Đánh giả khả năng sản xuất của Dê Beetal thế hệ thứ 5 và 6 nuôi tại Trung tâm nghiên cứu Dê và thỏ sơn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM LÊ THỊ THU HÀ ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA DÊ BEETAL THẾ HỆ THỨ 5 VÀ 6 NUÔI TẠI TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU DÊ VÀ THỎ SƠN Chuyên ngành: CHĂN NUÔI Mã số: 60 - 62 - 40 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Công trình được hoàn thành tại: TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄ

pdf91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1576 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Đánh giả khả năng sản xuất của Dê Beetal thế hệ thứ 5 và 6 nuôi tại Trung tâm nghiên cứu Dê và thỏ sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
N KIM LIN PGS.TS. TRẦN VĂN TƯỜNG Phản biện 1: TS. Trần Trang Nhung Phản biện 2: TS. Đào Văn Khanh Luận văn sẽ được bảo vệ trước hội đồng chấm luận văn họp tại: TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN Ngày 08 tháng 11 năm 2009 Có thể tìm hiểu luận văn tại: THƯ VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Tác giả luận văn Lê Thị Thu Hà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ii LỜI CẢM ƠN Sau quá trình học tập và nghiên cứu, đến nay tôi đã hoàn thành bản luận văn thạc sĩ nông nghiệp. Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Lãnh đạo trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, khoa Sau Đại học, khoa Chăn nuôi - thú y đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình. Tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành và sâu sắc tới toàn thể các thầy cô giáo trong và ngoài khoa đã tận tình dạy dỗ, dìu dắt tôi trong suốt quá trình học tập tại trường. Đặc biệt tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới các thầy hướng dẫn: TS. Nguyễn Kim Lin, PGS.TS. Trần Văn Tường đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành bản luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Lãnh đạo, CBCNV Trung tâm Nghiên cứu Dê và Thỏ Sơn Tây, đặc biệt là PGS.TS. Đinh Văn Bình – Giám đốc trung tâm đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Xin chân thành cảm ơn các bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu. Tác giả Lê Thị Thu Hà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên iii MỤC LỤC Lời cam đoan i Lời cảm ơn ii Mục lục iii Danh mục các bảng vi Danh mục biểu đồ, đồ thị vii Danh mục các chữ viết tắt viii MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Mục đích của đề tài 2 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn 2 3.1. Ý nghĩa khoa học 2 3.2. Ý nghĩa thực tiễn 3 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4 1.1. Cơ sở khoa học về khả năng sản xuất 4 1.1.1. Yếu tố di truyền 4 1.1.2. Yếu tố giống 5 1.2. Khả năng sinh trƣởng của dê 5 1.2.1. Khả năng về sinh trưởng và phát dục của dê 5 1.2.2. Một số chỉ tiêu đánh giá sinh trưởng của dê 7 1.2.3. Khả năng sản xuất thịt của dê 8 1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng của dê 9 1.3. Đặc điểm và khả năng sinh sản của dê 12 1.3.1. Một số chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sản của dê 15 1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của dê 19 1.4. Đặc điểm khả năng cho sữa của dê 21 1.4.1. Các chỉ tiêu đánh giá sức sản xuất sữa của dê 22 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên iv 1.4.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sức sản xuất sữa của dê 23 1.5. Tình hình chăn nuôi dê trên thế giới và trong nƣớc 26 1.5.1. Tình hình chăn nuôi dê trên thế giới 26 1.5.2. Tình hình chăn nuôi dê trong nước 29 CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 32 2.1. Đối tƣợng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 32 2.2. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu 34 2.2.1. Nội dung nghiên cứu 34 2.2.2. Phương pháp nghiên cứu 38 CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 40 3.1. Một số chỉ tiêu về đặc điểm và khả năng sinh sản của dê Beetal 40 3.1.1. Đặc điểm phát dục của dê cái Beetal 40 3.1.2. Khả năng sinh sản của dê cái Beetal 44 3.1.3. Một số chỉ tiêu đánh giá đặc điểm và khả năng sinh sản của dê cái Beetal 47 3.1.3.1. Đặc điểm sinh lý sinh sản của dê cái Beetal 47 3.1.3.2. Một số chỉ tiếuinh sản của dê cái Beetal 49 3.2. Khả năng cho sữa của dê cái Beetal 53 3.2.1. Khả năng cho sữa của dê cái Beetal qua các tháng 53 3.2.2. Khả năng cho sữa của dê cái Beetal qua các lứa đẻ 56 3.2.3. Một số chỉ tiêu và thành phần dinh dưỡng của sữa dê Beetal 58 3.2.4. Hiệu quả sử dụng thức ăn cho sản xuất sữa của dê Beetal 59 3.3. Một số chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh trƣởng của dê Beetal 60 3.3.1. Khối lượng của dê đực và dê cái Beetal ở một số thời điểm sinh trưởng 60 3.3.2. Sinh trưởng tuyệt đối của dê đực và dê cái Beetal qua các giai đoạn tuổi 64 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên v 3.3.3. Kích thước một số chiếu đo cơ thể của dê Beetal 67 3.3.4. Khả năng cho thịt và chất lượng thịt của dê đực Beetal 70 3.3.4.1. Khả năng cho thịt của dê đực Beetal 70 3.3.4.2. Chất lượng thịt của dê đực Beetal 71 3.4. Tình hình bệnh tật của đàn dê Beetal 72 KẾT LUẬN, ĐỀ NGHỊ 74 1. Kết luận 74 2. Đề nghị 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO 76 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên vi DANH MỤC CÁC BẢNG STT TÊN BẢNG TRANG Bảng 2.1: Số lượng dê ban đầu sử dụng trong nghiên cứu 32 Bảng 2.2: Khẩu phần thức ăn sử dụng cho đàn dê 33 Bảng 3.1. Một số đặc điểm phát dục của dê cái Beetal 41 Bảng 3.2. Chất lượng tinh dịch dê đực Beetal 44 Bảng 3.3: Kết quả phối giống 46 Bảng 3.4: Đặc điểm sinh lý sinh sản của dê cái Beetal 47 Bảng 3.5. Một số chỉ tiêu sinh sản của dê cái Beetal 50 Bảng 3.6. Khả năng cho sữa của dê Beetal qua các tháng 53 Bảng 3.7. Khả năng cho sữa của dê Beetal qua các lứa đẻ 57 Bảng 3.8. Thành phần dinh dưỡng của sữa dê Beetal 58 Bảng 3.9: Tiêu tốn VCK và protein thô thức ăn/1 kg sữa sản xuất ra 59 Bảng 3.10. Khối lượng của dê đực Beetal ở một số thời điểm sinh trưởng 61 Bảng 3.11. Khối lượng của dê cái Beetal ở một số thời điểm sinh trưởng 62 Bảng 3.12: Sinh trưởng tuyệt đối của dê đực Beetal qua các giai đoạn tuổi 64 Bảng 3.13: sinh trưởng tuyệt đối của dê cái Beetal qua các giai đoạn tuổi 65 Bảng 3.14: Kích thước một số chiều đo cơ thể của dê đực Beetal 68 Bảng 3.15: Kích thước một số chiều đo cơ thể của dê cái Beetal 69 Bảng 3.16: Khả năng cho thịt của dê đực Beetal 71 Bảng 3.17: Chất lượng thịt của dê đực Beetal 72 Bảng 3.18: Tình hình bệnh tật của đàn dê Beetal qua các năm 73 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên vii DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ STT TÊN ĐỒ THỊ TRANG Đồ thị 3.1: Đặc điểm chu kỳ sữa của dê Beetal 54 Đồ thị 3.2: Sinh trưởng tích luỹ của dê qua các tháng tuổi 63 Đồ thị 3.3 : Sinh trưởng tuyệt đối của dê Beetal 66 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên viii CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN A Hoạt lực tinh trùng Al Dê Alpine Ba Dê Barbari Be Dê Beetal Bo Dê Boer Bt Dê Bách Thảo C Nồng độ tinh trùng CV Cao vây ĐDLĐ Động dục lần đầu ĐLĐ Đẻ lứa đầu DTC Dài thân chéo Ju Dê Jumnapari K Tỷ lệ tinh trùng kỳ hình NSS Năng suất sữa PGLĐ Phối giống lần đầu Sa Dê Saanen SLS Sản lượng sữa TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam V Lượng tinh dịch V.A.C Tổng số tinh trùng tiến thẳng VCK Vật chất khô VN Vòng ngực Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Dê là con vật được nuôi rộng rãi khắp thế giới với mục đích lấy thịt, sữa, lông và da. C.Devendra (1980) [33] cho rằng: Thịt dê chứa ít mỡ và được ưa thích ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các vùng nhiệt đới, châu Á, châu Phi, Trung Cận Đông, Ấn Độ, Bangladesh... thịt dê được sử dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, nhiều nơi giá thịt dê thường cao hơn các loại thịt khác, đồng thời ngành chăn nuôi dê thịt khá phát triển đã mang lại lợi nhuận đáng kể cho người chăn nuôi. Các nước ôn đới chủ yếu nuôi dê lấy sữa, sữa dê là loại thức ăn bổ dưỡng cho con người. Jenness (1980) [38] chứng minh được rằng: Sữa dê có giá trị dinh dưỡng cao hơn sữa bò, hàm lượng protein và giá trị sinh học của protein cũng cao hơn, axit amin trong sữa dê tương đương với sữa người. Trong sữa dê có nhiều axit amin không thay thế, mặt khác do hạt mỡ trong sữa dê có kích thước nhỏ hơn nhiều so với kích thước của hạt mỡ trong sữa trâu và bò, nên khả năng tiêu hoá và hấp thu của sữa rất tốt. Ấn Độ là nước nuôi nhiều dê trên thế giới với 20 giống dê khác nhau C. Devendra (1982)[34]. Các giống dê được nuôi nhiều nhất ở Ấn Độ hiện nay là Jumnapari, Barbari, Beetal, Mawari, Black-Bengal (N.K. Bhattacharyya, 1989)[31]. Nhiều nhà khoa học ở Ấn Độ, Pakistan và đặc biệt là C.Devendra và Marca Burns (1983) [35] cho rằng: Beetal là giống dê sữa tốt với sản lượng trung bình của một chu kỳ tiết sữa là 195 kg, thời gian cho sữa là 224 ngày; số con sơ sinh/lứa là 1,7con. Ở Việt Nam, trước năm 1994 chỉ có 2 giống dê chính là dê Cỏ và dê Bách Thảo được nuôi chủ yếu để lấy thịt. Năm 1994, Chính phủ Ấn Độ tặng cho Việt Nam 500 con dê giống, trong đó có 80 con dê Beetal, được giao cho Trung tâm nghiên cứu Dê và Thỏ Sơn Tây, thuộc Viện Chăn Nuôi nuôi giữ và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 phát triển, từ đó các giống dê Ấn Độ đã được nhân thuần, lai tạo với các giống dê nội địa và phát triển rộng rãi ở Việt Nam. Các giống dê Ấn Độ này nuôi ở Việt Nam đến nay đã được 5 - 6 thế hệ, kết quả cho thấy: dê Beetal có khả năng cho sữa tốt và được người chăn nuôi ưa thích. Theo Đinh Văn Bình và cộng sự (1998) [2], sản lượng sữa của dê Beetal nuôi tại Việt Nam là 166 - 201,4 kg với thời gian cho sữa là 167 - 183 ngày. Do số lượng dê Beetal nhập ban đầu năm 1994 không nhiều, nhất là dê đực chỉ có 4 con nên đến nay ở thế hệ 5 - 6 đã phải ghép phối trở lại trong huyết thống. Do đó, việc đánh giá khả năng sản xuất của giống dê này để có biện pháp sử dụng và nuôi giữ lâu dài dê Beetal thế hệ 5 - 6 tại Trung tâm nghiên cứu Dê và Thỏ là cấp thiết. Xuất phát từ tình hình thực tế trên chúng tôi tiến hành đề tài: “Đánh giá khả năng sản xuất của dê Beetal thế hệ 5 và 6 nuôi tại Trung tâm nghiên cứu dê và thỏ Sơn Tây”. 2. Mục đích của đề tài - Xác định được một số chỉ tiêu về khả năng sản xuất chính: sinh sản, cho sữa và cho thịt của giống dê Beetal thế hệ 5, 6 trong điều kiện chăn nuôi tại trại giống Trung tâm nghiên cứu dê và thỏ Sơn Tây, Hà Nội. - So sánh đánh giá khả năng sản xuất của các thế hệ này. 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn 3.1. Ý nghĩa khoa học Kết quả nghiên cứu đã đánh giá được một số chỉ tiêu về khả năng sản xuất chính như sinh sản, cho sữa và cho thịt của giống dê Beetal thế hệ 5 và 6. Kết quả đề tài bổ sung tư liệu về con dê góp phần phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học ở các viện, trung tâm, các trường đại học, cao đẳng, trường kỹ thuật nông nghiệp và làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu, cán bộ kỹ thuật, sinh viên nghành nông nghiệp và người nuôi dê. