mở đầu
Ngành sản phẩm sữa Việt Nam đã hình thành và phát triển từ những năm 1960, cũng đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử phát triển kinh tế nước nhà. Trong quá trình này ngành sản phẩm sữa đã có những đóng góp nhất định cho sự phát triển ngành công nghiệp nói riêng và tổng thể nền kinh tế nói chung, tạo công ăn việc làm cho nhiều người lao động, đóng góp tích cực vào chương trình xoá đói giảm nghèo của khu vực nông thôn, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hóa nông nghiệp. So
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1562 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đánh giá khả năng cạnh tranh trên Thị trường nội địa của ngành sản phẩm sữa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng từ trước tới nay ngành sản phẩm sữa nội địa được phát triển trong chế độ bảo hộ của Nhà nước để thực hiện chiến lược thay thế hàng nhập khẩu. Những biểu hiện thuận lợi hiện nay của sản phẩm sữa Việt Nam không hẳn đã phản ánh đúng bản chất năng lực thực sự.
Trong bối cảnh mới, khi mà Việt Nam đã là thành viên của các tổ chức quốc tế như ASEAN, APEC, AFTA và với xu thế hội nhập của nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế khu vực và thế giới, môi trường cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, nền kinh tế thị trường sẽ được hoàn thiện hơn, chế độ bảo hộ đối với ngành sản phẩm sữa sẽ không còn phù hợp nữa. Liệu sản phẩm sữa Việt Nam có tìm được chỗ đứng cho mình hay không khi những đặc chế này bị xoá bỏ. Cùng với những giới hạn của các nguồn lực phát triển không cho phép chúng ta đầu tư lãng phí vào những ngành không có hiệu quả cạnh tranh cao.
Vì vậy, việc đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam là cần thiết, góp phần quan trọng trong việc định hướng và xây dựng những chính sách phát triển liên quan đến ngành.
Đứng trước yêu cầu trên em đã lựa chọn đề tài “Đánh giá khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa của ngành sản phẩm sữa Việt Nam” để làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Chuyên đề gồm có ba chương, kết cấu như sau:
Chương I: Lý luận chung về năng lực cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa
Việt Nam.
Chương II: Đánh giá năng lực cạnh tranh trên thị trường nội địa của
ngành sản phẩm sữa Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp phát triển cho ngành sản phẩm sữa
Việt Nam.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do hạn chế về kinh nghiệm và trình độ nên chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô, cán bộ hướng dẫn nơi thực tập và của các anh chị em sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn ThS. Vũ Cương cùng tập thể cán bộ Ban nghiên cứu và phát triển các ngành sản xuất đã giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình thực hiện chuyên đề này !
Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2005
Chương i
lý luận chung về năng lực cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt nam
I/ những vấn đề lý luận chung về năng lực cạnh tranh của một ngành sản phẩm:
Nếu sét về năng lực cạnh tranh, chúng ta phải dặt ngành sản phẩm trong hai môi trường cạnh tranh cụ thể để phân tích: đó là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và cạnh tranh giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Trong bài này, chỉ lựa chọn đánh giá khả năng cạnh tranh ở tầm vĩ mô, tức là khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm giữa các đối thủ quốc tế trên cùng một thị trường, không đi vào phân tích năng lực cạnh tranh giữa các sản phẩm trong cùng một nước.
1.Khái niệm về năng lực cạnh tranh và cách tiếp cận vấn đề :
Vấn đề cạnh tranh, về mặt lý luận, từ lâu đã được các nhà kinh tế học trước C.Mác và chính các nhà kinh tế của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đã đề cập đến. Thuật ngữ cạnh tranh được dùng ở đây là cách gọi tắt của cụm từ cạnh tranh kinh tế (Economic Competition ) bằng một dạng cụ thể của cạnh tranh.
Cạnh tranh xuất hiện trong quy trình hình thành và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Do đó, hoạt động cạnh tranh gắn liền với sự tác động của các quy luật thị trường, như quy luật giá trị, quy luật cung cầu… do các cách tiếp cận khác nhau, nên trong thực tế có nhiều quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Kế thừa các quan điểm của các nhà nghiên cứu, chúng ta có thể thấy rằng: cạnh tranh là quan hệ kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường cùng theo đuổi mục đích, đó là lợi ích (trong đó bao gồm cả vấn đề lợi nhuận tối đa). Cạnh tranh chính là phương thức giải quyết mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa các chủ thể.
Cạnh tranh có thể được phân chia thành nhiều loại dựa trên các tiêu thức khác nhau, nếu xét theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể kinh tế trong cạnh tranh, có cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. C.Mác đã dùng cách phân loại trên đây nghiên cứu cơ sở khoa học của các phạm trù giá trị thị trường, giá cả sản xuất và lợi nhuận bình quân. ở đó, C.Mác chỉ rõ trước hết để đạt mục tiêu bán cùng một loại hàng hoá đã xuất hiện sự cạnh tranh trong nội bộ ngành, kết quả là hình thành giá trị thị trường. Và sau nữa, để đạt mục tiêu giành nơi đầu tư có lợi, giữa các chủ thể kinh tế đã xuất hiện cạnh tranh giữa các ngành, kết quả là hình thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất. Cuối cùng xét theo phạm vi lãnh thổ người ta nói tới cạnh tranh trong nước và cạnh tranh quốc tế. Trong trường hợp này năng lực cạnh tranh của sản phẩm sữa được đánh giá trên góc độ là cạnh tranh trong nội bộ ngành sản phẩm đồng thời xét theo phạm vi lãnh thổ chúng ta đánh giá và so sánh khả năng cạnh tranh như là cuộc cạnh tranh quốc tế, mặc dù vấn đề chúng ta nghiên cứu chủ yếu là cạnh trên thị trường trong nước là chính.
Khi nghiên cứu về cạnh tranh, các nhà nghiên cứu còn sử dụng các khái niệm như sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh. Rõ ràng các khái niệm trên đều có quan hệ với cạnh tranh nhưng không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Trong thực tế, thì sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và năng lực cạnh trang được sử dụng như những khái niệm đồng nghĩa. Thuật ngữ năng lực cạnh tranh được sử dụng rộng rãi trong các phương tiện thông tin đại chúng, trong các sách báo chuyên môn, trong giao tiếp hàng ngày của các chuyên gia kinh tế, các chính khách, nhà kinh doanh … Cho đến nay vẫn chưa có một sự nhất trí cao trong các học giả và giới chuyên môn về khái niệm và cách thức đo lường phân tích năng lực cạnh tranh của cấp quốc gia, ngành, công ty… Lý do là ở chỗ có nhiều cách hiểu khác nhau về năng lực cạnh tranh.
Trong bài này, trên quan điểm xuất phát của cạnh tranh là bắt đầu từ khi các doanhh nghiệp phải đương đầu với những khó khăn trong việc chiếm lĩnh thị trường khi cung lớn hơn cầu. Nên chúng ta có thể hiểu khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm của một nước chính là điểm mạnh mà đối thủ cạnh tranh không dễ dàng có được (đối thủ cạnh tranh ở đây có thể là các cùng đối thủ cạnh tranh cùng ngành của một nước khác hoặc các đối thủ cạnh tranh từ các sản phẩm thay thế ). Điểm mạnh ở đây, theo M.Porter đó là khả năng doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu của khách hàng với chi phí sản xuất thấp nhất. Tức là, khả năng cạnh tranh của sản phẩm ở đây có được thể hiện qua giá, có thể là chất lượng hay là sự kết hợp của cả hai mà doanh nghiệp hay ngành sản phẩm của một nước có thể cung cấp cho khách hàng của mình mà vẫn đảm bảo được mức lãi xuất cho doanh nghiệp hay cho ngành.
2.Phương pháp phân tích khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa:
Phương pháp phân tích này dựa trên cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của M.Porter về ngành sản phẩm. Theo M.Porter năng lực cạnh tranh của sản phẩm có thể dựa vào hai tiêu thức: sản phẩm có giá rẻ hơn so với đối thủ cạnh tranh hoặc là sản phẩm có giá cao hơn bằng cách tạo ra sự khách biệt. Nhưng xét đến sau cùng M.Porter vẫn cho rằng bản chất khả năng cạnh tranh của một ngành sản phẩm đối với một nước là khả năng giảm chi phí sản xuất loại sản phẩm ngành đó.
Do vậy chúng ta có thể sử dụng hai chỉ tiêu sau để đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm:
2.1.Các tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh của sản phẩm:
2.1.1 Khả năng cạnh tranh của sản phẩm về giá:
Chỉ tiêu này được sử dụng với vai trò là một sự so sánh về giá giữa các doanh nghiệp cạnh tranh. Đây là chỉ tiêu cơ bản quan trọng đầu tiên khi xem xét xem một sản phẩm nào đó có khả năng cạnh tranh hay không. Bởi thông qua giá, mà doanh nghiệp có khả năng thu hút ngày càng nhiều hơn khách hàng về phía mình, tất nhiên là trong mối tương quan với chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng. Chỉ tiêu này đặc biệt quan trọng nhất là đối với các doanh nghiệp hay với ngành sản xuất sản phẩm có ít hàm lượng khoa học kĩ thuật, như hàng tiêu dùng thông thường đặc biệt là hàng lương thực thực phẩm. Nhất là trong điều kiện về thu nhập của người tiêu dùng còn thấp.
Vấn đề khả năng cạnh tranh về giá còn cho thấy chi phí sản xuất của doanh nghiệp thấp hơn các đối thủ của nó. Điều này thể hiện các hoạt động tạo ra giá trị của doanh nghiệp có tính ưu việt hơn các đối thủ cạnh tranh. Chi phí thấp cho phép doanh nghiệp có khả năng đương đầu với những diễn biến bất lợi của có tác động đến giá cân bằng thị trường.
2.1.2 Khả năng cạnh tranh của sản phẩm về chất lượng:
Trước tiên, chất lượng sản phẩm ít nhất phải được xác nhận về chất lượng và quy trình công nghệ của các cơ quan chuyên trách. Đây là nhân tố đầu tiên đảm bảo doanh nghiệp thực hiện các tiêu chuẩn cơ bản, đủ tư cách sản xuất ra loại hàng hoá nào đó theo quy định của pháp luật (đối với từng sản phẩm đặc thù đều có những tiêu chuẩn kiểm định riêng về chất lượng do cơ quan có thẩm quyền đưa ra).
Thứ hai đó là chất lượng được khẳng định trong tâm trí người mua hàng, đó là một thứ tài sản vô hình vô cùng quý báu của doanh nghiệp như uy tín, tên tuổi sản phẩm. Nó thể hiện sự tin tưởng vào sản phẩm của khách hàng, tức là khi lựa chọn để sử dụng loại sản phẩm đó người mua nghĩ ngay đến sản phẩm của doanh nghiệp, ngay cả khi giá sản phẩm có cao hơn thị trường. Đó là khi, nếu cùng một chủng loại sản phẩm giá như nhau, chất lượng sản phẩm sẽ được đo bằng số lượng người mua lựa chọn loại sản phẩm của doanh nghiệp, tức là thị phần của doanh nghiệp có được trên cùng một loại sản phẩm. Chất lượng tạo sự tin cậy lâu dài của khách hàng vào sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp doanh nghiệp nào có uy tín hơn về chất lượng sẽ thắng thế trong cạnh tranh.
Chất lượng sản phẩm còn được đánh giá theo quy trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Như vậy, chỉ tiêu chất lượng thực ra xét về bản chất nó đã nằm trong chỉ tiêu về giá. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nó được chú trọng nhiều hơn, nhất là đối với các sản phẩm được sản xuất và cung cấp với giá cao hơn bằng cách tạo ra sự khác biệt sản phẩm. Để làm được như vậy, công ty phải tạo ra thế mạnh cơ bản trong một hoặc một số chức năng sáng tạo ra giá trị.
Nhìn chung các đánh giá cạnh tranh thường sử dụng trong ngắn hạn, nếu trong điều kiện cạnh tranh tương đối hoàn hảo thì khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp hay một ngành sản phẩm của một nước được biểu hiện ở chỉ số thị phần chiếm lĩnh được. Thế nhưng trên thực tế, trong lịch sử kinh tế năng lực cạnh tranh ngành của một số nước dựa phần lớn vào chế độ bảo hộ của Chính phủ. Như việc Chính phủ đưa ra hạn ngạch có thể làm hạn chế sự cạnh tranh của các sản phẩm nhập khẩu do vậy mà sản phẩm trong nước mới chiếm lĩnh được thị trường lớn hơn.
2.2.Nội dung phân tích như sau:
Trong tác phẩm bàn về cạnh tranh toàn cầu, Porter đã tổng hợp phương pháp nghiên cứu trong quá khứ, xây dựng mô hình lý luận gồm bốn nhân tố giữ vai trò mấu trốt đối với sự thành công trong cạnh tranh của một ngành nhất định. Trong bốn nhân tố này, em kết hợp nhân tố thứ ba và thứ tư để thuận lợi hơn trong quá trình phân tích, như vậy chỉ còn ba nhân tố cơ bản:
2.Nhu cầu trong nước.
1.Việc kết hợp các yếu tố sản xuất.
3.Cạnh tranh trong nước với các doanh nghiệp chủ chốt.
Dựa trên cơ sở lý luận của M.Porter, chúng ta có thể tiến hành phân tích như sau:
*Trước tiên chúng ta phân tích khái quát theo quan sát trên thị trường xem ngành sản phẩm được sản xuất trong nước phục vụ cho quy mô thị trường như thế nào. Rõ ràng sản phẩm của một nước chiếm thị phần lớn, phục vụ đa số khách hàng của thị trường thì phải là sản phẩm ưu điểm nổi trội, tức là có khả năng cạnh tranh. Từ đây chúng ta có những nhận định ban đầu về khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm.
*Sau đó, chúng ta đi vào bản chất vấn đề, những biểu hiện khả năng cạnh tranh trên thị trường nhờ vào phân tích thị phần có thể tin cậy được hay không. Tức là chúng ta đi vào đánh giá sức cạnh tranh theo các tiêu chí về giá và chất lượng của sản phẩm. Nếu sản phẩm có khả năng cạnh tranh thật sự thì những thì việc sản phẩm có quy mô thị trường lớn là hoàn toàn hợp lý. Nếu ngược lại, tức là thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, không phản ánh được thực chất vấn đề.
*Từ việc đánh giá chỉ tiêu cạnh tranh trên sẽ có hai trường hợp xảy ra:
TH1: Nếu ngành sản phẩm trong nước có khả năng cạnh tranh chúng ta phân tích các yếu tố tác động đến sức cạnh tranh của ngành sản phẩm. Từ đó, có các định hướng giải pháp khắc phục những khó khăn từ các yếu tố tác động.
