Đánh giá khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam. Thực trạng và giải pháp

Mục lục Trang Kết luận 70 Tài liệu tham khảo 71 Lời mở đầu 1. Sự cần thiết của đề tài : Đất nước chuyển mình sau nhiều năm đổi mới . Trước ngưỡng cửa của nền kinh tế thị trường , các doanh nghiệp có nhiều cơ hội thuận lợi nhưng cũng phải đuơng đầu với không ít khó khăn để tồn tại và phát triển , trong đó khó khăn lớn nhất có lẽ là sự cạnh tranh gay gắt không chỉ với các doanh nghiệp trong nước mà còn cả với các doanh nghiệp nước ngoài . Để giành được phần thắng trong cuộc canh tranh quyế

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1366 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t liệt , nhằm chiếm lĩnh được thị phần , mở rộng thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm của mình , đồng thời đạt được lợi nhuận tối ưu , các doanh nghiệp phải không ngừng cố gắng nỗ lực nâng cao chất lượng sản phẩm , dịch vụ , giảm giá thành , đổi mới trang thiết bị công nghệ , nâng cao trình độ quản lí cũng như tay nghề của ngưòi lao động , thực hiện các hệ thống quản lí chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế nhằm tăng năng lực canh tranh cho các doanh nghiệp của mình . Hàng dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay .Mặt hàng này cũng đang phải đương đầu trước nhiều khó khăn , thách thức : Đó là làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trong bối cảnh nền kinh tế đất nước còn nhiều bất cập , trình độ công nghệ , trình độ quản lí còn nhiều hạn chế . Trong khi đó , tình hình chính trị cũng như nền kinh thế thế giới luôn luôn biến động khó lường. Kinh tế thế giới trong giai đoạn hiện nay , đang được phục hồi chậm chạp sau một thời gian suy thoái , thị trường tiếp tục trầm lắng , sức mua yếu khiến cho giá xuất khẩu giảm . Trong điều kiện kinh tế gặp khó khăn , ở các nước đã xuất hiện nhiều hơn những rào cản về thương mại , kể cả ở những nước rất tích cực cổ động cho tự do hoá thương mại . Chiến tranh thương mại diễn ra ngày càng quyết liệt hơn , các vấn đề về lao động , môi trường được đặt ra một cách thái quá nhất là trong sản xuất hàng may mặc . Vì vậy , việc xem xét thực trạng khả năng canh tranh của hàng dệt may Việt nam là rất cần thiết để từ đó tìm ra được những thuận lợi để phát huy và quan trọng hơn tìm ra những giải pháp nhằm khắc phục những bất cập nhằm giúp hàng dệt may của Việt nam đứng vững và chiếm lĩnh được thị phần trên thị trường quốc tế cũng như thị trường trong nước . Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài : Đối tượng nghiên cứu đề tài: tập trung vào nghiên cứu năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam trong mối quan hệ với môi trường kinh doanh , môi trường cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế . Phạm vi nghiên cứu của đề tài : tập trung vào các giải pháp chủ yếu nhằm tăng khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam . Phương pháp nghiên cứu : Sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau : -Phương pháp thống kê , tổng hợp ,phân tích ,so sánh. -Phương pháp điều tra , khảo sát thực tế ,kết hợp với nghiên cứu tại văn phòng . 