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 3.2. Ý nghĩa thực tiễn Đề tài đã đánh giá được một số chỉ tiêu về khả năng sản xuất chính của dê Beetal thế hệ 5 và 6 nuôi tại Trung tâm nghiên cứu Dê và Thỏ Sơn Tây và các kết quả nghiên cứu cho thấy được chiều hướng thoái hóa của giống dê này, do vậy cần thiết phải có kế hoạch nhập mới giống dê Beetal về làm tươi máu đàn dê. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Cơ sở khoa học về khả năng sản xuất Phần lớn các đặc tính quý có giá trị kinh tế của vật nuôi đều thuộc tính trạng số lượng, các tính trạng số lượng có đặc trưng là biến dị liên tục, chịu ảnh hưởng của kiểu di truyền là kiểu gen G (Genotype) và ngoại cảnh E (Environment) theo công thức sau: Giá trị kiểu hình của các tính trạng P (Phenotype) = G + E Tuỳ theo điều kiện môi trường ngoại cảnh E mà giá trị di truyền G thể hiện ra kiểu hình P nhiều hay ít. Vì vậy, giữa kiểu di truyền và ngoại cảnh còn có mối quan hệ tương tác, mối quan hệ này cũng tham gia vào sự thể hiện ra kiểu hình P theo công thức: P = G + E + IGE 1.1.1. Yếu tố di truyền Kiểu di truyền hay giá trị kiểu di truyền G lại bao gồm: Giá trị di truyền cộng gộp A (Additive) còn gọi là giá trị giống cá thể, thành phần này sẽ truyền lại cho cá thể đời sau một nửa (1/2 A); sai lệch D (Dominant) là thành phần di truyền tạo ra do quan hệ trội giữa 2 alen trong cùng một gen và hiệu ứng tương tác gen I (Interaction) giữa các alen không cùng gen trong một nhiễm sắc thể, hai thành phần di truyền này không truyền lại cho đời sau mà được hình thành do sự tái tổ hợp. G = A + D + I Sai lệch môi trường chung Eg (General enviromental deviation) là sai lệch do các nhân tố môi trường tác động thường xuyên lên tính trạng một cách lâu dài. Các yếu tố đó là: Thức ăn, khí hậu, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng... tác động lên một nhóm cá thể hay một quần thể gia súc (Nguyễn Văn Thiện, 1995) [22]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 Sai lệch môi trường riêng Es (Special Environmental deviation) là sai lệch do các nhân tố môi trường tác động riêng rẽ lên từng cá thể riêng biệt trong nhóm vật nuôi hoặc một vài bộ phận riêng của một cá thể nào đó trong quần thể trong một thời gian ngắn và không thường xuyên (Nguyễn Văn Thiện, 1995) [22]. Như vậy, khi giá trị kiểu hình của một tính trạng nào đó chi phối bởi 2 locus trở lên thì giá trị ấy được biểu thị như sau: P = G + E = A + D + I + Eg + Es 1.1.2. Yếu tố giống Là đặc tính của sinh vật nó được truyền từ bố mẹ đến đời con cháu những đặc tính mà cha mẹ và tổ tiên đã có. Tính di truyền về sức sản xuất cao hay thấp, chuyên môn hóa hay kiêm dụng đều ảnh hưởng tới quá trình sinh trưởng và phát dục, nhất là ảnh hưởng đến những bộ phận trực tiếp đến sức sản xuất. Theo R.M.Acharaya (1992)[27] , hệ số di truyền về tính trạng khối lượng của dê như sau : Tính trạng Hệ số di truyền - Khối lượng cai sữa 0,3- 0,5 - Khối lượng 12 - 16 tháng tuổi 0,5 Như vậy, hệ số di truyền tính trạng khối lượng của dê tương đối cao. Để tạo tính di truyền trong sự phát triển ta phải chọn những cá thể đực và cái mang những tính trạng di truyền mong muốn (sinh trưởng phát dục nhanh, sức sản xuất cao…) cho giao phối, cần củng cố các đặc tính di truyền tốt ở các cá thể. 1.2. Khả năng sinh trƣởng của dê 1.2.1. Khái niệm về sinh trưởng và phát dục Sinh trưởng là sự tăng lên về thể tích, khối lượng, kích thước của từng bộ phận hay của toàn bộ cơ thể con vật. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 Phát dục là quá trình thay đổi tăng thêm hoặc hoàn thiện thêm tính chất, chức năng của các cơ quan bộ phận trong cơ thể vật nuôi. Mỗi cơ thể sinh vật sinh ra và lớn lên đều có quá trình hình thành và phát triển. Sự hình thành, phát triển này không phải xảy ra hoàn toàn trong tế bào sinh dục, cũng không phải hoàn chỉnh đầy đủ trong quá trình hình thành phôi thai. Mà nó được hình thành, phát triển hoàn thiện trong quá trình phát triển cơ thể của con vật. Đặc điểm của sinh vật là hấp thu, sử dụng năng lượng của môi trường xung quanh làm thành chất cấu tạo cơ thể của mình để lớn lên và phát triển. Quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào các đặc tính di truyền của bố mẹ, tổ tiên, mà còn phụ thuộc vào sự thay đổi của môi trường sống. Quá trình phát triển đó gồm hai mặt sinh trưởng và phát dục. Đối với sự phát triển chung của một cơ thể sống, quá trình sinh trưởng và phát dục có mối liên quan chặt chẽ với nhau, hai quá trình này không có ranh giới. Sinh trưởng là sự thay đổi về số lượng, phát dục thay đổi về chất lượng. Tại một thời điểm nào đó có thể hai quá trình này diễn ra song song với nhau nhưng cũng có thể quá trình sinh trưởng diễn ra yếu và quá trình phát dục lại mạnh và ngược lại. Nhiều nghiên cứu chứng minh rằng, sự phát triển của cơ thể động vật có tính giai đoạn. Mỗi giai đoạn khác nhau thì sự sinh trưởng và phát dục khác nhau. Giai đoạn đầu của thời kì bào thai, quá trình phát dục mạnh và nhanh để hình thành nên các tổ chức, bộ phận của cơ thể nhưng đồng thời quá trình sinh trưởng diễn ra cũng rất khẩn trương. Đến cuối giai đoạn bào thai thì quá trình phát dục chậm lại và quá trình sinh trưởng lại nhanh hơn để tăng khối lượng, kích thước cho cơ thể, như vậy hai quá trình này có một mối liên hệ chặt chẽ. Nếu phát dục không đầy đủ sẽ trở nên dị tật và ngược lại, nếu sinh trưởng không đầy đủ cơ thể sẽ còi cọc, chậm lớn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 Trong chăn nuôi, để đánh giá sự sinh trưởng và phát dục của gia súc người ta thường dùng phương pháp cân khối lượng và đo kích thước các chiều đo của cơ thể. Ở các cơ sở chăn nuôi, phương pháp chủ yếu là cân định kỳ gia súc vào những thời điểm nhất định, ngoài ra còn dùng phương pháp đo gia súc phụ thuộc vào tuổi, loài, giống và mục đích của việc nghiên cứu. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào phương pháp cân định kỳ gia súc để xác định sự sinh trưởng phát dục thì không chính xác. Vì nếu chỉ dựa vào trọng lượng để đáng giá thì không đủ bởi có thể gia súc thiếu thức ăn vẫn giữ nguyên trọng lượng hoặc bị giảm đi nhưng chiều cao, chiều dài, chiều ngang của cơ thể vẫn có thể tăng lên. Chính vì vậy, tốt nhất tùy từng loài gia súc mà ta sử dụng kết hợp cả hai phương pháp để cho kết quả chính xác hơn. Đối với dê thường tiến hành cân đo vào các thời điểm: sơ sinh. 3, 6, 9, 12 tháng tuổi để đánh giá tốc độ sinh trưởng. Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng trong chăn nuôi vì trong cùng một điều kiện sống, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng như nhau thì những gia súc có tốc độ sinh trưởng nhanh sẽ tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng trọng thấp hơn những gia súc có tốc độ sinh trưởng chậm. 1.2.2. Một số chỉ tiêu đánh giá sinh trưởng Để biểu thị tốc độ sinh trưởng, người ta thường dùng các đại lượng sau: - Độ sinh trưởng tích lũy: là thể tích, kích thước, khối lượng của toàn cơ thể hoặc từng bộ phận cơ thể vật nuôi tích lũy được tại các thời điếm sinh trưởng, nghĩa là tại thời điểm tiến hành cân, đo, đếm. - Độ sinh trưởng tuyệt đối: là sự tăng thêm về thể tích, kích thước, khối lượng của toàn cơ thể hoặc của từng bộ phận cơ thể vật nuôi trong một đơn vị thời gian. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 Công thức tính: A = 12 21 TT VV   A: Độ sinh trưởng tuyệt đối, đơn vị tính gram/ ngày V2: Thể tích, kích thước, khối lượng tích lũy được ở thời điểm T2 V1: Thể tích, kích thước, khối lượng tích lũy được ở thời điểm T1 - Độ sinh trưởng tương đối: là sự tăng thêm về thể tích, kích thước, khối lượng của cơ thể hoặc từng bộ phận của cơ thể tại thời điểm sinh trưởng sau so với thời điểm sinh trưởng trước và được tính theo phần trăm. Công thức tính: R (%) = {V2 - V1/ 0,5(V2 + V1)}* 100 R : Độ sinh trưởng tương đối (%) V2: Thể tích, kích thước, khối lượng tại thời điểm sinh trưởng sau V1: Thể tích, kích thước, khối lượng tại thời điểm sinh trưởng trước Chúng ta có thể thấy rằng khả năng sản xuất của con vật có thể được biểu hiện ở một vài bộ phận cơ thể nào đó. Do vậy, ta có thể dựa vào các số liệu cân và đo gia súc ở những thời điểm khác nhau để ước tính khả năng sản xuất của chúng. Bởi đặc điểm ngoại hình có liên quan đến sức khỏe và sức sản xuất của con vật. - Hệ số sinh trưởng: là tỷ lệ phần trăm tăng lên về thể tích, kích thước, khối lượng ở thời điểm cuối khảo sát so với thời điểm đầu khảo sát. Công thức tính: (% ) hay (lần ) C% = { V2/V1}*100 V1, V2: thể tích, kích thước, khối lượng đo ở lần khảo sát đầu và cuối. 1.2.3. Khả năng sản xuất thịt - Khả năng sản xuất thịt là một đặc điểm sinh vật học, đó là khả năng cung cấp một khối lượng cơ vân cùng một số mô khác như mô mỡ, mô chống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 đỡ, như mô liên kết gồm: gân, dây chằng, nội mạc cơ... Ngoài sản phẩm thịt ra chúng ta còn thu được một số sản phẩm như: nội tạng, máu, xương, lưỡi, lông, da… có được những sản phẩm này là do quá trình dinh dưỡng của các bộ phận khác nhau của thịt và các sản phẩm phụ không đồng đều nhau. Mỗi loại gia súc, gia cầm khác nhau đều cho sản phẩm thịt khác nhau, khả năng cho thịt của gia súc chính là mức độ tích tụ các vật chất dinh dưỡng cho tế bào cơ, hệ thống cơ này khi gia súc còn sống nó thực hiện hàng loạt chức năng sinh lý như vận động, tuần hoàn, tiêu hoá, hấp thu… Các thành phần lý học, hoá học và đặc điểm cấu tạo của cơ phụ thuộc vào đặc tính di truyền, trao đổi chất và khả năng vận động cùng với những tác động khác của điều kiện ngoại cảnh. Con người đã dùng các biện pháp kỹ thuật, kết hợp với những khă năng sẵn có của gia súc để nâng cao khả năng cho thịt, đáp ứng nhu cầu của con người. Trong chăn nuôi gia súc người ta đánh giá khả năng cho thịt theo các chỉ tiêu sau: - Khối lượng và tỷ lệ thịt xẻ. - Khối lượng và tỷ lệ thịt tinh. - Khối lượng và tỷ lệ xương, da… Thịt dê con 8-12 tuần tuổi khi khối lượng đạt 6-8 kg rất được ưa thích ở các nước châu Mỹ la tinh, và một số vùng Châu Phi, Trung Cận Đông và Nam Á. Thịt dê non từ 1 - 2 tuổi là loại thịt quan trọng nhất trong sản xuất thịt dê. Khối lượng lúc 1 năm tuổi khác nhau theo từng giống, vùng nuôi và ở trong khoảng 12,9 - 24,7 kg (con đực); 11,2 - 19,7 kg (con cái). 