TH2: Nếu trên tổng thể ngành không có khả năng cạnh tranh, ta có thể phân tích theo cơ cấu ngành có thể có khả năng phát triển ở những nhóm sản phẩm nào, nguyên nhân tại sao và có những định hướng gì để khắc phục nếu không thể khắc phục được thì có những chuyển sang hướng đến sản phẩm mới.
Phương pháp phân tích ở đây chúng ta phân tích theo hướng đặt ngành trong mối quan hệ cạnh tranh công bằng trên thị trường, tức là không công nhận khả năng cạnh tranh nhờ vào chế độ bảo hộ của Nhà nước. Bên cạnh đó phải chỉ ra được khả năng cạnh tranh của ngành trong tương lai là có hay không, tức là khả năng giảm giá sản phẩm của ngành có thể thực hiện được hay không.
Cách phân tích khả năng giảm giá của sản phẩm trong điều kiện có đóng góp của các yếu tố sản xuất từ nước ngoài, ta dựa vào tỷ lệ phần đóng góp của các yếu tố đầu vào và quy trình tạo ra giá trị sản phẩm. Trong đó phần nào chiếm tỷ lệ cao nhất và khả năng nội địa hoá là bao nhiêu. Phần nội địa hoá càng có góp phần tạo giá trị mới cho sản phẩm càng cao thì khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm đó càng cao. Vấn đề này càng phải được phân tích chặt chẽ khi sản phẩm có chứa những yếu tố sản xuất từ nước ngoài mà khả năng cạnh tranh hiện tại chưa có hay chưa thể hiện rõ.
Chú ý là khi đưa ra phương hướng phát triển ngành nên đặt ngành trong mối quan hệ tổng thể giữa cả các mục đích kinh tế và xã hội.
3.Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngành sản phẩm:
Theo phương pháp phân tích trên của M.porter ta có thể chia các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngành sản phẩm như sau:
4.1.Các nhân tố từ phía thị trường:
Phân tích đánh giá nhóm điều kiện về cầu phản ánh bản chất cầu thị trường trong nước đối với sự sản phẩm của ngành. Nhóm này sẽ cho ta thấy chu kỳ sống sản phẩm của ngành, ngành nào có cầu càng lớn, đơn giản, ngành đó càng có khả năng cạnh tranh nhờ giản chi phí, giảm giá nhưng lại tăng doanh thu. Nhu cầu trong nước lớn, khiến ngành sản phẩm trong nước có điều kiện phát triển vững hơn, không phải đối phó vất vả để giành giật những khoảng thị trường nhỏ bé và sự tốn kém để cạnh tranh với các đối thủ mạnh mẽ nước ngoài trên thị trường quốc tế.
4.2.Các yếu tố về điều kiện nguồn lực:
Một nước muốn phát triển ngành thuỷ sản không thể không có vùng biển rộng, nguồn thuỷ sản phong phú, muốn phát triển ngành sản phẩm mỹ nghệ không thể không có nguồn nhân công có kĩ thuật và kinh nghiệm,…Các yếu tố về nguồn lực sẽ tạo cho ngành sản phẩm của nước đó có lợi thế cạnh tranh so sánh, là tiền đề để tạo ra lợi thế cạnh tranh. Dựa vào những lợi thế so sánh này, các doanh nghiệp sẽ có các phương thức kết hợp đầu vào hợp lý, có nhiều điều kiện cho ra sản phẩm có chất lượng cao, chi phí thấp hơn so với những doanh nghiệp ở các nước không có những thuận lợi về nhân tố đầu vào sản xuất. Bên cạnh đó chúng ta luôn biết rằng bất kỳ một nước nào, một ngành nào, một doanh nghiệp nào cũng đều bị hạn chế bởi sự khan hiếm tài nguyên. Do vậy luôn phải có sự lựa chọn để phát triển ngành đen lại lợi ích tối ưu nhất.. Phân tích đánh giá nhóm các điều kiện về nhân tố sản xuất: điều này đem lại tiềm năng phát triển ổn định chủ động cho ngành, đồng thời tạo điều kiện cơ sở cho lợi thế cạnh tranh trong tương lai. Nhóm gồm:
1.Nguồn nguyên liệu.
2.Lao động.
3.Khoa học công nghệ.
4.3.Các nhân tố từ môi trường cạnh tranh trong nước với doanh nghiệp chủ chốt:
Phân tích nhân tố này cho thấy khả năng của các công ty trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh ngành như: số lượng công ty tham gia vào ngành, vị thế đàm phán của bên cung ứng, thị phần và tình hình sản xuất kết hợp các yếu tố đầu vào cho ra sản phẩm. Sự cạnh tranh gay gắt trong nội bộ ngành có thể sẽ làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp nhưng lại khiến ngành ở nơi sở tại ấy đi trước đối thủ cạnh tranh là người nước ngoài. Hay nói cách khác đó là đánh giá trình độ quản lý, quy trình để có được sản phẩm đầu ra. Có thể chia mục này thành hai phần cơ bản sau:
Các công ty tham gia vào ngành, thị phần và hiệu quả hoạt động kinh doanh của các công ty hiện nay.
Vị thế đàm phán của bên cung ứng.
II/Ngành sản phẩm sữa và sự cần thiết phải đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam:
1.Đặc điểm của ngành sản phẩm sữa:
Ngành sản phẩm sữa Việt Nam được hình thành từ những năm 1960, nhưng chỉ thực sự phát triển từ năm 1986 khi đất nước thực hiện công cuộc đổi mới. Trong những năm trở lại đây, thu nhập bình quân người dân Việt Nam tăng lên, do vậy mới phát triển mạnh mẽ nhu cầu sử dụng sữa, và khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm sữa ở Việt Nam sẽ tiếp tục tăng nhiều hơn nữa trong thời gian tới. Có thể coi hiện ngành sữa Việt Nam đang nằm trong giai đoạn đầu của chu kỳ sống của ngành. Do vậy, rất thuận lợi cho ngành sữa có điều kiện phát triển, giảm tính cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong nội bộ ngành để phân chia thị trường.
Do sản phẩm sữa là sản phẩm có liên quan đến sức khoẻ, chế độ dinh dưỡng, an toàn thực phẩm của con người nên ngành công nghiệp chế biến sữa hiện đang rất được các nước trên thế giới đặt trong sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước. Đối với các nước phát triển chăn nuôi bò sữa, sự kiểm soát này được Bộ Nông nghiệp và các Hiệp hội sữa thực hiện thông qua các điều luật chặt chẽ. Ngay từ đầu thế kỷ 20 (1908) các nước trên thế giới đã có các quy định thống nhất về quy trình kỹ thuật, an toàn thực phẩm cho việc sản xuất và chế biến sữa. ở Việt Nam những vấn đề này hầu như chưa được Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước quan tâm và vẫn ở trình trạng buông lỏng. Điều này có tác động không tốt tới cạnh tranh bình đẳng trong nước, có thể một số doanh nghiệp sử dụng công nghệ chế biến kém, nguyên liệu chất lượng xấu để cạnh tranh về giá. Đồng thời sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm sữa trong nước đối với hàng nhập khẩu (vì sản phẩm nhập khẩu thường đã được chứng nhận về chất lượng).
2.Sự cần thiết phải đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sữa Việt Nam:
Trước hết, trong quá trình phát triển, ngành công nghiêp sữa Việt Nam đã có những đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của ngành công nghiệp cả nước. Trong ngành công nghiệp chế biến sữa, đơn vị nòng cốt là Công ty Sữa Việt Nam (Vinamilk). Từ năm 1994 có thêm công ty Foremost (nay là Dutch Lady) là công ty liên doanh giữa Công ty suất nhập khẩu Sông Bé với Công ty Friesland Vietnam Holding B.V được cấp giấy phép hoạt động (tháng 4/1994) và Công ty Nestle Việt Nam- doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Thực trạng đóng góp và phát triển của ngành công nghiệp chế biến sữa được thể hiện trong bảng sau:
Bảng1: Giá trị sản xuất công nghiệp
Đơn vị: Tỷ đồng
1995
1997
1998
1999
2000
2001
Công nghiệp toàn quốc
103.374
134.420
150.685
168.749
195.225
223.578
Bộ Công nghiệp quản lý
24.783
32.080
34.956
36.284
41.793
48.159
Công ty Sữa VN
1.065,3
1.119,4
1.420
1.896,1
2.316
3.648
(Nguồn: Số liệu của Bộ Công nghiệp)
So sánh về giá trị sản xuất công nghiệp, tỷ trọng của Vinamilk so với Bộ Công nghiệp chiếm 4,30% trong năm 1995 đã tăng lên 5,54% trong năm 2000 (so với toàn ngành công nghiệp, con số tương ứng là 1,03% và 1,19%). Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng của ngành sữa cao hơn tốc độ tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp. Tính theo giá trị sản xuất công nghiệp, ngành sữa có mức tăng trưởng trung bình là 20%/năm trong giai đoạn 1996-2000. Trong khi đó, mức tăng trưởng cùng thời kỳ của toàn ngành công nghiệp là 13,57%/năm (theo giá cố định 1994). Điều này cho thấy ngành công nghiệp chế biến sữa trong quá trình phát triển, ngành đã có những đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của toàn ngành công nghiệp cũng như cả nước. Bên cạnh đó, còn có những lý do sau cần phải đánh giá thực trạng khả năng cạnh tranh sau để có được định hướng nhập khẩu hay phát triển ngành một cách hợp lý.
Thứ hai, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam ngày càng cao, ngành công nghiệp chế biến sữa đang phải đáp ứng nhu cầu sử dụng sữa và các sản phẩm từ sữa của người dân ngày một nhiều hơn. Theo thống kê, dự báo sẽ đạt 8 lít vào năm 2005 và 10-12 lít vào năm 2010. Phát triển sản xuất sản phẩm sữa với chiến lược thay thế hàng nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu.
Thứ ba, việc phát triển ngành công nghiệp chế biến sữa có tác động tích cực đến phát triển một số ngành khác như ngành chăn nuôi bò sữa, ngành công nghiệp đường, ngành công nghiệp dầu luyện…Những ngành phụ trợ này phát triển tạo điều kiện cho các ngành sản xuất hàng thực phẩm tiêu dùng khác phát triển như sản xuất nước quả, sản xuất bánh kẹo. Đặc biệt, hiện nay hai ngành công nghiệp đường và công nghiệp dầu luyện đang gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Phát triển công nghiệp chế biến sữa cũng là một trong những giải pháp để phát triển hai ngành sản xuất này.
Thứ tư, ngành công nghiệp sữa phát triển sẽ tạo thên việc làm cho xã hội , góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn, tăng thu nhập cho người nông dân, thực hiện xoá đói giảm nghèo. Có lẽ đây là một trong những vấn đề quan trọng nhất trong vai trò phát triển của ngành sữa Việt Nam. Theo dự báo trong Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp sữa Việt Nam, năm 2005 tạo được việc làm cho 200.000 lao động, năm 2010 sẽ có 380.000 lao động làm việc trong ngành sữa. Như đã nói ở trên, phát triển ngành công nghiệp sữa có tác động tích cực cho phát triển ngành chăn nuôi bò sữa trong nước. Nhất là trong điều kiện hiện nay, đất đai canh tác ngày càng bị thu hẹp, nông dân ít vốn, hình thức chăn nuôi bò sữa tỏ ra có hiệu quả tốt trong việc xoá đói giảm nghèo. Các mô hình này đặc biệt hiệu quả ở các vùng ngoại thành thành phố, nơi đất trồng trọt ngày càng thiếu thốn, sức ép lao động cao, có nhiều điều kiện tiếp thu kĩ thuật hơn so với các vùng nông thôn xa thành phố, xa nơi sản xuất, đã tạo ra việc làm cho nhiều ngàn hộ nông dân. Hiện tại do còn gặp nhiều khó khăn trong vấn đề bảo quản tiêu thụ nguyên liệu sữa, nên người nông dân còn chịu nhiều thiệt thòi, mới chỉ chăn nuôi theo quy mô gia đình nhỏ, lấy công làm lãi. Tuy nhiên hình thức này lại tương đối thành công so với các hình thức xoá đói giảm nghèo khác đã được thực hiện. Thúc đẩy quá trình phát triển chăn nuôi đàn bò sữa đối với các nông hộ sẽ đóng góp cho quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp. Hiện nay, vấn đề này đã được các Ban ngành có thẩm quyền quan tâm, như Chương trình phát triển đàn bò sữa 135 của Nhà nước để thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo.
3.Quan điểm đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam:
Thực tế thấy rằng ngành công nghiệp Sữa của Việt Nam sinh sau đẻ muộn và vô cùng nhỏ bé so với các đại gia trên thế giới, trong khi đó nhu cầu tiêu dùng của thị trường nội địa mới phát triển và còn nhiều tiềm năng lớn bởi mức tiêu dùng sữa của người dân Việt Nam còn quá thấp so với thế giới và còn phải mất rất nhiều năm phấn đấu để ngành này đáp ứng được mức tiêu dùng của người dân Việt Nam bằng các nước trong khu vực chứ chưa nói gì theo kịp mức các nước công nghiệp phát triển. Đặc biệt là nếu ngành sản phẩm Việt Nam muốn thâm nhập vào thị trường xuất khẩu mới, ngoài các yếu tố về giá cả và chất lượng mà phải có uy tín về thương hiệu của mình, đây chính là điểm yếu của sản phẩm sữa Việt Nam so với các hãng hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, trong mấy năm qua, các sản phẩm sữa Việt Nam cũng đã xuất khẩu được sang thị trường thế giới, nhưng phải nhìn nhận rằng thực chất việc xuất khẩu đó là do ta đã tận dụng được hoàn cảnh chính trị đặc biệt của thế giới, và cũng chủ yếu là đối với thị trường Irăk (Trung Đông). Như vậy thị trường hiện nay và trong tương lai tới của ngành sản phẩm sữa Việt Nam chủ yếu tập trung khai thác là thị trường nội địa. Vì lý do đó, trong khuôn khổ bài viết này, em chỉ tập trung phân tích khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam trên thị trường nội địa. Do vậy khi nói đến thị trường trong bài chúng ta có thể ngầm hiểu ở đây là thị trường nội địa.
chương ii
đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa việt nam
i/điều kiện về cầu thị trường trong nước:
Cùng với sự chuyển biến chung của nền kinh tế cả nước, năm 1986, từ khi đất nước thực hiện công cuộc đổi mới thị trường sữa mới thực sự phát triển. Người mua không chỉ dùng nhiều sữa hơn, mà cơ cấu, chủng loại sản phẩm sữa cũng đa dạng phong phú hơn. Trước đây sản phẩm sữa tiêu thụ phổ biến là sữa đặc có đường và sữâ bột cho đến nay cơ cấu sản phẩm đã tăng lên nhanh chóng thành nhiều nhóm sản phẩm phong phú. Lượng sữa tiêu thụ tăng hàng năm:150 triệu lít năm 1991 (quy ra sữa tươi), 200 triệu lít năm 1993, năm 1997 tăng lên 275 triệu lít và năm 2000 khoảng 460 triệu lít. Trong đó, thị phần nội địa của sữa sản xuất trong nước tăng từ 57% trong năm 1991 lên 92% trong năm 1995. Còn cơ cấu sản phẩm hiện nay có thể chia thành 8 nhóm sản phẩm cơ bản:
1.Nhóm sản phẩm sữa tươi thanh trùng.