4 .Nội dung nghiên cứu của đề tài : Nội dung của đề tài được cấu thành 03 chương chính : Chưong 1 : Lý luận chung về khả năng canh tranh hàng dệt may của Việt nam. Chương 2: Thực trạng về khả năng cạnh tranh hàng dệt may của Việt nam . Chương 3 : Một số giải pháp làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam . Trong quá trình nghiên cứu , dù đã cố gắng và được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ phòng thị trường , phòng xuất nhập khẩu của các công ty May Thăng Long , May 10 , May Chiến Thắng , May Đức Giang, cũng như ban Kế hoạch -Thị Trường của Tổng công ty dệt may Việt nam -VINATEX, đặc biệt là được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo : Thạc Sĩ Nguyễn Xuân Nữ - Giảng viên Khoa Kinh Tế Ngoại Thương ,Trường Đại Học Ngoại Thương Hà Nội . Nhưng do thời gian và trình độ có hạn , nên chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót và hạn chế . Em rất mong muốn và xin chân thành tiếp thu những ý kiến đóng góp bổ xung nhằm hoàn thiện hơn nữa đề tài nghiên cứu của mình . Em xin chân thành cảm ơn . Chương I : Lý luận chung về khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam . I/ Sự cần thiết khách quan của việc nâng cao năng lực cạnh tranh : 1. Khái niệm về cạnh tranh Cạnh tranh là một khái niệm được các học giả của các trường phái kinh tế khác nhau rất quan tâm . Theo các học giả trường phái tư sản cổ điển thì " Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng . Quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên trong thị trường một dư địa hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần xứng đáng so với khả năng của mình". Theo từ điển kinh doanh của Anh xuất bản năm 1992 thì cạnh tranh được xem là " sự ganh đua , sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại hàng hoá khác về phía mình " . Cạnh tranh là hoạt động tranh đua giữa nhiều người sản xuất hàng hoá , giữa các thương nhân , các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường bị chi phối bởi quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất , tiêu thụ và thị trường có lợi nhất . Các nhà khoa học của Việt nam khi đề cập tới cạnh tranh thì cho rằng : cạnh tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hoá ,dịch vụ ( mua và bán) và đó là phương thức để giành lợi nhuận cao cho các chủ thể kinh tế .Nói khác đi , mục đích trực tiếp của hoạt động cạnh tranh trên thị trường của chủ thể kinh tế là giành lợi thế để hạ thấp giá các yếu tố "đầu vào" của chu trình sản xuất- kinh doanh và nâng cao giá "đầu ra"sao cho mức chi phí thấp nhất ,giành được mức lợi nhuận cao nhất . Như vậy trên qui mô toàn xã hội,cạnh tranh là phương thức phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu và do đó nó trở thành động lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển . Mặt khác ,đồng thời với tối đa hoá lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh cũng là yếu tố thúc đẩy quá trình tích luỹ và tập trung tư bản không đồng đều ở các doanh nghiệp .Và từ đó , cạnh tranh còn là môi trường phát triển mạnh mẽ cho các chủ thể kinh doanh thích nghi được với các điều kiện thị trường ,đào thải các doanh nghiệp ít khả năng thích ứng với thị trường ,dẫn tới tập trung hoá trong từng ngành, vùng , quốc gia... Tính cạnh tranh là khái niệm được dùng cho phạm vi doanh nghiệp trong lí thuyết tổ chức các doanh nghiệp .Một doanh nghiệp được coi là có sức cạnh tranh (hay năng lực cạnh ) và được đánh giá là nó có thể đứng vững cùng các nhà sản xuất khác khi các sản phẩm thay thế hoặc các sản phẩm tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn các sản phẩm cùng loại ;hoặc cung cấp các sản phẩm tượng tự với các đặc tính về chất lượng và dịch vụ ngang bằng hay cao hơn . Nhìn chung, khi xác định tính cạnh tranh của một doanh nghiệp hay một nghành cần xem xét đến tiềm năng sản xuất kinh doanh một hàng hoá hay một dịch vụ ở mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải trợ cấp . Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế ( OECD) thì cho rằng : " Tính cạnh trạnh là khả năng của các doanh nghiệp ,ngành ,quốc gia ,khuvực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện canh tranh quốc tế . " Trong thực tế , cạnh tranh có thể tồn tại dưới nhiều dạng loại hình . Căn cứ vào các tiêu chí phân loại cụ thể thì sẽ có các loại hình cạnh tranh sau : * Nếu xét theo chủ thể cạnh tranh sẽ có các loại hình : cạnh tranh giữa những người sản xuất hay người bán , cạnh tranh giữa những người mua , cạnh tranh giữa những người bán và người mua ( đề cập tới vấn đề này , chính Các Mác đã chỉ ra trong tác phẩm :"Lao động làm thuê và tư bản " ) * Xét theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể : thì sẽ có cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữ các ngành mà các nhà kinh tế học chia thành hai hình thức là : " Cạnh tranh dọc " và " Cạnh tranh ngang " . - Cạnh tranh dọc : là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí bình quân thấp nhất khác nhau . Cạnh tranh dọc làm thay đổi giá bán và doanh nghiệp sẽ có " điểm dừng " . Sau một thời gian nhất định sẽ hình thành một giá thị trường thống nhất và doanh nghiệp nào có chi phí bình quân thấp nhất sẽ thu được lợi nhuận cao và phát triển . - Cạnh tranh ngang : là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí bình quân thấp nhất như nhau . Do đặc điểm này nên sẽ không có doanh nghiệp nào bị loại ra khỏi thị trường song do giá cả thấp ở mức tối đa ,vì vậy chỉ có người mua hưởng lợi nhiều nhất, còn lợi nhuận doanh nghiệp giảm dần. Sau một thời gian nhất định sẽ xuất hiện khuynh hướng : hoặc liên minh với nhau để bán giá hàng cao , giảm lượng bán ,tiến tới độc quyền ,hoặc tìm cách giảm chi phí ,tức chuyển sang cạnh tranh dọc như nêu trên. *Xét theo sự khác biệt về sở hữu tư liệu sản xuất của chủ thể kinh tế : các thành phần kinh tế đều nằm trong tổng thể kinh tế quốc dân , có mối liên hệ thống nhất và mâu thuẫn với nhau . Chính từ sự thống nhất và mâu thuẫn này làm nảy sinh cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế với nhau. * Xét theo tính chất của phương thức cạnh tranh : trong cạnh tranh, các chủ thể kinh tế sẽ dùng tất cả các biện pháp , cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình . Có những biện pháp cạnh tranh hợp pháp hay canh tranh lành mạnh Ngược lại , có những thủ đoạn phi pháp nhằm tiêu diệt đối phương chứ không phải bằng nỗ lực vươn lên của mình ,gọi là cạnh tranh bất hợp pháp hay cạnh tranh không lành mạnh . * Xét theo hình thức cạnh tranh : Có hai hình thức cạnh tranh : - Cạnh tranh hoàn hảo ( hay còn gọi là cạnh tranh thuần thuý ): là tình trạng cạnh tranh mà giá cả của một loại hàng hoá là không đổi trong toàn bộ các nơi của thị trường do có nhiều người bán và người mua, họ có đủ thông tin về các điều kiện của thị trường .Trên thực tế đời sống kinh tế ít tồn tại hình thái cạnh tranh hoàn hảo này. - Cạnh trong không hoàn hảo : là hình thái chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất . ở đó, các nhà sản xuất bán hàng đủ mạnh để chi phối giá cả các sản phẩm của mình trên thị trường hoặc từng nơi, từng khu vực cụ thể . Trong cạnh tranh không hoàn hảo lại phân ra hai loại là : độc quyền nhóm và cạnh tranh mang tính chất độc quyền . Một độc quyền nhóm là một ngành chỉ có một số ít người sản xuất và họ đều nhận thức được giá cả của mình không chỉ phụ thuộc vào sản lượng của mình mà còn phụ thuộc vào hoạt động cạnh tranh của những đối thủ quan trọng trong ngành đó . Cạnh tranh mang tính độc quyền là một ngành có nhiều người bán ,sản xuất ra những sản phẩm dễ thay thế cho nhau , mỗi hãng chỉ có thể hạn chế ảnh hưởng tới giá cả sản phẩm của mình ở mức độ nhất định . * Xét theo các công đoạn của quá trình kinh doanh hàng hoá : ta có các công đoạn : cạnh tranh trước khi bán hàng ,trong khi bán hàng và sau khi bán hàng . Ngoài các loại hình cạnh tranh đã nêu trên, người ta còn xét theo một số tiêu chí khác nữa : điều kiện không gian ,lợi thế tài nguyên ,nhân lực ,đặc điểm tập quán sản xuất ,tiêu dùng ,văn hoá... ở từng dân tộc ,khu vực,từng quốc gia khác nhau mà phân loại thành cạnh tranh giữa các nước và các khu vực trên thế giới ; cạnh tranh trong và ngoài nước ,cạnh tranh giữa các cộng đồng ,các vùng có bản sắc dân tộc và tập quán tiêu dùng khác nhau . 