1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng Mỗi cơ thể khác nhau, mỗi loài khác nhau hay trong điều kiện môi trường khác nhau cũng ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng. Các yếu tố chính ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng của dê: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 a- Nhân tố giống - di truyền Là đặc tính của sinh vật nó được truyền từ bố mẹ đến đời con cháu những đặc tính mà cha mẹ và tổ tiên đã có. Tính di truyền về sức sản xuất cao hay thấp, chuyên dụng hay kiêm dụng đều ảnh hưởng tới quá trình sinh trưởng và phát dục, nhất là ảnh hưởng đến những bộ phận trực tiếp đến sức sản xuất. b- Điều kiện khí hậu Điều kiện thiên nhiên có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể gia súc và ảnh hưởng đến sự phát triển của các bộ phận trong cơ thể. Khí hậu nóng quá làm con vật mệt mỏi, tiêu hao nhiều năng lượng. Khi thời tiết thay đổi theo các mùa sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến cây thức ăn xanh là nguồn cung cấp cho gia súc, từ đó làm ảnh hưởng tới sự sinh trưởng của gia súc. Vì vậy, cần chú ý cung cấp đầy đủ và cân đối thức ăn cho dê con trong giai đoạn sinh trưởng, để đảm bảo cho sự phát triển của dê con là tốt nhất, đặc biệt là trong thời kỳ khan hiếm thức ăn. c- Mức độ dinh dưỡng Trong thời kỳ phát triển bào thai, nếu cung cấp lượng dinh dưỡng không đầy đủ sẽ làm ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành và phát triển bào thai, cũng như sự phát triển của dê con khi ra đời. Dê con sẽ còi cọc, chậm lớn, yếu ớt và tình trạng này kéo dài đến khi con vật trưởng thành gọi là tình trạng suy dinh dưỡng. Mức độ dinh dưỡng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh trưởng của con vật. Đối với gia súc hậu bị, việc cung cấp thừa dinh dưỡng sẽ làm con vật tích lũy mỡ. Từ đó, sẽ không tốt cho hoạt động sinh sản và giảm sức sản xuất. Tuy nhiên, nếu nuôi dưỡng dê ở mức dinh dưỡng thấp trong giai đoạn hậu bị sẽ làm cho con vật phát triển chậm, sức đề kháng kém, dễ mắc bệnh. Vì vậy, cần cung cấp đầy đủ thức ăn và cân đối về thành phần dinh dưỡng, có như vậy mức độ tiêu tốn đơn vị thức ăn cho 1 kg tăng trọng sẽ giảm và đảm bảo cho con vật sinh trưởng tốt. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 d- Loại hình thức ăn Thức ăn, dinh dưỡng là tiền đề tạo nên năng suất vật nuôi, tuỳ theo mục đích sử dụng khác nhau mà số lượng và chất lượng thức ăn cũng khác nhau để đạt được mức độ dinh dưỡng thích hợp. Mặt khác, con vật có bản tính di truyền khác nhau về nhu cầu dinh dưỡng và khả năng chống chịu sự thiếu hụt một số yếu tố dinh dưỡng nào đó, nếu coi sự thiếu hụt một chất dinh dưỡng nào đó là yếu tố không thuận lợi của môi trường ngoại cảnh thì những cá thể có kiểu di truyền có sức chống chịu cao với sự thiếu hụt đó khi phải sống trong môi trường khó khăn sẽ có sức chống chịu tốt hơn so với những cá thể khác. Nếu cho dê con tập ăn thức ăn thực vật sớm sẽ kích thích sự phát triển của bộ máy tiêu hóa, dạ cỏ hoạt động kích thích sự hoàn thiện hệ vi sinh vật nhanh chóng, có lợi cho tiêu hóa. Khi trưởng thành dê sẽ tiêu hóa các loại thức ăn tốt hơn. e- Chăm sóc: Các yếu tố như nhiệt độ, ánh sáng chuồng nuôi, không khí, sự vận động có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của gia súc. Nếu điều kiện chăm sóc kém sẽ làm giảm sức đề kháng của con vật, con vật chậm lớn, dễ mắc bệnh. Theo một số tác giả nghiên cứu trên gia súc nhai lại cho thấy nhiệt độ môi trường có ảnh hưởng tới sự chuyển hóa năng lượng và năng lượng thu nhận thức ăn ở giới hạn nhiệt độ thấp. Nhiệt độ quá cao hay quá thấp đều ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của dê con. Dê con rất cần ánh sáng, đặc biệt là tia tử ngoại để phát triển. Thiếu ánh sáng sẽ làm con vật thiếu vitamin D gây nên rối loạn hoạt động tiêu hóa và còi xương, con vật dễ bị bại liệt. Mặt khác, dê con rất cần sự vận động. Vận động giúp dê tổng hợp vitamin D và tăng tính thèm ăn, phát triển tốt các cơ quan bên trong cơ thể. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 Nhưng nếu vận động quá nhiều làm tăng trọng giảm do phải huy động năng lượng cho hoạt động. Tốt nhất cho dê vận động 2- 3 giờ/ ngày. 1.3. Đặc điểm và khả năng sinh sản của dê - Sinh sản là một đặc tính quan trọng của động vật nhằm duy trì và bảo tồn nòi giống. So với các loài gia súc ăn cỏ khác, dê được coi là con vật có khả năng sinh sản cao. - Sự thành thục về tính dục ở dê được xác định khi dê có hiện tượng thải trứng (ở con cái) và tinh trùng (ở con đực). - Thời kỳ sinh sản của dê theo C.Devendra và Marca Burns (1983)[35] kéo dài 7-10 năm. Trong thời kỳ sinh sản, con đực có hoạt động sinh dục thường xuyên và liên tục, con cái có hoạt động sinh sản theo chu kỳ từ động dục, chửa đẻ, tiết sữa nuôi con rồi lại động dục trở lại. Sinh sản là một trong những thuộc tính đặc trưng nhất của động vật, là khả năng sinh sản để đảm bảo sự tồn tại của loài. Ở gia súc quá trình sinh sản không chỉ là sự di truyền thông tin từ thế hệ này sang thế hệ khác mà còn liên quan đến sự điều chỉnh nội tiết, đến các quá trình hoạt động sinh lý diễn ra trong cơ thể. Hình thức sinh sản ở gia súc là sinh sản hữu tính. Ban đầu là sự kết hợp giữa tế bào trứng của con cái với tế bào tinh trùng của con đực để tạo nên hợp tử. Hợp tử tiến hành phân chia nguyên nhiễm liên tiếp để tạo thành phôi. Các tế bào phôi này cùng với sự chuyên biệt hóa của các tế bào con để tạo nên các lớp mầm và cơ quan trong cơ thể và cơ thể mới được hình thành, trải qua quá trình mang thai nhất định cơ thể này phát triển và được sinh ra tiếp xúc với môi trường ngoài. Khi ở môi trường ngoài, cơ thể gia súc non sẽ dần dần thích nghi và phát triển với tốc độ chậm hơn. Đến một giai đoạn nhất định, con vật sẽ có biểu hiện về tính dục và sản sinh ra các giao tử hoạt động. Như vậy, sự thành thục về tính dục của gia súc phải có đủ điều kiện: con vật bắt đầu có phản xạ sinh dục và có khả năng sinh sản. Theo Devandra Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 và G.B Mcleroy (1987)[32], tuổi thành thục tính dục trung bình của dê là 4 - 12 tháng tuổi. Gia súc có sự thành thục về tính trước, sau đó mới thành thục về thể vóc. Mỗi loài gia súc khác nhau thì thời gian thành thục về thể vóc khác nhau. Ở trâu đối với con cái là 30 - 36 tháng tuổi, con đực là 36 - 42 tháng, bò sữa là 18 tháng tuổi, ở dê là 12-18 tháng. Thời kỳ sinh sản của dê là 7 - 10 năm (Đinh Văn Bình, 1994 [1]). Trong thời kì động dục con vật có hoạt động sinh dục. Đối với con đực thì hoạt động sinh dục thường xuyên nhưng với con cái lại hoạt động theo chu kì gọi là chu kì động dục. Chu kì động dục, thời gian động dục cũng như các biểu hiện của hành vi sinh dục ở các loài có sự khác nhau, ngoài ra còn có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chu kì động dục như chế độ chiếu sáng, nhiệt độ, pheremon, tiếng kêu của con đực, sự tiếp xúc giữa cá thể đực và cái, mùa vụ, đặc biệt là dinh dưỡng. Chu kì động dục của dê là 19 - 21 ngày, chia làm 4 giai đoạn. Biểu hiện của các giai đoạn như sau: - Giai đoạn trước động dục: là giai đoạn từ khi thể vàng tiêu hủy tới lần động dục tiếp theo, chuẩn bị điều kiện cho đường sinh dục cái và buồng trứng để tiếp nhận tinh trùng, đón trứng rụng và thụ tinh. Màng nhầy tử cung, âm đạo tăng sinh, mạch quản tăng cung cấp nhiều máu. Tử cung, âm đạo, âm hộ bắt đầu xung huyết, các tuyến sinh dục phụ tiết dịch nhầy, âm đạo tiết ra dịch nhầy loãng làm trơn đường sinh dục. - Giai đoạn động dục: gồm 3 thời kì liên tiếp là: hưng phấn, chịu đực và hết chịu đực. Biểu hiện: âm hộ xung huyết, tấy sưng lên, chuyển từ màu hồng nhạt sang hồng đỏ rồi chuyển sang màu mận chín. Âm đạo tiết nhiều niêm dịch. Thần kinh hưng phấn cao độ vào cuối thời kì này, con vật ít ăn bồn chồn hoặc kêu la phá chuồng, nhảy lên lưng con khác. Lúc đầu chưa cho con đực nhảy, sau đó mới chịu đực và cho con đực nhảy. Trong giai đoạn này, nếu được thụ tinh thì chuyển sang thời kì chửa. Nếu không được thụ tinh thì chuyển sang giai đoạn sau động dục. Thời gian động dục của dê khoảng 24 - 48 giờ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 - Giai đoạn sau động dục: bắt đầu sau khi kết thúc động dục và kéo dài vài ngày.Thể vàng được hình thành, thể vàng tiết progesteron, hoocmon này tác động lên hệ thần kinh trung ương và tuyến yên làm thay đổi tính hưng phấn và kết thúc giai đoạn động dục. Biểu hiện về hành vi sinh dục là không muốn gần con đực, không cho con khác nhảy. Con vật dần dần trở lại trạng thái bình thường. - Giai đoạn yên tĩnh: là giai đoạn dài nhất, thường bắt đầu vào ngày thứ tư sau khi trứng rụng, không thụ tinh và kết thúc khi thể vàng tiêu hủy. Không có các biểu hiện về hành vi sinh dục. Đây là giai đoạn nghỉ ngơi yên tĩnh để khôi phục lại cấu tạo chức năng cũng như năng lượng cho chu kì tiếp the._.o. Devendra và G.B Mcleroy (1987)[32] cho biết, dê cái động dục có những biểu hiện sau: kêu kéo dài, đuôi ve vẩy qua trái qua phải, âm hộ sưng đỏ, chảy dịch nhầy, nhảy lên lưng con khác hoặc chịu cho con khác nhảy lên lưng, ít quan tâm đến ăn uống, giảm năng suất sữa ở một số cá thể. Trong giai đoạn động dục, nếu dê cái được phối giống đạt kết quả thì sẽ xảy ra quá trình thụ tinh. Sự thụ tinh được diễn ra khi trứng và tinh trùng gặp nhau ở 1/3 phía trên ống dẫn trứng và gồm 3 giai đoạn: - Giai đoạn 1: Tinh trùng sau khi vào ống dẫn trứng sẽ vận động hướng về tế bào trứng. Khi gặp tế bào trứng, tinh trùng bao vây quanh trứng và tiết ra enzim hyaluronidaza để phá vỡ màng phóng xạ. Enzim này không đặc trưng cho loài, nhưng nếu lượng enzim quá ít sẽ không đủ để phá vỡ màng phóng xạ, nếu nhiều quá sẽ phá hủy tế bào trứng. - Giai đoạn 2: Sau khi phá vỡ được màng phóng xạ, đầu tinh trùng tiết enzim Zonalizin phân hủy màng trong suốt. Enzim này đặc trưng cho loài, vì vậy chỉ có những tinh trùng cùng loài mới phát huy tác dụng và tiếp cận trứng. Sau đó, những tinh trùng nào có sức sống cao nhất mới có thể qua màng trong suốt tiếp cận với màng noãn hoàng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 - Giai đoạn 3: Ở giai đoạn này, đầu tinh trùng tiết enzim muraminidaza, chỉ có 1 tinh trùng có sức sống cao nhất xuyên qua màng noãn hoàng, đầu tinh trùng tự tách khỏi thân, cổ để vào gặp tế bào trứng. Tại đây diễn ra quá trình đồng hóa lẫn nhau giữa tinh trùng và nhân của tế bào trứng, sau đó nhân của tinh trùng và nhân của trứng đồng hóa lẫn nhau tạo thành hợp tử lưỡng bội 2n, hợp tử làm tổ ở 2 sừng tử cung và sau khi bám chắc vào niêm mạc tử cung sẽ phát triển thành phôi. Sau khi giao phối, thụ tinh có kết quả, con cái chuyển sang giai đoạn mang thai. Giai đoạn này được tính từ khi trứng được thụ tinh đến khi đẻ. Thời gian mang thai của dê trong khoảng 143 - 154 ngày (Đinh Văn Bình, 1994) [1]). Khi gia súc mang thai sẽ có những biến đổi ở cơ quan sinh dục và cơ thể xuất hiện nhiều biến đổi sinh lý khác nhau. Toàn bộ những biến đổi đó rất cần thiết cho bào thai hình thành và phát triển, quá trình sinh đẻ diễn ra bình thường. Sau 1 thời gian mang thai, ở gia súc sẽ xảy ra quá trình đẻ. Để chuẩn bị cho lần mang thai tiếp theo, gia súc phải cần 1 thời gian nhất định để hồi phục lại cơ quan sinh dục. Thời gian động dục trở lại sau đẻ phụ thuộc vào quá trình hồi phục của buồng trứng. Đồng thời, tỉ lệ thụ thai lần sau phụ thuộc rất lớn vào bản thân con vật, sự hồi phục đường sinh dục và hoạt động chu kì sau khi đẻ. Vì vậy cần chăm sóc, nuôi dưỡng tốt gia súc cái để nâng cao sức đề kháng và sức khỏe cho con vật. 1.3.1. Một số chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sản Để đánh giá khả năng sinh sản của dê cái, người ta thường dựa vào một số chỉ tiêu sau: - Tuổi đẻ lứa đầu: Tuổi đẻ lứa đầu là một chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật quan trọng, phản ánh thời gian đưa con vật vào khai thác sớm hay muộn. Nó được tính từ khi con Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 vật sinh ra đến ngày đẻ lứa đầu tiên. Tuổi đẻ lứa đầu chủ yếu phụ thuộc vào tuổi thành thục (cả về tính và về thể vóc), đồng thời còn phụ thuộc vào việc phát hiện động dục và kỹ thuật phối giống. Ngoài ra, nó còn liên quan đến điều kiện ngoại cảnh, di truyền, chế độ chăm sóc... Các tác giả theo dõi trên