2. Nhóm sản phẩm sữa tươi tiệt trùng.
3. Nhóm sản phẩm sữa đặc có đường.
4. Nhóm sản phẩm sữa bột.
5. Nhóm sản phẩm bột dinh dưỡng.
6. Nhóm sản phẩm sữa chua.
7. Nhóm sản phẩm các loại kem cao cấp.
8. Nhóm các sản phẩm khác từ sữa (như bơ, phomát…).
Hiện tại các sản phẩm sữa tiêu thụ trên thị trường nội địa có thể phân biệt tương đối rõ như sau:
*Sữa đặc chiếm lĩnh thị trường nông thôn và miền núi, những đối tượng sử dụng chủ yếu là chẻ nhỏ, người ốm, người già yếu; một phần dùng làm nguyên liệu trong các nhà máy bánh kẹo.
*Sữa bột tiêu thụ chính tại khu vực thành thị, đối tượng chính là trẻ thơ, người ốm và già yếu tại khu vực dân cư này.
*Sữa tươi và sữa chua cho mọi lứa tuổi trong khu vực thành thị vầ công nghiệp.
Như phân tích ở chương I, sữa nói chung là sản phẩm tiêu dùng thông thường khi thu nhập tăng sẽ làm tăng nhu cầu sử dụng về loại hàng này, hiện nay hệ số co dãn của loại hàng hoá này theo thu nhập của nhóm chuyên gia của tổ chức phát triển liên hợp quốc giúp Việt Nam nghiên cứu năm ngành công nghiệp (công nghiệp chế bién thực phẩm, công nghiệp dệt may, công nghiệp điện tử, công nghiệp ôtô và công nghiệp cơ khí) thời kỳ 1990 - 1995 hệ số này là 1,42 (do xuất phát điểm năm1990 của Việt Nam quá thấp, lượng tiêu thụ chỉ đạt 31 triệu lít). Thời kỳ 1996 - 2000 con số này là 0,75 và hiện nay con số này đạt khoảng 0,95 và tương đối ổn định, tất nhiên là sẽ không cao được nhiều như thời kỳ 1990 - 1995, nhưng cũng không thấp như thời kỳ 1996 - 2000 do chịu nhiều biến động kinh tế như cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998.
Xét về sự thay đổi trong cơ cấu về chủng loại sản phẩm : Việt Nam là nước nghèo, có mức thu nhập bình quân đầu người thuộc loại thấp nhất thế giới, vì lẽ đó trong nhiều năm qua người dân chưa có điều kiện tiêu dùng sữa một cách rộng rãi. Sau những năm đổi mới kinh tế tăng trưởng đều và ở mức cao, thu nhập bình quân đầu người khá hơn nhất là đối với khu vực thành thị và các khu tập trung công nghiệp, nhu cầu tiêu dùng trong dân đã có mức tăng đột biến, thể hiện rõ nhất trong giai đoạn 5 năm 1990 - 1995 và 1996 - 2000. Như vậy là tăng trưởng thu nhập quốc dân có liên quan chặt chẽ đến mức tiêu dùng sữa của người dân.
Từ năm 1976, sản phẩm sữa chế biến của người dân chủ yếu là sữa bột và sữa đặc có đường, đối tượng tiêu thụ chủ yếu là trẻ em, người già, người ốm. Đến năm 1982, danh mục các sản phẩm chế biến từ sữa bắt đầu được mở rộng phuc vụ cho nhiều đối tượng tiêu dùng. Trong cơ cấu thu nhập, khoảng các thu nhập cũng dẫn đến đòi hỏi về hàng hoá là khác nhau. Người nông thôn có thu nhập thấp hơn không những số lượng sữa tiêu thụ thấp hơn mà loại sản phẩm họ mua cũng khác, chủ yếu là sữa đặc có đường. Sản phẩm này giá rẻ, thuận tiện cho việc phân phối bảo quản tiêu dùng ở nông thôn và vùng sâu vùng xa.
Trên thị trường những người có thu nhập cao hơn, họ dùng nhiều sữa hơn và những họ cũng đòi hỏi nhiều chủng loại để lựa chọn hơn. Những sản phẩm được ưa chuộng chủ yếu là: sữa tươi tiệt trùng, sữa chua, các loại ken cao cấp và các sản phẩm khác từ sữa như bơ, phomat…
Khoảng cách thu nhập đa tạo ra sự phong phú cho các chủng loại của sản phẩm sữa để đáp ứng những mảng thị trường khác nhau.
Thứ hai là tại sao phần lớn những sản phẩm có chất lượng tốt hơn hay sự đòi hỏi cao từ phía người tiêu dùng chủ yếu tập trung ở các khu vực thành thị phát triển. Phải nói rằng, một trong những lý do tác động đến sự phân chia chủng loại sản phẩm đó là kiến thức người tiêu dùng, sự tiếp cận của các khách hàng này tới sản phẩm này là thường xuyên. Mức sống cao họ đò hỏi chất lượng nhiều hơn số lượng, thông tin đại chúng được thường xuyên cập nhập, thông thường trong một ngày đêm có ít nhất là 10 lần có mặt sản phẩm sữa được quảng cáo trên truyền hình, các dịch vụ khách hàng giới thiệu sản phẩm của công ty được phát triển rộng rãi.
Đồng thời dân trí cao khiến những người tiêu dùng này chở nên khó tính hơn, hiểu biết hơn trong việc lựa chọn sản phẩm cho bản thân. Nhất là đối với một số loại sản phẩm đặc biệt đặc biệt từ sữa như: sữa cho trẻ em, cho phụ nữ mang thai, cho người ốm, người bị bệnh tiểu đường…Sản phẩm không chỉ đến tay người tiêu dùng thông qua các đại lý phân phối hay cơ sở bán lẻ mà nó còn xuất hiện rất nhiều hình thức như thông qua chuyên gia tư vấn dinh dưỡng, qua sự hướng dẫn của bác sĩ, qua các hướng dẫn của giáo viên trong các nhà trẻ. Các sản phẩm loại này hiện nay tăng rất mạnh về nhu cầu, không những thế giá của nó thuộc vào loại cao nhất trong những sản phẩm chế biến từ sữa. Nó có khả năng đem lại lợi nhuận cao cho các doanh nghiệp có thế mạnh trong hoạt động Marketing chăm sóc khách hàng tốt. Điều này cũng phản ánh sự không thuận lợi cho các sản phẩm nội địa hiện nay còn kém xa về các hoạt động này so với sản phẩm nhập khẩu của các nước có thương hiệu nổi tiếng trên thế giới.
Tóm lại, thị trường tiêu thụ sữa Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, nhu cầu đang ban đầu được mở rộng nhanh chóng do có nhiều khách hàng mới tham gia vào thị trường. Điều này có tác động đến mức độ cạnh tranh ._.giữa các đối thủ cạnh tranh trong ngành (ở đây là với sản phẩm nhập khẩu), nó đưa đến nhiều cơ hội cho phát triển ngành, giảm sứa ép cạnh tranh giữa các đối thủ. Do sự cạnh tranh còn yếu, nên sự tăng mạnh về cầu cho phép các công ty nội địa tăng doanh số và lợi nhuận mà không cần phải thôn tính thị trường của đối thủ cạnh tranh ngay trong nước cũng như đối thủ nhập khẩu. Các sản phẩm nội địa cũng như nhập khẩu đều có thể mở rộng hoạt động. Đây là khoảng cách cần thiết cho các công ty trong nước tận dụng nắm lấy thuận lợi của điều kiện thị trường trong giâi đoạn này là sự cạnh tranh tương đối hoà dịu để chuẩn bị cho sự cạnh tranh quyết liệt sau này.
ii/đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm sữa việt nam:
Nếu nhận định tổng quát theo tình hình tiêu thụ trên thị trường nội địa, thì hiện nay sản phẩm sữa Việt Nam có những biểu hiện khả năng cạnh tranh rất cao, dựa vào các chỉ tiêu về thị phần và tốc độ tăng thị phần của sản phẩm sữa nội địa.
Dựa theo số liệu của hai bảng dưới đây, cho thấy sản phẩm nội địa nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường từ 57% năm1991 cho đến nay đã chiếm lĩnh áp đảo sản phẩm nhập khẩu là 92% thị trường nội địa. Trong khi đó, sản phẩm nhập khẩu ngày càng giảm từ 43% thị phần hiện nay chỉ còn chiếm có 3 - 5% thị phần nội địa.
Bảng 2: Thị phần sữa năm 1991 trên thị trường Việt Nam
(Đơn vị:%)
Nguồn gốc sản xuất của sản phẩm sữa
Thị phần
Tổng
100%
Các sản phẩm sản xuất trong nước
57%
Các sản phẩm nhập khẩu
43%
Bảng 3: Thị phần sữa hiện nay trên thị trường Việt Nam (từ năm 1995 )
Đơn vị:%
Nguồn gốc sản xuất của sản phẩm sữa
Thị phần
Tổng
100%
Công ty Vinamilk
70 - 75%
Dutch Lady, Nestle, các doanh nghiệp khác và các cơ sở bán lẻ
Khoảng 22%
Các sản phẩm nhập khẩu
3 - 5%
(Nguồn của cả hai bảng: Theo đánh giá của Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp)
Đồng thời, dựa vào bảng 3, cho thấy sản phẩm của Công ty Vinamilk là có sức cạnh tranh cao nhất, thị phần của công ty này luôn chiếm đến 70 - 75% thị trường tiêu thụ cả nước. Tức là, nếu quan sát qua thị phần như vậy ta có thể cho rằng khả năng cạnh tranh cao nhất là thuộc về sản phẩm sữa của các công ty nội địa, trong đó mạnh nhất là Vinamilk, còn sản phẩm nhập khẩu chỉ chiếm một số phân đoạn thị trường nhỏ hẹp, hay nói cách khác sức cạnh tranh của sản phẩm nhập ngoại là rất thấp.
Bây giờ chúng ta xét đến thị phần theo nhóm sản phẩm để thấy được sản phẩm nào chúng ta có thế mạnh nhất và sản phẩm nào chúng ta còn bị hạn chế trong cạnh tranh trên thị trường nội địa.
Bảng 4: Thị phần theo sản phẩm
Đơn vị:%
Thị phần
Sữa đặc có đường
Sữa bột
Sữa tươi
Tổng
100%
100%
100%
Vinamilk
66-70%
40%
90 - 98%
Dutch Lady, Nestle và các doanh nghiệp trong nước khác
30 - 35%
35-40%
2 - 6%
Sản phẩm nhập khẩu
<1%
20%
2 - 3%
(Nguồn: Tính toán dựa theo số liệu của Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp)
Theo số liệu trên thì Vinamilk gần như độc quyền đối với sản phẩm sữa tươi, chiếm phầm lớn thị phần của sản phẩm sữa đặc và sản phẩm sữa bột cũng chiếm đến một nửa thị trường. Tức là trong cơ cấu sản phẩm, sản phẩm nội địa cũng chiếm thế áp đảo đối với mọi nhóm sản phẩm ngành sữa, trong đó có mạnh nhất có lẽ là sản phẩm sữa tươi.
Như vậy, nếu chỉ quan sát qua thị trường tiêu thụ sữa mà đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm sữa thì rõ ràng sản phẩm sữa nội địa hiện nay của Việt Nam rất cao, nhất là đối với các sản phẩm sản xuất từ doanh nghiệp Nhà nước. Vậy điều đó có thể hiện đúng bản chất của sức cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nạm hay không. Để làm được thế, chúng ta phải sử dụng các tiêu chí phản ánh khả năng cạnh tranh của nhóm sản phẩm này để đánh giá, đó là tiêu chí về giá và chất lượng. Từ đó mới có kết luận chính xác là ngành sản phẩm sữa Việt Nam thực sự có khả năng cạnh tranh thuần thuý và lâu dài hay không, hay là nó chỉ cạnh tranh được nhờ sự thuận lợi không bền vững từ các yếu tố ngoài ngành khác, đặc biệt là sự bảo hộ từ phía Chính phủ.
1.Khả năng cạnh tranh về giá của sản phẩm sữaViệt Nam:
Nhìn chung, trên thị trường sữa hiện nay, giá sản phẩm sữa sản xuất trong nước luôn rẻ hơn giá sữa sản phẩm nhập khẩu cùng loại từ 50 - 60%.
Ta chia sản phẩm sữa ra làm ba nhóm sản phẩm gồm: sản phẩm sữa bột, sản phẩm sữa đặc có đường và sản phẩm sữa tươi để phân tích giá.
Sản phẩm sữa bột, bột dinh dưỡng: Đối thủ cạnh tranh của chúng ta gồm có Pháp, Hà Lan, Bỉ, Nhật Bản, Mỹ. Các sản phẩm nhập khẩu này được bán trên thị trường với giá cao hơn giá sản phẩm cùng loại sản xuất trong nước từ 50-100% tập trung tiêu thụ chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng,…
Sản phẩm sữa đặc có đường: Đối với sản phẩm sữa đặc có đường nhập ngoại đã giảm nhiều trong những năn gần đây vì khó cạnh tranh được với sản phẩm của Vinamilk và Dutch Lady. Do giá sản phẩm này trong nước luôn thấp hơn nhập khẩu 30%. Hiện nay sản phẩm này gần như không nhập khẩu vào được Việt Nam.
Sản phẩm sữa tươi: Đối thủ cạnh tranh mặt hàng nay gồm có Pháp và New Zealand, hiện nay giá một lít sữa tươi của sản phẩm nội địa khi bán cho người tiêu dùng vào khoảng 11.000đ/lít, giá bán của hàng nhập khẩu vào khoảng 17.000đ/lít
Nếu xét về giá như trên thì sản phẩm sữa trong nước có khả năng cạnh tranh về giá. Nhưng thực ra, trong cơ cấu giá trên có đến 30% là thuế Chính phủ đánh vào sản phẩm nhập khẩu. Như vậy, nếu tính ra giá sản phẩm sữa bột, bột dinh dưỡng nhập khẩu sẽ cao hơn từ 20-60%, giá sản phẩm sữa tươi nhập khẩu sẽ cao hơn khoảng 1.000 đ/lít, sản phẩm của chúng ta vẫn có thể có cạnh tranh về giá ngay cả khi bỏ qua việc bảo hộ của Chính phủ, nhưng sức cạnh tranh về giá là rất thấp, bấp bênh và không ổn định nhất là khi giá nguyên liệu đầu vào nhập khẩu đang có xu hướng tăng như hiện nay. Liệu trong mối tương quan với chất lượng chúng ta có thể cạnh tranh được hay không.
