những hồ kỳ quan về địa lý, có nhiều điều kỳ lạ của thế giới. Đây là hồ nước ngọt lớn nhất của Đông Nam á, dài 160 km, rộng 36 km. Như vậy ta có thể khẳng định là Việt Nam là nước có lợi thế nhất về địa hình, có bờ biển kéo dài, có nhiều vịnh, đảo đẹp tạo thuận lợi phát triển du lịch biển. Địa hình có nhiều đồi núi, tạo nên nhiều hang động kỳ vĩ, việc đi lại những điểm tham quan này dễ dàng, dân cư tại đó không quá thưa thớt, địa hình không quá hiểm trở. Hay trong một vùng, sự thay đổi của các tầng địa hình là không quá lớn, địa hình không quá dốc như ỏ Lào, Campuchia. Rất nhiều tỉnh của Vịêt Nam có thể phát triển vừa du lịch biển và du lịch tham quan trên địa hình cao, việc đi lại giữa các vùng này là rất thuận tiện, tạo nên một sự đa dạng về sản phẩm, hấp dẫn để thu hút khách. Đây là điểm đặc biệt mà chỉ ở Việt Nam mới có do địa hình Việt Nam kéo dài, bờ biển dài, bề ngang của đất nước là không lớn. Tuy nhiên, với địa hình quá dài so với hai nước Lào và Cămpuchia, đã gây ra một bất lợi đối với du khách khi đến thăm đất nước Việt Nam. Vì thời gian của chuyến du lịch thường không qúa dài nên du khách không thể có điều kiện tới thăm hết được tất cả các điểm du lịch trên phạm vi lãnh thổ. 2.1.1.2. Khí hậu Hoạt động du lịch nhất là du lịch nghỉ ngơi tham quan và thể thao chịu ảnh hưởng trực tiếp về khí hậu và đặc biệt là diễn biến của thời tiết. Với những điều kiện khí hậu điều hoà thì hoạt động du lịch diễn ra quanh năm. ánh nắng mặt trời, bầu không khí trong lành cũng là các yếu tố quan trọng cùng với các dạng địa hình, núi non hiểm trở đã góp phần tạo nên một sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn cho khách du lịch trong nước và quốc tế. Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới có gió mùa, ánh nắng chan hoà, lượng mưa dồi dào và độ ẩm cao. Một số nơi gần chí tuyến hoặc vùng núi cao khí hậu có tính ôn đới. Việt Nam có nắng suốt bốn mùa, mùa hè khoảng 200 giờ /tháng, mùa đông khoảng 70 giờ /tháng. Độ ẩm cao thường dao động từ 80-100 %, mỗi năm trên đất nước Việt Nam thường nhận được chừng 600 tỉ tấn nước mưa. Nhiệt độ trung bình cả nước là 220 C – 270 C, ở Hà Nội 230 C, thành phố Hồ Chí Minh 260 C, Huế 250 C, khí hậu Việt Nam có hai mùa rõ rệt, mùa khô rét (từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau ), mùa mưa nóng (từ tháng 5 đến tháng 10 ), nhiệt độ thay đổi theo mùa rõ rệt nhất ở các tỉnh phía Bắc, giữa các mùa chênh nhau tới 120 C, miềm Nam sự chênh lệch nhiệt độ giữa các mùa chỉ khoảng 30 C. Trên nền khí hậu chung hai mùa, Việt Nam vẫn có dấu hiệu thay đổi bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông, rõ nhất ở các tỉnh phía Bắc. Nước Lào có vị trí vành đai khí hậu nhiệt đới Bắc bán cầu (từ vĩ tuyến 13054' đến vĩ tuyến 22030' Bắc) và ở khu vực gió mùa Châu á. Đất nước Lào kéo dài trên 80 vĩ tuyến, địa hình nhiều vẻ, lại nằm sâu trong lục địa, khí hậu Lào không thuần nhất từ Bắc xuống Nam, từ đồng bằng đến cao nguyên và đến vùng núi cao. Do đó nhìn chung khí hậu Lào mang tính chất nhiệt đới gió mùa nóng ẩm là chủ yếu, có pha tính chất ôn đới ở độ cao trên 1.000 m nhưng đồng thời cũng mang tính chất lục địa đa dạng của từng vùng. Khí hậu Lào chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa đồng thời là mùa nóng có gió mưa Tây nam thổi từ tháng 5, 6 cho đến tháng 10; tháng 7, tháng 8 và tháng 9 là ba tháng mưa nhiều nhất (thống kê 1995) lượng mưa trung bình cả năm toàn quốc là 1.600 đến 1.800 mm. Mùa khô bắt đầu với 5 tháng lạnh và hanh, có gió mùa Đông Bắc từ tháng 11 cho đến tháng 3 và tiếp tục với tháng khô và nóng nhất là tháng 4 và 5 nhiệt độ trung bình toàn quốc là 260C. Do khác nhau về vĩ độ, độ cao, hướng núi, khí hậu Lào có những đặc điểm khác nhau giữa 2 miền: Thượng và Trung - Hạ Lào. Trong mỗi miền, giữa đồng bằng, thung lũng, đồi núi, cao nguyên có những nét khác biệt, khí hậu thượng Lào từ vĩ tuyến Viêng Chăn (khoảng 18 Bắc) trở lên có vĩ độ cao hơn lại nằm sâu trong lục địa, chịu ảnh hưởng gió mùa đông nhiều hơn. Khí hậu Thượng Lào có nhiệt độ trung bình thấp hơn miền Nam (Thượng Lào từ 170 C đến 330 C và Trung và Hạ Lào từ 220 C đến 340 C). Trong năm nhiệt độ không bao giờ xuống thấp dới 160 C và ít khi vượt quá 350 C. Đó cũng là một thuận lợi đối với sức khoẻ con người. Vào thời kỳ mưa, nhất là những tháng mưa nhiều, không khí ẩm gây ra khó chịu cho con người. Từ cuối tháng 3 đến tháng 5 là thời kỳ nóng thực sự. Những trận mưa đầu mùa của gió mùa Tây nam làm cho không khí mát mẻ, nối tiếp đó là thời tiết ẩm ướt và ngột ngạt của mùa mưa. Thời gian tốt cho du lịch ở các tỉnh phía Bắc (từ Thủ đô Viêng Chăn trở nên) là thời kỳ từ tháng 11 cho tới tháng 3. Thời gian này từ đồng bằng tới núi cao thời tiết rất mát mẻ. Riêng ở vùng núi cao có sương mù, đôi khi hai, ba hôm mới thấy mặt trời. Trên toàn bộ lãnh thổ Lào, nhiệt độ cao nhất xảy ra vào tháng 3, tháng khô bắt đầu có gió mùa Tây Nam. Mỗi khu vực chịu ảnh hưởng gió mùa ít nhiều có khác nhau, tạo nên sự khác biệt về mùa. Đối với hoạt động du lịch có thể sơ bộ chia thành 3 mức độ thuận lợi khác nhau. + Mùa nóng từ tháng 3 đến đến tháng 5 + Mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 2 + Mùa mát từ tháng 10 đến tháng 2. Nhìn chung mùa du lịch thích hợp nhất ở Lào là những tháng cuối năm trước và đầu năm sau, vì đây là thời kỳ khô ráo và mát mẻ nhất trong năm trên khắp lãnh thổ đất nước. Campuchia có khí hậu nhiệt đới, có hai mùa rõ rệt trong năm: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa ở Campuchia kéo dài hơn mùa khô, nhiệt độ trung bình trong năm là 250C. Qua những thông số trên ta thấy Việt Nam có khí hậu rất thuận cho sự phát triển của ngành du lịch, so với Lào và Campuchia, Việt Nam có số giờ nắng trong ngày cao hơn, có số ngày nắng trong năm lớn hơn, mùa khô kéo dài, mùa mưa chỉ kéo dài khoảng 4 tháng. Mà ngay trong mùa mưa, số giờ nắng trong ngày là cũng rất lớn. Việt Nam có bốn mùa không như hai nước Lào và Campuchia chỉ có hai mùa, khí hậu của bốn mùa tạo nên sự đa dạng phong phú về hệ thực vật, tạo nên những vẻ đẹp riêng, đặc sắc cho các hoạt động vui chơi giải trí cho từng mùa. Hơn nữa, không như Lào khí hậu Việt Nam không có sự thay đổi quá nhanh chóng, không có sự khác biệt về khí hậu quá lớn trong cùng một vùng giữa: cao nguyên, thung lũng, đồng bằng …, vì vậy đã không tạo nên sự khó chịu cho du khách, khi đi thăm quan nhiều điểm du lịch trong một khoảng thời gian ngắn. Tuy nhiên do điều kiện khí hậu và thời tiết ở Việt Nam thường hay xảy ra thiên tai lũ lụt, nên đó cũng là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến Ngành du lịch. Do vậy công tác dự báo khá được coi trọng để giúp cho dự đoán và ứng phó tốt được với các tình huống bất thường có thể xảy ra do điều kiện thời tiết. 2.1.1.3. Hệ động thực vật Rừng và đất rừng ở Việt Nam chiếm khoảng 50 % diện tích, là nơi hội tụ của nhiều loài thực vật, động vật của miền Đông Nam á và thế giới trong đó có nhiều loài gỗ quý: lát hoa, đinh, lim, sến, táu, pơmu … Ngoài gỗ, rừng Việt Nam có nhiều đặc sản có giá trị xuất khẩu: cánh kiến đỏ, nhựa thông, hồi, tráu… Các loài động vật quý hiếm ở Việt Nam như: tê giác một sừng, bò xám, hươu cà toong, trâu rừng, heo vòi, tê giác hai sừng, bò tót, voọc đầu trắng, cầy mực, khỉ vàng… Theo kết quả điều tra nghiên cứu thì Việt Nam đã phát hiện được khoảng 11.000 loài thực vật và gần 2.000 loài động vật.Tính đến năm 1997, trên phạm vi cả nước đã có 105 khu rừng đặc dụng, trong dó có 10 vườn quốc gia, 61 khu bảo tồn thiên nhiên và 34 khu rừng văn hoá - lịch sử - môi trường với tổng diện tích là 2.092.466 ha bằng gần 6 % diện tích lãnh thổ Việt Nam. Các khu rừng quốc gia được nhà nước bảo vệ có kế hoạch