2. Các tiêu chí chủ yếu đánh giá năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt nam : Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng bù đắp chi phí , duy trì lợi nhuận và được đo bằng thị phần của sản phẩm , dịch vụ của doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước . Để đánh giá năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt nam ,có nhiều tiêu chí để đánh giá. Trong đó có ba tiêu chí tổng quát nhất có thể áp dụng chung cho việc đánh giá năng lực cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp ,đó là : *Lợi nhuận hay hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp: Đây là tiêu chí tổng hợp phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu ,năng lực cạnh tranh thực tế trong xuất khẩu của doanh nghiệp . Qua các số liệu về lợi nhuận trước và sau thuế hàng năm (hay theo chu kì sản xuất kinh doanh xuất khẩu ) ,kim nghạch xuất khẩu của doanh nghiệp ,lợi nhuận kinh doanh xuất khẩu ta có thể thấy rõ khả năng tồn tại và phát triển của doang nghiệp . Để so sánh với các doanh nghiệp khác trong và ngoài nước cùng tham gia cạnh tranh (cùng một loại sản phẩm ) ta có thể dùng "chỉ số về lợi thế chi phí " do Siggel và Cocburn đề xướng năm 1995 và đang được sử dụng rộng rãi như sau : " Chỉ số về lợi thế chi phí là hiệu số giữa chi phí trên một đơn vị đầu ra của nhà cạnh tranh nước ngoài so với nhà sản xuất kinh doanh trong nước " IC = UC* -UC Trong đó : IC : Chỉ số so sánh UC* : chi phí của nhà sản xuất kinh doanh nước ngoài trên một đon vị sản phẩm UC : Chi phí của nhà sản xuất kinh doanh trong nước . Nếu IC >0 thì nhà sản xuất kinh doanh trong nước có tính cạnh tranh thực tế (lợi thế so sánh ) hơn đối thủ nước ngoài . Việc phân tích chi tiết hơn các nguyên nhân khác như lao động (lương và mức lương) ,giá ( số lượng và giá thế giới) cũng như các lệch lạc về tỉ giá ,lãi suất, giá vốn ,mức độbảo hộ của chính phủ (trợ cấp,bảo hộ thay thế nhập khẩu ...) để có thể biểu diễn IC theo chi phí sản xuất tính đến các đầu vào trung gian . Chỉ số IC này phản ánh lợi thế so sánh và tính cạnh tranh thực tế của doanh nghiệp khi được tính theo giá thị trường cho phép lượng hoá và phân lập từng loại thành phẩm cạnh tranh cũng như các "méo mó" về giá cả .Những thông tin này rất cần khi hoạch định chính sách của công ty . * Thị phần (trong và ngoài nước) : phản ánh khả năng chiếm lĩnh thị trường, qui mô hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp . Đây cũng là tiêu chí rất quan trọng trong việc đánh giá triển vọng tăng trưởng ,phát triển của doanh nghiệp .Những số liệu về tổng số thị phần trong và ngoài nước nói lên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp này với các doanh nghiệp khác ,hiệu quả của hoạt động thâm nhập, chiếm lĩnh thị trường ,tiếp thị ,bán hàng và sau bán hàng ,mức độ đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và tính năng động của doanh nghiệp . Ngoài ra , thị phần cũng phản ánh mức độ tập trung trong sản xuất-kinh doanh đối với loại sản phẩm hàng hoá đó của doanh nghiệp trên thị trường.Thị phần càng lớn ,sức mạnh tập trung vốn đầu tư sản xuất càng lớn ,thiết lập được các kênh phân phối sản phẩm càng có hiệu quả ,giảm bớt các rủi ro khó lường trên thương trường . Mặt khác ,thị