2.Khả năng cạnh tranh về chất lượng của sản phẩm sữaViệt Nam:
Mặc dù với công nghệ sản xuất tương đối hiện đại đủ khả năng để chế biến các sản phẩm sữa đảm bảo chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Sản phẩm của Công ty Sữa Việt Nam được các cơ qua chuyên trách về chuyên trách trong và ngoài nước xác nhận về chất lượng (Vinacontrol, Viện Kiểm tra Đo lường chất lượng của áo ). Tuy nhiên xét về tổng thể, Việt Nam vẫn chưa xây dựng được bộ tiêu chuẩn hoàn chỉnh cho các sản phẩm sữa từ sữa nguyên liệu nhập khẩu đến sữa thành phẩm. Tức là, chất lượng sản phẩm nội địa được thả nổi, không được đảm bảo bởi bất kỳ một tổ chức có uy tín nào, mà phụ thuộc vào cách làm của từng công ty. Hơn nữa sản phẩm sữa trong nước chủ yếu đươc sản xuất từ sữa bột nhập khẩu, mà để sản phẩm chế biến từ nguồn sữa bột nhập đạt được chất lượng như sản phẩm tạo ra từ nguồn sữa tươi tại chỗ thì trong quá trình chế biến phải bổ xung thêm vi lượng vi lượng các khoáng chất, vitamin, béo…
Trong khi chúng ta so sánh với các đại gia sản xuất sữa trên thế giới, chất lượng sản phẩm luôn được đảm bảo bởi các hiệp hội có uy tín trên thế giới. Từ trước đến nay đã luôn được người tiêu dùng tin cậy, ngay cả người tiêu dùng trong nước, đối với các sản phẩm nhập ngoại này giá rất cao ngay cả khi bị chịu thuế vẫn có người tiêu dùng, nếu không bị hạn chế bởi thuế và hạn ngạch của Chính phủ thì sản phẩm sữa trong nước có khả năng sẽ bị đè bẹp ngay trên thị trường nội địa.
Kết luận nhỏ: Từ phân tích trên ta đánh giá tổng quát về sức cạnh tranh chung của toàn ngành như sau: chúng ta có khả năng cạnh tranh về giá nhưng là rất thấp và không ổn định do không chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào, còn khả năng cạnh tranh về chất lượng thì chúng ta không có. Tức là nhìn chung khả năng cạnh tranh của sản phẩm sữa Việt Nam so với hàng nhập khẩu là rất thấp. Do vậy chúng đi sâu vào phân tích khả năng cạnh tranh của từng nhóm ngành nhỏ để có những nhận định chi tiết và chính xác hơn. Nếu không có khả năng cạnh tranh chung để phát triển toàn ngành chúng ta có thể đi vào định hướng đầu tư phát triển vào những nhóm sản phẩm có năng lực cạnh tranh.
*Phân tích khả năng cạnh tranh theo từng nhóm sản phẩm trong ngành sản phẩm sữa:
Kết hợp cả việc phân tích về giá và chất lượng teo nhóm sản phẩm, chúng ta có xét những nhóm sản phẩm chủ yếu sau:
1.Sữa tươi thanh trùng: sản phẩm này chế biến từ sữa bò tươi được gia nhiệt thanh trùng ở nhiệt độ 70 0C, sau đó đóng gói bằng bao BBIST và đưa ra thị trường. Đặc điểm của sản phẩm là luôn phải bảo quản lạnh.
Loại sản phẩm này hiện nay trên thị trường chỉ có các công ty trong nước, gần nguồn nguyên liệu tại chỗ cung cấp. Như đã nói ở trên sản phẩm từ sữa bò tươi giá trị dinh dưỡng cao, chỉ thanh trùng ở nhiệt độ 70 0C nên rất chóng hỏng, hạn sử dụng ngắn, phương pháp chế biến đơn giản nhưng bảo quản không thuận tiện. Tương tự như điều kiện sản xuất, thị trường tiêu thụ sản phẩm này cũng phải gần thị trường thì mới không làm tăng giá do chi phí bảo quản. Do vậy, không có mặt hàng này nhập khẩu.
Giá sản phẩm này trên thị trường được bán với giá khoảng 9.500 đồng/lít (gồm cả chi phí bán hàng ) và chưa kể thuế giá trị giá tăng. Nếu lấy giá nguyên liệu sữa hiện nay trong nước là 3.550 đồng/lít thì giá thành 1 lít sữa tươi đã qua chế biến là 8.176 đồng/lít. Tức là so với giá bán ở trên thì các cơ sở chế biến gần như chưa có lãi ở loại sản phẩm này.
2.Sữa tươi tiệt trùng (UHT) và Sữa chua:
Hai loại sản phẩm này về cơ bản có thể biểu diễn lưu trình công nghệ sản xuất như sau:
Hình 1: Lưu trình công nghệ sản xuất sữa tươi tiệt trùng và sữa chua dạng uống.
(Nguồn: Theo quy hoạch phát triểnngành công nghiệp sữa Việt Nam).
Trao đổi nhiệt
Hoà trộn
Hoà trộn
Làm lạnh
Thùng chứa
Thanh trùng
Đồng hoá
Tiệt trùng UHT
Lưu 3 giây
Làm nguội
Rót & đóng gói
Rót & đóng gói
Kho chứa
Lên men sữa chua
Nước Bột sữa
Sữa tiệt trùng
ò
Sữa chua dạng uống
Sữa tươi tiệt trùng (UHT) Sản phẩm được chế biến từ sữa bò tươi, gia nhiệt tiệt trùng ở nhiệt độ cao 150 0C trong thời gian từ 1-2 giây sau đó đóng bằng bao BBIST. Đặc điểm của sản phẩm có thời hạn sử dụng lâu (có thể được 12 tháng) trong điều kiện nhiệt độ bình thường, thuận tiện khi vận chuyển phân phối và sử dụng nên các nước Châu á trong đó có Việt Nam rất ưa chuộng loại sản phẩm này. Sản phẩm sữa tươi tiệt trùng nếu được sản xuất từ nguồn nguyên liệu sữa tươi tại chỗ thì bỏ qua công đoạn hoà trộn
Sữa chua: sản phẩm được chế biến sữa bò (sữa bột hoặc sữa tươi) + dầu bơ + đường được đồng hoá - thanh trùng - làm nguội - cấy men- ủ - làm lạnh - đóng hộp PE. Sản phẩm được bảo quản ở nhiệt độ –5 0C. Đặc điểm của sản phẩm có nhiều chất bổ dưỡng, kích thích tiêu hoá, thích hợp cho mọi tầng lớp người tiêu dùng tại mọi thị trường.
Hai loại sản phẩm này hiện nay là sản phẩm chủ lực của công ty Vinamilk, Dutch Lady, hiện được tiêu thụ rộng rãi và rất được người tiêu dùng ưa chuộng. Canh tranh với các doanh nghiệp trong nước ở nhóm sản phẩm này có sản phẩm sữa tươi tiệt trùng của Pháp và New Zealand. Các sản phẩm này có hương vị thơm ngon hơn sản phẩm của chúng ta, do được sản xuất từ sữa chưa tác bơ tại bản địa, cũng vì vậy nên có thành phần dinh dưỡng tương đối đầy đủ tương tự như sữa tươi nguyên chất. Giá của các sản phẩm nhập khẩu này luôn có giá cao hơn sản phẩm trong nước 50%. Nên các sản phẩm cùng loại của chúng ta cạnh tranh được chủ yếu về giá. Song sản phẩm nhập khẩu có mức giá cao như vậy phần lớn là do thuế, thuế này đánh 30% vào sản phẩm sữa nhập khẩu. Nói chung hiện nay, sản phẩm nhập khẩu hơn hẳn chúng ta nếu xét về chất lượng sản phẩm, chúng hiện chỉ có khả năng cạnh tranh về giá mà một phần lớn là dựa vào sự bảo hộ của Chính phủ. Nếu sản trong nước chế biến từ nguồn sữa bột nhập đạt được chất lượng như sữa nhập khẩu thì trong quá trình chế biến phải bổ xung thêm vi lượng các chất khoáng, vitamin, béo…Điều đó sẽ làm giảm đáng kể lợi nhuận cho nhà sản xuất. Nếu Nhà nước ban hành Tiêu chuẩn chất lượng thống nhất cho sản phẩm sữa thì quá trình bổ xung thêm vi lượng các chất khoáng, vitamin, béo trong chế biến từ nguyên liệu sữa bột mới được coi trọng, điều này sẽ làm tăng chi phí sản xuất dẫn đến làm tăng giá sản phẩm trong nước. Khi đó, sản phẩm của chúng ta chất lượng cao hơn sẽ không còn khả năng cạnh tranh về giá nữa.
Trong tình trạng chất lượng như hiện giờ khi không có thuế can thiệp, sản phẩm nhập ngoại chỉ cao hơn của chúng ta gần 10%. Tức là nếu tính theo giá bán 1 lít sản xuất trong nước là 11.000 đồng/lít thì sản phẩm nhập khẩu là 12.000 đồng/lít, với tương quan chất lượng như vậy liệu sản phẩm sản xuất trong nước có còn chỗ đứng ngay trên thị trường nội địa hay không.
Xét trong cơ cấu giá thành của sản phẩm này, chi phí trong nước chỉ chiếm có 24%, trong khi đó chi phí ngoại tệ chiếm đến 76%, thế nhưng một điều thật ngạc nhiên là không phải phần lớn chi phí ngoại tệ dùng để nhập khẩu nguyên liệu sữa bột gầy mà là chi phí bao bì, chi phí này chiếm 62,5% trên tổng chi phí, tức là nguyên liệu sữa nhập khẩu chỉ chiếm 13,5%. Vậy chúng ta phân tích xem nhóm sản phẩm này của chúng ta có khả năng giảm giá hay tăng chất lượng hay không.
Nếu muốn giảm giá, thì giải pháp tốt nhất là phải có hướng giảm chi phí bao bì xuống, tức là chuyển hướng tìm nhà cung cấp bao bì trong nước. Đây là phương hướng khả quan, hiện đã có nhiều công ty tham gia vào lĩnh vực sản xuất này.
Nếu muốn nâng cao chất lượng, chúng ta có hai cách: sử dụng nguyên liệu sữa tươi trong nước hoặc sử dụng nguyên liệu sữa bột ngoại nhập. Sữa nhập khẩu chúng ta sử dụng giao động trong khoảng 0,15-0,21 USD/kg, trong khi giá thu mua của nông dân về đến nhà máy 1kg sữa với giá 3.550 đồng tương đương 0,23 USD. Nếu sử dụng nguyên liệu sữa tươi tại chỗ trong nước, sản phẩm sẽ có chất lượng cao nhưng sẽ làm tăng chi phí sản phẩm lên khoảng 0,02-0,08 USD, tức là giá mỗi lít sữa nội địa tăng thêm khoảng 400-1.200 đồng/lít sữa trên thị trường. Tương đối bằng giá sản phẩm nhập ngoại khi không có tác động của thuế.Còn nếu sử dụng nguyên liệu nhập khẩu thì phải bổ xung thêm một số chất dinh dưỡng, điều này làm giá thành sản phẩm cao hơn cả việc sử dụng nguyên liệu trong nước nhưng lại chiếm phần lớn vì hiện nay nguyên liệu trong nước mới chỉ đáp ứng được 13% tổng nhu cầu nguyên liệu sử dụng trong ngành.
Giải pháp trên là cần thiết trong điều kiện sắp tới khi Nhà nước đã có các Tiêu chuẩn kiểm định chất lượng không buông lỏng như hiện nay.
Như vậỵ, nếu kết hợp cả hai phương pháp trên hoặc sản phẩm sản xuất bằng nguồn nguyên liệu trong nước được giảm bớt thuế và thì có thể cạnh tranh được về giá so với sản phẩm nước ngoài mà chất lượng vẫn đảm bảo. Vậy chúng ta có khả năng phát triển nguồn nguyên liệu hay tự túc được về bao bì sản phẩm hay không, nếu có thì mới có thể tiếp tục phát triển nhóm sản phẩm này.
3.Sữa đặc có đường:
Sản phẩm chế biến từ sữa bột (hoặc sữa bò tươi), trộn với bơ (hoặc dầu thực vật) cùng với đường kính và nước được đồng hoá-thanh trùng-cô đặc làm nguội-đóng trong hộp thiếc. Sản phẩm sữa đặc có đường thuận tiện cho người tiêu dùng ở nông thôn và vùng xa.
Riêng loại sản phẩm này cúng ta lại rất có khả năng cạnh tranh về giá, vì nhu cầu nhóm sản phẩm này co dãn với giá rất lớn. Do chịu nhiều chí phí vận chuyển và bảo quản, lợi nhuận đem lại sản phẩm này lại không cao nên các sản phẩm nhập khẩu hiện nay không có mặt trên thị trường.
4.Sữa bột:
Sản phẩm được chế biến từ sữa bột + dầu bơ + dầu thực vật + Maltodestrin + Lactore được đồng hoá - thanh trùng - cô đặc - sấy phun - tạo hạt, trộn thêm đường kính và các vitamin - đóng trong hộp thiếc. Sản phẩm sữa bột thích hợp với các đối tượng như trẻ em, người già, được tiêu thụ nhiều ở thành thị và xuất khẩu.
Đối thủ cạnh tranh với chúng ta bao gồm các nước bao gồm: Pháp, Hà Lan, Bỉ, Đan Mạch, New Zealand, Nhật Bản, Mỹ.
Trong cơ cấu giá thành sản phẩm này chi phí nội địa chỉ chiếm 32% trên tổng chi phí còn 68% là chi phí nguyên liệu vật tư nhập khẩu. Trong đó khoảng 42% giá thành là chi phí nhập sữa bột gầy, tức là bao gói và các chất bổ sung chỉ chiếm 26%. Phần chi phí nguyên liệu chiếm quá lớn trong cơ cấu chi phí sản phẩm này nên việc chúng ta cạnh tranh là rất khó.