phát triển du lịch sinh thái như rừng quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình), rừng Ba Vì (Hà Tây), rừng Cát Bà (Hải Phòng ), rừng Cát Tiên (Đồng Nai), rừng Côn Đảo, rừng ngập mặn ở Bạc Liêu, Cà Mau. Về động, thực vật ở Lào có rất nhiều loại thực vật. Từ dây leo đến cây thân cứng khắp nơi đều có thảm thực vật, cây cối xanh tươi. Hiện nay ở Lào có rất nhiều những khu bảo tồn quốc gia đồng thời là nơi cư trú của nhiều loài động vật quý như: Voi, Hổ, Hươu, Tê giác, Trăn, Rắn … Có thể nói nước Lào đất rộng người thưa, còn có nhiều loại rừng: Rừng bảo tồn quốc gia, rừng đặc dụng, rừng trồng và rừng bảo vệ. Trong đó có rừng bảo tồn quốc gia tới 20 nơi. Phần lớn rừng ở Lào là rừng nguyên sinh. Ví dụ: ở vùng du lịch phía Bắc Lào là rừng bảo tồn quốc gia: Phu Khẩu Khoa (tỉnh Viêng Chăn) và ở vùng du lịch Trung và Hạ Lào là rừng bảo tồn quốc gia Đồng Hùa Xào. Ngoài ra còn nhiều khu bảo tồn quốc gia khác như: Phu Đen Đin (Phong Xa Ly); Năm Mo, Phu Hin Pun (Khặm Muôn), Phu Xang He, Đồng Phu Viêng (Xa văn na kệt), Xê Băng Nuan, Phù Xiêng Thoang, Xê Xếp (Xalavăn), Đồng Am Phan (AHap) và Đồng Hùa Xào, Xê Piên (Chămpasắc). Rừng Campuchia có hơn 500 loài cây, trong đó có nhiều loại gỗ quý rất có giá trị như: đinh, lim, sến, táu, cây caki, cây bềng, cây niengnuôn. Khu rừng nhiệt đới nguyên sinh ở phía tây - nam giáp biên giới Thái Lan là khu rừng Pailen có 4 tầng là. Rừng đã bị giảm từ 74 % diện tích che phủ năm 1969 xuống còn 58% diện tích che phủ năm 1997. Trong các khu rừng của Campuchia có hơn 250 loài động vật có vú như: voi, hổ, gấu, báo, bò rừng, bò tót, hươu, nai, sơn dương, khỉ … Hơn 600 loài chim như: vẹt, gà rừng, sáo, vành khuyên, chim cu … Đặc biệt rất nhiều cá với hơn 1000 loài cá nước ngọt chủ yếu ở Tonle Sap (biển Hồ ) trong đó có cá heo, loại cá trê lơn, cá chép lớn (cá biệt có con nặng nhất tới 135 kg) …, có loài cá giống người thiếu nữ và hơn 500 loài cá biển. Campuchia có 7 khu công viên quốc gia: Kirirom, Phnom Bokor, Ream…, có 10 khu bảo vệ động thực vật hoang dã: Aural, Beng Per, Peam Krasop… Như vậy là ba nước đều có tiềm năng rất lớn về hệ động thực vật, nước nào cũng có một hệ động thực vật phong phú đa dạng, có nhiều rừng nguyên sinh, có nhiều khu bảo tồn quốc gia. Nên nước nào có khả năng về tiềm lực về kinh tế mạnh đầu tư khai thác sẽ tạo ra cho mình những loại hình du lịch, những sản phẩm du lịch phong phú và hấp dẫn, mà Việt Nam thì nền kinh tế phát triển hơn. So với Lào và Campuchia thì Việt Nam có hệ động vật phong phú hơn, do địa hình không quá hiểm trở nên việc đi lại đến các khu bảo tồn thiên nhiên dễ dàng hơn, tạo điều kiện cho du khách có thể thăm quan nghiên cứu, tìm hiểu, Việt Nam có thể phát triển du lịch sinh thái. 2.1.1.4. Nguồn nước Nguồn nước khoáng thiên nhiên ở Việt Nam rất phong phú: Suối khoáng Quang Hanh (Quảng Ninh ), suối khoáng Hội Vân (Bình Định ), suối khoáng Vĩnh Hảo (Ninh Thuận ), suối khoáng Dục Mỹ (Nha Trang), suối khoáng Kim Bôi (Hoà Bình), Tiền Hải (Thái Bình ), Tiên Lãng (Hải Phòng ), đều đạt tiêu chuẩn chất lượng cao và có khả năng khai thác tốt. Hiện đã điều tra khảo sát được trên 400 nguồn nước khoáng tự nhiên lộ ra trên mặt và dưới dạng nước ngầm. Nguồn nước khoáng Việt Nam có độ khoáng hoá khá cao (tới trên 30g/l) và hàm lượng các nguyên tố vi lượng khá cao như brôm đến 64,04 mg/l, iốt đến 19,04 mg/l, flo đến 16,3mg/l, ôxit silic đến 488,0 mg/l … Đặc biệt nguồn nước khoáng nóng của Việt Nam khá dồi dào, có tới trên 80% tổng số nguồn nước có nhiệt độ cao trên 350 C đó là điều kiện thuận lợi cho hoạt động du lịch quanh năm. Lào còn có con sông Mê Kông - một con sông lớn chảy dài từ Bắc đến Nam với các con sông ở hạ lưu như: Nặm U, Nặm Khan, Nặm Ngựm, Xê Đôn ... Phần cuối con sông này có Thác Khổng nổi tiếng ở châu á và nhiều thác nước đẹp đã trở thành nơi du lịch tuyệt vời và phát triển cho ngành điện lực. Campuchia cũng có nhiều nguồn nước, trong đó nguồn nước lớn nhất chính là từ con sông Mê Kông và một hệ thống sông hồ nhưng không phong phú về chủng loại và chất lượng nguồn nước không cao. Đặc biệt là nguồn nước khoáng của Campuchia rất ít so với Việt Nam và Lào đó là một bất lợi của Campuchia trong việc phát triển loại hình du lịch nghỉ dưỡng. Hệ thống cung cấp nước sạch ở Campuchia còn nhiều yếu kém, đặc biệt là ở các vùng nông thôn với 95% dân số đang dùng nguồn nước bị ô nhiễm, không bảo đảm vệ sinh. ở các thành phố lớn tình hình tuy có khá hơn nhưng vẫn còn rất nhiều vấn đề, tỉ lệ người dùng nước sạch mới chỉ chiếm tỉ lệ 38%. Du lịch là ngành rất cần vệ sinh, an toàn về nguồn nước là yêu cầu tất yếu đối với việc phát triển du lịch. để có được nguồn nước sạch thì các khách sạn, nhà hàng… phải chi một khoản tiền rất lớn. Do vậy để phát triển mạng lưới du lịch trong cả nước thì chính phủ Hoàng Gia Campuchia cần phải giải quyết tích cực vấn đề cấp nước ở thành phố, đi đôi với việc đẩy mạnh chương trình nước sạch ở nông thôn. Như vật ta thấy ba nước Đông Dương thì Việt Nam là nước có nhiều tiềm năng về nguồn nước nhất, chúng ta có nhiều suối nước khoáng, có nhiều nguồn nước ngầm có nhiệt độ cao, có hàm lượng hoá chất cao, tốt, có nhiều nguyên tố vi lượng tốt. Tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam phát triển loại hình du lịch nghỉ dưỡng và chữa bệnh. Nhờ có nguồn nước khoáng đa dạng có chữ lượng lớn đã được sử dụng trực tiếp vào làm nước uống, nước giải khát. 2.1.2. Tài nguyên nhân văn 2.1.2.1. Các di tích lịch sử - văn hoá, kiến trúc Cùng với tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn cũng có sự hấp dẫn không kém với du khách. Tài nguyên nhân văn bao gồm các giá trị lịch sử và các giá trị văn hoá. Các giá trị lịch sử bao gồm những nơi mà chiến tranh đã đi qua hoặc các di vật mà chiến tranh để lại; những nơi sinh ra và lến lên của các vị anh hùng dân tộc, danh nhân thế giới; những nơi là cố đô cũ; những thánh địa: là nơi sinh ra của các trường phái tôn giáo… Các giá trị văn hoá bao gồm các giá trị vật thể và phi vật thể. Các giá trị văn hoá vật thể là toàn bộ công trình kiến trúc, bảo tàng, tác phẩm nghệ thuật. Các giá trị văn hoá phi vật thể là các phong tục tập quán, các lễ hội, các loại hình nghệ thuật, văn hóa ẩm thực… Việt Nam, Lào và Campuchia là ba nước đều có nền văn hoá lâu đời, tuy là các nước láng giềng nhưng mỗi nước đều có những phong tục, tập quán, bản sắc văn hoá rất riêng. Bản sắc văn hoá của mỗi nước đều rất phong phú và độc đáo, đó là thế mạnh của mỗi nước trong việc xây dựng các sản phẩm du lịch mang đậm văn hoá của từng nước để thu hút khách du lịch. Đất nước Việt Nam với bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời, cha ông ta đã xây dựng lên một dân tộc Việt Nam có một bản sắc văn hoá vô cùng độc đáo mà không một dân tộc nào trên thế giới có được. Tài nguyên du lịch nhân văn của Việt Nam vô cùng phong phú với lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Trong số khoảng 40.000 di tích có hơn 2500 di tích được nhà nước chính thức xếp hạng. Tiêu biểu là quần thể di tích triều Nguyễn ở cố đô Huế ( thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế); đô thị cổ Hội An, di tích Mỹ Sơn ( thuộc tỉnh Quảng Nam) đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới. Ngoài các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng, nhiều nghề thủ công truyền thống với kỹ năng độc đáo, nhiều lễ hội gắn liền với sinh hoạt văn hoá, văn nghệ dân gian đặc sắc của cộng đồng 54 dân tộc cùng với những nét riêng, tinh tế của nghệ thuật ẩm thực được hoà quyện, đan xen trên nền kiến trúc phong cảnh có giá trị triết học Phương Đông, đã tạo cho Du lịch Việt Nam có nhiều điều kiện khai thác thế mạnh về du lịch văn hoá - lịch sử. Các