dê Ấn Độ là: dê Barbari: 398,6 ngày; dê Jumnapari: 581,3 ngày; dê Beetal: 556,4 ngày. Trong khi đó dê Ấn Độ nuôi ở Sông Bé lần lượt là: 415,6 ngày; 535,4 ngày; 547,1 ngày. Theo S.N Sing and P.S Sengar (1985) [36] cho biết, ở dê Beetal có tuổi đẻ lứa đầu là 675 ngày, dê Jumnapari là 735ngày, dê Black Bengan là 483 ngày. Đặng Xuân Biên (1979)[8] thông báo tuổi đẻ lứa đầu của dê Cỏ Việt Nam là 300 ngày, Lê Văn Thông (2005)[25] cho là 336,4 ngày. - Tuổi động dục lần đầu Tuổi động dục lần đầu là khi đó dê cái đã thành thục chức năng sinh dục và xuất hiện sự ham muốn giao phối lần đầu. Tuổi động dục lần đầu được tính bằng ngày hoặc tháng tuổi. Theo Đinh Văn Bình (1998)[2] công bố, tuổi động dục lần đầu trên dê Ấn Độ lần lượt là: dê Barbari là 313,1 ngày; dê Jumnapari là 406,5 ngày và dê Beetal là 372,7 ngày. Lê Văn Thông (2005)[25] theo dõi ở Thanh Hóa cho biết, dê Cỏ có tuổi động dục lần đầu là 176,81 ngày, theo Mai Hữu Yên ở Thái Nguyên (1998)[26] là 198,3 ngày. Trong chăn nuôi, khi dê cái động dục lần đầu nên bỏ qua 1 chu kì động dục đầu tiên, tốt nhất cho dê cái phối ở 2-3 chu kì động dục sau để đảm bảo sức khỏe cho dê cái và đời con của chúng. - Tuổi phối giống lần đầu Chỉ tiêu này chủ yếu do người chăn nuôi quyết định. Mặc dù dê hậu bị có tuổi động dục lần đầu sớm là 5-7 tháng nhưng đến 7- 8 tháng tuổi mới cho phối giống, khi đó dê đạt khoảng 70% khối lượng trưởng thành. Theo tác giả Đinh Văn Bình (1998)[2] cho biết, tuổi phối giống lần đầu trên dê Ấn Độ như sau: dê Barbari là 246,5 ngày; dê Jumnapari là 415,3 ngày và dê Beeltal là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 401,3 ngày. Còn ở dê Bách Thảo là 202,81 ngày (từ 165-255 ngày): vào khoảng 7-8 tháng tuổi, Đinh Văn Bình (1994)[1]. Theo dõi trên dê Cỏ, Lê Văn Thông (2005)[25] thông báo, dê Cỏ có tuổi phối giống lần đầu là 186,26 ngày, Đinh Văn Bình và Nguyễn Duy Lý (2003)[6] cho biết, dê Cỏ có tuổi phối giống lần đầu là 140-200 ngày. Trong thực tế sản xuất thường bỏ qua 1-2 lần động dục đầu tiên sau đó mới phối giống. - Chu kì động dục Chu kì động dục là thời gian hoạt động sinh dục xuất hiện một cách đều đặn và có tính chu kì. Chu kì động dục của dê khoảng 19-21 ngày, động dục kéo dài 1-3 ngày. Khi động dục, âm hộ hơi sưng đỏ hồng, chẩy dịch nhờn, kêu la, bỏ ăn, nhảy lên lưng con khác, nếu dê đang tiết sữa thì giảm đột ngột. Cho dê giao phối sau 16-38 giờ phát hiện động dục là tốt nhất. Trong thực tế chăn nuôi, nếu phát hiện động dục ngày hôm nay thì ngày hôm sau cho phối 2 lần sáng, chiều là phù hợp. Các tác giả theo dõi trên dê Ấn Độ thấy chu kì động dục như sau: dê Barbari: 26,2 ngày; dê Jumnapari 27,29 ngày; dê Beeltal là 18,03 ngày. Lê Văn Thông (2005)[25] cho biết, dê Cỏ có chu kì động dục là 22,35 ngày, còn Mai Hữu Yên (1998)[26] cho là 20,35 ngày, còn Đặng Xuân Biên (1979)[8] là 17-19 ngày. Tại Ấn Độ, theo S.N.Sing and P.S Sengar (1985)[36] cho biết dê Barbari có chu kỳ động dục là 17,1 - 49,2 ngày; dê Beetal là 16,9- 41,2 ngày, dê Jumnapari là 19,0 - 49,7 ngày, dê Black bengan là 17,8 - 46,2 ngày. - Khoảng cách lứa đẻ: Khoảng cách lứa đẻ là khoảng thời gian giữa lần đẻ trước và lần đẻ tiếp sau, đây cũng là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng sinh sản của dê cái. Khoảng cách lứa đẻ phụ thuộc vào các yếu tố như: giống, thức ăn, dinh dưỡng, chế độ chăm sóc… Khoảng cách lứa đẻ chủ yếu là do thời gian có chửa lại sau khi đẻ quyết định, bởi vì độ dài thời gian mang thai Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 là một hằng số sinh lý và không thể rút ngắn được. Tuy nhiên trong thực tế, khoảng cách lứa đẻ thường kéo dài hơn do nhiều nguyên nhân. Đặng Xuân Biên (1979)[8] cho biết, dê Cỏ có khoảng cách giữa 2 lứa đẻ là 270 ngày, Chu Đình Khu (1996)[11] cho là 275,6 ngày. Nguyễn Thị Mai (2002)[18] thông báo, dê Bách Thảo nuôi tại Ninh Thuận có khoảng cách giữa hai lứa đẻ là 180 - 210 ngày. Đối với các giống dê Ấn Độ nuôi tại Việt Nam, các tác giả đã thu được kết quả là: dê Barbari: 225 ngày; dê Jumnapari: 312 ngày và dê Beetal là 282 ngày. - Thời gian có chửa lại sau khi đẻ: Muốn rút ngắn khoảng cách lứa đẻ cần phải tuân thủ và áp dụng những quy trình chăn nuôi hợp lý hoặc phải tác động để rút ngắn giai đoạn từ khi đẻ đến khi phối giống có chửa xuống, tốt nhất là 3 tháng. Thời gian này phụ thuộc vào gia súc động dục lại sau đẻ, khả năng phát hiện động dục, phối giống lại, cũng như khả năng thụ thai. - Thời gian động lại sau khi đẻ: Thời gian động dục lại sau khi đẻ là khoảng thời gian gia súc cái động dục lại sau đẻ. Khoảng thời gian động dục lại của dê phụ thuộc vào quá trình hồi phục của cơ quan sinh dục, đặc biệt là buồng trứng. Những dê cái được nuôi dưỡng kém trước và sau khi đẻ hay đang cho con bú thường động dục trở lại muộn hơn. - Tỷ lệ thụ thai: Tỷ lệ thụ thai một mặt phụ thuộc vào bản thân con vật, nhất là sự hồi phục của đường sinh dục và hoạt động chu kỳ sau khi đẻ. Mặt khác, còn phụ thuộc vào kỹ thuật thụ tinh nhân tạo. Cùng với việc động dục trở lại sớm, tỷ lệ phối giống thụ thai cao góp phần rút ngắn thời gian có chửa lại sau đẻ và khoảng cách lứa đẻ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 - Thời gian mang thai: Thời gian mang thai là thời gian tính từ lúc gia súc cái thụ thai đến khi đẻ. Theo Đặng Xuân Biên (1979)[8] cho biết, thời gian mang thai trung bình của dê là 146-156 ngày. Đinh Văn Bình và cộng sự (1998)[2] theo dõi trên dê Ấn Độ thấy dê Barbari là 148,1 ngày (ở Ấn Độ là 146 ngày), Jumnapari là 149,61 ngày (ở Ấn Độ là 149 ngày), dê Beetal là 148,1 ngày (ở Ấn Độ là 148 ngày). Tại Ấn Độ, theo S.N Sing and P.S Sengar (1985)[36] cho biết: dê Jumnapari là 149 ngày, dê Beetal là 148 ngày, dê Barbari là 146 ngày. - Số con sơ sinh trên lứa: Đây là chỉ tiêu cho biết số dê con sơ sinh đẻ ra trong một lứa đẻ của dê mẹ. Tác giả Lê Văn Thông (2005)[25] theo dõi ở Thanh Hóa cho biết dê Cỏ đẻ 1,61 con/ lứa, Mai Hữu Yên (1998)[26] là 1,52 con/ lứa, Từ Quang Hiển là 1,58 con/ lứa. Đinh Văn Bình (1998)[2] cho biết, trên dê Ấn Độ: dê Barbari: 1,45 con/lứa; dê Jumnapari: 1,36 con/ lứa; dê Beetal: 1,3 con/ lứa. - Số con sơ sinh/ cái/năm: Là số con sơ sinh được sinh ra trong một năm của một dê cái. Chỉ tiêu này phản ánh số dê con đẻ ra hàng năm của dê mẹ. Theo nghiên cứu của một số tác giả cho biết chỉ tiêu này ở dê Cỏ là 1,97 con/ cái/ năm, dê Bách Thảo là 3,07 con/cái/năm (Đinh Văn Bình, 1994)[1]). - Số lứa/cái/năm: Chỉ tiêu này xác định số lứa đẻ của một dê cái trong một năm. Các giống dê khác nhau thì số lứa đẻ cũng khác nhau trong một năm. Dê Jumnapari là 1,3 lứa/năm, dê Barbari là 1,4 lứa/năm. 1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản a- Di truyền và giống Các giống khác nhau, các cá thể khác nhau trong cùng một giống cũng có khả năng sinh sản khác nhau. Tuy nhiên hệ số di truyền về khả năng sinh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 sản rất thấp sự khác nhau về sinh sản chủ yếu là do ngoại cảnh chi phối thông qua tương tác với cơ sở di truyền của từng giống và cá thể. Các dị tật bẩm sinh, đặc biệt là về đường sinh dục sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của dê. b- Nuôi dưỡng Nuôi dưỡng có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh sản của dê cái. Nếu nuôi ở mức dinh dưỡng thấp, đối với dê hậu bị sẽ làm dê phát triển chậm và thời gian đưa vào sử dụng muộn, làm giảm khả năng sinh sản sau này. Mặt khác, thiếu dinh dưỡng đối với dê trưởng thành sẽ kéo dài thời gian hồi phục lại sau đẻ. Dinh dưỡng thấp sẽ làm gia súc gầy yếu, giảm sức đề kháng, dễ mắc bệnh tật. Dinh dưỡng cao đặc biệt là nhiều gluxit làm gia súc dễ béo phì, buồng trứng tích mỡ giảm khả năng sinh sản. Cùng với mức dinh dưỡng, thì loại hình thức ăn cũng làm ảnh hưởng tới khả năng sinh sản. Thức ăn kiềm tính thích hợp cho sự phát triển của hợp tử và bào thai. Thức ăn toan tính làm giảm tỷ lệ thụ thai do các yếu tố axit cao gây nên sự nghèo kiềm, một mặt do sự mất cân bằng trong bản thân thức ăn. Mặt khác, kiềm bị thải ra ngoài cùng với các yếu tố axit thừa dưới dạng muối gây toan huyết, không tốt cho sự hình thành hợp tử. Mặt khác, sự cân bằng các chất dinh dưỡng trong khẩu phần cũng có ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt động sinh sản của con cái. Ví dụ, thừa phôtpho sẽ tạo phot phat Ca, Na, K thải ra ngoài dẫn đến mất kiềm, toan huyết. Thiếu P sẽ ảnh hưởng cơ năng buồng trứng: buồng trứng nhỏ lại, noãn bao ít, sau đẻ chỉ động dục lại 1-2 lần, nếu không kịp phối thì phải đến sau khi cạn sữa mới động dục lại. c- Chăm sóc quản lý Việc này là rất cần thiết, bởi nếu không chăm sóc quản lý tốt sẽ làm gia súc gầy yếu, dễ sảy thai, dễ mắc bệnh, đặc biệt là bệnh sản khoa làm ảnh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 hưởng tới khả năng sinh sản của dê. Bỏ qua các chu kỳ động dục, phối giống không đúng kỹ thuật, không có sổ sách theo dõi, ghi chép, phối đồng huyết sẽ là những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến sinh sản của dê cái. d- Phẩm chất tinh dịch Phẩm chất tinh dịch kém hay loãng sẽ làm giảm khả năng thụ thai. Trình độ phối giống, kỹ thuật phối, phương pháp phối của kỹ thuật viên sẽ ảnh hưởng tới tỷ lệ sinh sản của dê. Ngoài ra phẩm chất tinh dịch còn phụ thuộc vào tuổi sử dụng của đực giống, mùa vụ, chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng… e - Bệnh tật Các bệnh đường sinh dục, sẩy thai truyền nhiễm, kí sinh trùng đường sinh dục, bệnh ở buồng trứng, tử cung… đều là những bệnh làm ảnh hưởng tới khả năng sinh sản. Vì vậy, cần chú ý vệ sinh chuồng trại, môi trường xung quanh để giảm bớt nguồn lây bệnh cho dê. f- Các nguyên nhân kinh tế - xã hội Chính sách khuyến khích của Nhà nước, chế độ cho người làm công tác chăn nuôi, giá cả dê giống đều là những yếu tố làm ảnh hưởng đến tỷ lệ sinh sản của dê. Ngoài ra, các yếu tố như phương pháp chọn phối, tuổi gia súc, thời tiết khí hậu, tinh thần trách nhiệm của người chăn nuôi… đều có ảnh hưởng tới khả năng sinh sản của đàn gia súc. 1.4. Đặc điểm khả năng cho sữa của dê Khả năng cho sữa của dê phụ thuộc nhiều vào tiềm năng di truyền của giống, đặc điểm của cá thể và các yếu tố ngoại cảnh, khả năng cho sữa phụ thuộc hoàn toàn vào giống, cá thể và điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng dê lấy sữa. Giống dê chuyên dụng sữa sẽ cho sản lượng sữa cao hơn giống dê kiêm dụng sữa - thịt. Một số giống dê sữa nổi tiếng của thế giới như Saanen, Togenburg, Alpine, Jamnapari,... với năng suất sữa bình quân đạt 0,7 - 2,4 kg/con/ngày, những con dê kỷ lục có thể đạt 4,8 - 7,4 kg/con/ ngày (Nguyễn Văn Thiện, Đinh Văn Hiến, 1993) [23]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 Sữa của gia súc được sản xuất ra từ tuyến vú. Chức năng của tuyến vú là tiết sữa (gồm sinh sữa và thải sữa). Sau khi đẻ, tuyến vú của gia súc tiết sữa trong một thời gian nhất định được gọi là chu kỳ tiết sữa. Khi tuyến vú ngừng tiết thì gọi là thời kì cạn sữa. Tuyến vú có hình chuông nhỏ, phức tạp. Cấu tạo tuyến vú gồm 2 phần: tuyến bào và hệ thống ống dẫn; tuyến bào là đơn vị tạo sữa của tuyến sữa, có lưới mao mạch dày đặc mang chất dinh dưỡng và oxi cung cấp nguyên liệu để tạo sữa. Hệ thống ống dẫn có ống dẫn nhỏ, trung bình, to và bể sữa. Sữa được tạo thành ở tuyến bào, di chuyển qua các ống dẫn sữa nhỏ trong chùm tuyến bào, sau đó tập hợp ống dẫn chùm tuyến bào (ống dẫn sữa nhỏ) rồi đổ vào ống dẫn sữa lớn và cuối cùng đổ vào bể sữa. B.N Nikitin (1975) cho rằng cứ 540 lít máu chảy qua tuyến vú mới sinh ra được 1 lít sữa. Khả năng sản xuất sữa của gia súc phụ thuộc vào phẩm giống, tuổi gia súc, loại hình bầu vú. Mặt khác, sự tiết sữa còn phụ thuộc vào đường kính ống dẫn sữa. Ngoài ra, thức ăn dinh dưỡng có ảnh hưởng rất lớn tới khối lượng sữa. Thức ăn tinh, củ quả, cỏ tươi, cỏ ủ là những nguyên liệu tốt để tạo nên sữa nhanh và nhiều. Vì vậy, cần cung cấp đầy đủ về số lượng cũng như chất lượng thức ăn để duy trì và nâng cao sức sản xuất sữa của gia súc. Sinh sữa và thải sữa chịu sự điều khiển của thần kinh và thể dịch. Do vậy, gia súc sản xuất sữa như dê rất nhạy cảm với điều kiện ngoại cảnh. Những tác động của sự thay đổi môi trường cũng làm ảnh hưởng tới khả năng cho sữa của chúng. Vì vậy, cần thực hiện tốt kỹ thuật vắt sữa và thực hiện nghiêm ngặt quy trình vắt, quy trình chăm sóc và quản lý đàn dê sữa. 1.4.1. Các chỉ tiêu đánh giá sức sản xuất sữa * Chu kỳ tiết sữa Chu kỳ tiết sữa là khoảng thời gian cho sữa trong một lứa đẻ của dê cái, được tính từ khi đẻ đến khi cạn sữa. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 * Năng suất sữa Năng suất sữa/ ngày là lượng sữa gia súc sản xuất được trong ngày. Năng suất sữa phụ thuộc vào giống, cá thể, tuổi đẻ, lứa đẻ, chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc và điều kiện khí hậu. * Sản lƣợng sữa Đây là chỉ tiêu đánh giá khả năng cho sữa của một dê cái trong một chu kỳ tiết sữa. Chỉ tiêu này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố: di truyền, dinh dưỡng, quản lý, môi trường, kỹ thuật vắt…Đinh Văn Bình (1994)[1] khi theo dõi dê Bách Thảo cho thấy trong một chu kỳ vắt sữa sản lượng sữa cao nhất ở tháng 1 và tháng 2, sau đó giảm dần đến tháng thứ 5. 1.4.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sức sản xuất sữa Sức sản xuất sữa của gia súc chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau: * Yếu tố giống Những giống có sức sản xuất sữa cao thường là những giống chuyên dụng theo hướng sữa. Giống là một yếu tố cơ bản quyết định đến sản lượng sữa trong chăn nuôi gia súc lấy sữa. Vì vậy, cần phải chọn giống theo đúng tiêu chuẩn và kỹ thuật. * Di truyền Yếu tố di truyền rất quan trọng. Những cá thể tốt sẽ truyền cho con cháu những đặc điểm tốt mà chúng đã có. Vì vậy, trong chăn nuôi gia súc lấy sữa phải áp dụng phương pháp chọn giống theo phả hệ để duy trì những đặc tính tốt của gia súc. Theo R.M Acharya (1992)[30] hệ số di truyền tính trạng sản lượng sữa/ chu kỳ tiết sữa là 0,3- 0,7 và tính trạng tỷ lệ mỡ sữa là 0,3- 0,5. * Tuổi có thai lần đầu Ở gia súc hậu bị thường có tuổi thành thục về tính sớm hơn về thể vóc. Vì vậy, nếu phối con cái quá sớm sẽ kìm hãm sự sinh trưởng của cơ thể, kèm theo đó là kìm hãm sự phát triển của tuyến sữa, đặc biệt tuyến bào phát triển Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 kém và sức sản xuất sữa thấp. Trong chăn nuôi, tối thiểu nên phối cho gia súc khi khối lượng cơ thể đã đạt 65- 70% khối lượng dê cái trưởng thành. Nếu phối giống lần đầu muộn quá hoặc có thể do nuôi dưỡng kém cũng kìm hãm sự sinh trưởng của cơ thể và bầu vú kém phát triển, dẫn đến năng suất thấp làm giảm sản lượng sữa. * Tuổi và lứa đẻ Sản lượng sữa thu được ở lứa đẻ thứ nhất và thứ hai thường thấp hơn các lứa về sau. Số lượng sữa đạt cao nhất ở lứa thứ 3 hoặc 4 và ổn định trong hai hoặc ba năm sau. Theo Đinh Văn Bình (1994)[1], sản lượng sữa dê Bách Thảo tăng dần từ lứa đẻ thứ 2, cao nhất là lứa 3 và 4, sau đó ổn định ở lứa 6 và 7, giảm dần từ lứa thứ 8. Đối với một số dê cái cơ thể tốt, được chăm sóc nuôi dưỡng đầy đủ còn có thể cho sản lượng sữa cao ở cả các lứa đẻ sau. Sự giảm khả năng tiết sữa là do số lượng tuyến bào giảm thấp, chức năng hoạt động của tuyến sữa kém dần, đồng thời các chức năng khác trong cơ thể cũng giảm sút. * Dinh dƣỡng: Các nguyên liệu tạo sữa được lấy chủ yếu là từ thức ăn. Do vậy, mức độ dinh dưỡng có ảnh hưởng rõ rệt đến sức sản xuất sữa. Khi thiếu năng lượng, con vật phải huy động nguồn năng lượng dự trữ trong cơ thể ra để sản xuất sữa. Tuy nhiên, nguồn năng lượng dự trữ là có hạn, nếu cho ăn thiếu năng lượng trong thời gian dài sẽ làm giảm năng suất sữa và sức khỏe gia súc. Mức protein quá cao hay quá thấp đều làm ảnh hưởng đến sự tiết sữa. Các loại khoáng, đặc biệt là Ca, P có ảnh hưởng đến năng suất của sữa vì đây là những nguyên tố có thành phần ổn định trong sữa. * Kỳ cho sữa Năng suất sữa hàng ngày của một chu kỳ tiết sữa phụ thuộc vào từng cá Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 thể và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng. Sản lượng sữa tăng nhanh sau khi đẻ và cao nhất vào tháng thứ 1 hoặc tháng thứ 2, sau đó lại giảm dần. Khi có thai lượng sữa cũng giảm và giảm đột ngột khi thai lớn. * Thời gian từ khi đẻ đến khi phối lại Khi có thai, sản lượng sữa của gia súc giảm từ 15-20% so với không có thai. Nhưng như vậy cũng không có nghĩa là cứ kéo dài thời gian không có thai để đạt được chỉ số ổn định về năng suất sữa cao. Bình thường, nên tiến hành cạn sữa cho dê cái trước khi đẻ 2 tháng để dê mẹ cung cấp chất dinh dưỡng nuôi thai. * Kỹ thuật vắt sữa Phản xạ bài tiết sữa dựa trên sự điều khiển của thần kinh - hoocmon. Vắt sữa không đúng kỹ thuật sẽ ức chế sự tiết sữa. Nếu thời gian vắt sữa kéo quá dài thì oxytocin sẽ hết hiệu lực trước khi vắt hết sữa trong bầu vú, làm tăng tỷ lệ sữa sót. Số lần vắt sữa trong ngày cũng ảnh hưởng đến năng suất sữa. Vì vậy, cần vắt sữa theo đúng kỹ thuật, đúng quy trình để vắt hết sữa trong bầu vú và giảm lượng sữa sót. * Bệnh tật Các bệnh khác nhau mà gia súc mắc phải trong thời gian cho sữa đều ảnh hưởng tới khả năng cho sữa. Đặc biệt, khi gia súc mắc bệnh viêm vú sẽ làm chất lượng sữa kém, năng suất giảm, đôi khi còn làm mất sữa. Vì vậy, cần chú ý vệ sinh, phòng ngừa, phát hiện và điều trị kịp thời khi gia súc mắc bệnh. * Môi trƣờng Sức sản xuất của một động vật chịu ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của các yếu tố môi trường như: nhiệt độ, độ ẩm, gió, bức xạ mặt trời, áp suất khí quyển và lượng mưa. Các yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp thông qua sự điều khiển của thần kinh - hoocmon để điều chỉnh và duy trì thân nhiệt. Còn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 ảnh hưởng gián tiếp qua năng suất và phẩm chất cây thức ăn. Đinh Văn Bình (1994)[1] theo dõi trên dê bách Thảo cho biết, dê đẻ vào mùa xuân (tháng 2- tháng 4) và mùa thu (tháng 8- tháng 10) cho nhiều sữa hơn dê đẻ vào mùa đông (tháng 11- tháng 1). Mùa hè dê cho sữa kém nhất (tháng 5 - tháng 7). Môi trường cũng ảnh hưởng tới hệ thống enzym và các hoocmon khác. Nhiệt độ môi trường thích hợp cho dê sữa phụ thuộc vào giống và khả năng chống chịu nóng hay lạnh của con vật. Nhiệt độ thích hợp cho sức sản xuất ở mỗi giống dê cũng khác nhau. 1.5. Tình hình chăn nuôi dê trên thế giới và trong nƣớc. 1.5.1. Tình hình chăn nuôi dê trên thế giới. Dê là loài gia súc nhai lại nhỏ và chúng được nuôi ở hầu khắp các châu lục từ phía Bắc bán cầu (Scandinavia) đến phía Nam bán cầu (Nam Mỹ). Chúng còn có mặt ở mọi vĩ tuyến, chúng còn có thể sống trên những đỉnh núi cao như Hymalaya hoặc trong những khu rừng ẩm ướt thuộc Tây Phi. Theo số liệu thống kê của FAO năm 2004 [39], số lượng dê trên thế giới năm 2003 như sau: - Châu Á : 487 588 456 con - Châu Âu : 18 425 226 con - Châu Phi : 219 736 486 con - Châu Mỹ La Tinh và Caribe : 36 713 150 con Cũng theo FAO, 2003 [39], số lượng dê trên thế giới trong năm 2003 đạt 764 510 558 con. Trong đó đàn dê tập trung chủ yếu ở các nước đang phát triển với số lượng 732 860 875 con (chiếm 95,86%). Như vậy Châu Á là khu vực chăn nuôi dê khá phát triển, có tới 487 588 456 con (chiếm 63,78% tổng đàn dê của thế giới). Đặc biệt là tập trung chủ yếu ở các nước đang phát triển và chăn nuôi chủ yếu với qui mô nhỏ trong gia đình, tập trung ở những vùng khô cằn, nông dân nghèo. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 Mahatma Gandi nhà lãnh tụ nổi tiếng ở Ấn Độ đã nói: “Dê là con bò của nhà nghèo” Peacok lại cho rằng: “Dê là ngân hàng của người nghèo”. RM Acharya Chủ tịch hội chăn nuôi dê Thế giới còn khẳng định: “Dê chính là cơ quan bảo hiểm đáng tin cậy của người nghèo”. Qua đây, thấy được việc nuôi dê là nghề dễ phát triển kinh tế, thu lợi nhuận nhanh và cao. Chăn nuôi dê ở những nước phát triển có qui mô đàn lớn hơn và chăn nuôi theo phương thức thâm canh với mục đích lấy sữa và làm pho mát mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ở Châu Á, nước nuôi nhiều dê nhất là Trung Quốc (172 957 208 con), sau đó là Ấn Độ (124 500 000 con). Việt Nam có 780 331 con. (Số liệu năm 2003 của FAO). Năm 2004 theo số liệu của Tổng cục Thống kê (8/2007 ) thì số lượng dê cả nước đã tăng lên xấp xỉ 1 700 000 con. Dự kiến đến năm 2009 đàn dê cả nước xấp xỉ khoảng trên 2 triệu con. Về sản lượng thịt và sữa dê, theo thông báo của R.M.Acharya (1992)[30], số lượng dê trên thế giới cũng như sản xuất thịt dê có tốc độ tăng nhanh hơn so với các loài gia súc khác, sản xuất sữa dê có tăng nhưng tốc độ chậm hơn so với sản xuất thịt. Thông báo của FAO - 2004 [39] thì trong năm 2003, sản lượng thịt các loại của toàn thế giới đạt 249 851 017 tấn. Trong đó, sản lượng thịt dê đạt 4 091 190 tấn (chiếm 1,64% tổng sản lượng). Nước sản xuất nhiều thịt dê nhất là Trung Quốc (1 518 081 tấn), sau đó là Ấn Độ (473 000 tấn), Pakistan (373 000 tấn) , Việt Nam đóng góp 15 600 tấn thịt dê cừu trong năm 2003. Cũng theo số liệu của FAO- 2004, đối với sản lượng sữa các loại trong năm 2003, toàn thế giới đạt 600 978 420 tấn, trong đó sữa dê là 11 816 315 tấn (chiếm 1,97%). Sữa dê cũng chủ yếu do các nước đang phát triển sản xuất. Đứng đầu là Ấn Độ (2 610 000 tấn), sau đó là Bangladesh (1 312 000 tấn), Pakistan (640 000 tấn), Trung Quốc (242 000 tấn). Sản lượng sữa dê của Việt Nam không đáng kể. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 Về số lượng các giống dê, theo R.M Acharya (1992)[30] cho biết, toàn thế giới có 150 giống dê, trong đó 63% giống dê hướng sữa, 27% giống dê hướng thịt, 5% giống dê kiêm dụng. Đặc biệt Châu Á là nơi có nhiều giống dê nhất, chiếm 42% số giống dê thế giới. Ấn Độ có 20 giống, Pakistan có 25 giống, Trung Quốc có 25 giống. Đất nước Ấn Độ có ngành chăn nuôi dê rất phát triển. Công tác nghiên cứu về chăn nuôi dê rất được nhà nước quan tâm. Theo Livestockcesnus of India (1951- 1982 ), P.R.Deoghare, B.V. Khan, hàng năm Ấn Độ sản xuất ra 1020 tấn sữa, 370 nghìn tấn thịt, 76 nghìn tấn da và 50 tấn lông. Tỉ lệ tăng đàn dê ở Ấn Độ hàng năm là 3,29%. Theo R.ROY, S.B.SOOD và B.V.KHAN (1991), khả năng sinh sản và sản xuất của một số giống dê Ấn Độ như sau: dê Jumnapari, Beetal, Barbarri có khả năng tăng trọng 51,5; 56,3; 45,83 gam/con/ngày, tiêu tốn VCK (vật chất khô ) thức ăn cho 1 kg tăng trọng là 9,38 kg; 6,89 kg; 6,17 kg. Ở Trung Quốc, trước năm 1970 chăn nuôi dê phát triển chậm, từ năm 1978 chính phủ bắt đầu quan tâm đến chăn nuôi dê nên tốc độ phát triển ngày càng nhanh chóng. Theo Sugangyi, Zhengming (1993)[37], Trung Quốc có 12 trại dê giống hướng sữa, điển hình là giống dê sữa Ximong Saanen có thể cho 750- 850 kg sữa / con/chu kỳ. Trung Quốc đã sử dụng giống dê này lai với dê địa phương, con lai cho năng suất sữa tăng lên từ 80% - 100% ở thế hệ thứ nhất, 200% ở thế hệ thứ hai, đạt 300 kg sữa /chu kỳ, thời gian vắt sữa là 7-8 tháng. Ngoài ra ở trại giống trường Đại học Nông nghiệp Tây Bắc, sản lượng sữa dê là 800 kg/con/chu kỳ; ở trại Xixia tỉnh Shangdong là 750 kg/con/chu kỳ. Trung Quốc cũng là nước đã sử dụng kỹ thuật cấy truyền hợp tử trên dê. Theo Wang Ruixing Zhong (1988), Trung Quốc đã có 11 dê con ra đời từ kỹ thuật tách đôi hợp tử. Philippin, việc nghiên cứu và phát triển chăn nuôi dê cũng được chính phủ quan tâm. Một chương trình nghiên cứu và phát triển chăn nuôi dê quốc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 gia được thiết lập. Theo M.B Beo, Philippin hiện nay đã đưa ra và đang tiến hành một chương trình nghiên cứu toàn diện về con dê, với mục tiêu là đẩy mạnh nghành chăn nuôi dê trong tương lai. Ở Pháp, là nước có ngành chăn nuôi dê phát triển lâu đời với các giống dê sữa đang có mặt ở khắp thế giới là Saanen, Alpine. Tổng đàn dê của Pháp là 900 nghìn con chủ yếu là nuôi lấy sữa. Toàn bộ sữa dê được chế biến thành pho mát ở gia đình hoặc ở các trang trại. Ở Malaysia, Borhan Abu Samah (1989) cho biết, chăn nuôi dê ở đây phát triển từ năm 1976 đến 1986, về số lượng đàn dê giảm mỗi năm là 2% nhưng tiêu thụ thịt dê lại tăng lên. Giống dê ở Malaysia nhỏ, khối lượng trưởng thành chỉ đạt 20- 25 kg. Họ đã nhập tinh đông viên của các giống dê như Alpine, Saanen, Togenburg từ nước Đức để lai với giống dê địa phương ở khắp nơi trên cả nước. Để hội tụ các nhà khoa học cùng tham gia nghiên cứu và tổ chức trao đổi, học tập kinh nghiệm lẫn nhau, đẩy mạnh phát triển chăn nuôi dê trên thế giới, hội chăn nuôi dê thế giới đã được thành lập từ năm 1976, trụ sở đặt tại Massachusest của Mỹ, cứ 4 năm họp một lần. Khu vực Châu Á cũng thành lập tổ chức Chăn nuôi gia súc nhai lại nhỏ (Samall Ruminant Production System Network for Asia), địa điểm tại Indonexia với mục tiêu là góp phần đẩy mạnh trao đổi thông tin nghiên cứu và phát triển chăn nuôi dê, cừu trong khu vực. 1.5.2. Tình hình chăn nuôi dê trong nước Ở Việt Nam nghề chăn nuôi dê đã có từ lâu đời, nhưng phương thức chăn nuôi chủ yếu là quảng canh tự phát tự túc.Vào những năm 1990-1995 số lượng đàn dê của nước ta tăng không nhiều do chưa dược nhà nước quan tâm phát triển. Từ năm 1996 trở lại đây, do nhu cầu đời sống của người dân được nâng cao nên khả năng tiêu thụ các sản phẩm sữa thịt dê tăng nhanh. Mặt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 khác do được sự đầu tư của nhà nước nên số lượng đàn dê được tăng lên rõ rệt. Theo số liệu thống kê của tổng cục thống kê tính đến tháng 8 năm 1994, tổng đàn dê cừu của Việt Nam có trên 550 000 con, trong đó 72,5% phân bố ở miền Bắc, 27,5% ở miền Nam (Tây Nguyên chiếm 12,3%, Duyên hải miền Trung chiếm 8,9%, Đông và Tây Nam Bộ chỉ chiếm 2,1- 3% ). Đàn dê ở vùng núi phía Bắc chiếm 48% tổng đàn dê cả nước, và chiếm 67% tổng đàn dê của miền Bắc. Trước đây, việc phát triển nghành chăn nuôi dê chưa được quan tâm chú ý. Người dân chăn nuôi dê chủ yếu là theo phương thức quảng canh, tận dụng bãi chăn thả tự nhiên là chính, thiếu kinh nghiệm và kiến thức kỹ thuật. Hơn nữa, giống dê chủ yếu là giống dê Cỏ địa phương, giống dê này có khối lượng nhỏ con, năng suất thấp, chưa có hệ thống quản lý giống trong cả nước, đặc biệt là nghề chăn nuôi dê với quy mô trang trại lớn chưa được hình thành. Từ năm 1993, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã quyết định giao nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển chăn nuôi dê, đặc biệt là chăn nuôi dê sữa, dê kiêm dụng ở nước ta cho Trung tâm nghiên cứu Dê và Thỏ Sơn Tây. Và từ đây nghành chăn nuôi dê, đặc biệt là chăn nuôi dê sữa ở nước ta b._.ệ 6 từ sơ sinh đến 12 tháng tuổi đều thấp hơn chút ít so với thế hệ 5, nhưng từ thời điểm 15 tháng tuổi đến 24 tháng tuổi thì tốc độ sinh trưởng của 2 thế hệ gần như nhau. Dê Beetal nuôi tại trại giống trung tâm thế hệ thứ 5 có khối lượng sơ sinh ở con đực đạt 3,15 kg, con cái đạt 2,85 kg. Ở thời điểm 3 tháng tuổi, khối lượng dê đực đạt 13,1 kg, dê cái Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 61 đạt 11,8 kg. Ở các thời điểm 9, 12, 15, 18, 21 và 24 tháng tuổi dê đực có khối lượng tương ứng là 23,0; 29,0; 34,9; 39,9; 43,8 và 47,0 kg, dê cái tương ứng là 22,2; 27,0; 29,4; 31,1; 32,3 và 33,5 kg. Bảng 3.10: Khối lượng của dê đực Beetal tại một số thời điểm sinh trưởng (Đơn vị :kg/con) Tháng tuổi Thế hệ 5 Thế hệ 6 n X ± m x n X ± m x Sơ sinh 41 3,15 ± 0,06 44 2,94 ± 0,05 3 38 13,12 ± 0,18 42 12,35 ± 0,20 6 34 18,72 ± 0,48 40 18,22 ± 0,41 9 30 23,06 ± 0,85 38 22,26 ± 0,97 12 25 29,03 ± 0,65 28 28,18 ± 0,35 15 25 34,93 ± 0.52 27 34,93 ± 0.49 18 24 39,91 ± 0.48 25 39,93 ± 0.57 21 23 43,85 ± 0.68 24 43,44 ± 0.71 24 22 47,05 ± 0,62 23 46,75 ± 0,75 P>0.05 Khối lượng lúc 2 năm tuổi của dê đạt 80 - 85% khối lượng của dê trưởng thành. Sinh trưởng của dê phụ thuộc rất lớn vào chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc. Nếu được cung cấp đầy đủ dinh dưỡng và ít phải chịu stress của môi trường dê sẽ sinh trưởng và phát triển nhanh. Ngược lại, nếu không được cung cấp đầy đủ dinh dưỡng, dê sẽ sinh trưởng chậm và sức đề kháng kém dẫn đến khả năng chống lại bệnh tật kém. Để đảm bảo cho dê sinh trưởng tốt, có sức đề kháng cao thì khi mới sinh ra phải đảm bảo cho dê con được bú sữa đầu, vì trong sữa đầu có hàm lượng kháng thể và dinh dưỡng cao. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 62 Bảng 3.11: Khối lượng của dê cái Beetal ở một số thời điểm sinh trưởng (Đơn vị :kg/con) Tháng tuổi Thế hệ 5 Thế hệ 6 n X ± m x n X ± m x Sơ sinh 43 2,85 ± 0,05 44 2,81 ± 0,05 3 40 11,84 ± 0,48 43 10,85 ± 0,26 6 36 17,06 ± 0,66 40 15,86 ± 0,58 9 32 22,25 ± 0,72 34 21,51 ± 0,89 12 30 27,04 ± 0,82 32 26,02 ± 0,77 15 30 29.47 ± 0.65 32 28.18 ± 0.76 18 30 31.14 ± 0.72 32 29.77 ± 0.68 21 30 32.37 ± 0.74 32 30.98 ± 0.85 24 30 33,52 ± 0,82 32 32,22 ± 0,77 P>0.05 Dê Beetal thế hệ thứ 6 có khối lượng sơ sinh ở con đực đạt 2,94 kg, con cái đạt 2,81 kg. Lúc 3 tháng tuổi, khối lượng dê đực đạt 12,3 kg, dê cái đạt 10,8 kg. Ở các thời điểm 9, 12, 15, 18, 21 và 24 tháng tuổi dê đực có khối lượng tương ứng là 22,2; 28,1; 34,0; 39,1; 43,4 và 46,7 kg, dê cái là 21,5; 26,0; 28,1; 29,7; 30,9 và 32,2 kg. Ở các thời điểm sơ sinh và 3 tháng tuổi, khối lượng của dê đực không lớn hơn nhiều so với dê cái (P > 0.05), nhưng ở các thời điểm tiếp theo thì sự khác biệt về khối lượng của dê đực và dê cái càng rõ rệt ở cả 2 thế hệ (P < 0.05). Tại các thời điểm khảo sát, khối lượng dê đực và dê cái giữa 2 thế hệ không có sự khác biệt rõ rệt có ý nghĩa thống kê (P>0,05), nhưng nhìn chung khối lượng của cả dê đực và dê cái của thế hệ 6 có thấp hơn so với thế hệ 5. Chúng tôi minh họa các kết quả theo dõi về khối lượng của dê ở thế hệ 5 và 6 qua đồ thị 2. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 63 0 10 20 30 40 50 SS 3 6 9 12 15 18 21 24 Giai đoạn (tháng tuổi) kg /c on Đực TH 5 Đực TH 6 Cái TH 5 Cái TH 6 Đồ thị 3.2: Sinh trưởng tích luỹ của dê qua các tháng tuổi Qua đồ thị trên chúng ta thấy: Tại các thời điểm khảo sát dê đực luôn có khả năng sinh trưởng cao hơn dê cái. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại các thời điểm theo dõi khảo sát cho thấy khả năng sinh trưởng của thế hệ 5, 6 thấp hơn không nhiều so với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Kim Lin, (2002)[14]. Tác giả cho: Khối lượng của dê đực Beetal thế hệ 2 và 3 tại các thời điểm sơ sinh, 6, 9, 12 và 24 tháng tuổi tương ứng là: 3,4 - 3,5; 19,0 - 19,7; 24,1 - 25,3 kg; 31,3 - 31,8 và 49,4 - 51,4 kg. Khối lượng của dê cái Beetal thế hệ 2 và 3 tại các thời điểm sơ sinh, 6, 9, 12 và 24 tháng tuổi tương ứng là: 2,8 - 2,85; 15,4 - 15,9; 22,1 - 23,2; 25,2 - 26,7 và 33,4 - 34,8 kg. Cũng theo Nguyễn Kim Lin, (2002)[14] dê Beetal thế hệ thứ 2 và 3 nuôi ở khu vực gia đình có khối lượng sơ sinh dê đực đạt: 3,1- 3,2 kg; dê cái đạt 2,8 - 2,82 kg, 9 tháng tuổi dê đực đạt 21,8 - 22,3 kg; dê cái đạt 19,7 - 20,4 kg, 12 tháng tuổi dê đực đạt 28,2 - 28,8 kg; dê cái đạt 23,2 - 23,8 kg, 24 tháng tuổi dê đực đạt 47,3 - 48,1 kg; dê cái đạt 31,7 - 32,1 kg. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 64 Ngô Hồng Chín, (2005)[9] nghiên cứu trên đàn dê ấn Độ thế hệ 4 cho biết: Dê Beetal có khối lượng sơ sinh, 3, 6, 9 và 12 tháng tuổi đạt tương ứng là 3,5; 13,4; 22,3; 28,6 và 34,8 kg ở con đực và tương ứng là 3,1; 12,5; 20,1; 26,3 và 30,0 kg ở con cái. Theo N.S. Singh và O.P.S. Sangar, 1985 (nguồn Nguyễn Kim Lin, 2002[14]) Dê Beetal nuôi ở Ấn Độ có khối lượng sơ sinh ở dê đực đạt được từ 3,3-3,9 kg; dê cái đạt được từ 2,7-3,3 kg. Lúc 6 tháng tuổi dê đực và dê cái có khối lượng tương ứng là 15,5-16,4 và 15,5 kg. Lúc 12 tháng tuổi dê đực và dê cái đạt khối lượng tương ứng là 28,6-30,4 và 21,8 kg; lúc 24 tháng tuổi dê đực và dê cái đạt khối lượng tương ng là 40,5-45,7 và 32,6 kg. 3.3.2. Sinh trưởng tuyệt đối của dê đực và dê cái Beetal qua các giai đoạn tuổi Từ kết quả theo dõi về sinh trưởng tích luỹ, chúng tôi xác định được tăng trọng tuyệt đối của dê đực và dê cái qua các giai được tuổi. Kết quả được trình bày ở bảng 3.12 và 3.13. Bảng 3.12: Sinh trưởng tuyệt đối của dê đực Beetal qua các giai đoạn tuổi Đơn vị: gam/con/ngày Tháng tuổi Thế hệ 5 Thế hệ 6 n X ± m x Cv (%) n X ± m x Cv (%) SS - 3 38 110,79 ± 2,20 17,16 42 104,55 ± 3,15 18,22 3 - 6 34 62,22 ± 4,07 18,23 40 65,22 ± 6,05 22,03 6 - 9 30 48,22 ± 5,70 16,33 38 44,89 ± 5,62 18,24 9 - 12 25 66,33 ± 12,90 18,72 28 65,79 ± 11,52 17,28 12 - 24 22 50,05 ± 10,21 22,35 23 51,59 ± 11,21 19,35 Kết quả cho thấy ở giai đoạn từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi dê có cường độ sinh trưởng tuyệt đối là cao nhất, sau đó thì giảm dần. Cả dê đực và dê cái giữa thế hệ 5 và thế hệ 6 thì không có sự khác biệt rõ rệt (P>0,05). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 65 Từ kết quả bảng 3.12 và bảng 3.13 cho thấy, dê Beetal thế hệ 5 ở giai đoạn từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi sinh trưởng tuyệt đối của dê đực và dê cái đạt được tương ứng là 110,8 và 99,9 gam/con/ngày, ở giai đoạn từ 3 đến 6 tháng tuổi tương ứng là 62,2 và 58,0 gam/con/ngày, ở giai đoạn từ 9 đến 12 tháng tuổi là 66,3 và 53,5 gam/con/ngày. Nhưng đến giai đoạn từ 12 đến 24 tháng tuổi sinh trưởng tuyệt đối của dê cái giảm rõ rệt, chỉ đạt được 17,9 gam/con/ngày; trong khi đó ở dê đực vẫn đạt được là 50,0 gam/con/ngày. Bảng 3.13: Sinh trưởng tuyệt đối của dê cái Beetal qua các giai đoạn tuổi Đơn vị: gam/con/ngày Tháng tuổi Thế hệ 5 Thế hệ 6 n X ± m x Cv (%) n X ± m x Cv (%) SS - 3 40 99,89 ± 2,79 20,60 43 88,89 ± 3,52 19,52 3 - 6 36 58,01 ± 4,30 24,57 40 55,56 ± 5,08 23,75 6 - 9 32 57,66 ± 4,58 23,35 34 63,33 ± 4,52 23,62 9 - 12 30 53,55 ± 8,54 18,08 32 50,05 ± 9,15 19,12 12 - 24 30 17,92 ± 9,22 20,25 32 17,22 ± 9,22 19,12 Ở thế hệ 6, trong giai đoạn từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi, dê đực và dê cái có sinh trưởng tuyệt đối tương ứng là 104,5 và 88,9 gam/con/ngày, ở giai đoạn từ 3 đến 6 tháng tuổi tương ứng là 65,2 và 55,5 gam/con/ngày, ở giai đoạn từ 9 đến 12 tháng tuổi tương ứng là 65,7 và 50,0 gam/con/ngày. Nhưng đến giai đoạn tù 12 đến 24 tháng tuổi, dê cái có sinh trưởng tuyệt đối giảm rõ rệt, chỉ đạt 17,2 gam/con/ngày; trong khi đó dê đực vẫn đạt được là 51,5 gam/con/ngày. Qua theo dõi chúng tôi thấy rằng: Trong các giai đoạn từ sơ sinh đến 12 tháng tuổi, ở giai đoạn từ 6 đến 9 tháng tuổi cả dê đực và dê cái đều có sinh trưởng tuyệt đối thấp nhất, có thể do ở giai đoạn này dê bắt đầu có các biểu hiện về tính dục và thành thục về tính, nên ảnh hưởng đến việc thu nhận thức ăn, đặc biệt là dê đực do đó làm cho tốc độ sinh trưởng của dê giảm đi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 66 Chúng tôi biểu thị sự biến động về sinh trưởng tuyệt đối của dê Beetal thế hệ 5 và 6 qua các giai đoạn tuổi qua đồ thị 3. 