Vì sản phẩm này phục vụ cho nhóm khách hàng tương đối khó tính, đòi hỏi nhiều về thành phần dinh dưỡng. Các sản phẩm nhập khẩu luôn có thế mạnh hơn trong việc cạnh tranh nhóm sản phẩm này. Ngoài công nghệ sản xuất hiện đại mà chúng ta không thể theo kịp, phải nói rằng các sản phẩm nhập khẩu này đều được các tổ chức có uy tín trên thế giới đánh giá cao và công nhận về chất lượng. Mặc dù giá sản phẩm nhập khẩu này cao hơn rất nhiều so với giá sản phẩm tương tự trong nước nhưng vẫn được người mua sử dụng. Nếu không bị hạn chế bởi thuế và hạn ngạch thì sản phẩm này sẽ áp đảo các sản phẩm nội địa, nhất là những doanh nghiệp không có tên tuổi trên thị trường quốc tế Bên cạnh đó cũng phải nói rằng, khả năng cạnh tranh cao
5.Bột dinh dưỡng
: Sản phẩm chế biến từ bột sữa + sữa đậu nành + dầu thực vật + bột ngũ cốc + đường kính + các loại vitamin sau đó trộn đều và thực hiên đồng hoá - thanh trùng - sấy phun - tạo hạt - làm nguội - đóng hộp. Sản phẩm ăn liền, tiện lợi cho việc nuôi dưỡng trẻ em.
Sản phẩm bộ ngũ cốc dinh dưỡng này mặc dù mới được sản xuất nhưng lại tỏ ra có hiệu quả cao, đặc biệt là sản phẩm của Nestle, Vinamilk, giá cả hợp lý một phần là do bao bì sản phẩm đã được nội địa hoá (vì dễ sản xuất hơn các loại bao bì cho sản phẩm sữa nước, hơn nữa bao bì cho sản phẩm xuất khẩu thường phải dùng hộp thiếc, bảo quản qua nhiều lớp bao gói, trong khi sản phẩm này trong nước đang được tiến hành sử dụng hộp bìa sản xuất trong nước kết hợp với lớp bao gói bằng giấy thiếc kinh tế hơn nhiều ). Về chất lượng, do thành phần dinh dưỡng trong loại sản phẩm này tương đối thuận lợi vì có khả năng nội địa hoá cao nên thành phần dinh dưỡng của sản phẩm nhập khẩu cũng chỉ tương tự như sản phẩm trong nước, lại thêm các loại chi phí bảo quản, vận chuyển, bao gói làm giá sản phẩm nhập khẩu càng tăng cao. Tức là, đối với loại sản phẩm này sản phẩm nội địa có khả năng cạnh tranh cao về giá.
iii/Các nhân tố chủ yếu tác động tới khả năng cạnh tranh của sản phẩm sữa Việt Nam:
1.Nguồn nguyên liệu:
Nguyên liệu chính dùng cho công nghiệp chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa là sữa bò, ngoài ra còn cần các phụ liệu khác như bao gói sản phẩm, đường RE, mứt quả…
Trong đó sữa bò là loại nguyên liệu chủ yếu nhất của ngành sữa Việt Nam. Nguồn nguyên liệu sữa hiện nay của ngành gồm nguồn nguyên liệu nhập khẩu và nguồn nguyên liệu có được từ đàn bò sữa chăn nuôi trong nước.
1.1.Nguồn nguyên liệu nhập khẩu:
Hiện nay nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước chỉ đạt khoảng 13% trong tổng nhu cầu về nguyên liệu của ngành. Nhu cầu nguyên liệu nhập khẩu sử dụng dưới dạng chính là bột sữa gầy. Nếu tính cả nhu cầu về các dạng sữa khác như sữa bột các loại, sữa đặc có đường, sữa tươi tiệt trùng, pho mát, bơ, kem,…thì nhu cầu trong nước được đáp ứng bởi 90% là sản phẩm nhập khẩu. Do vậy mà hàng năm, chúng ta phải mất một nguồn ngoại tệ lớn để nhập khẩu sữa.
Bảng 5:Tổng giá trị nhập khẩu các loại sữa qua cảng TP. Hồ Chí Minh
Đơn vị: USD
Năm
Giá trị nhập khẩu
1996
58.480.656
1997
51.241.495
1998
86.374.797
1999
86.400.000
2000
100.000.000
(Nguồn: Thống kê tổng giá trị nhập khẩu các loại sữa qua cảng TP. Hồ Chí Minh ).
Trong tổng giá trị các loại sữa nhập khẩu trên, thành phần sữa tiêu dùng như sữa bột tiêu dùng, sữa đặc có đường, sữa tiệt trùng, phomát, bơ, kem,…chỉ chiếm 2%-3% thị trường tiêu dùng. Tức là phần lớn ngoại tệ dùng để mua nguyên liệu cho sản xuất trong nước, còn phần dành cho mua sữa tiêu dùng trực tiếp là rất ít.
Phần nguyên liệu này được nhập khẩu từ nhiều nguồn sữa bột trên thế giới như Pháp, Hà Lan, Đan Mạch, New Zealand, Ôxtrâylia,…phần lớn nhập qua cảng thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài sữa bột nguyên liệu, nhiều loại phụ liệu và vật tư cho sản xuất vẫn phải nhập do thị trường trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành sữa: dầu bơ, các loại bao bì…
1.2.Nguồn nguyên liệu trong nước:
Nguồn nguyên liệu trong nước hiện nay có thể tự túc được 13% dưới dạng sữa tươi được các nông hộ cung cấp cho nhà máy sản xuất. Có thể theo dõi sự tăng trưởng sản lượng sữa bò trong nước như sau:
Bảng 6:Sản lượng sữa bò giai đoạn 1995-2000
Đơn vị: Tấn
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tốc độ tăng trưởng 1996-2000 (%)
Sản lượng sữa tươi
24.600
27.800
31.200
32.800
42.302
52.172
16,2
Sản lượng sữa thu mua của Vinamilk
16.700
21.700
27.509
30.000
39.000
50.848
24,9
Tỷ lệ thu mua của Vinamilk
67,89
78,06
88.17
91,46
92,19
97,46
(Nguồn: Bộ công nghiệp)
Giai đoạn 1995-2000 sản lượng sữa tăng luôn tăng lên: Sản lượng sữa tươi năm 1990 chỉ có 17.000 tấn đã tăng lên gần 70.000 tấn vào năm 2001. Trong hơn mười năm từ 1990 đến năm 2001 sản lượng sữa bò đã tăng lên rất cao, năm 2001 gấp hơn bốn lần so với năm 1990. như sau:
Tốc độ tăng trưởng sản lượng sữa tươi bình quân thời kỳ1996-2000 là 16.2%, sản lượng sữa tăng mạnh trong ba năm 1998,1999, 2000, ba năm này sản lượng mỗi năm tăng thêm khoảng 10.000 tấn sữa tươi và chỉ tiêu này đến năm 2001 tăng lên là 20.000 tấn. Điều này cho thấy khả năng có thể tiếp tục tăng cao hơn nữa trong những năm tới.
Giá thu mua sữa tươi còn chưa thống nhất, do gặp nhiều khó khăn trong việc thu mua vận chuyển sữa tươi. Việc thu mua sữa tươi được thực hiện qua ba phương thức: 1.Sữa từ các hộ chăn nuôi được bán trực tiếp cho nhà máy;2.Qua các trạm thu mua của nhà máy, sau đó sữa từ các trạm này được đưa về nhà máy để chế biến; 3.Qua các trạm thu mua của tư nhân, sữa từ các trạm này sẽ được bán lại cho các trạm thu gom của nhà máy hay bán trực tiếp cho nhà máy để chế biến.
Do đặc điểm vận chuyển và hình thức thu gom như vậy mà cũng xuất hiện các loại giá thu mua sữa tươi như sau:
-Tại TP. Hồ Chí Minh giá thu mua sữa tươi tại nhà máy là 3.550 đ/kg, tại các trạm trung chuyển là 3.200 đ/kg được ổn định từ năm 1995 đến nay.
-ở Mộc Châu, giá thu mua tại nhà máy là 2.300 đ/kg do các hộ gia đình tự bảo quản và vận chuyển về nhà máy chế biến của trung tâm giống bò sữa Mộc Châu. tương tự, ở vùng Ba Vì các hộ nông dân bán trực tiếp cho công ty sữa Nestle với giá 2.000 đ/kg.
-Vùng ngoại thành Hà Nội, sữa tươi được bán cho nhà máy chế biến sữa Phú Thụy với giá 3.100 đ/kg tại điểm thu gom, 3.300 đ/kg tại nhà máy.
Còn đối với hình thức thu gom thứ ba, giá do các trạm tư nhân tự đặt ra, thường không thuận lợi cho các hộ nuôi. song đây lại là hình thức thu gom chủ yếu, sau đó sữa được đưa đến trực tiếp cho nhà máy chế biến.
Xét về chất lượng sữa nguyên liệu thu mua. Do hầu hết việc thu mua sữa tươi được thực hiện qua các trạm thu mua sữa. Các trạm này hầu hết của tư nhân đứng ra tổ chức thu gom sữa tươi của các hộ trong vùng, làm lạnh bảo quản rồi vận chuyển đến bán cho các nhà máy chế biến sữa. các trạm trung chuyển này ban đầu được hình thành tự phát, sau đó được sự hỗ trợ và hướng dẫn của các nhà máy chế biến sữa. Vì vậy mà chất lượng nguyên liệu ngày càng được bảo đảm hơn. Tuy nhiên, việc thu mua vận chuyển bảo quản sữa tươi tại các vùng chăn nuôi bò sữa các tỉnh phía Bắc còn một số khó khăn cần khắc phục: giá thu mua còn thấp, hệ thống thu mua- bảo quản- vận chuyển sữa thông qua các trạm trung chuyển mới được hình thành, hoạt động chưa tốt,… đã ảnh hưởng lớn đến tâm lý của các hộ chăn nuôi bò sữa. Riêng TP. Hồ Chí Minh có hơn 20 trạm thu mua sữa tươi. Hiện có 42 bồn lạnh, mỗi bồn chứa được 2,4 tấn sữa tươi, đảm bảo mỗi ngày làm lạnh khoảng 100 tấn sữa tươi. Do các trạm trung chuyển này mà các hộ nuôi bò sữa dù quy mô nhỏ cũng bán được sữa cho nhà máy chế biến.
Nguồn nguyên liệu này được cung cấp bởi đàn bò nuôi trong nước, sản lượng sữa có thể tăng được như vậy là do quy mô đàn bò được mở rộng và chất lượng tăng. Hiện nay, số lượng đàn bò sữa Việt Nam diễn biến như sau:
Bảng 7: Số lượng bò sữa giai đoạn 1996-2002
Chỉ tiêu
1994
1995
1999
2000
2001
2002
Số lượng đàn bò (con)
16.500
18.700
29.500
35.000
41.241
54.345
Tỷ lệ tăng so với năm trước (%)
-
13,33
14,44
18,64
17,83
31.29
(Nguồn: Theo thhống kê của Viện Chăn nuôi)
Theo số liệu trên, số lượng bò sữa Việt Nam là 54.345 con (theo 10/2002), số lượng đàn bò năm 2002 gấp hơn 6,7 lần so với năm 1986 (7.975 con). Năm 2001 tổng đàn bò cả nước là 41.241 con. Nếu so với năm 2001 thì sau 1 năm tốc độ tăng đàn bò sữa là 31.29%. Chỉ tính riêng giai đoạn 1996-2000 tốc độ tăng trưởng đàn bò sữa đạt 11.7%/năm. Trong khi đó tốc độ tăng của sản lượng sữa tươi giai đoạn này là 16,2%, tức là tốc độ tăng sản lượng (năng suất) sữa cao hơn tốc độ tăng của đàn bò, hay nói cách khác chất lượng bò sữa nuôi đã tăng. Ta có thể thấy điều đó rõ hơn trên số liệu sau:
Bảng 8: Năng suất sữa bình quân thời kỳ 1994 - 2002
Đơn vị: kg
Chỉ tiêu
1994
1995
1999
2000
2001
2002
Năng suất sữa b/quân ở bò lai HF/chu kỳ (kg)
2.300
2.500
3.150
3.300
3.350
3.400
Năng suất sữa b/quân ở bò HF/chu kỳ (kg)
3.300
3.400
3.800
4.000
4.200
4.500
(Nguồn: Theo Thống kê của Viện Chăn nuôi)
Bảng trên cho thấy ở cả hai giống bò nuôi trên đều cho năng suất tăng đều theo các năm, năm 2002 năng suất tăng gần gấp rưỡi so với năm 1994.
Thực trạng nguyên liệu trong nước như vậy là do:
1.Phân bố đàn bò và giống bò sữa được nuôi: theo bảng năng suất sữa bình quân thời kỳ 1994-2002, ta thấy ở cả hai giống bò nuôi trên đều cho năng suất tăng đều theo các năm, năm 2002 năng suất tăng gần gấp rưỡi so với năm 1994. Đồng thời ta cũng nhận thấy sự khác nhau về năng suất giữa hai giống bò, năng suất sữa từ bò thuần cao hơn bò lai, cao hơn khoảng 1.000 (kg)/chu kỳ/một con.
Bò sữa Hà Lan thuần chủng được nhập nội từ năm 1970. giống này chủ yếu thích nghi với các vùng có khí hậu mát mẻ. Hiện nay, những con bò giống gốc được chăn nuôi sinh sản ở Lâm Đồng và Mộc Châu. Năng suất đàn giống này đã giảm sút nghiêm trọng, chủ yếu do không đảm bảo tốt chế độ dinh dưỡng. Bò sữa lai nuôi trong dân hiện nay có ít hơn so với bò sữâ thuần do có năng suất sữâ còn ít, tuy nhiên đây là các bò lai F1, F2 giữa bò Hà Lan và bò lai Sind (3/4 máu ngoại trở lên). Giống bò lai này có tính thích nghi cao nên đang được nuôi rộng rãi trong các hộ chăn nuôi lấy sữâ ở các thành phố và ven đô.
Việt Nam là một đất nước cận nhiệt đới gió mùa, khí hậu nóng ẩm, đây không phải là một điều kiện thuận lợi cho việc phát triển ngành sản phẩm sữa. Đặc biệt là nó ảnh hưởng rất lớn đến nguồn nguyên liệu cho ngành. Các giống bò cao sản chủ yếu là giống bò ôn đới, được nuôi trong điều kiện mát mẻ thoáng mát, có bãi chăn thả rộng. Do vậy, dù đã có nhiều cố gắng trong công tác nghiên cứu, lai tạo nhưng sản lượng cao nhất chỉ đạt 4.500 (kg)/chu kỳ/con vào năm 2002.
Hơn nữa, tâm lý chung của các hộ mới chăn nuôi bò sữa là muốn nuôi ngay bò khai thác sữa để thu hồi vốn nhanh. Vì thế, nếu để các hộ chăn nuôi hoàn toàn tự phát trong quá trình lựa chọn và loại thải sẽ dẫn đến sự mất cân đối về tỷ lệ giữa các nhóm, ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất đàn.