phần cũng là biểu hiện mức độ liên kết giữa các vị thế của doanh nghiệp với vị thế của người mua đối với loại sản phẩm hay hàng hoá nhất định. Biểu hiện uy tín của doanh nghiệp ,sự tin cậy của người mua trong việc cung ứng,thanh toán ,giá cả,chất lượng ,dịch vụ sau bán hàng của hàng hoá đó trên thị trường . * Chiến lược phát triển kinh doanh ,nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp (phản ánh khả năng phát triển bền vững ,lâu dài, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế ): ở Việt nam chiến lược phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp nhìn chung chưa có hiệu quả cao ,còn nhiều sự ỷ lại vào sự bảo hộ của nhà nước .Mục tiêu chỉ giới hạn ở mức ngắn hạn trước mắt ,lợi thế so sánh bằng nguồn lao động rẻ ,tài nguyên sẵn có , công nghệ còn lạc hậu... Chưa thiết lập được mối quan hệ trực tiếp với người tiêu dùng ,chưa nắm giữ được một phần nhất định trong các kênh phân phối quốc tế . Vậy muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phải xây dựng được chiến lược phát triển kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả phù hợp với yêu cầu phát triển và tiến trình hội nhập quốc tế. 3. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam Trong nền kinh tế thị trường , các doanh nghiệp đều rất quan tâm đến khả năng cạnh tranh .Thực chất , khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là lợi thế về tất cả các mặt : giá cả , giá trị sử dụng , uy tín , công nghệ , tiềm lực tài chính...so với các đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn đến mức tốt nhất các loại đòi hỏi của thị trường. Như vậy, tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp là thay đổi mối tương quan về thế và lực của doanh nghiệp trên thị trường về mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh . Trong cơ chế thị trường ,cạnh tranh là một tất yếu khách quan .Cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong điều kiện của kinh tế thị trường .Như bất kì hiện tượng kinh tế nào, cạnh tranh xuất hiện trong các điều kiện lịch sử nhất định và nó mang bản chất kinh tế ,xã hội ,chính trị nhất định . Bản chất kinh tế của cạnh tranh thể hiện mục đích lợi nhuận và chi phối thị trường của chủ thể kinh doanh .Bản chất xã hội của cạnh tranh bộc lộ đạo đức, uy tín kinh doanh của mỗi chủ thể kinh doanh trong quan hệ với các chủ thể kinh doanh khác ,với người lao động và với người tiêu dùng .Bản chất chính trị của cạnh tranh thể hiện ở tác động vĩ mô của nhà nước đối với hoạt động cạnh tranh trên thị trường . Cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất . Lợi ích kinh tế ( lợi nhuận ) là cơ sở để cạnh tranh ra đời nhưng sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất lại là điều kiện tiên quyết để cạnh tranh phát triển sâu rộng . Cạnh tranh giúp cho các doanh nghiệp luôn phải tìm mọi cách để tự phát triển vươn lên so với các đối thủ của mình . Đây là một quá trình liên tục giống như một cuộc "Ma -ra-tông kinh tế " không có đích cuối cùng . Ai cảm nhận thấy đích , người đó trở thành nhịp cầu cho các đối thủ vươn lên phía trước . Chạy đua kinh tế phải luôn luôn ở phía trước để tránh những trận đòn của người chạy phía sau . Hơn nữa ,chạy đua về mặt kinh tế không phải chỉ thắng một trận tuyến mà là để thắng trên hai trận tuyến . Một trận tuyến diễn ra giữa hai phe của hệ thống thị trường, còn trận tuyến kia diễn ra giữa hai phe của cùng một phía . Nói cách khác , đây là cạnh tranh giữa người mua với người bán và cạnh tranh giữa người bán với nhau . Mỗi doanh nghiệp không thể lẩn tránh cạnh tranh, vì như vậy cầm chắc sự phá sản . Phải chấp nhận cạnh tranh , đón trước cạnh tranh và sẵn sàng ,linh hoạt sử