giá trị lịch sử và văn hoá của nước ta rất phong phú: Các di tích lịch sử ở nước ta bao gồm: Di tích ghi dấu về dân tộc học: sự ăn ỏ, sinh hoạt của các tộc người. Di tích ghi dấu sự kiện chính trị quan trọng, tiêu biểu, có ý nghĩa quyết định chiều hướng của một đất nước, một địa phương (bến Bình Than - nơi diễn ra hội nghị Diên Hồng, cây đa Tân Trào, rừng Trần Hưng Đạo...) Di tích ghi chiến công chống quân xâm lược (Bạch Đằng, Đống Đa, Điện Biên Phủ…) Di tích ghi dấu những kỷ niệm (di tích về người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, tượng đài Bác Hồ trên đảo Cô Tô…) Di tích ghi dấu sự vinh quang trong lao động (công trình thuỷ nông Bắc Hưng Hải, nhà máy thuỷ điện Hoà Bình …) Di tích ghi tội ác của đế quốc và phong kiến (chuồng cọp Côn Đảo, làng Sơn Mỹ, trại giam Phú Lợi …). Lào là một trong những quốc gia ở Đông Nam á có một lịch sử lâu đời. Trong những năm (1935-1936). Các nhà khảo cổ học Saurin và Fromaget đã tìm thấy ở Thăm Hàng, Thămpalời (tỉnh Thia Phăn) những di vật của người cổ gồm có răng, mảng xương sọ, mảnh thái dương cùng với một số công cụ bằng đá cuội có hình ba - bốn cạnh, mũi nhọn ghè đẽo thô sơ. Các di vật của hai nơi đây đều nằm trong các lớp đá trầm tích có hoá thạch mà Sâurin và Fromaget cho rằng lớp trầm tích đó thuộc thời sơ và trung kỳ canh tâm. Những kết quả gần đây cho rằng lớp trầm tích và các di vật đó có thể thuộc thời đại muộn hơn, vào thời đại hậu kỳ canh tân. Cùng với Thăm Hàng và Thămpalời, người ta đã phát hiện và khai quật một số địa điểm khác như Thăm Nang Eng, Tham Nhôm Na Lạt. Trong kỹ thuật chế tạo công cụ ở Lào đã có truyền thống phát triển rìu đá co vai, vào khoảng hậu kỳ đổ đá mới. Đặc biệt ở mỗi địa phương các công cụ có những đặc điểm khác nhau như Luông Pha Bang, thịnh hành rìu có một hoặc hai tầng còn ở Khăm Muộn là phổ biến rìu có vai nhọn. Tiếp theo những tầng văn hoá thuộc thời kỳ đồ đá là những tầng văn hoá đồ đá lớn (hay nền văn hoá thạch) khá phong phú và độc đáo, thuộc thời kỳ kim loại mà minh chứng khảo cổ học của Madeleine Colanic trong những năm 1933-1935, đã khai quật ở mường Pơn (Hùa Phăn) và cánh đồng Chum (Xiêng Khoảng). ở khu vực trụ đá (Merhir) mường Pơn (tỉnh Hùa Phăn): có những trụ đá cao trung bình trên 2,5 m hình dệt và nhọn, được đẽo gọt rất kỳ công, dựng lên trong nhiều khu vực ở Keo Him Tặng, Đồng Mút... Nhiều nhất ở Kong Phăn có 115 trụ đá, 70 đĩa đá... Bên cạnh trụ đá mà người ta cho đó là những tấm bia của công xã đối với thành viên đã quá cổ, còn những nắp đá đẩy những huyệt chôn người. Trong đồng người ta tìm thấy răng và những đốt xương người và những dụng cụ đồ gốm, vòng đá, các công cụ bằng đá thau. Bên cạnh những chum đá người ta đào thấy những vật quý khác được chôn theo người chết ngọc trai nhiều màu, đồ đạc bằng đồng thau có chạm trổ, vòng sắt ... Những hiện vật tìm thấy xung quanh các khu vực đá còn có khu vực bằng đá mài đồ gốm, ngọc, những công cụ bằng đồng thau, công cụ bằng sắt. Từ đó có thể nói thêm một phần nào đó về một quá trình lịch sử xa xa. Qua lao động sáng tạo, đấu tranh với thiên nhiên, với cuộc sống, họ không ngừng phát triển và xây dựng lên những di tích lịch sử văn hoá quý giá. Nhiều nơi khắp đất nước đã để lại cho thời con cháu những sản phẩm vô giá có sức hút đối với khách du lịch như: Thành phố Luồng pha bang là di sản văn hoá thế giới. Luồng pha bang là nơi được chọn làm Thủ đô ngay từ khi Vương quốc Lào triệu voi được thống nhất vì ở đây được sự ưu đãi của thiên nhiên hơn nữa Luồng pha bang lại có một vị trí thuận lợi cho việc điều hành đất nước. ở đây đã từng trải qua bao thế hệ vua chúa và đã để lại cho chúng ta những di tích lịch sử văn hoá như: Những phố cổ, chùa chiền, những truyền thống văn minh, lịch sử cả các bộ tộc Lào. Hiện nay, Luồng pha bang được mệnh danh là di sản văn hoá của nhân loại. Còn tháp Luồng Viêng Chăn, Vạt phuc Chămpasắc và cánh đồng Chum "Xiêng Khoảng" nhà nước Lào đã xếp loại vào di sản văn hoá cấp quốc gia và tháp Xikhôttabong (Khăm Muộn), Tháp Ing Hằng (Savănnakhệt). ở Thủ đô Viêng Chăn, còn có nhiều chùa xếp loại di tích lịch sử cao như: Vătxixakệt, Hỏ Phạ Kẹo, chùa Xỉ Nương, Cộng Tương đại thắng ... Đây là những nơi tham quan nghiên cứu và cũng là nơi để các nhà khoa học đến nghiên cứu thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Ngoài ra còn có các khu di tích lich sử từ thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Các di tích lịch sử (chùa chiền) nói trên đã được các nhà chuyên gia đánh giá rất cao. Campuchia với lịch sử hơn 2000 năm văn hiến và một nền văn minh lúa nước rực rỡ của nhân loại. Cùng với lịch sử đấu tranh và giữ nước, tạo nên những công trình văn hoá kiến trúc, những đền chùa, những di tích lịch sử, nghệ thuật, những thuần phong mỹ tục, phong tục quán, nhiều thể loại văn hoá nghệ thuật dân gian, tôn giáo, nghề thủ công đặc sắc, phong phú đa dạng. Các di sản lịch sử là tài nguyên quan trọng hàng đầu của du lịch Campuchia. Hiện nay ở Campuchia có 60 khu văn hoá lịch sử cùng với 1.080 các đền tháp, 16 khu lịch sử, 41 khu nhân tạo và các ngôi chùa là 3.810 được nhà nước công nhận là di tích lịch sử. Ngoài ra còn có chàu bạc nằm trong cung điện của nhà vua. Đồng thời còn có rất nhiều các di tích lịch sử phân bố ở khắp 24 tỉnh và thành phố trong cả nước. Khu liên hợp Angkor, là linh hồn của người Khmer, là biểu tượng về nghệ thuật và nền văn minh của Campuchia được xây dựng từ giữa thế kỷ 7 đến giữa thế kỷ 13 bởi các vua Khmẻr có quyền lực. Khu liên hợp Angkor bao gồm hơn một trăm khu đền lớn phân bố trên diện tích 400 km2, Angkor nổi tiếng là những đền cổ rộng nhất và Angkor Wat là một trong 7 kỳ quan câ thế giới. Trong đó nổi tiếng nhất là các đền Angkor WAt, Angkor Thom, Baphuan, Takeo,Thommanon và Chau Say Tevoda… Đền Wat Pnom là biểu tượng cho thủ đô PhnomPenh, đã được bà Penh (người phụ nữ đầu tiên đến khai phá thành phố này) xây dựng vào năm 1434. Ngôi đền nay vẫn là công trình cao nhất ở thủ đô Phompenh bởi nhọn đồi nhân tạo và là trung tâm của nhiều hoạt động vui chơi giải trí. Nghệ thuật kiến trúc cổ: kiến trúc cổ phù hợp với phong cảnh, văn hoá và tín ngưỡng của người xưa. Một nền kiến trúc có giá trị và được bố cục theo thuật phong thuỷ của triết học phương Đông. Nhiều kiến trúc tôn giáo mà điển hình là các công trình bằng đá mà nghệ thuật “Khmer” đã khai thác tất sự giàu có và tính độc đáo của nó. Nghệ thuật đương đại, từ các di sản quá khứ và sự khéo léo của các nghệ nhân đã chuyển dịch nhiều kỹ thuật cổ truyền thành kỹ thuật đương thời: nghệ nhân sơn mài, tranh ảnh, đồ cổ và các đồ vật khác như tranh lụa, tranh khảm ngọc trai. Đặc biệt là nghề trạm trổ đá và tạc tượng. Nghề thủ công cũng được thể hiện trong các lĩnh vực khác nhau như: hàng đan, đồ gốm, thêu, dệt tơ lụa, hình in theo bản khắc được lấy từ truyền thống và văn hoá làng nghề. Việt Nam, Lào, Campuchia đều có nền văn minh lúa nước lâu đời, phong phú đa dạng, có nhiều di tích lịch sử nổi tiếng được nhân dân trên thế giới biêt đến, chính vì vậy ngành du lịch của các nước Đông Dương có thể phát triển ngành du lịch văn hoá. Nhưng nước ta lại có nhiều di sản thiên nhiên thế giới hơn, nó lại nằm dọc theo chiều dài của đất nước, nền kinh tế nước ta lại phát triển hơn, Việt Nam lại là điểm đến an toàn, người dân Việt Nam hiếu khách, đã tạo điều kiện cho chúng ta thu hút khách quốc tế đến tìm hiểu nghiên cứu. Mặt khác các điểm di tích lịch sử - văn hoá, kiến trúc của Việt Nam tập trung hơn ở các điểm quần cư, các thành phố lớn, do vậy rất dễ dàng tiếp cận. 2.1.2.2. Các lễ hội. Lễ hội truyền thống là tài nguyên có giá trị phục vụ du lịch rất lớn. Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hoá đặc sắc phản ánh đời sống tâm linh của mỗi dân tộc. Đối với Việt Nam mỗi vùng có những lễ hội riêng của mình. Các lễ hội ở Việt Nam tập trung vào hai mùa mà công việc đồng áng rảnh nhất: mùa xuân và mùa thu; vào những dịp này, lễ hội diễn ra liên tiếp, hết vùng này đến vùng khác, có nơi với mật độ rất cao. Chẳng thế mà vùng Kinh Bắc có câu: “ Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, mồng chín đâu đâu nhớ về hội Gióng” Phần hội có phần lễ và phần hội. Phần lễ mang ý nghĩa tạ ơn và cầu xin. Tạ ơn các thánh thần đã phù hộ trong năm qua và cầu xin các vị tiếp tục giúp đỡ trong năm tới. Căn cứ vào mục đích này và dựa vào cấu trúc của hệ thống văn hoá, có thể phân biệt ba loại lễ hội: lễ hội liên quan đến cuộc sống trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên, lễ hội liên quan đến cuộc sống trong mối quan hệ với môi trường xã hội, và lễ hội liên quan đến đời sống cộng đống. Lễ hội liên quan đến cuộc sống trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên là các lễ hội nghề nghiệp, trong đó quan trọng nhất là các lễ hội nông nghiệp. Có những lễ hội với mục đích cầu mưa, chống hạn: Hội chùa Dâu ( Thuận Thành, Hà Bắc) mở cửa vào ngày 8- 4; hội Tứ Pháp chùa Thứa ( Thuận Thành, Hà Bắc) cũng mở cửa vào ngày 8- 4; hội Tứ Pháp Yên Mỹ và Tứ Pháp Văn Lâm ( Mỹ Văn, Hưng Yên) đều mở cửa vào ngày 17-1; hội Tam Tổng ( Vĩnh Lộc, Thanh Hoá) chỉ mở cửa khi trời làm đại hạn. Có những lễ hội nhắc nhở vai trò của phân bón ( Nhất nước, nhì phân): Hội Cổ Nhuế (Từ Liêm, Hà Nội) và hội Vũ Bi (Mỹ Lộc, Nam Định) đều thờ thần gắp phân mở vào những ngày đầu xuân. thuộc loại lễ hội nông nghiệp, người Ba- na (Tây Nguyên) có lễ hội đâm trâu để tạ ơn trời ban cho mùa màng và sức khỏe tổ chức vào đầu xuân, hội cốm (Sa Mơk) đón mùa lúa chín, tổ chức vào khoảng tháng 10; người Tày, Nùng, Thái (Tây Bắc) có hội xuống đồng (lồng- tồng) mở vào mùa xuân; người Khơ- mú (Sơn La) có hội cơm mới (Kin Khẩu Mới). Ngoài nghề nông là chính, còn có những lễ hội của các nghề đúc đồng, nghề dệt, nghề rèn và nhất là các lễ hội liên quan đến cuộc sống vùng sông nước (hội đua thuyền ở Đồng Hới- Quảng Bình; hội đua ghe Ngo ở Sóc Trăng- Hậu Giang; tục đua thuyền trong hội chùa Keo ở Vũ Thư- Thái Bình. Lễ hội liên quan đến cuộc sống trong mối quan hệ môi trường xã hội là những lễ hội kỹ niệm các anh hùng dân tộc dựng nước và giữ nước: Hội Đền Hùng (xã Hy Cương, Phong Châu, Phú Thọ) giỗ Tổ Hùng (Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3 thì về), hội Gióng (Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội) tổ chức vào ngày 9- 4 (Ai ơi mồng chín tháng tư, Không đi hội Gióng cũng hư mất đời); hội đền An Dương Vương (Cổ Loa, Hà Nội) tổ chức vào ngày 6 tháng giêng; hội Hai Bà Trưng (làng Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) mở ngày 15 tháng giêng kỷ niệm ngày Hai Bà tuẫn tiết; hội đền kiếp bạc (Chí Linh, Hải Dương) mở vào ngày 20- 8 kỷ niệm ngày mất của Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn; hội Tây Sơn (Tây Sơn, Bình Định) kỷ niệm Quang Trung Nguyễn Huệ và hội Đông Đa kỷ niệm chiến thắng Đống Đa năm 1789 của Quang Trung mở vào ngày 5 tháng giêng. Lễ hội liên quan đến đời sống cộng đồng là các lễ hội tôn giáo và văn hoá. Lễ hội tôn giáo gồm các lễ hội Phật giáo như lễ hội chùa Hương (Mỹ Đức, Hà Tây) mở vào mùa xuân; hội chùa Tây Phương (Thạch Thất, Hà Tây) mở vào ngày 7- 3; các lễ hội tín ngưỡng dân gian: như hội đền Và (Bất Bạt, Hà Tây) mở vào ngày 15 tháng giêng thờ thần Tản Viên; hội đền Bắc Lệ (Hữu Lũng, Lạng Sơn) mở vào đầu tháng giêng thờ Mẫu Thượng Ngàn; hội Chử Đồng Tử (xã Tự Nhiên, Thường Tín, Hà Tây) mở vào trung tuần tháng 2 kỷ niệm nơi Tiên Dung lần đầu gặp Chử Đồng Tử; hội làng Đa Hoà (xã Bình Minh, Châu Giang, Hưng Yên) mở vào cuối tháng giêng kỷ niệm nơi Chử Đồng Tử -Tiên Dung sinh sống; hội đền Hoá Dạ Trạch (xã Dạ Trạch, Châu Giang, Hưng Yên) mở cửa vào giữa tháng 2 kỷ niệm nơi Chử Đồng Tử -Tiên Dung bay về trời; hội Phủ Giầy (Vân Cát, Vụ Bản, Nam Định) mở vào thượng tuần tháng 3 và hội đền Sòng (Bỉm Sơn, Thanh Hoá) thờ Liễu Hạnh. Phần hội gồm các trò chơi giải trí hết sức phong phú. Xét về nguồn gốc, phần lớn các trò chơi này đều xuất phát từ những ước vọng thiêng liêng của con người nông nghiệp: xuất phát từ ước vọng cầu mưa là các trò chơi tạo ra tiếng nổ mô phỏng tiếng sấm vào các hội mùa xuân để nhắc trời làm mưa như thi đốt pháo, ném pháo, đánh pháo đất… Xuất phát từ ước vọng cầu cạn là các trò chơi thi thả diều vào các hội mùa hè mong gió lên, nắng lên để nước lụt mau xuống ruộng. Xuất phát từ ước vọng phồn thực là các trò chơi cướp cầu thả lỗ, đánh đáo, ném còn, nhún đu, bắt chạch trong chum-xuất phát từ ước vọng luyện rèn sự nhanh nhẹn, tháo vát, khéo léo là các trò thi thổi cơm, vừa gánh vừa thổi cơm, vừa giữ trẻ vừa thổi cơm, vừa bơi thuyền vừa thổi cơm; thi luộc gà, thi dọn cỗ, thi bắt lợn, thi bắt vịt, thi dệt vải, thi leo cầu ùm, thi bịt mắt bắt dê, đua cà kheo. Xuất phát từ ước vọng luyện rèn sức khoẻ và khả năng chiến đấu là các trò đấu vật, kéo co, chọi gà, chọi trâu, chọi cá, chọi rế. Hội làng của người Việt ở đồng bằng sông Hồng là loại lễ hội truyền thống rất tiêu biểu cho xã hội nông thôn Việt Nam. Các lễ hội tại Lào cũng diễn ra quanh năm, nhưng Lào không có nhiều lễ hội, các hoạt động lễ hội lớn tại Lào thường trùng dịp với nước Campuchia, có nhiều lễ hội mang ý nghĩa giống với Campuchia. Campuchia có 20 dân tộc anh em nên các lễ hội và lễ nghi phong phú và đa dạng mang nhiều nét đặc thù khác nhau. Tuy rằng một số phong tục tập quán và lễ hội đã mất đi và có nhiều thay đổi nhưng hiện nay nhiều lễ hội, phong tục tập quán vẫn còn tồn tại. Lễ hội lớn nhất là lễ Bonn Chaul Chnam (lễ hội mừng mùa thu hoạch thành công) được tổ chức vào 13-15 thàng 4 dương lịch. Đây là lễ hội lớn nhất trong năm, mọi người gặp nhau và té nước vào nhau nhằm tin tưởng vào một mùa vụ mới bội thu, theo đạo Phật cùng tổ chức với Lào, Thái Lan, Mianma. Lễ hội cầy ruộng tổ chức vào ngày 6 tháng 5, người ta thường lấy con bò làm biểu tượng cho một vụ mới của những người trồng lúa. Tổ chức tại hoàng cung thể hiện sự quan tâm của vua đối với thần dân và mùa màng. Lễ hội Bon Dak Ben và Pchoum Ben được tổ chức vào ngày 11 đến 13 tháng 10 nhằm tưởng nhớ đến người đã khuất. Mọi người đến chùa cúng tế đồng thời tạ ơn các nhà sư. Các nhà sư nghỉ 15 ngày không đi khất thực mà người dân đem thức ăn đến cho các nhà sư. Lễ Bonn Kathen thường tổ chức vào thàng 10 suốt 29 ngày liền. Đây là lễ hội của Phật giáo lớn nhất trong năm. Mọi người tổ chức thành một đám rước đến chùa mà các nhà sư đang chờ đợi thay đổi trang phục màu vàng. Quốc khánh Campuchia được tổ chức vào ngày 9 tháng 11 hàng năm kỷ niệm ngày chiến thắng thực dân Pháp vào năm 1953. Lễ hội chèo thuyền (lễ hội nước ), nhằm nhớ đến các lính thuỷ đã xây dựng Angkor. Lễ này tổ chức vào ngày 15 trăng tròn theo lịch âm (thường vào ngày 24 đến 26 tháng 11 lịch dương ), lễ hội này thường tổ chức trên sông Mêkông. Lễ Noel dành riêng cho đồng bào công giáo và cuối cùng là việc thờ cúng tổ tiên. Trong mỗi gia đình thường có bàn thờ đặt ở vị trí trang trọng và tôn nghiêm. Nó duy trì mối quan hệ gia đình giữa quá khứ và tương lai. Về âm nhạc thì âm nhạc cổ truyền của Campuchia có rất nhiều thể loại nhạc truyền thống và không bị ảnh hưởng bởi yếu tố văn hoá bên ngoài. Nó mang màu sắc truyền thống của dân tộc Khmer, âm nhạc kiểu tôn thờ tổ tiên, h._. viên dạy nghề để làm lòng cốt cho hệ thống đào tạo nghề du lịch. Tuy cơ sở vật chất kỹ thuật, lực lượng giáo viên chưa đáp ứng được nhu cầu, song công tác đào tạo, bồi dưỡng đá có những chuyển biến quan trọng, góp phần tích cực trong đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành. Trong