Mặt khác, các hộ không muốn nuôi con giống có năng suất thấp như bò lai Sind nên đã dẫn đến nhóm lai Sind giảm mạnh trong đàn. Điều này minh chứng hiện tượng không có nái nền để tạo ra con lai thế hệ F1 và hiện tượng tỷ lệ máu ngoại cao trong các con lai là điều khó tránh khỏi. Đó cũng chính là điều khó khăn trong việc phát triển chăn nuôi bò sữa ở các hộ gia đình hiện nay.
Chăn nuôi bò sữa hiện nay được phân bố chủ yếu ở các vùng: vùng Mộc Châu, Lâm Đồng nuôi bò thuần và bò lai với bò Hà Lan gốc ôn đới; vùng Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh khác nuôi các giống bò lai và bò nhiệt đới. Đặc biệt là các bò lai nhiệt đới mặc dù cho năng suất có thấp hơn một chút so với các giống bò khác đang được nuôi tại Việt Nam, thế nhưng lại có khả năng thích nghi cao, năng suất tương đối ổn định, rất phù hợp khi được nuôi tại TP.Hồ Chí Minh và các vùng phụ cận.
Phân bố bò sữa trong hai năm 2001 và 2002 như sau:
Bảng 9: Phân bố bò sữa hai năm 2001 và 2002
Đơn vị
10/2001
11/2002
Tỷ lệ tăng so với 2001 (%)
Số lượng
%
Số lượng
%
Cả nước
41.241
100,00
54.345
100,00
31,29
Trong đó
Miền Bắc
6.170
14,96
11.066
20,36
76,11
Miền Trung
132
0,32
934
1,72
707,58
Tây Nguyên
804
1,95
1.224
2,25
52,24
Miền Nam
34.135
82,77
41.121
75,67
20,77
(Nguồn: Cục Khuyến nông- khuyến lâm)
Thực tế sản xuất sữa của nước ta tập trung chủ yếu ở 5 vùng sau:
1. Vùng Mộc Châu.
2. Hà Nội và các tỉnh phụ cận, bao gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Hải Hưng, Quảng Ninh và Thái Bình.
3. Lâm Đồng: gồm Nông trường Lâm Đồng, huyện Đức Trọng, Di Linh, Bảo Lộc.
4. Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phụ cận, bao gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Sông Bé, Cần Thơ, Vũng Tàu.
5. Duyên hải miền Trung gồm Quảng Nam - Đà Nẵng và Nha Trang.
Trong đó khu vực thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phụ cận có điều kiện về tự nhiên nhất là khí hậu thuận lợi hơn Hà Nội và các vùng khác, vì giống bò nuôi lấy sữa ở nước ta hiện nay chủ yếu là bò đã lai, thì mới thích nghi được với khí hậu Việt Nam, giống bò lai Sind này lại rất thích hợp khi được đem nuôi tại TP.Hồ Chí Minh. Do vậy tỷ lệ sữa tươi thu hoạch ở đây trên tổng số của cả nước luôn chiếm trên 70%, và các cơ sở sản xuất lớn cũng tập trung nhiều hơn ở khu vực Miền Nam.
Trên 93% đàn bò sữa được nuôi trong hộ gia đình, quy mô từ 3 đến 10 con. Có một số hộ nuôi trên 30 con. khu vực quốc doanh đã thực hiện hình thức khoán về cho các hộ thông qua hợp đồng kinh tế - kỹ thuật, nông trường chỉ đảm nhận dịch vụ kỹ thuật, thú y và thu mua toàn bộ sản phẩm sữa rươi để chế biến (Nông trường Mộc Châu - Sơn La, nông trường Đức Trọng - Lâm Đồng). Tại Củ Chi (TP.Hồ Chí Minh) và Đức Hoà (Long An) đã hình thành một số Hợp tác xã (HTX) dịch vụ chăn nuôi bò sữa . Các HTX này có từ 50 đến 100 hộ xã viên chăn nuôi bò sữa, bình quân mỗi hộ nuôi mười con. HTX hỗ trợ người chăn nuôi về các lĩnh vực: Tiêu thụ sản phẩm, bảo lãnh vay vốn, hợp đồng các nơi có đất để trồng coe , tổ chức sản xuất thức ăn, làm đầu mối chuyển giao khoa học kỹ thuật… Đến nay đã có 6 HTX chăn nuôi bò sữa ở Long An, TP.Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương.
2.Nguồn thức ăn cho bò sữa: Theo thống kê có khoảng 10 loại thức ăn hiện nay đang được sử dụng để chăn nuôi bò sữa (được biều diễn trong trang sau).
Từ bảng đó ta thấy nguồn thức ăn hiện nay chúng ta dùng để nuôi bò sữa là rất ._.hể vào việc phát triển đàn bò sữa, việc xây dựng các nhà máy chế biến sữa cần gắn liền với các vùng tập trung chăn nuôi bò sữa, để đến năm 2005 Việt Nam có thể tự túc được 20% nguyên liệu và đến năm 2010 là sấp xỉ 40% nhu cầu nguyên liệu từ sữa vắt của đàn bò sữa trong nước.
3.Về thiết bị và công nghệ sản xuất: cần tiếp tục đổi mới công nghệ và thiết bị ở một số khâu trong dây chuyền sản xuất, đảm bảo tính đồng bộ và trình độ hiện đại của thế giới.
4.Về công tác quản lý: cần coi trọng chất lượng sản phẩm, phấn đấu giảm chi phí sản xuất xuống mức thấp nhất, không ngừng đa dạng hoá sản phẩm, cải tiến mẫu mã bao bì để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tính cạnh tranh trên thị trường.
5.Có những giải pháp lâu dài trong việc giảm dần sản xuất những nhóm sản phẩm sữa không có khả năng cạnh tranh để dành nguồn phát triển cho những lĩnh vực khác thuận lợi hơn (hay có khả năng cạnh tranh hơn).
ii/giải pháp phát triển ngành sản phẩm sữa việt nam:
1.Giải pháp về thị trường:
Mục tiêu của ngành Sữa là đáp ứng được nhu cầu của thị trường nội địa. do vậy, để sản phẩmViệt Nam đi vào cuộc sống của nhân dân lao động thì chất lượng sữa phải đảm bảo, giá thành phải thấp và có thể cạnh tranh với hàng nhập ngoại. Củng cố các đại lý sữa đã có, tăng cường kiểm soát, mở rộng mạng lưới phân phối, thực hiện phương thức bán lẻ đến tận phường, xã trên cả nước.
Các mặt hàng sữa phải đa dạng chủng loại: sữa bột cho trẻ em phâm theo độ tuổi, sữa tươi tiệt trùng, sữa chua các loại, sữa đặc có đường, các loại bột dinh dưỡng…
Các doanh nghiệp nên tăng cường quỹ quảng cáo sản phẩm, tiếp thị, bao bì sản phẩm đẹp, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, hấp dẫn thị hiếu tiêu dùng, bảo vệ môi trường sinh thái. Điều quan trọng là các doanh nhiệp phải xây dựng cho mình được thương hiệu sản phẩm Sữa, đây là một quá trình đầu tư lâu dài, được vun đắp xây dựng một cách nhất quán theo một chiến lược. Bắt đầu từ việc như xây dựng logo, font chữ, màu sắc, khẩu hiệu, định vị, thương hiệu,…đến xây dựng một hình ảnh tốt đẹp với khách hàng. thương hiệu sẽ là dấu hiệu để khách hàng nhận biết về sản phẩm, chất lượng, giá cả và hình ảnh của doanh nghiệp này so với một doanh nhiệp khác.
Nhà nước nên xây dựng chính sách “ Sữa học đường”. mục tiêu của chính sách này là đưa sữa vào các trường học, khuyến khích học sinh, sinh viên uống sữa để nâng cao thể lực, trí tuệ, tạo thói quen uống sữa ngay từ bé, đồng thời mở rộng thị trường tiêu thụ sữa. Có thể lấy ví dụ về chương trình sữa học đường của Trung quốc để nghiên cứu, học tập kinh nghiệm. Tại Trung Quốc, chính sách sữa học đường được xây dựng thống nhất bởi các bộ ngành có liên quan như Bộ Nông nghiệp, Công nghiệp, Giáo dục, Tài chính, Y tế, Cục kiểm tra chất lượng sản phẩm. chính phủ đứng ra chỉ đạo, từ Trung ương đến địa phương đều thành lập “Văn phòng sữa học đường”. Trong chính sách sữa học đường Nhà nước không bao cấp mà hỗ trợ một phần với các quy định sau:
+Chỉ định các nhà máy sản xuất sữa học đường (có quy định mẫu mã riêng).
+Sản phẩm sữa học đường không được bán trên thị trường.
+Xí nghiệp sản xuất sữa học đường chỉ thu tiền bằng giá thành sản xuất không lấy lãi.
+Nhà trường phải có trách nhiệm trong tuyên truyền và bán sữa cho học sinh, sinh viên, không thu lãi.
Sữa học đường được miễm giảm thuế giá trị gia tăng. gắn các chương trình của các tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ vào chương trình sữa học đường.
2.Giải pháp về nguồn lực sản xuất:
2.1.Giải pháp về nguồn nguyên liệu:
Từ quan điểm phát triển công nghiệp sữa sẽ tạo điều kiện phát triển chăn nuôi đàn bò sữa, làm chuyển đổi cơ cấu từ thuần canh sang đa canh của ngành nông nghiệp, đóng góp tích cực vào chương trình xoá đói giảm nghèo của khu vực nông thôn, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hóa nông nghiệp. Do vậy, có thể coi giải pháp về nguồn nguyên liệu cũng đồng thời là những giải pháp cơ bản đề phát triển nghề chăn nuôi .
2.1.1 Tổ chức tốt công tác giống bò sữa:
Cả nước ta chỉ có ba cơ sở chăn nuôi bò sữa giống thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn là Công ty sữa Thảo Nguyên, Nông trường bò giống Lâm Đồng, Trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì. Ba cơ sở này có số bò giống gốc khoảng gần 1000 con nhưng chất lượng đã bắt đầu giảm sút, năng suất sữa không cao. Để đáp ứng quy mô chăn nuôi đã xác định cũng như sản lượng sữa sản xuất ra, cần có đàn giống tốt có đử tiêu chuẩn kỹ thuật vắt sữa và có năng suất sữa cao. Có rất nhiều vấn đề cần giải quyết để có được đàn giống tốt, có thể đưa ra một vài vấn đề quan trọng cần giải quyết trước tiên như sau:
2.1.1.1Cần tổ chức tuyển chọn lại giống:
Hiện nay trên cả nước có rất nhiều con bò sữa thuộc các độ tuổi khác nhau nhưng khó có một ai, một nhà khoa học nào có thể xác định một cách chính xác một con bò nào đó thuộc thế hệ thứ mấy và lai với giống nào. Đây là hậu quả của việc buông lỏng của việc quản lý giống vật nuôi từ nhiều năm nay. Trong những năm trước, việc sử dụng các nguồn tinh là hoàn toàn không có định hướng và thiếu sự kiểm soát chặt chẽ như sử dụng các nguồn tinh sản xuất trong nước, các nguồn tinh đưa từ nước ngoài vào dưới dạng quà biếu, nhập khẩu hay đưa vào thực nghiệm… đã tạo ra một đàn bò muôn hình muôn vẻ. Cùng với những hiện tượng trên, thói quen của chăn nuôi đại gia súc theo kiểu chăn thả tự do dẫn tới sự giao phối trực tiếp trong chăn nuôi đã làm cho con giống không được chọn lọc tốt, hiện tượng đồng huyết trong chăn nuôi thường xảy ra đã làm cho năng suất sản phẩm không cao.
Trước hết trên cơ sở đàn bò sữa hiện có cần chọn lọc những con có năng suất sữa cao trên 10 lít/ ngày để nuôi lấy sữa, còn lại nuôi lấy thịt. Ngoài ra cần lựa chọn từ đàn lai Sind những con có khả năng sinh sản và cho sữa để lai tạo đàn bò sữa. Theo số liệu điều tra năm 1998, không còn con bò nào phải loại thải do năng suất thấp (trừ bò lai Sind). Tuy nhiên, số liệu đầu năm 1999 cho thấy có khoảng trên 10% số bò cho sữa có năng suất dưới 10 lít/ngày cần loại thải. Đây cũng là căn cứ sử dụng trong quá trình chu chuyển đàn để xác định quy mô. Riêng bò lai Sind, mặc dù năng suất sữa thấp nhưng cũng chỉ loại thải 10% như các con giống khác vì trước mắt mục đích tạo ra con giống quan trọng hơn mục đích lấy năng suất sữa cao (kể cả những con mới chọn làm cái nền, năng suất chỉ có 4,5-5,5 lít/ngày/con). Để tiện theo dõi, cần đánh số tai với những con đã được tuyển chọn, đồng thời lập hồ sơ lý lịch cho chúng, trong đó cần thể hiện rõ tuổi bò, giống bò, trọng lượng, lứa đẻ, phương pháp phối tinh, giống tinh đã phối…với công việc này, các hộ gia đình không thể tự làm được nếu không có sự trợ giúp của cơ quan chức năng, cự thể là Công ty giống gia súc, Viện Chăn nuôi quốc gia, Dự án bò sữa cùng với các trạm TTNT của các huyện và các nhân viên thường xuyên kiểm tra số tai của bò và bổ sung những con bị mất số để có thể quản lý con giống một cách chặt chẽ.
2.1.1.2 Lai tạo con giống mới:
Công việc có tính lâu dài là phải tạo được đàn giống mới có đủ năng lực sản xuất, vì vậy phải giải quyết tận gốc vấn đề con giống. Điểm xuất phát của việc tạo ra đàn bò sữa là công tác TTNT do đó cần có những biện pháp cụ thể với công việc này. Bắt đầu từ năm 1995, chương trình Sind hoá và Zêbu hoá đàn bò đã được triển khai trên toàn quốc nhằm khắc phục một phần nhược điểm của bò nội tầm vóc nhỏ. Đến nay chương trình cơ bản đã cải tạo được về mặt thể vóc cho đàn bò thông qua công tác TTNT. Do vậy cần xây dựng các trạm TTNT tại các huyện, tỉnh với đầy đủ các trang thiết bị và đội ngũ dẫn tinh viên lành nghề và rộng khắp. Trạm sẽ là nơi bảo quản mọi vật tư thiết bị và cấp phát cho các dẫn tinh viên khi thực hành nhiệm vụ . Đồng thời trạm phải thường xuyên có báo cáo để có kế hoạch mua sắm dự trữ hợp lý các liều tinh cũng như các vật tư khác nhằm chủ động cho việc phối tinh cho bò sữa, nâng cao tỷ lệ phối đạt kết quả.