dụng công cụ cạnh tranh để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp . Nói tóm lại , việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là một tất yếu khách quan. Đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may của Việt nam , hiện đang luôn phải đối phó tình hình kinh tế và chính trị thế giới có nhiều biến động ,sự cạnh tranh mậu dịch thế giới rất gay gắt và toàn diện trên các mặt thị trường ,sản phẩm ,giá cả ,phương thức giao dịch và phương thức thanh toán .Và sự cạnh tranh này thậm chí có thể dẫn tới xung đột ,tranh chấp .Cao hơn nữa là chiến tranh thương mại . Trong khi đó ,các doanh nghiệp phải nỗ lực để có thể đứng vững trên thị trường trong và ngoài nước khi Việt nam được gia nhập tổ chức thương mại thế giới . Vì vậy , việc nâng cao năng lực cạnh tranh hiện nay của ngành dệt may là rất cấp thiết. Hàng dệt may hiện đang là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của của nền kinh tế Việt nam trong giai đoạn hiện nay . Hơn nữa , đây là mặt hàng có lợi thế so sánh của Việt nam . Do vậy ,tăng năng lực cạnh tranh sẽ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu được nhiều hàng dệt may . Khi đó sẽ giúp tạo được nhiều việc làm cho người lao động ,đặc biệt là lao động ở nông thôn của Việt nam vốn dĩ đa phần chỉ dựa vào sản xuất nông nghiệp . Bên cạnh đó việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may góp phần thu ngoại tệ về cho đất nước .Đây là một nguồn vốn quan trọng và cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước hiện nay . Việc tăng năng lực cạnh tranh góp phần tăng lượng hàng xuất khẩu , hỗ trợ rất nhiều cho sự phát triển của ngành dệt may Việt nam . Một ngành nghề rất phù hợp với sự phát triển của Việt nam trong giai đoạn hiện nay với sự đòi hỏi về vốn không nhiều ,kĩ thuật không cao ,phức tạp trong khi đó lao động cho ngành may của Việt Nam rất dồi dào . Nhu cầu thị trường thế giới có xu hướng tăng lượng tiêu thụ hàng dệt may ,tuy nhiên ,thị trường đòi hỏi phải có nhiều mẫu mã ,chủng loại phong phú , giá cả hợp lí . Trong khi đó có nhiều nước muốn đáp ứng nhu cầu này ( cung lớn hơn cầu) ,vì vậy để có thể tăng được lượng hàng dệt may xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh Trong giai đoạn hiện nay , với sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật đã giúp cho trình độ công nghệ của ngành dệt may không ngừng đổi mới và ngày càng hiện đại .Trong khi đó ,đa số thiết bị máy móc của các doanh nghiệp dệt may của Việt nam là cũ (trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ) đã khiến cho năng suất lao động và hiệu quả kinh tế chưa cao , sản phẩm sản xuất ra có chất lượng chưa cao dẫn tới sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt nam trên thị trường thế giới thấp .Để hàng dệt may của Việt nam có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới ,đòi hỏi cần phải áp dụng trình độ khoa học công nghệ tiên tiến để nâng cao năng lực cạnh tranh. II/ Các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam 1. Các yếu tố bên trong của doanh nghiệp Các yếu tố bên trong của doanh nghiệp là một trong những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng . Doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao thì khả năng tiêu thụ sản phẩm càng nhanh .Sức cạnh tranh phụ thuộc vào nhiều yếu tố . Trong đó : năng lực tài chính của doanh nghiệp, trình độ công nghệ và tay nghề người lao động , trình độ quản lí doanh nghiệp, chính sách marketing của doanh nghiệp có ảnh hưỏng rất quan trọng . 