số lao động trực tiếp, hiên có khoảng 7% đạt trình độ đại học, số lượng được đào tạo qua các trường dạy nghề chiếm tỷ lệ cao. Đây là những thuận lợi rất lớn cho sự phát triển của ngành Du lịch của Việt Nam trong hiện tại và tương lai. * Đối với ngành du lịch Lào và Campuchia. Đội ngũ cán bộ của ngành du lịch Lào và Campuchia trong thời gian vừa qua chủ yếu là vừa làm vừa học. Song đứng trước một thực tế đua chen với du lịch quốc tế, thì đội ngũ cán bộ du lịch của Lào và Campuchia chẳng những cần tăng về số lượng mà yêu cầu cần phải tăng cả về chất lượng đó là điều bất cập nhất đặt ra. Vì hiện nay lực lượng lao động làm trong lĩnh vực du lịch chiếm tỷ lệ không cao, Campuchia có khoảng 18,2% lao động làm trong lĩnh vực dịch vụ. Hơn nữa chất lượng lao động của Campuchia còn rất thấp, hiện nay số nam biết chữ chỉ là 47,6%, số nữ biết chữ là 22%, và chỉ có khoảng 37,1% người trưởng thành biết chữ nhưng tỉ lệ này không đồng đều giữa thành phố và nông thôn. Số lao động trong ngành du lịch Campuchia năm 2003 Cán bộ quản lý Lao động chuyên môn kỹ thuật Lao động trực tiếp theo nghề Tổng số 466 1.812 15.912 18.190 Khách sạn 349 1383 11.202 12.934 Lữ hành 21 206 1.146 1.373 Khu du lịch 96 233 3.364 3.883 Nhìn chung lực lượng lao động làm trong lĩnh vực du lịch của Lào và Campuchia có chất lượng chưa cao, những người có trình độ đại học chiếm tỷ lệ rất thấp. Trình độ chuyên môn của người lao động chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành, các cơ sở đào tạo du lịch còn ít, đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo trên thực tế. Đây là những khó khăn rất lớn trong sự phát triển của du lịch của Lào và Campuchia cần phải được nhanh chóng có những biện pháp kịp thời hiệu quả. Nguồn lực trong du lịch có vai trò khá quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngành du lịch, trong đó chất lượng của nguồn nhân lực được đặc biệt coi trọng. Nguồn nhân lực của Việt Nam có trình độ chuyên môn cao và số lượng phong phú hơn so với nguồn nhân lực du lịch của hai nước Lào và Cămpuchia. Đó là một lợi thế lớn của ngành du lịch Việt Nam trong khả năng đáp ứng nhu cầu của du khách, cũng như tăng khả năng cạnh tranh nói chung của cả ngành du lịch ,chúng ta cần nắm bắt lợi thế này và tăng cường bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho nguồn nhân lực. 2.6. Về cơ chế chính sách và sự quản lý. * Đối với Việt Nam: cơ chế chính sách về du lịch được bổ sung, bộ máy quản lý Nhà nước, hệ thống kinh doanh du lịch được kiện toàn và sắp xếp lại một bước, hoạt động thích nghi dần với cơ chế mới. Pháp lệnh Du lịch và nhiều văn bản quy phạm pháp luật về du lịch, liên quan đến du lịch được ban hành hoặc điều chỉnh, sửa đổi phù hợp hơn với điều kiện thực tế, nâng cao hiệu lực thực hiện. Bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch được kiện toàn dần; Tổng Cục Du lịch là cơ quan thuộc Chính phủ cùng với 13 Sở Du lịch, một sở Du lịch -Thương mại và 47 Sở Thương mại- Du lịch ở 61 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang từng bước vươn lên thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về du lịch trên phạm vi cả nước và từng địa phương. Hệ thống kinh doanh du lịch với 108 doanh nghiệp lữ hành quốc tế, khoảng 500 doanh nghiệp lữ hành nội địa, trên 3.000 khách sạn thuộc mọi thành phần kinh tế đang được sắp xếp lại. Hệ thống cơ sở lưu trú du lịch được phân loại và xếp hạng với trên 460 khách sạn được xếp hạng từ 1-5 sao, góp phần tăng cường và tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh du lịch, từng bước nâng cao chất lượng các dịch vụ lữ hành, hướng dẫn, lưu trú và vận chuyển khách du lịch. * Đối với Lào: Theo kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của Đảng và Nhà nước CHDND Lào đã quyết định nói chung về kế hoạch chính sách phát triển và đẩy mạnh việc du lịch Lào noid riêng, và căn cứ kế hoạch chiến lược đẩy mạnh việc du lịch đã qua kỳ họp của nhà nước ngày 02/05/1996. Cơ quan du lịch Lào đã sửa đổi và đưa ra các chính sách để thu hút khách du lịch như: + Thực hành chính sách mở rộng của Nhà nước trong việc hợp tác về kinh tế văn hoá với quốc tế. + Đẩy mạnh phát triển du lịch và công nghiệp du lịch nhằm đưa đời sống của nhân dân các bộ tộc tốt lên một bước và việc sản xuất trong nước. + Tạo ra công ăn việc làm, tạo ra thu nhập và phân phối thu nhập một cách hợp lý. - Phát triển du lịch bền vững do bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, lịch sử và văn hoá du lịch không gây ảnh hưởng tới môi trường văn hoá xã hội, giữ và cải thiện cho du lịch có môi trường tốt. - Phát triển du lịch quốc tế là lĩnh vực kinh tế quan trọng tạo ra công việc và thu nhập cho Nhà nước bằng ngoại tệ và có thể xúc tiến việc phát triển trong lĩnh vực kinh tế khác, việc phát triển du lịch quốc tế là phương tiện trong việc giới thiệu về di sản thiên nhiên, lịch sử văn hoá của Lào cho thế giới. - Phát triển du lịch có chất lượng cao, căn cứ vào di sản về tài nguyên thiên nhiên, lịch sử văn hoá của đất nước, thu hút khách du lịch mà có khả năng tiêu dùng và biết tôn trọng môi trường, lịch sử văn hoá của Lào, đẩy mạnh việc du lịch văn hoá, du lịch làng quê và thiên nhiên, du lịch mạo hiểm và không đẩy mạnh du lịch mà xảy ra vấn đề môi trường xã hội mà không tốt cho Lào. - Phát triển du lịch bảo hộ và khôi phục môi trường tự nhiên như bảo vệ phong cảnh, nguồn nước, động vật rừng và hệ thống sinh thái. Huy động nhân dân địa phương tham gia trong việc bảo hộ tài nguyên thiên nhiên. - Phát triển du lịch mà bảo hộ khu di tích lịch sử văn hoá, phát huy bản sắc dân tộc, thuần phong mỹ tục của dân tộc trong hoạt động du lịch. - Xây dựng kế hoạch phát triển du lịch cho hợp lý, lấy việc du lịch là một trong bộ phận của chính sách phát triển quốc gia, khu vực và của địa phương. về sản phẩm du lịch, chỗ du lịch tạo điều kiện thuận lợi trong việc phục vụ cơ sở hạ tầng, cần có sự cân đối từng loại du lịch và cân đối với từng thị trường mục tiêu. - Cung cấp các trang thiết bị có chất lượng cao cho việc phục vụ dịch vụ và xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp cho nhu cầu của du lịch có chất lượng cao và không gây ra vấn đề môi trường, trang bị các thiết bị phục cho việc đào tạo các cán bộ có chuyên môn về du lịch, nâng cấp chỗ làm việc, sử dụng và tuyển mộ cán bộ trong địa phương. - Phát triển du lịch nội địa, cho nhân dân Lào được đi nghỉ ngơi và hiểu biết về môi trường , lịch sử văn hoá của quốc gia. Đối với Campuchia: Công tác quản lý của chính phủ hoàng gia, quản lý kinh tế còn nhiều mặt yếu kém. Một số chính sách như: quản lý liên ngành, ban hành luật du lịch, ban hành tiêu chuẩn xếp hạng khách sạn… chậm được nghiên cứu. Khi đã có chính sách lại chậm triển khai như quy chế quản lý Karaoke, vũ trường, massage, sông hơi, các tệ nạn mại dâm, ăn xin, ăn trộm, bán hàng rong ở các khu du lịch, nhiều hiện tượng không phù hợp với yêu cầu văn minh du lịch vẫn tồn tại. Đó là hậu quả của sự thiếu đồng bộ trong việc phối hợp hành động giữa du lịch và các ngành nội vụ, văn hoá thông tin và chính quyền các cấp. Tình trạng lộ xộn tròn việc quản lý du lịch, kinh doanh lữ hành, khách sạn vẫn chưa được chấm dứt. Việc bảo vệ môi trường nhằm phát triển lâu dài du lịch “xanh tươi”, “trong sạch” và “bền vững” ở Campuchia đang đặt ra rất nhiều vấn đề cấp thiết với các nhà lãnh đạo từ trung ương đến địa phương có liên quan đến vấn đề này. cần phải giải quyết nhanh nhằm đáp ứng yêu cầu của hoạt động du lịch. Mặc dù cơ chế chính sách quản lý ngành du lịch của Việt Nam đã và đang được hoàn thiện. Nhưng hiện nay điều đáng nói là các doanh nghiệp kinh doanh du lịch hiện nay ỏ Việt Nam xuất hiện một cách tự