2.1.2 Giải quyết vấn đề thức ăn:
2.1.2.1 Thức ăn tinh
Dựa theo một số nghiên cứu về dinh dưỡng cho bò sữa ta thấy, hiện nay sử dụng cám hỗn hợp cho bò sữa là phù hợp nhất. Trước hết, nó đảm bảo sự cân đối dinh dưỡng và đầy đủ các nguyên tố vi lượng mà trong cám ngô hay cám gạo còn thiếu. Thứ hai, nó đảm bảo tính chủ động và thuận tiện trong điều kiện chăn nuôi với quy mô lớn. Chính vì vậy, chăn nuôi bò sữa trong nước cũng nên hướng vào việc sử dụng thức ăn hỗn hợp đã được chế biến làm định hướng sử dụng thức ăn cho ngành. Hiện nay trên địa bàn cả nước chưa có cơ sở thức ăn nào dành riêng cho bò sữa nhưng có nhiều cơ sở chế biến thức ăn gia súc. Trong khi đó, công nghiệp chế biến thức ăn gia súc ở nước ta đang có những bước phát triển rất đáng kể, đặc biệt là các tỉnh phía Nam. Các công ty liên doanh với nước ngoài như Proconco, CP-group, Công ty TNHH thức ăn chăn nuôi Hoa Kỳ (American Fêd Company Ltd)… đã sản xuất và cung cấp thức ăn cho nhiều hộ gia đình và trang trại chăn nuôi có kết quả. Hơn nữa, qua điều tra về tình hình sản xuất thức ăn của các nhà máy chúng tôi thấy, hiện nay các nhà máy chế biến thức ăn gia súc mới phát huy được 10% công xuất vì không có thị trường tiêu thụ. Trong điều kiện kinh tế mở, việc giao lưu hàng hoá không còn khó khăn thì vấn đề thức ăn cho chăn nuôi bò sữa ở các vùng trên cả nước cũng không phải là khó giải quyết.
Theo tài liệu hướng dẫn nuôi bò sữa, thì bình quân một bò cái vắt sữa với năng suất 10- 12 lít/ngày cần 4,3 kg cám hỗn hợp/ngày. Bò cạn sữa và bò tơ cần 1-2 kg/ngày. Như vậy nếu đạt được quy mô trên thì lượng thức ăn tinh cần cho năm 2000 khoảng 4000 tấn và năm 2010 khoảng 6500 tấn. Với lượng thức ăn này, các cơ sở chế biến có khả năng.
2.1.2.2 Thức ăn thô:
Các địa phương rà soát lại quỹ đất hiện có, dành một phần đất phù hợp để hướng dẫn nông dân phát triển đồng cỏ phục vụ chăn nuôi bò sữa.
2.1.3 Tạo điều kiện cho nông dân vay vốn:
Việc tạo điều kiện thuận lợi về tín dụng có thể làm tăng nhanh đàn bò sữa trong các hộ nông dân, thể hiện ở quy mô đàn trong hộ cũng như số hộ tham gia. Nhà nước cần cho nông dân vay vốn với số lượng lớn hơn, lãi suất thấp hơn và thời gian dài hơn mới có thể phát huy hiệu quả đồng vốn một cách thiết thực.Lãi suất cho vay chăn nuôi bò sữa nên ưu đãi. Thông qua các tổ chức tín dụng như Hội phụ nữ, Hiệp hội chăn nuôi…, các hộ có nhu cầu vay vốn cho chăn nuôi làm đơn và các tổ chức xem xét. Hộ nào đủ điều kiện cho vay sẽ được đề nghị, tránh hiện tượng cho vay dàn trải dẫn đến các hộ được vay không đủ kinh phí đâù tư cho chăn nuôi bò sữa. Có thể giúp các hộ mới tham gia chăn nuôi bò sữa bằng cách cho mua chịu con giống, khi nào có sản phẩm mới thanh toán.
2.1.4 Hỗ trợ về mặt kỹ thuật:
Ngoài vấn đề dịch vụ về kĩ thuật giống, cần có những lớp tập huấn về chăn sóc bò sữa một cách thường xuyên cho các hộ mới tham gia chăn nuôi bò sữa, như vắt sữa đúng giờ giấc và có khoảng cách hợp lý, chú ý vắt sữa đúng kỹ thuật…
Vấn đề cho ăn cũng cần có sự hướng dẫn tỷ mỷ hơn trong cách phối hợp thức ăn sao cho đủ khẩu phần và đáp ứng được đặc tính của bò sữa. Các loại bò khác nhau cần có khẩu phần ăn khác nhau. Chú ý lượng cỏ tươi trong khẩu phần vì nó ảnh hưởng lớn đến lượng sữa sản xuất ra và sức khoẻ của bò, đặc biệt với bò đang cho sữa vì cỏ này có hàm lượng nước cao, nếu ăn nhiều quá bò sẽ bị chướng bụng đầy hơi, có thể tử vong.
Công tác thú y cũng là vấn đề cần được phổ biến rộng rãi trong các hộ chăn nuôi. Cần hướng dẫn cho các hộ chăn nuôi phát hiện và xử lý các bệnh thông thường của bò sữa.
2.1.5 Dịch vụ tiêu thụ sản phẩm:
Phần lớn các hộ hiện chăn nuôi bò sữa với quy mô nhỏ, lượng sữa sản xuất ra chưa nhiều. Việc tiêu thụ sữa theo phương thức trực tiếp rất khó khăn và dễ làm giảm chất lượng sữa. thực tế trong thời gian qua việc tiêu thụ sữa tươi ở hầu hết các hộ chăn nuôi phải thông qua trung gian thu gom. Từ kết quả nghiên cứu về các kênh tiêu thụ sữa ở trên cho thấy: chất lượng sữa phụ thuộc phần lớn vào quá trình vận chuyển từ lúc thu gom đến lúc giao cho cửa hàng hoặc nhà máy. Thường thì sữa được đựng vào các thùng hoặc can và chở bằng xe máy đến các điểm tiêu thụ. Do không có dụng cụ đựng sữa chuyên dùngvà khoảng cách từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ khá xa nên đã làm giảm phẩm cấp sữa. Vì vậy giá thu mua sữa tươi bị giảm, thậm chí sữa có khi bị trả lại. Điều này gây sự bất ổn về tâm lý cho người chăn nuôi,họ cho rằng nhà máy sữa ép cấp, ép giá. Đối lại, phía nhà máy lại thiếu tin tưởng chất lượng sữa tươi do nông dân sản xuất. Để giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa nhà máy và người sản xuất, tạo điều kiện kích thích sản xuất phát triển, cần giải quyết một số vấn đề sau:
Tổ chức các điểm thu gom hợp lý tại các nơi có nhiều bò sữa. Các điểm thu gom phải được trang bị dụng cụ và phương tiện kiểm tra sữa một các khoa học. Với những nơi xa trung tâm, cần tổ chức nhóm thu gom, đồng thời kiểm tra ngay chất lượng sữa trước khi quy tụ để thu hết lượng sữa sản xuất ra.
Phát huy vai trò nhóm trung gian làm công tác thu gom, cạnh tranh lành mạnh với các trung tâm thu gom. Nhìn chung, từ khi có sữa hàng hoá thì đội ngũ làm công tác thu gom hoạt động rất tích cực. Tuy vậy đôi lúc giữa người sản xuất, người thu gom và nhà máy sữa chưa thực sự tìm được tiếng nói chung nên người sản xuất luôn phải chịu thiệt thòi nhiều nhất. Tư nhân làm công tác thu gom cạnh tranh với các trung tâm thu gom bằng giá cả. Trong khi trung tâm thu gom kiểm tra các chỉ tiêu về chất lượng sữa để định giá và thu nhận thì các thương nhân không quan tâm đến chất lượng sữa, họ nhận tất cả các loại sữa và mặc nhiên nâng giá sữa lên cao hơn một chút giá chuẩn của trung tâm thu gom. Chính cách làm này của họ đã làm cho một số lượng lớn sữa tươi không đi qua trung tâm thu gom. Các hộ tư nhân sau khi thu gom xong họ mang những sữa không đủ tiêu chuẩn bán ra thị trường tự do với giá cao, số còn lại bán cho nhà máy sữa để giải quyết hết lượng thu gom được. Để trung tâm phát huy hết công suất, hạn chế hao mòn vô hình thì phải thu hút hết lượng sữa trong dân. Việc tăng giá theo tư nhân hay nhập bừa bãi là không thể được. Cần thường xuyên kiểm tra chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm với sữa. Nếu không đạt tiêu chuẩn phải xử phạt kinh tế. Điều này chỉ có thể có hiệu lực một khi được bên kiểm nhiệm thực phẩm và bên thú y giúp đỡ.
Cần tập huấn cho người sản xuất nắm vững vấn đề cơ bản về vệ sinh sữa, nhận biết các thông số của quá trình kiểm nghiệm. Hàng ngày, khi kiểm nghiệm cần có sự chứng kiến của các bên tham gia hợp đồng để tránh sự không trung thực gây ảnh hưởng đến lợi ích của người sản xuất.
2.2.Giải pháp về vốn:
Nhà nước dự kiến sẽ dành 4.102,6 tỷ đồng để phát triển ngành sữa. Trong đó, vốn cho phát triển vùng nguyên liệu sữa là 2.134,2 tỷ, vốn cho công nghiệp chế biến sữa giai đoạn 2001-2005 là 706 tỷ đồng ( 47 triệu USD), giai đoạn 2006-2010 là 994 tỷ đồng (66 triệu USD).
Với tổng số vốn đầu tư trong từng thời kỳ như vậy, dự kiến 50% vốn huy động bằng bán cổ phiếu , 50% vay tín dụng.
Về đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào phát triển vùng nguyên liệu, bên cạnh đó là các cơ sở chế biến sữa.. Đầu tư có trọng điểm vào các khâu then chốt cho các sản phẩm chủ yếu, cải tiến các mặt hàng, sản phẩm mới, mẫu mã, bao bì, nhãn hiệu hàng hoá, tiện sử dụng.
Nâng cấp và ở rộng các xí nghiệp sữa hiện có. Xây mới, nâng cấp các nhà máy chế biến sữa ở các tỉnh và thành phố để thu mua hết sữa trong vùng nguyên liệu. Quy mô những nhà máy này phụ thuộc vào vùng nguyên liệu:
Đối với các vùng trọng điểm như Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh, Bình Dương, Mộc Châu, Lâm Đồng, Hải Phòng, Cần Thơ, Vinh cần có những nhà máy chế biến sữa hiện đại với công suất lớn, tạo ra các sản phẩm sữa đa dạng, chất lượng cao.
Đối với các vùng có quy mô từ 2.000-4.000 con bò sữa chỉ cần những nhà máy công suất nhỏ cỡ 3-5 tấn/ngày.
Một việc rất quan trọng trong việc giảm giá thành sản phẩm, đó là chúng ta phải tự chủ về bao bì sản xuất. Do vậy cần xem xét đầu tư nhà máy bao bì phục vụ cho ngành Sữa, đáp ứng việc thay đổi mặt hàng nhanh, giảm nhập ngoại những phần công đoạn mà Việt Nam tự làm được, hạ giá thành của bao bì dẫn tới hạ giá thành sản phẩm.
Giúp đỡ người chăn nuôi bằng cách đầu tư cho các nhà máy, xưởng dự trữ (ủ cỏ và các phụ phẩm), chế biến thức ăn tinh cho bò.
Đầu tư xây dựng các điểm thu mua sữa, nhiều vùng có nhu cầu chăn nuôi bò sữa nhưng do không có địa điểm thu mua nên người nông dân không dám chăn nuôi bò sữa.
Cải tiến và giảm thủ tục hành chính về xây dựng cơ bản, có như vậy mới đảm bảo việc đưa ra các công trình mới vào sản xuất đúng tiến độ, đáp ứng nhanh nhu cầu của thị trường, không bị lỡ cơ hội khi thời cơ hội khi thời cơ đến.
2.3.Giải pháp về nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ:
Nhà nước và các ban ngành có liên quan nên tập trung thống nhất xây dựng tiêu chuẩn giống bò sữa, tiêu chuẩn nhập khẩu (sữa bột gầy, sữa bột béo), tiêu chuẩn sữa tươi, các sản phẩm sữa sản xuất trong nước. Tổ chức rà soát, hiệu chỉnh, bổ sung các văn bản pháp quy về quản lý chất lượng sản phẩm và vệ sinh an toàn thực phẩm liên quan đến ngành Sữa. Nghiên cứu, xây dựng các quy định về tiêu chuẩn Sữa, tiêu chuẩn được phép hành nghề sản xuất, kinh doanh sữa nếu thấy cần thiết. Nhà nước cần tổ chức kiểm tra, soát xét lại hoạt động sản xuất phải có đầy đủ đăng ký hành nghề. Cơ sở đã đăng ký sản xuất phải có đăng ký chất lượng sản phẩm. Kiên quyết rút giấy phép hành nghề đối với các cơ sở không đảm bảo các tiêu chuẩn về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm và thua lỗ kéo dài. Hình thành và tăng cường năng lực hệ thống thống kê, quản lý, theo dõi đàn bò sữa từ cơ sở đến huyện, tỉnh, bộ.
Tăng cường vai trò của Bộ Công nghiệp trong công tác quản lý chuyên ngành kinh tế kỹ thuật. Củng cố năng lực nghiên cứu của một số Viện nghiên cứu để có khả năng nghiên cứu các vấn đề khoa học công nghệ về chăn nuôi bò sữa, thức ăn, dinh dưỡng, thú y, vệ sinh an toàn thực phẩm. Thành lập Hiệp hội nuôi bò sữa, chủ cơ sở chế biến và một số nhà khoa học, để giúp nhau áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi và tiêu thụ sữa, bảo vệ quyền lợi cho nhau.
áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong công tác giống như trên đã đề cập: nhập giống mới cho (gồm cả tinh phôi), nhân và cung cấp giống sữa bò lai có năng xuất cao cung cấp cho nhu cầu chăn nuôi trong cả nước. Hình thành và tăng cường năng lực cho hệ thống theo dõi, quản lý giống bò sữa từ các cơ sở chăn nuôi, các trang trại, hộ lên tới các tỉnh, Bộ. Nâng tỷ lệ quản lý bò sữa từ 10% năm 2000 lên đến 50% vào năm 2005.
Tiến hành cổ phần hoá Công ty Sữa Việt Nam phát hành trái phiếu doanh nghiệp để tạo nguồn vốn đầu tư phát triển.
Hình thành những nhà chăn nuôi bò sữa chuyên nghiệp, để các hộ chăn nuôi cũng có cổ phần trong các nhà máy chế biến sữa.