0 20 40 60 80 100 120 ga m /c on /n gà y Đực TH 5 Đực TH 6 Cái TH 5 Cái TH 6 ss - 3 T 3T - 6T 6T - 9T 9T - 12T 12T - 24T Đồ thị 3.3: Sinh trưởng tuyệt đối của dê Beetal Qua đồ thị 3 chúng tôi thấy: ở giai đoạn từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi dê có tốc độ sinh trưởng tuyệt đối là lớn nhất, sau đó giảm dần và đặc biệt ở giai đoạn 6-9 tháng tuổi của dê đực giảm rõ rệt. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với quy luật sinh trưởng của gia súc ăn cỏ và cũng tương đồng với các kết quả nghiên cứu của các tác giả. Nguyễn Kim Lin, (2002)[14] cho biết: sinh trưởng tuyệt đối của dê Beetal thế hệ 2 và 3 ở giai đoạn từ 6 - 9 tháng tuổi ở dê đực đạt 56,6 gam/con/ngày; dê cái đạt 47,8gam/con/ngày, ở giai đoạn từ 9 - 12 tháng tuổi dê đực đạt 80,0 gam/con/ngày; dê cái đạt 77,7 gam/con/ngày. Ngô Hồng Chín, (2005)[9] nghiên cứu về sinh trưởng tuyệt đối của các giống dê ấn Độ thế hệ 4 thu được kết quả như sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 67 Ở giai đoạn từ sơ sinh - 3 tháng tuổi, sinh trưởng tuyệt đối của dê Beetal con đực là 110,0; con cái là 104,4 gam/con/ngày, dê Jumnapari con đực là 112,7; con cái là 107,2 gam/con/ngày, dê Barbari con đực là 103,8; con cái là 83,3 gam/con/ngày. Ở giai đoạn từ 9 - 12 tháng tuổi, sinh trưởng tuyệt đối của dê Beetal đực là 68,8 và con cái là 41,1 gam/con/ngày, dê Jumnapari con đực đạt được 62,2; con cái đạt được 41,1 gam/con/ngày, dê Barbari con đực đạt được 56,6; con cái đạt được 41,1gam/con/ngày. Qua các kết quả nghiên cứu trên cho thấy tốc độ sinh trưởng của dê Beetal thế hệ 5, 6 chậm hơn các thế hệ 2, 3 ở các giai đoạn 6 - 9 tháng tuổi và đặc biệt ở giai đoạn 9 - 12 tháng tuổi. 3.3.3. Kích thước một số chiếu đo cơ thể của dê Beetal Song song với việc theo dõi khối lượng cơ thể của dê Beetal, chúng tôi tiến hành theo dõi kích thước một số chiều đo cơ thể tại một số thời điểm. Kết quả theo dõi kích thước các chiều đo của dê Beetal thế hệ 5 và 6 được trình bày ở bảng 3.14 và 3.15. Kết quả theo dõi về kích thước các chiều đo của dê đực và dê cái thế hệ 5 và thế hệ 6 cho thấy: Giữa 2 thế hệ không có sự khác biệt rõ rệt (P>0,05). Kích thước các chiều đo của dê đực và dê cái ở cả 2 thế hệ trong giai đoạn đầu không khác nhau nhiều, nhưng các giai đoạn sau có sự khác biệt đáng kể. Cụ thể lúc 3 tháng tuổi, chiều đo cao vây (CV) của dê thế hệ 5 và 6 là 52,4 - 51,2 ở dê đực và dê cái là 50,6 - 51,2 cm, đến 24 tháng tuổi cao vây của dê đực là 81,6 - 83,5; dê cái là 68,5 - 70,2 cm (P<0,05). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 68 Bảng 3.14: Kích thước một số chiều đo cơ thể của dê đực Beetal (Đơn vị:cm) Tháng tuổi Chiều đo Thế hệ 5 (n = 16) Thế hệ 6 (n = 20) X ± m x Cv (%) X ± m x Cv (%) 3 CV 52,44 ± 0,44 3,40 51,28 ± 0,46 3,38 VN 54,19 ± 0,67 4,96 54,02 ± 0,76 5,12 DTC 50,13 ± 0,50 3,98 49,76 ± 0,52 3,78 6 CV 60,50 ± 1,59 10,49 58,62 ± 1,25 8,85 VN 57,81 ± 1,34 9,29 56,25 ± 1,62 8,82 DTC 55,00 ± 0,87 6,30 52,91 ± 0,78 7,12 9 CV 62,38 ± 1,23 7,92 60,88 ± 1,15 7,75 VN 59,25 ± 0,64 6,19 58,83 ± 0,92 5,29 DTC 60,44 ± 0,65 5,27 59,54 ± 1,05 4,87 12 CV 72,63 ± 1,15 7,04 70,55 ± 1,32 7,04 VN 70,69 ± 0,68 5,25 69,86 ± 0,81 4,35 DTC 69,19 ± 0,67 4,78 68,54 ± 0,61 4,92 24 CV 83,52 ± 0,85 7,85 81,65 ± 1,02 7,71 VN 80,46 ± 0,66 5,12 78,24 ± 0,81 5,66 DTC 82,82 ± 0,67 5,15 80,68 ± 0,61 4,95 Lúc 3 tháng tuổi kích thước dài thân chéo (DTC) của dê đực là 49,7 - 50,1; dê cái là 49,6 cm, đến 24 tháng tuổi dài thân chéo của dê đực đạt 80,6 - 82,8; dê cái đạt 6,5 - 70,5 cm (P<0,05). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 69 Bảng 3.15: Kích thước một số chiều đo cơ thể của dê cái Beetal (Đơn vị: cm) Tháng tuổi Chiều đo Thế hệ 5 (n = 29) Thế hệ 6 (n = 25) X ± m x Cv (%) X ± m x Cv (%) 3 CV 51,28 ± 0,46 8,40 50,62 ± 0,65 7,64 VN 53,59 ± 0,65 6,51 53,55 ± 0,72 7,49 DTC 49,62 ± 0,60 6,47 49,60 ± 0,62 6,72 6 CV 57,52 ± 0,70 6,55 57,22 ± 0,70 7,45 VN 57,28 ± 0,87 8,16 55,46 ± 0,78 8,11 DTC 53,38 ± 0,55 5,54 51,66 ± 0,65 6,54 9 CV 61,19 ± 0,82 7,19 60,07 ± 0,78 7,33 VN 59,53 ± 0,78 7,10 57,85 ± 0,85 7,26 DTC 57,93 ± 0,89 8,32 55,89 ± 0,89 8,24 12 CV 63,78 ± 0,85 7,17 60,87 ± 0,87 6,95 VN 62,28 ± 0,85 7,34 63,54 ± 0,92 7,13 DTC 61,17 ± 0,76 6,67 60,12 ± 0,72 7,27 24 CV 70,22 ± 0,92 7,10 68,52 ± 0,88 6,95 VN 71,26 ± 0,86 8,32 70,58 ± 0,82 8,20 DTC 70,53 ± 0,71 6,17 67,52 ± 0,92 7,18 Qua bảng 3.14 và bảng 3.15 chúng tôi thấy: Ở thời điểm 3 tháng tuổi kích thước các chiều đo cao vây, vòng ngực và dài thân chéo của dê đực và dê cái thế hệ 5 tương ứng là 52,44; 54,2; 50,1 cm và 51,2; 53,6; 49,6 cm, thế hệ 6 tương ứng là 51,2; 54,0; 49,7 và 50,6; 53,5; 49,6 cm. Đến thời điểm 12 tháng tuổi các chiều đo cao vây, vòng ngực và dài thân chéo của dê đực thế hệ 5 là 72,6; 70,7 và 69,2 cm, của dê cái là 63,7; 62,3 và 61,1 cm, tương ứng thế hệ 6 là 70,5; 69,8; 68,5 cm ở con đực và 60,8; 63,5; 60,1 cm ở con cái. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 70 Lúc 24 tháng tuổi, kích thước các chiều đo của dê đực thế hệ 5 và 6 tương ứng là 83,5; 80,4; 82,8 cm và 81,6; 78,2; 80,6 cm và ở con cái thế hệ 5 và 6 tương ứng là 70,2; 71,2; 70,5 cm và 68,5; 70,5; 67,5 cm. Kết quả trên cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Kim Lin, (2002)[14] trên đàn dê Ấn Độ thế hệ 2 - 3. Tác giả cho biết: Ở thời điểm 12 tháng tuổi dê đực có các chiều đo cao vây, vòng ngực và dài thân chéo tương ứng là 76,3; 73,2 và 74,1 cm, dê cái tương ứng là 65,3; 64,3; 62,4 cm. Lúc 24 tháng tuổi dê đực và dê cái có kích thước các chiều đo tương ứng là 87,6; 83,5; 86,3 cm và 70,7; 71,2; 70,8 cm. Kích thước một số chiều đo của dê Beetal thế hệ 5 và 6 so với các thế hệ trước không khác nhau nhiều nhưng nhìn chung có xu hướng thấp hơn các thế hệ trước. 3.3.4. Khả năng cho thịt và chất lượng thịt của dê đực Beetal 3.3.4.1. Khả năng cho thịt của dê đực Beetal Để đánh giá khả năng cho thịt của dê Beetal, chúng tôi tiến hành mổ khảo sát 3 dê đực của mỗi thế hệ ở thời điểm 9 tháng tuổi. Kết quả được trình bày ở bảng 3.16 Kết quả ở bảng 3.16 cho thấy: Khi giết mổ lúc 9 tháng tuổi, dê đực Beetal có khối lượng sống trung bình là 22,0 - 23,5 kg, tỷ lệ thịt xẻ từ 46,1- 46,8%, có thấp hơn chút ít so với nuôi ở Ấn Độ. Tuy nhiên, tỷ lệ thịt tinh là 28,8 - 29,2% thấp hơn so với dê Beetal thế hệ 2 và 3 là 30,3 - 30,7% và cũng thấp hơn dê cỏ (33%), tỷ lệ xương là 14,8 -15,2%. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 71 Bảng 3.16: Khả năng cho thịt của dê đực Beetal Chỉ tiêu Thế hệ 5 Thế hệ 6 * Ở Ấn Độ X ± m x X ± m x Tuổi mổ khảo sát (tháng) 9 9 n (con) 3 3 Khối lượng sống (kg) 23,5 22,0 24.6 Tỷ lệ thit xẻ (%) 46,8 ± 0,17 46,1 ± 0,18 47.4 Tỷ lệ thịt tinh (%) 29,2 ± 0,17 28,8 ± 0,17 29.9 Tỷ lệ xương (%) 14,8 ± 0,10 15,2 ± 0,10 15.4 Tỷ lệ phủ tạng (%) 30,2 ± 0,19 30,8 ± 0,22 29.8 P>0.05 * Ở Ấn Độ: Theo Battacharyya và cộng sự, 1989 Kết quả này cho thấy dê Beetal cũng có khả năng cho thịt cao, khối lượng thịt tinh của dê đực Beetal đạt 6,33 - 6,86 kg cao hơn nhiều so với dê Cỏ. Đặng Xuân Biên, 1979[8] cho biết: Khối lượng thịt tinh của dê Cỏ đạt 4,6 - 4,9 kg. Điều này chứng tỏ dê Beetal ngoài khả năng cho sữa tốt còn có khả năng cho thịt cao. 3.3.4.2. Chất lượng thịt của dê đực Beetal Song song với việc đánh giá khả năng cho thịt của dê đực Beetal, chúng tôi đã tiến hành phân tích thành phần dinh dưỡng của thịt dê. Kết quả phân tích được trình bày ở bảng 3.17. Kết quả cho thấy: Thành phần dinh dưỡng của thịt dê giữa 2 thế hệ không có gì khác biệt nhiều. Tỷ lệ vật chất khô (VCK), protein, mỡ và khoáng tổng số tương ứng đạt được là 23,8 - 24,2; 20,2 - 20,8; 0,55 - 0,56 và 1,17 - 1,21%. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 72 Bảng 3.17: Chất lượng thịt của dê đực Beetal Chỉ tiêu Thế hệ 5 Thế hệ 6 X ± m x X ± m x Tuổi mổ khảo sát (tháng) 9 9 n (mẫu) 3 3 VCK (%) 23,8 24,2 Protein (%) 20,2 20,8 Mỡ (%) 0,55 0,56 Khoáng tổng số (%) 1,17 1,21 Kết quả trên có thấp hơn chút ít so với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Kim Lin, (2002)[14] khi nghiên cứu trên dê Beetal thế hệ 2, 3. Tác giả cho biết: Tỷ lệ vật chất khô là 22,9 - 23,1%; tỷ lệ Protein là 20,8%; tỷ lệ mỡ là 0,43%. 3.4. Tình hình bệnh tật của đàn dê Beetal Tình hình bệnh tật của đàn dê Beetal thế hệ thứ 5 và 6 cũng được theo dõi chặt chẽ qua các năm, từ năm 2005 đến hết năm 2008. Kết quả được trình bày ở bảng 3.18. Tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết của đàn dê Beetal thế hệ thứ 5 và 6 được thể hiện ở bảng 3.18. Qua bảng trên chúng tôi thấy: Tỷ lệ mắc bệnh của toàn đàn dê hàng năm biến động từ 8,92 - 13,22%, tuy nhiên tỷ lệ chết chỉ chiếm khoảng từ 2,16- 3,75%. Các bệnh chủ yếu thường xảy ra trên dê là: Tụ huyết trùng, viêm ruột hoại tử, viêm loét miệng truyền nhiễm, đường ruột, viêm đường hô hấp là chủ yếu. Tuy nhiên, tỷ lệ chết chủ yếu xảy ra do bệnh đường ruột, phần lớn là do thức ăn không đảm bảo chất lượng, để ướt, nhiễm bẩn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 73 Bảng 3.18: Tình hình bệnh tật của đàn dê Beetal qua các năm Năm Tỷ lệ mắc (%) Tỷ lệ chết/đàn (%) Dê chết do bệnh (con) THT VRHT VLMTN Đƣờng ruột Hô hấp Bệnh khác 2005 13,22 3,75 1 1 0 1 2 1 2006 9,95 2,16 0 0 0 2 3 1 2007 10,71 2,38 0 1 0 2 1 1 2008 8,92 2,27 0 0 1 3 0 1 Ghi chú: THT: Tụ huyết trùng; VRHT: Viêm ruột hoại tử; VLMTN: Viêm loét miệng truyền nhiễm Ngoài ra, bệnh viêm đường hô hấp cũng dẫn đến tỷ lệ chết cao, do khí hậu ở nước ta thường xuyên có sự biến đổi. Nhìn chung, đàn dê khoẻ mạnh sinh trưởng và phát triển bình thường. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 74 KẾT LUẬN, ĐỀ NGHỊ 1. Kết luận Qua kết quả nghiên cứu, đánh giá khả năng sản xuất của dê Beetal thế hệ 5 và 6 nuôi tại trung tâm nghiên cứu Dê và Thỏ Sơn Tây, chúng tôi đi đến một số kết luận sau: * Khả năng sinh sản của dê cái - Khả năng sinh sản của dê cái Beetal thế hệ 5 và 6 có xu hướng kém hơn so với các đời đầu khi mới nhập về Việt Nam. Các chỉ tiêu về đặc điểm phát dục như tuổi động dục lần đầu, tuổi phối giống lần đầu và tuổi đẻ lứa đầu đều chậm hơn so với các đời đầu từ 48,9 - 73,3 ngày. - Khối lượng động dục lần đầu, phối lần đầu của dê cái Beetal thế hệ 5, 6 có xu hướng to hơn với các đời đầu từ 3,3 - 6,1 kg. - Các chỉ tiêu về khả năng sinh sản của dê tuy có dao động khi theo dõi ở các vùng khác nhau với các điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc và quản lý khác nhau, nhưng những đặc tính mang tính di truyền này lại khá ổn định. Dê cái Beetal sinh sản thế hệ 5 và 6 có số lứa đẻ/cái/năm tương ứng là 1,18 và 1,13 lứa, trung bình mỗi lứa đẻ 1,42 và 1,35 con sơ sinh, tổng số con sơ sinh/cái/năm là 1,67 và 1,52 con, số con cai sữa/cái/năm là 1,51 - 1,27 con. * Khả năng sản xuất sữa - Năng suất sữa của dê Beetal đạt cao nhất ở tháng thứ nhất của chu kỳ, giảm chậm đến tháng thứ 3, sau đó giảm nhanh hơn ở các tháng tiếp theo. - Năng suất sữa bình quân/con/ngày ở thế hệ 5 cao hơn thế hệ 6 và cả 2 thế hệ này đều thấp hơn các thế hệ 2, 3 nhưng lại gần tương đương so với ở Ấn Độ. - Sản lượng sữa/chu kỳ ở thế hệ 5 và 6 (253,6 - 209,6 kg) đều cao hơn ở Ấn Độ (194,4 kg), nhưng lại thấp hơn thế hệ 2 và 3 (314,1 - 362,7 kg). Thời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 75 gian cho sữa gần tương đương với thế hệ 1 và ở Ấn Độ, nhưng ngắn hơn so với thế hệ 2 và 3 * Hiệu quả sử dụng thức ăn cho sản xuất sữa Để sản xuất ra 1 kg sữa dê cái Beetal cần 1305,2-1382,2 gam vật chất khô và 138,7-148,8 gam protein, cao hơn so với các thế hệ trước chứng tỏ hiệu quả sử dụng thức ăn của dê Beetal thế hệ 5, 6 đã có chiều hướng kém dần. * Khả năng sinh sản của dê đực - Dê đực Beetal thế hệ 5 và 6 có dung lượng tinh dịch (V) tương ứng là 1,32 và 1,15 ml; hoạt lực (A) là 82,1 và 72,8%; nồng độ (C) là 3,65 và 3,16 tỷ/ml; tổng số tinh trùng tiến thẳng (VAC) là 3,95 và 2,65 tỷ. Đây là giống dê có chất lượng tinh khá tốt, có thể làm tinh cọng rạ hoặc tinh đông viên dùng trong chăn nuôi đại trà hoặc lai tạo với các giống dê khác. * Khả năng sinh trưởng - Dê Beetal có khả năng sinh trưởng tốt, tuy nhiên so với các thế hệ đầu thì dê Beetal thế hệ 5, 6 có khả năng sinh trưởng chậm hơn, đặc biệt là thế hệ 6. Lúc 3 tháng tuổi (cai sữa) khối lượng dê đực đạt 12,3 - 13,1 kg, dê cái đạt 10,8 - 11,8 kg. Lúc 9 tháng tuổi, khối lượng dê đực đạt 22,2 - 23,0 kg, dê cái đạt 21,5 - 22,2 kg. Lúc 24 tháng tuổi, khối lượng dê đực đạt 46,7 - 47,0 kg, dê cái đạt 32,2 - 33,5 kg, bằng 80-85% khối lượng trưởng thành. - Khả năng cho thịt của dê đực Beetal tốt hơn so với dê Cỏ địa phương: Tỷ lệ thịt xẻ đạt 46,1- 46,8%, tỷ lệ thịt tinh đạt 28,8-29,2%. 2. Đề nghị Trên cơ sở kết quả thu được, để không làm thoái hoá và mất giống dê Beetal, đề nghị các cấp lãnh đạo và quản lý có kế hoạch nhập mới giống Beetal về làm tươi máu đàn dê. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 76 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt 1. Đinh Văn Bình (1994), Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của giống dê Bách Thảo nuôi tại miền Bắc Việt Nam, Luận án PTS khoa học nông nghiệp, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội. 2. Đinh Văn Bình và cộng sự (1998), Kết quả nghiên cứu thích nghi ba giống dê Ấn Độ Barbari, Jumnapari, Beetal qua 4 năm nuôi tại Việt Nam (1994- 1998), Trung tâm Nghiên cứu Dê và Thỏ Sơn Tây, tr. 8-40. 3. Đinh Văn Bình, Nguyễn Quang Sức (2000), Kỹ thuật chăn nuôi dê, NXB Nông nghiệp Hà Nội. 4. Đinh Văn Bình, Phạm Trọng Bảo, Ngô Hồng Chín, Nguyễn Kim Lin, Đỗ Thị Thanh Vân, Nguyễn Duy Lý (2001), Đánh giá khả năng sản xuất của con lai F1 giữa dê đực Saanen với dê cái Barbari, Jumnapari, Bách thảo nuôi tại Trung tâm Nghiên cứu Dê và Thỏ Sơn Tây, Tóm tắt báo cáo khoa học năm 2001- Viện chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và PTNT, Hà Nội tháng 6/2001, tr. 41-44. 5. Đinh Văn Bình, Nguyễn Kim Lin và cộng sự (2003), Tiêu chuẩn phân cấp chất lượng dê đực, cái giống Bách Thảo, TCN-VCN, 2003. 6. Đinh Văn Bình, Nguyễn Duy Lý (2003), Kỹ thuật chăn nuôi dê lai sữa - thịt ở gia đình, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. 7. Đinh Văn Bình, Nguyễn Kim Lin, Phạm Trọng Bảo, Ngô Hồng Chín, Vũ Trung Hiếu, Ngô Quang Hưng (2005), Đánh giá khả năng sản xuất của 2 giống dê sữa Saanen và Alpine nhập từ Mỹ sau 3 năm nuôi tại Trung tâm Nghiên cứu Dê và Thỏ Sơn Tây, Báo cáo khoa học năm 2004, Viện Chăn nuôi, Từ Liêm, Hà Nội, tr. 107-115. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 77 8. Đặng Xuân Biên (1979). Kết quả điều tra giống dê và cừu. Trong kết quả nghiên cứu KHKT 1969 - 1979, Viện chăn nuôi. Nhà xuất bản nông nghiệp 1985. 9. Ngô Hồng Chín, Đinh Văn Bình, Nguyễn Kim Lin, Phạm Trọng Bảo, Phạm Trọng Đại (2005), Kết quả sản xuất của 3 giống dê Barbari, Jumnapari và Beetal nhập về từ Ấn Độ (thế hệ thứ 5) nuôi tại Trung tâm Nghiên cứu Dê và Thỏ Sơn Tây, Báo cáo khoa học năm 2005b, Viện Chăn nuôi, Từ Liêm, Hà Nội, tr. 25-27. 10. Lê Thanh Hải, Nguyễn Ngọc Hùng, Trần Văn Tịnh và Nguyễn Thị Mai (1994), Kỹ thuật nuôi dê sữa, NXB Nông Nghiệp. 11. Chu Đình Khu (1996), Nghiên cứu sử dụng dê đực Bách Thảo lai cải tạo đàn dê Cỏ địa phương, Luận án Thạc sỹ Nông nghiệp, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam, Văn Điển, Hà Nội. Trang 41-75. 12. Nguyễn Kim Lin (1999), Đánh giá một số tính năng sản xuất của dê Barbari nuôi tại vùng đồi gò Ba Vì và Sơn Tây -Hà Tây, Luận án Thạc sĩ Khoa học Nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội, tr.62-69. 13. Nguyễn Kim Lin (2006), Một số đặc điểm di truyền, giá trị di truyền cộng gộp và ưu thế lai thành phần về khả năng sản xuất sữa của 4 giống dê: Bách Thảo, Barbari, Jumnapari, Saanen và một số tổ hợp lai của chúng, Luận án Tiến sỹ Nông nghiệp, Viện Chăn nuôi quốc gia, Hà Nội 14. Nguyễn Kim Lin, Đinh Văn Bình, Chu Đình Khu, Phạm Trọng Bảo, Ngô Hồng Chín, Đỗ Thị Thanh Vân (2002), “Đánh giá khả năng sản xuất của dê sữa Beetal sau 8 năm (3 thế hệ) nuôi tại Việt Nam”, Chuyên san những kết quả nghiên cứu và phát triển chăn nuôi Dê, Cừu và thỏ - Thông tin khoa học kỹ thuật chăn nuôi số 1-2005, tr. 17-33. 15. Nguyễn Kim Lin, Đinh Văn Bình và Nguyễn Văn Đức (2004), “Nghiên cứu xác định hệ số di truyền sản lượng sữa dê Bách Thảo nuôi tại miền Bắc Việt Nam”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật của Hội Chăn Nuôi; số 11 [69] - 2004; ISN 0868-3417, tr. 21-23. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 78 16. Nguyễn Kim Lin, Đinh Văn Bình, Phạm Trọng Bảo, Ngô Hồng Chín và cộng sự (2004), “Nghiên cứu xác định hệ số di truyền về sản lượng sữa và áp dụng chọn lọc nâng cao sản lượng sữa các giống dê Bách Thảo, Jumnapari và Barbari nuôi tại Hà Tây”, Báo cáo khoa học chăn nuôi thú y, phần chăn nuôi gia súc, Nhà xuất bản Nông Nghiệp, Hà Nội, 8- 9/12/2004, tr. 331-344. 17. Nguyễn Kim Lin, Đinh Văn Bình, Phạm Trọng Bảo, Ngô Hồng Chín, Phạm Trọng Đại, Vũ Thị Thu Hằng (2005), “Khả năng sinh sản và sản xuất sữa của các tổ hợp lai giữa dê đực Saanen với dê cái Barbari, Jumnapari, Bách thảo và F1(Bách thảo x Cỏ) tại miền Bắc Việt Nam”, Tạp chí Khoa học - Công nghệ của Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn số 18/2005 ISN 0866 7020, tr. 40-42. 18. Nguyễn Thị Mai (2000), Nghiên cứu chọn lọc, nhân thuần dê Bách Thảo và lai với các giống dê ngoại nhập, Luận án Tiến sỹ Nông Nghiêp, Viện Nghiên cứu Khoa học Nông Nghiệp miền Nam. 19. Trần Đình Miên, Nguyễn Văn Thiện (1995), Chọn giống và nhân giống gia súc, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 73- 80. 20. Trần Đình Miên, Phan Cự Nhân, Nguyễn Văn Thiện, Trịnh Đình Đạt (1994), Di truyền học động vật, Giáo trình cao học nông nghiệp, Viện khoa học nông nghiệp Việt Nam, Nhà xuất bản Nông nghiệp. 21. Trần Trang Nhung và cộng sự (2005), Giáo trình chăn nuôi dê, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 22. Nguyễn Văn Thiện (1995), Di truyền học số lượng ứng dụng trong chăn nuôi. NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 23. Nguyễn Văn Thiện, Đinh Văn Hiến (1993), Nuôi dê sữa và dê thịt. Nhà xuất bản Nông nghiệp. 24. Nguyễn Văn Thiện, Hoàng Kim Giao (1996), Nâng cao năng suất sinh sản của gia súc cái, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 79 25. Lê Văn Thông (2005), Nghiên cứu một số đặc điểm của giống dê Cỏ và kết quả lai tạo với dê Bách Thảo tại vùng Thanh Ninh, Luận án Tiến sỹ khoa học Nông Nghiệp, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Nghiệp Việt Nam, Văn Điển, Hà Nội, tr. 95; 100; 111-113; 117-121. 26. Mai Hữu Yên (1998), Điều tra thực trạng đàn dê tại huyện Định Hóa và ảnh hưởng của việc thay đổi đực giống đến khả năng sản xuất của dê địa phương, Luận án Thạc sĩ, Trường Đại học Nông lâm, Thái Nguyên. 27. Tiêu chuẩn Việt Nam (1986), Phương pháp xác định hàm lượng protein tổng số, T.C.V.N 4328 - 86. 28. Tiêu chuẩn Việt Nam (1986), Phương pháp xác định vật chất khô, T.C.V.N 4326 - 86. 29. Tiêu chuẩn Việt Nam (1986), Phương pháp xác định hàm lượng khoáng tổng số, T.C.V.N 4327 - 86. Tài liệu tiếng nƣớc ngoài 30. Acharya, RM (1982), Sheep and Goats breeds of India, Fao Production and Health Paper (30), pp. 190-191. 31. Bhattacharyya, N.K., (1989) Carcass characteristics in goats rearing; 27 - 31, 34 -42. Published by Central institute for reseach on goats Makhdom, P.O., farah - 281122 Mathura. (U.PO India). 32. Devendra C. and Mcleroy (1987), Milk prodution and reproduction, Goat and Sheep production in the Tropics, pp. 7-51; 97-99. 33. Devendra, C (1980) Feeding and nutrition of goats. In Digestive physiology and nutrition of ruminants. Vol.3. Practical nutrition corvallis. Oregon, USA, O and B books, Inc.240-256. 34. Devendra, C (1982 a) The Utilization of fiber by goats. “3rd international conference on goat Production and diseases” 11-15th January 1982. Tueson. Arizona, USA.364. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 80 35. Devendra, C and Marca Burns (1983) Goat production in the tropics. Common weath agricultural Bureaux. Farnham-house. Farnham-Royal. Slough SL 23BN.UK. 36. Singh, N. S. and Sengar, O. P. S. (1985), Studies on the combinating ability of disable characters of important goat breeds. Final Technical Report, (PL- 480 research project on goats, Department of Animal Husbandry and Dairying, R.B.S. College, AGRA-282002; U.P. College VARANASI - 221002). 37. Sugangyi, Zhengming (1993), Pratical farmer farmily-Dairy goat in China, Recent advace in goat production, FAO, IGA, IDRC, 38. Jenness, R (1980) Composition and characteristics of goat milk review 1986-1979. Journal of dairy science 63 (10) 1605 - 1630. International symposium: dairy goats (ADSA diamond jubilec meeting) Boton Rouge. June 28 July 1, 1980. 39. FAO (2003), Livestock statistics, ( db) 40. Grossman, M., Fernando, R. L., Mohammad, W. A. et al (1986) Correlations between parities for lactation traits in United State dairy goats. J. Dairy Sci., pp. 69; 1917-1921 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 81 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM LÊ THỊ THU HÀ ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA DÊ BEETAL THẾ HỆ THỨ 5 VÀ 6 NUÔI TẠI TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU DÊ VÀ THỎ SƠN TÂY Chuyên ngành: CHĂN NUÔI Mã số: 60 - 62 - 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Nguyễn Kim Lin 2. PGS.TS. Trần Văn Tƣờng THÁI NGUYÊN - 2009 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9385.pdf
Tài liệu liên quan