phát do vậy gây ra khó khăn cho công tác quản lý, chất lượng của sản phẩm dịch vụ khó được đảm bảo. Do vậy chính phủ cần có giải pháp quy hoạch tổng thể cho toàn ngành để tạo ra sự phát triển có chiều sâu và bền vững cho toàn ngành. Chương 3: Một Số Giải Pháp Để Nâng Cao năng lực cạnh Tranh Của Du Lịch Việt Nam Tuy xét về năng lực cạnh tranh Việt Nam có nhiều lợi thế so với hai nước Lào và Campuchia trong việc phát triển ngành du lịch, nhưng những lợi thế đó cần phải được khai thác một cách triệt để, cần phải có những kế hoạch và giải pháp cụ thể để nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của Du lịch Việt Nam trong khu vực Đông Dương. Một số giải pháp cụ thể là: 1. Xây dựng sản phẩm mang đậm bản sắc Việt Nam 1.1. Đẩy mạnh khôi phục và phát triển các làng nghề để đưa khách du lịch về với các làng nghề truyền thống. Theo các chuyên gia du lịch, tiềm năng du lịch các làng nghề ở Việt Nam là hiện nay là rất lớn, mỗi làng nghề gắn với một vùng văn hoá, hệ thống di tích –văn hoá truyền thống riêng. Hiện nay Việt Nam có trên 2.000 làng nghề thủ công thuộc 11 nhóm nghề chính như: cói, sơn mài, mây tre đan, gốm sứ, thêu ren, dệt, gỗ, đá, giấy, tranh dân gian, kim khí. Đi dọc Việt Nam, du khách có thể thấy nhiều vùng quê mà mật độ làng nghề truyền thống dầy đặc rải từ Bắc vào Nam. Những cái nôi làng nghề như: Hà Nội, Hà Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Thái Bình, Thừa Thiên Hếu, Đà Nẵng, Quảng Nam, Đồng Nai, Bến Tre... Thực tế hiện nay du khách du khách muốn đến tận làng nghề nhắm cảnh cây đa, bến nước, sân đình, thăm các di tích làng nghề truyền thống của người Việt Nam, tìm hiểu về các vị tổ làng nghề hoặc các danh nhân văn hoá. Làng nghề truyền thống Việt Nam chứa đựng nhiều dồi dào về du lịch cũng bởi du khách muốn đến tận nơi xem các công đoan nghệ nhân làm ra sản phẩm, cũng có du khách muốn tận tay mình tham gia vào quá trình làm ra sản phẩm đó. Theo Tổng cục Du lịch Việt Nam thì đến năm 2005 chúng ta có thể đón 3,5 đến 4 triệu lượt khách quốc tế, doanh thu đạt 2,1 tỷ USD, và số du khách muốn đến thăm các làng nghề là đang tăng. Đây chính là thế mạnh của du lịch Việt Nam, chúng ta phải có kế hoạch để đầu tư, khai thác và phát triển các làng nghề. Chúng ta phải tạo ra nhiều sản phâm thủ công mỹ nghệ gắn với bảo tồn và phát huy các làng nghề truyền thống để trở thành các điểm du lịch hấp dẫn, đặc biệt là du khách nước ngoài. Ngành du lịch phải biết kết hợp với các địa phương, các thành phần kinh tế tham gia đầu tư cơ sơ hạ tầng, quy hoạch, tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại, làm cho các làng nghề vừa là nơi sản xuất vừa là điểm du lịch văn hoá. 1.2. Xây dựng các chương trình du lịch về với các vùng quê Việt Nam Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, bộ mặt nông thôn Việt Nam cũng ngày càng thay đổi mạnh, đời sống của nhân dân ngày càng nâng cao cả về vật chất và tinh thần.Việt Nam hiện nay có khoảng gần 75% dân số sống tại nông thôn, diện tích nông thôn chiếm khoảng 80% tổng diện tích lãnh thổ, Như đã nói ở chương II thì vùng nông thôn Việt Nam, các vùng xâu vùng xa đều có mạng lưới giao thông phát triển, đi lại dễ dàng, thuận tiện. Đó là một điều kiên thuận lợi cho sự phát triển du lịch ở các vung quê. 1.3. Đẩy mạnh sự khôi phục, khai thác các lễ hội truyền thống của Việt Nam . Trên đất nước Việt Nam của chúng ta có 54 dân tộc anh em cùng chung sống. Mỗi dân tộc đều có những phong tục, tập quán mang những nét độc đáo, đặc sắc rất riêng. Bạn đã từng nghe đến lễ hội bỏ nhà (ở Tây Nguyên), Chợ Tình (Hà Giang), hội chọi trâu Đồ Sơn - Tất cả các vùng trên lãnh thổ Việt Nam đều có những lễ hội rất riêng và mang đậm bản sắc văn hoá của từng vùng. Do vậy nếu chúng ta biết khai thác, tích cực tuyên truyền quảng bá với du khách thì đó là là các sản phẩm du lịch rất độc đáo mà không một nước nào có được. 2. Phát triển các loại hình du lịch có gắn với yếu tố bền vững tạo ra sự phát triển lâu dài cho ngành . Như đã nói ở chương 2 Việt Nam là một nước có hệ động thưc phong phú, đa dạng,chúng ta có nhiều hang động kỳ vĩ, có nhiều vườn quốc gia, có hai đồng bằng rộng lớn, và việc đi lại các khu du lịch này là rất thuận lợi, chúng ta có một nền văn hoá phong phú,đặc sắc, có nhiều di tịch lịch sử văn hoá ,có nhiều công trình kiến trúc, nghệ thuật độc đáo … Nhưng hiện nay tại Việt Nam, hoạt động du lịch phát triển ồ ạt đang có nguy cơ làm suy thoái tài nguyên du lịch tự nhiên. Sự tập trung quá nhiều người và thường xuyên tại địa điểm du lịch làm cho thiên nhiên không kịp phục hồi và đi đến chỗ bị huỷ hoại. Sự có mặt của nhiều đoàn khách ở những vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên …đã uy hiếp đời sống một số loài vật hoang dã, đẩy chúng ra khỏi nơi cư trú yên ổn trước đây để đi tìm nơi ỏ mới. Hiện tượng tàn phá môi trường thông qua việc mua, lấy các tiêu bản tự nhiên như phong lan,nhũ đá…để làm kỷ niệm cho chuyến đi có ở hầu khắp mọi nơi. Tình trạng xả rác bừa bãi trong mùa du lịch đã đến mức báo động. Mặt khác, do số lượng các công trình phục vụ khách tăng lên nhanh chóng,vượt qúa khả năng chịu tải của cơ sở hạ tầng, cũng góp phần gia tăng ô nhiễm môi trường.Thêm vào đó là các khu di tịch lịch sử, các di sản thiên nhiên, các làng nghề đã khai thác một cách không có kế hoạch, không được bảo tồn trùng tu, nên ngày càng bị xuống cấp và phát triển theo hường cơ chế thị trường… Để tránh những tình trạng xấu trên chúng ta phải phát triển du lịch sinh thái, và du lịch văn hoá để vừa tạo ra nhiều loại hình du lịch vừa tạo ra sự phát triển bền vững. Tuy nhiên du lịch sinh thái không phải là một loại hình du lịch mà một quan điểm phát triển du lịch nhằm vừa thoả mãn tốt nhu cầu hiện tại của du khách, trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho phát triển du lịch tương lai.Hơn nữa tạo ra các sản phẩm du sinh thái sẽ tạo cho du lịch Việt Nam một sự phát triển bền vững, tận dụng và khai thác triệt để nguồn tài nguyên và nguồn lao động dồi dào. Du lịch văn hoá khai thác sự phong phú, đa dạng, độc đáo và tính truyền thống cũng như tính địa phương của tài nguyên nhân văn. Phát triển du lịch văn hoá vừa bảo tồn được các tài nguyên nhân văn vừa tạo ra các sản phẩ m du lịch độc đáo, đa dạng như: các sản phẩm của các làng nghề truyền thống, các lễ hội, các vui chơi giải trí dân gian… 3. Xây dựng đường bay thẳng từ Thái Lan , Lào và Campuchia sang Việt Nam để thực hiện sự nối chương trình du lịch Như chúng ta đã biết Thái Lan cũng là một nước nằm trong khu vực Đông Nam á, nền kinh tế nói chung và ngành du lịch Thái Lan nói riêng đã có một quá trình phát triển lâu dài và vẫn đang ngày càng phát triển mạnh. Thái Lan là nước có ngành du lịch phát triển nhất trong khu vực, hàng năm Thái Lan đón một lượng khách du lịch khá lớn từ khắp trến thế giới, đặc biệt là khách Châu Âu và Châu Mỹ bởi những chính sách thu hút khách đặc sắc của họ. Và điều quan trọng là Thái Lan nằm rất gần Việt Nam, nếu chúng ta mở được nhiêu đường bay thẳng từ các thành phố lớn của Thái Lan nối với các thành phố lớn của ta, cùng với những chính sách thu hút khách hấp dẫn thì chúng ta có thể có thu hút được một lượng khách quốc tế lớn đến nước ta qua Thái Lan. Ngoài ra chúng ta cần xem xét và nên kế hoạch, để xây dựng đường bay thẳng từ các thành phố lớn của Việt Nam đến các thành phố lớn của Lào và Campuchia, tạo điều kiện cho việc phát triển du lịch của ba nước. Từ đó chúng ta có thể thu hút được lượng khách du lịch là người dân hai nước và khách quốc tế đến hai nước đó sang Việt Nam . 