Tuyển chọn và nâng nhanh các giống cỏ cho dân trồng. Hướng dẫn kỹ thuật thâm canh, trồng xen cỏ Hoà Thảo với họ Đậu, đảm bảo năng suất và chất lượng cỏ cao. Ban hành và hướng dẫn các quy trình chế biến, bảo quản, dự trữ thức ăn thô để nuôi bò sữa: ủ thức ăn, bảo quản cỏ khô…sử các nguồn phụ phẩm nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản như ngọn mía, rỉa đường mật, bã mía, bã bia và bã rượu) làm thức ăn chô bò.
Thực hiện tốt việc kiểm tra nâng suất cá thể, tiến đến kiểm tra năng suất đời sau, chọn lọc những bò đực giống F2 có 75% máu bò HF để cố định đàn bò lai. Nâng cấp chất lượng bò đực giống Hà Lan thuần đang sử dụng sản xuất tinh tại trung tâm Moncada. Nhập thêm bò đực giống cao sản cho Moncada để mỗi năm có thể đáp ứng 50% yêu cầu tinh lai tạo.
Nâng cao chất lượng sản phẩm sữa, nhất là đối với sữa bột trẻ em. Xây dựng, đăng ký quản lý chất lượng ISO 9000 cho sản phẩm sữa, để có thể hoà nhập vào thị trường trong khu vực, Châu á.
2.4.Giải pháp về lao động:
Lao động nông nghiệp dư thừa của chúng ta hiện nay vẫn còn nhiều, ruộng đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, nông dân muốn tăng thu nhập nhờ chăn nuôi rất nhiều, do vậy phần lao động tham gia vào chăn nuôi bò sữa sẽ tăng, nhưng lao động tham gia vào chế biến lại khó tuyển dụng hơn do đòi hỏi phải có trình độ kỹ thuật. Giải pháp đề ra đáp ứng nhu cầu về lao động trong ngành như sau:
Đối với cán bộ kỹ thuật chế biến: Lực lượng lao động kỹ thuật cho công nghiệp chế biến sữa năm 2005 khoảng 8.400 người, năm 2010 khoảng 12.000 người. Kết hợp các khoa đào tạo chuyên ngành tại các trường đại học. Trong nước, có chính sách tuyển mộ các sinh viên tốt nghiệp đúng chuyên ngành về làm việc cho ngành; Cử cán bộ đi đào tạo tại những nước có truyền thống về sản xuất sữa, bảo quản, vận chuyển và an toàn vệ sinh thực phẩm. Các địa phương kết hợp với các Viện Nghiên cứu, trường dậy nghề,…tổ chức tập huấn kỹ thuật cho các hộ chăn nuôi bò sữa.
3.Cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển:
Ngành sản xuất sữa cả Việt Nam nói vẫn còn rất non trẻ. Do không nên phát triển một cách đại trà, mà phát triển trọng tâm vào một số nhóm sản phẩm có triển vọng và có vai trò tích cực trong phát triển kinh tế xã hội. Để có thể thực hiện được phương hướng sản xuất đề ra, Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích phát triển sản xuất như:
3.1.Về quản lý ngành:
Tổ chức rà soát,hiệu chỉnh, bổ sung các văn bản pháp quy về quản lý chất lượng sản phẩp và vệ sinh an toàn thực phẩm liên quan đến ngành Sữa. Nghiên cứu, xây dựng các quy định về tiêu chuẩn Sữa, tiêu chuẩn được phép hành nghề sản xuất, kinh doanh sữa nếu thấy cần thiết. Tiêu chuẩn này không chỉ xây dựng cho sản phẩm trong nước mà còn cả đối với sản phẩm nhập khẩu.
Tổ chức kiểm tra, soát xét lại hoạt động sản xuất kinh doanh sữa theo hướng cơ sở sản xuất phải có đầy đủ đăng ký hành nghề, cơ sở đã đăng ký sản xuất phải có đăng ký chất lượng sản phẩm.
Gắn chức năng, nhiệm vụ của cơ quan được giao cấp giấy phép đăng ký hành nghề với nhiệm vụ kiểm tra thực hiện sản xuất theo tiêu chuẩn, chất lượng đã đăng ký. Kiên quyết rút giấy phép hành nghề đối với các cơ sở không đảm bảo các tiêu chuẩn về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm và thua lỗ kéo dài.
3.2.Chính sách khuyến khích đầu tư:
Khuyến khích đầu tư cho vùng chăn nuôi bò sữa phát triển như cho vay ưu đãi, bảo hiểm cho nông dân chăn nuôi bò sữa. Chủ trang trại được thuê đất lâu dài để trồng cỏ, cho nông dân chuyển diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cỏ như miễn thuế đất nông nghiệp từ 5-7 năm.
Khuyến khích cho phát triển một số ngành công nghiệp bổ trợ, nhất là ngành sản xuất bao bì. Ngành này hiện đang bắt đầu phát triển ở nước ta do nhu cầu phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và thức ăn gia súc ở Việt Nam. Phần chi phí bao bì trong sản phẩm sữa rất cao, trong sản phẩm sữa bột là 26%, trong sản phẩm sữa tươi là 62,5% mà chi phí này lại dùng cho nhập khẩu trong khi sản phẩm sữa tươi hiện nay đang là sản phẩm chủ lực của Việt Nam. Kích thích đầu tư phát triển ngành công nghiệp này sẽ tăng tính tự chủ, giảm chi phí của sản phẩm công nghiệp sữa trong nước.
3.3. Chính sách đối với đầu tư nước ngoài:
Kiến nghị không cấp giấy phép cho các doanh nghiệp đầu tư 100% vốn nước ngoài vào ngành sữa nếu không đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, vì qua thực tế cho thấy các doanh nghiệp 100%vốn nước ngoài do vốn đầu tư thiết bị quá lớn, chi phí quảng cáo, tiếp thị lớn, ít quan tâm đến đầu tư phát triển vùng nguyên liệu như đã cam kết.
Biện pháp áp dụng hạn ngạch nhập khẩu nguyên liệu sữa nên dần dần gỡ bỏ, vì biện pháp này là một biện pháp bảo hộ trực tiếp cho ngành chăn nuôi bò sữa, không mang lại thuận lợi về lâu dài mà ngược lại làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp trong nước. Không nên bắt các doanh nghiệp này phải chịu thiệt thòi để thực hiện các chính sách xã hội.
Tốt nhất là nên kết hợp chặt chẽ với chính sách về quản lý ngành, thực hiện chặt chẽ và nghiêm túc Tiêu chuẩn thống nhất cho sản phẩm sữa. Khi thực hiện tiêu chuẩn này đòi hỏi các doanh nghiệp sẽ phải bổ xung thêm các vi lượng và khoáng chất cho sản phẩm, đội chi phí sản phẩm lên cao như đã phân tích ở phần đánh giá khả năng cạnh tranh của các nhóm sản phẩm. Và trong trường hợp này nếu thuế sản xuất sử dụng nguyên liệu trong nước giảm xuống sẽ khiến các doanh nghiệp trong nước quay sang dùng nguyên liệu trong nước, vì vừa đảm bảo chất lượng mà chi phí sản xuất cũng thấp hơn.
Tước mắt, đối với các xí nghiệp liên doanh có 100% vốn nước ngoài thực hiện cam kết đầu tư phát triển đàn bò sữa và có trách nhiệm thu mua sữa tươi trong nước để chế biến và san sẻ nghĩa vụ cùng các xí nghiệp trong nước cùng một môi trường cạnh tranh.
3.4. Chính sách về thuế:
Để khuyến khích phát triển ngành Sữa chuẩn bị cho tiến trình hội nhập, nhất là nhóm sản phẩm sữa tươi, sữa chua, nếu sử dụng nguyên liệu trong nước sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm mà không phải tăng ngoại tệ nhập nguyên liệu cho sản xuất. Kế hợp như đã phân tích ở phần trên: Kiến nghị giảm thuế giá trị gia tăng sữa chế biến có sử dụng sữa tươi nguyên liệu thu mua của nông dân xuống 3-5% tương ứng với thuế đầu vào. Với giá thu mua như hiện nay đã đảm bảo cho người nông dân có mức lãi là 30%. Nhưng đó là trong điều kiện thuận lợi về thu mua sản phẩm từ phía các công ty chế biến. Biện pháp thuế này đưa ra sự kích thích cho các nhà sản xuất nên sử dụng nguyên liệu sữa tươi tại chỗ để sản xuất. Làm vậy không những kích thích cho phát triển nguyên liệu sữa mà còn là một biện pháp quan trọng để các công ty hướng vào sử dụng nguyên liệu sữa tươi trong nước vừa nâng cao chất lượng sản phẩm mẩin xuất vẫn có lãi.
Thế nhưng để việc này xảy ra đúng như dự kiến, thì Nhà nước phải thực hiện chặt chẽ đồng thời về kiểm tra tiêu chuẩn chất lượng kết hợp với giảm thuế cho đúng loại sản phẩm.
Tăng thuế nhập khẩu các sản phẩm sữa mà trong nước đã sản xuất được từ 15-20% lên 35% vì nhập sữa bột gày (các nước ASEAN không phải là các nước xuất khẩu nguyên liệu sữa) vào để chế biến sữa hoàn nguyên cho tiêu dùng không thể đạt chất lượng dinh dưỡng như sữa vắt từ bò, muốn đạt chất lượng như vắt sữa bò phải pha thêm các khoáng chất, vitamin, béo…nên giá thành cao hơn nguyên liệu tại chỗ. Với mức thuế nhập khẩu thấp nên lợi nhuận sau thuế cao hơn từ 30 đến 35% so với sử dụng nguyên liệu trong nước.
Bên cạnh đó, miễn giảm thuế giá trị gia tăng cho sữa học đường, nếu Nhà nước muốn thực hiện chính sách xã hội mà không làm ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế cơ bản của nhà sản xuất.
Có chính sách ưu đãi thuế đối với các xí nghiệp mới đầu tư mở rộng, cải tạo nâng cấp. Giảm thuế lợi tức trong những năm đầu tư đi vào hoạt động.
3.5.Tổ chức thực hiện:
Hiện nay, việc điều hành vĩ mô ở cấp các Bộ của Chính phủ, ngành sản xuất sữa do nhiều Bộ, nhiều ngành điều hành, chi phối nên khó thống nhất. Bộ Nông nghiệp và phát triểnnông thôn phụ trách phát triển bò sữa, Bộ Công nghiệp phụ trách chế biến sữa, Bộ Thương mại cấp Quota nhập khẩu sữa… Đây là vấn đề khó trong điều hành sản xuất để cân đối giữa sản xuất sữa trong nước và nhập khẩu sữa, gắn sản xuất với chế biến và thị trường, nhằm đảm bảo quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng. Vì vậy, để thực hiện được mục tiêu của Quy hoạch phát triển ngành Sữa phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan. Trước hết các cơ quan quản lý như Bộ Công nghiệp, Bộ Y Tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ khoa học công nghệ môi trường, Bộ Thương mại sớm đề ra chủ trương biện pháp cần thiết để tăng cường kiểm tra giám sát việc kinh doanh sữa.
Các cơ quan kiểm nghiệm như Cục Kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm (Bộ Y tế, Trung tâm y tế dự phòng) của các địa phương quản lý chặt chẽ và nghiêm minh trong việc cấp giấy phép kinh doanh và kiểm tra thường xuyên vệ sinh an toàn thực phẩm các cơ sở sản xuất. Chấm dứt hoạt động của các cơ sở không đảm bảo các tiêu chuẩn đề ra.
Đề nghị thành lập Hội đồng sữa quốc gia để điều hành và giải quyết những vấn đề chung của ngành như chăn nuôi, sản xuất, tiêu thụ, xuất nhập khẩu sữa của cả nước. Hội đồng sẽ phối hợp Hiệp hội sữa của thế giới để tiếp thu thành tựu và kinh nghiệm của cộng đồng quốc tế.
Kết luận
Trong những năm gần đây nhu cầu tiêu thụ sản phẩm sữa trong nước gia tăng nhanh chóng cả về số lượng và chủng loại sản phẩm. Nếu như để cạnh tranh một cách lành mạnh giữa sản phẩm sữa sản xuất trong nước và sản phẩm nhập khẩu trong thời điểm hiện tại thì chúng ta không đủ khả năng cạnh tranh. Hay nói cách khác chúng ta chưa có khả năng cạnh tranh về loại hàng này so với các “đại gia” tầm cỡ trên thế giới. Nhưng nếu xét trên thị trường nội địa thì chúng ta khá thuận lợi về phần tiết kiệm chi phí bảo quản và vận chuyển so với các sản phẩm nhập khẩu.
Đó là xét về tổng thể, còn trong tương lai chúng ta có khả năng cạnh tranh trên một số nhóm sản phẩm sữa như: sữa tươi, bột dinh dưỡng, sữa đặc. Chủ yếu sứch cạnh tranh của chúng ta dựa vào cạnh trang về giá với chất lượng trung bình. Điều này cũng rất phù hợp với thu nhập của người dân Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới. Cụ thể chúng ta vẫn phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu nước ngoài để chế biến nhưng tăng phần khả năng nội địa hoá trong sản phẩm. Cơ bản chúng ta có thể làm được như vậy là do phần đóng góp vào chi phí sản xuất sản phẩm của nguyên liệu là không cao lắm.
Nhưng muốn thực sự phát huy được sức cạnh tranh của một số nhóm sản phẩm sữa trong ngành thì cần phải có sự đóng góp một phần không nhỏ các tác động hợp lý từ phía Nhà nước, giảm dần vòng bảo hộ đến ngành không có nghĩa là bỏ mặc hoàn toàn cho ngành tự phát triển. So với các nước có ngành công nghiệp sữa phát triển trên thế giới hiện nay, ngành sữa Việt Nam còn quá non trẻ cần có sự quan tâm, tác động tích cực từ phía Nhà nước.
Tài liệu tham khảo
1. Kinh tế học quốc tế_NXB Thống kê.
( Paula. Samuelson - Williamd. Nordhaus)
2. Bàn về cạnh tranh toàn cầu_NXB Thông tấn.
3. Chiến lược cạnh tranh (cuốn dịch của M. Porter).
4. Giáo trình Chiến lược kinh doanh _NXB Thống kê.
5. Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp sữa Việt Nam giai đoạn từ nay đến năm 2010 của Bộ Công nghiệp.
6. Đề án nghiên cứu Chính sách phát triển và chế biến sữa tại Việt Nam 1997-2000 và những năm sau của Vụ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
7. Phát triển chăn nuôi bò sữa trong hộ nông dân ngoại thành Hà Nội_NXB Nông nghiệp.
8. Sản phẩm bơ sữa quốc tế.
9. Biểu thuế xuất khẩu-nhập khẩu và thuế VAT hàng nhập khẩu năm 2002.
10. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
11. Các số liệu năm 2002 của FAO lấy trên mạng Internet.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5416.doc