4. Đẩy mạnh khai thác tiềm năng du lịch biển So với Lào và Campuchia thì chúng ta có một thế mạnh về biển, biển của ta rất dài, điều thú vị là cả hai điểm đầu và cuối của đường biển nước ta đều là hai bãi biển đẹp: bãi biển Trả Cổ ở Quảng Ninh và bãi biển Hà Tiên. Bên cạnh đó, vùng biển nước ta còn có khoảng 3000 hòn đảo lớn nhỏ và các quần đảo ở gần và xa bờ với nhiều bãi biển và phong cảnh đẹp còn nguyên vẹn vẻ hoàng sơ, môi trường trong lành và những điều kiện tự nhiên rât thuận lợi để phát triển các loại hình du lịch biển. Hơn nữa nước ta lại nằm trên đường hàng hải quốc tế, rõ ràng đây là lợi thế của du lịch Việt Nam so với du lịch Lào và Campuchia thì tại sao chúng ta lại không đẩy mạnh khai thác, để tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo cho du lịch Việt Nam, như vậy chúng ta sẽ thu hút được rất nhiêu du khách quốc tế. Thúc đẩy xây dựng các loại hình du lịch biển như : loại hình du lịch nghỉ biển, loại hình du lịch lặn biển, loại hình du lịch mạo hiểm… 5. Đẩy mạnh xúc tiến, tuyên truyền quảng bá du lịch Xúc tiến tuyên truyền quảng bá du lịch là biện pháp quan trọng để tạo lập và nâng cao hình ảnh Du lịch Việt Nam cả trong và ngoài nước nhằm thu hút khách, giáo dục du lịch toàn dân, góp phần thực hiện tuyên truyền đối ngoại va đối nội, cần được chú trọng trong thời gian tới.tập trung vào: -sử dụng hệ thống công nghệ thông tin để tăng cường quảng bá du lịch Việt Nam ra thế giới, vì hệ thống thông tin của Việt Nam phát triển hơn so với Lào và Campuchia. - tăng cường tuyên truyền quảng bá trên các phương tiện truyền thông, phương tiện thông tin đại chúng với các loại hình khác nhau. Xúc tiến việc xây dựng và phát hành rộng rãi các phim ảnh tư liệu về lịch sử văn hoá, các công trình kiến trúc, di tích, các danh lam, thắng cảnh, các làng nghề, lễ hội…cộng tác chặt chẽ với các báo cáo, tạp chí du lịch có tiếng trên thế giới để giới thiệu về du lịch Việt Nam. -tham gia thường xuyên các hội chợ, triển lãm, hội nghị,hội thảo du lịch quốc tế ở nước ngoài, đồng thời tổ chức các hội chợ, triển lãm, hội nghị, hội thảơ du lịch quốc tế ở trong nước, phối hợp với các ngành, địa phương, đơn vị liên quan tiến hành các chiến dịch phát động thị trường. - tiến hành thiết lập Đại diện Du lịch Việt Nam ở những nước là đầu môi giao lưu quôc tế và thị trường trọng điểm. - Phối hợp với các lực lượng làm thông tin đối ngoại, tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài và hỗ trợ quốc tế để công tác xúc tiến quảng bá du lịch đạt hiệu quả. 6. Hoàn thiện các chính sách quản lý của nhà nước 6.1. Kiện toàn công tác quản lý nhà nước về du lịch - Kiện toàn hệ thống quản lý nhà nước về du lịch: Thành lập cơ quan quản lý nhà nước về du lịch lên tương ứng với chức năng, nhiệm vụ ngành kinh tế mũi nhọn. Kiện toàn chức năng và các đơn vị trực thuộc. Thành lập Cục xúc tiến du lịch, lập thêm các Sở du lịch ở những địa bàn trọng điểm nhiều tiềm năng du lịch và hoạt động du lịch sôi nổi. - Sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, hình thành các công ty hoặc tổng công ty mạnh, tăng cường vai trò chủ đạo cuả kinh tế nhà nước trong hoạt động du lịch . Đa dạng sở hữu thông qua việc đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, thành lập mới công ty cổ phần và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh du lịch để có thể huy động ngày càng tăng các nguồn lực xã hội vào phát triển du lịch. Thành lập Hiệp hội du lịch Việt Nam . -Gắn mô hình đổi mới tổ chức quản lý với yêu cầu bảo đảm tính hiệu quả, đồng bộ và bảo đảm ổn định,an ninh, an toàn trong hoạt động của ngành và với nhiệm vụ đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội . -Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luận về du lịch, trên cơ sở triển khai pháp lệnh du lịch, tiến tới xây dựng luật du lịch, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho công tác quản lý các hoạt động của ngành. -Đẩy mạnh cải cách hành chính, phân cấp và đơn giản hoá các thủ tục liên quan đến khách du lịch và doanh nghiệp kinh doanh du lịch. 6.2. Tiếp tục hoàn thiện các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. - Chính sách tài chính: Ưu tiên thếu nhập khẩu với thếu suất bằng thếu suất nhập tư liệu sản xuất đối với các trang thiết bị khách sạn, cơ sở vui chơi giải trí, phương tiện vận chuyển khách du lịch,vật tư phục vụ du lịch mà trong nước chưa sản xuất được hoặc không đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá cơ sở du lịch theo yêu cầu du khách; ưu tiên, miễn giảm, cho chậm nộp thếu, giảm tiền thêu đất, lãsi suất ưu tiên vốn vay đầu tư đối với các dự án ưu tiên và tại các vùng trọng điểm phát triển du lịch, khu du lịch quốc gia; có chế độ hợp lý về thếu, về giá điện, nước trong kinh doanh khách sạn, rà soát điều chỉnh phương pháp tính thếu, các loại phí,lệ phí, các hình thức vé liên quan đến du lịch; áp dụng thống nhất chính sách về giá trong phạm vi cả nước. Hoạt động du lịch là hoạt động xuất khẩu tại chỗ, do đó cho phép kinh doanh du lịch quốc tế được hưởng các chế độ ưu đãi khuyến khích xuất khẩu. -Chính sách đầu tư:Nhà nước có chính sách đầu tư hợp lý phát triển kết cấu hạ tầng tại các vùng du lịch trọng điểm, các khu du lịch quốc gia cũng như các điểm du lịch quốc gia, các điểm du lịch tiềm năng ở các vùng xa xôi, hẻo lánh; đòng thời chú trọng đầu tư xúc tiến quản bá du lịch, hàng năm cho phép trích lại 5 % nguồn nộp ngân sách của ngành Du lịch cho xúc tiến quảng bá du lịch, Chính phủ hỗ trợ cho Hàng không để giảm giá 50% cước vận chuyển ấn phẩm và hàng tham gia hội chợ du lịch, thương mại –du lịch quốc tế. Trên cơ sở xem xét các thế mạnh và tốc độ phát triển của từn địa phương nhằm khuyến khích việc huy động các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế đầu tư vào việc phát triển hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, đa dạng các sản phẩm du lịch. áp dụng chính sách ưu đãi đầu tư trong nước đôí với các lĩnh vực, ngành nghề, dự án trọng điểm đầu tư du lịch. Từng bước có chính sách thuận lợi cho việc đầu tư vốn của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam ra nước ngoài. áp dụng các biện pháp ưu đãi (về thếu, lệ phí, tiền sử dụng đất, cho vay vốn…) đối với các dự án; lĩnh vực ngành nghề thuộc danh mục các trọng điểm ưu tiên đầu tư. - Chính sách xuất nhập cảnh, hải quan : Tiếp tục đơn giản hoá các thủ tục xuất nhập cảnh, quá cảnh đối với người và hành lý của khách du lịch phù hợp khả năng quản lý của nước ta và thông lệ quốc tế; cải tiến quy trình, tăng cường trang thiết bị hiện đại tại các cửa khẩu quốc tế trong việc kiểm tra người và hành lý; sửa đổi, bổ sung các đồ giả cổ, đồ thủ công mỹ nghệ dân gian; mở thêm các dịch vụ thuận lợi cho khách du lịch (đổi tiền, thu trực tiếp ngoại tệ, cửa hàng miễn thuế, quầy thông tin du lịch…). Nghiên cứu và xúc tiến miễn thị thực với các nước ASEAN và một số nước là các thị trường trọng điểm khác có nhiều khách du lịch vào Việt Nam du lịch. Nghiên cứu áp dụng visa điện tư trong xuất, nhập cảnh; áp dụng các hình thức thanh toán hiện đại để tạo điều kiện thuận lợi cho khách trong thanh toán mua dịch vụ và hàng hoá của Việt Nam. Cho phép khách du lịch được mang phương tiện giao thông riêng phục vụ cho chuyến du lịch ở Việt Nam (mô tô, ô tô, tàu thuyền du lịch, riêng xe tay lái bên phải cảnh sát giao thông dẫn đường) theo phương thức tạm nhập, tái xuất. 6.3. Đẩy mạnh công tác quản lý, bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch và môi trường tự nhiên, xã hội. - Tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước, tài nguyên và môi trường du lịch, đảm bảo phát triển bền vững của Du lịch Việt Nam. - Đánh giá toàn diện tiềm năng, tài nguyên và môi trường du lịch (cả tự nhiên và xã hội), đặc biệt là ở các khu trọng điểm phát triển du lịch, ở các vùng sâu, vùng xa. - Xây dựng hệ thống quản lý tài nguyên và môi trường du lịch (cả tự nhiên và xã hội), thường xuyên theo dõi biến động để có những giải pháp kịp thời phối hợp cùng các ban, ngành và địa phương liên quan khắc phục sự cố, tình trạng xuống cấp về tài nguyên và môi trường du lịch. -Tăng cường công tác quản lý môi trường ở các điểm du lịch: tiếp tục phối hợp với các ngành, các cấp phòng chống tệ nạn xã hội thâm nhập vào hoạt động du lịch: chú trọng xử lý nước thải, chất thải ở các khách sạn, các điểm du lịch, khu du lịch; khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ thân thiện với môi trường: huy động sự tham gia và đóng góp của cộng đồng dân cư, doanh nghiệp, hiệp hội du lịch, khách du lịch, cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức xã hội trong việc bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội. -Lồng ghép đào tạo và giáo dục về tài nguyên và môi trương du lịch trong chương trình đào tạo của hệ thống đào tạo các cấp về du lịch, cũng như giáo dục nâng cao nhận thức về việc bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch cho khách du lịch, cộng đồng dân cư thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. 7. chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch. xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực du lịch. Đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ lao động hiện có và kết hợp đào tạo mới cả trong nước và ngoài nước: kết hợp đào tạo mới để đáp ứng nhu cầu trước mắt và chuẩn bị cho lâu dài. Xây dựng mô hình đào tạo: trường- khách sạn và Học Viện Du Lịch Quốc Gia hoặc đại học chuyên ngành du lịch. Thí điểm mô hình dạy nghề có sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp du lịch với nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước và doanh nghiệp. Ngắn giáo dục và đào tạo du lịch với hệ thống đào tạo quốc gia và chú trọng giáo dục toàn dân. Thực hiện phương châm Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động cùng làm để xây dựng nhanh công tác đào tạo lại và bồi dưỡng lực lượng lao động trong du lịch, từng bước xã hội hoá đào tạo du lịch; coi trọng và tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo du lịch. 8. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ. Nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ là giải pháp quan trọng có ý nghĩa chiến lược đối với du lịch, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay thì hàm lượng khoa học và công nghệ trong mỗi sản phẩm ngày càng cao, nước ta đang bước vào nền kinh tế tri thức. Các sản phẩm nghiên cứu khoa học sẽ là cơ sở cho công tác quy hoạch phát triển ngành du lịch, hoạch định các chiến lược thị trường, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm, cho việc đề xuất các cơ chế chính sách phù hợp và cho công tác quản lý. Việc nghiên cứu ứng dụng thành tựu mới của công nghệ thông tin đóng một vai trò quan trọng không chỉ đối với công tác quản lý mà còn đối với các hoạt động kinh doanh du lịch, tuyên truyền quảng bá du lịch. để thực hiện yêu cầu trên cần: -đầu tư củng cố nâng cao năng lực nghiên cứu ứng dụng của Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch. Trung tâm Công nghệ Thông tin Du lịch. -Khuyến khích nghiên cứu khoa học phục vụ việc giải quyết các vấn đề bức xúc của ngành: đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin du lịch, thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin chuyên ngành góp phần thúc đẩy công tác quản lý, kinh doanh và xúc tiến quảng bá du lịch. Khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh. Tạo điều kiên cho doanh nghiệp kết hợp với các cơ sỏ đào tạo trong nghiệp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ. Khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế. - Chú trọng sử dụng và phát huy tiềm năng chất xám, tri thức của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển du lịch. -Mở rộng giao lưu và hợp tác với các tổ chức, cơ quan khoa học trong và ngoài nước để tranh thủ hỗ trợ kỹ thuật, kinh nghiệm, tiếp cận với những thành tựu mới , tiên tiến về khoa học công nghệ du lịch quốc tế để áp dụng cho Du lịch Việt Nam. 9. Tăng cường quá trình hội nhập, hợp tác quốc tế. Đồng thời với các giải pháp phát huy nội lực, cần coi trọng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để phát triển nhanh du lịch Việt Nam, gắn thị trường du lịch Việt Nam với thị trương du lịch thế giới. Thông qua hoạt động hợp tác trên tất cả các lĩnh vực với các nước, các cá nhân và các tổ như WTO, PATA, ASEAN, ASEANTA, EU…để tranh thủ kinh nghiệm, vốn và nguồn khách góp phần đưa du lịch Việt Nam nhanh chóng đuổi kịp trình độ và hội nhập với sự phát triển chung của du lịch khu vực và thế giới. Thực hiện và khai thác có hiệu qủa 16 hiệp định đã ký; duy trì, củng cố và phát huy các quan hệ song phương, ký tiếp một số hiệp định mới. Đẩy mạnh sự tham gia hợp tác đa phương trong khu vực và quốc tế, khai thác tốt quyền lợi hội viên và thực hiện tốt nghĩa vụ của mình. chuẩn bị các điều kiện về cán bộ, thể chế và kinh tế để hội nhập du lịch ở mức độ cao trước mắt là thực thi hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ trong du lịch và khi Việt Nam ra nhập Tổ chức Thương mại Thế Giới (WTO). Thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết trong quá trình hội nhập theo đúng lộ trình, bảo hộ có trọng điểm, có điều kiện và có thời hạn. hướng dẫn và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xây dựng kêt hoạch, giải pháp để thực hiện các cam kết quôc tế trong du lịch nói riêng và trong hợp tác kinh tế quôc tế nói chung, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường, tăng thị phần trong thị trường truyền thống và khai thông, nâng dần vị thế trên thị trường mới. Khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam đầu tư du lịch ra nước ngoài. Kết luận Với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia đều đang đặt mình vào sự cạnh tranh khốc liệt, chỉ có những sản phẩm mới với những đặc tính mới ưu việt hoặc là những sản phẩm mang đặc tính riêng, độc đáo của doanh nghiệp đó thì mới có thể đứng vững trên thị trường. Ngành du lịch cũng không thể thoát ra khỏi quy luật đó, chúng ta biết rằng trong những năm gần đây Đông Nam A nói chung và Đông Dương nói riêng đã là điểm du lịch ưa thích của du khách quốc tế. Việt Nam, Lào và Campuchia đều có nền văn minh lúa nước từ lâu đời, tưởng rằng ba nước nằm kề nhau này sẽ tạo ra những sản phẩm du lịch như nhau, nhưng điều đó sẽ không thể nào xảy ra, bởi lẽ qua sự nghiên cứu ở trên chúng ta đã thấy được lợi thế so sánh của Du lịch Việt Nam với Lào và Campuchia về: tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn phong phú, đa dạng độc đáo; về sự phát triển của giao thông, bưu chính viễn thông, cơ sở vật chất hạ tầng, kinh tế, hệ thống pháp luật…Ngành du lịch nước ta tuy mới chỉ đang trong giai đoạn đầu nhưng chúng ta đã biết tận dụng và khai thác một cách hợp lý: chúng ta đã biệt tận dụng ưu thế để tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo, những chương trình du lịch hấp dẫn thu hút khách. Từ quá trình nghiên cứu tìm hiểu trên chúng tôi muốn ngành du lịch Việt Nam sẽ tạo ra hơn nữa sự khác biệt trong sản phẩm du lịch để có thể thu hút nhiều hơn nữa du khách quốc tế. Sự nghiên cứu này của chúng tôi chỉ mới tập chung vào một số vấn đề mà chúng tôi cho rằng đó là quan trọng nhất, có thể còn có sự hạn chế nào đó, chúng tôi mong muốn sự đóng góp ý kiến của Thầy Cô và các bạn để đề tài của chúng tôi hoàn thiện hơn, để chúng ta có thể tạo ra ngày càng nhiều hơn lợi thế so sánh của du lịch Việt Nam so với Lào và Campuchia, qua sự tìm hiểu, nghiên cứu và đưa ra các giải pháp ưu việt nhất. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0036.doc