1.1. Khả năng tài chính của doanh nghiệp: Để thực hiện được những chương trình sản xuất và xuất khẩu cần rất nhiều vốn . Vốn là yếu tố quyết định đến qui mô sản xuất và xuất khẩu . Nếu doanh nghiệp có đủ khả năng về vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp có điều kiện mở rộng qui mô sản xuất từ đó giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm và vì vậy sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như của sản phẩm . Doanh nghiệp cũng phải có một cơ cấu vốn hợp lí nhằm phục vụ tốt cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình . Nếu như cơ cấu vốn không hợp lí , vốn quá nhiều mà không có lao động hoặc ngược lại lao động nhiều mà không có vốn thì doanh nghiệp sẽ không phát triển được hoặc phát triển mất cân đối . Vốn là một trong những nhân tố quan trọng trong hàm sản xuất và nó quyết định tốc độ tăng sản lượng doanh nghiệp . Cơ cấu vốn hợp lí giúp cho doanh nghiệp phát huy được những lợi thế của mình trong sản xuất từ đó tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp . 1.2. Trình độ công nghệ và tay nghề của người lao động : *Công nghệ là hệ thống qui trình và kĩ thuật chế biến vật chất hoặc thông tin . Để đầu tư sản xuất kinh doanh, công nghệ có vai trò quyết định. Để sản xuất một sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ và cạnh tranh được trên thị trường phải có máy móc ,thiết bị công nghệ tiên tiến . Ngày nay, do sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, nhiều công nghệ tiên tiến đã ra đời và được áp dụng ngay vào sản xuất tạo ra những lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm của doanh nghiệp áp dụng công nghệ tiên tiến .Vì vậy mỗi doanh nghiệp không ngừng phải đổi mới thiết bị công nghệ để sao cho phù hợp với mỗi doanh nghiệp nhằm tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp . * Ngày nay chất lượng nguồn nhân lực đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp . Chúng ta có thể bỏ hàng chục triệu USD để xây dựng những nhà máy hiện đại , nhưng nếu bộ máy lãnh đạo điều hành kém năng lực , tập thể lao động trực tiếp sản xuất không thành thạo , trình độ tay nghề không cao thì nhà máy hoạt động không thể có hiệu quả ,do vậy sẽ không có khả năng cạnh tranh hoặc sức cạnh tranh rất yếu. Chất lượng, trình độ tay nghề nguồn nhân lực sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới giá trị của hàng hoá. Giá trị hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá thay đổi phụ thuộc vào năng suất lao động. Năng suất lao động là hiệu suất của lao động được đo bằng số lượng sản phẩm tạo ra trong một đơn vị thời gian , hoặc lượng thời gian lao động hao phí để tạo ra một đơn vị sản phẩm . Năng suất lao động phụ thuộc vào trình độ kĩ thuật của người lao động, mức trang bị kĩ thuật của người lao động, phương pháp tổ chức, quản lí và các điều kiện tự nhiên . Khi chất lượng, trình độ tay nghề của nguồn nhân lực nâng cao sẽ giúp cho tăng năng suất lao động . Việc tăng năng suất lao động được thể hiện ở chỗ: hao phí lao động không tăng, nhưng số sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian tăng lên, do đó giá trị hàng hoá của một đơn vị giảm xuống khiến cho giá của một đơn vị hàng hoá giảm , do đó sẽ giúp tăng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. 1.3. Trình độ quản lí của doanh nghiệp : * Ban lãnh đạo của doanh nghiệp : là bộ phận đầu não của doanh nghiệp, là nơi xây dựng chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp, đề ra mục tiêu đồng thời giám sát kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch đã đề ra .Trình độ quản lí, kinh doanh của ban lãnh đạo có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Một chiến lược doanh nghiệp đúng đắn phù hợp với tình hình thực tế của thị trường, của doanh nghiệp sẽ là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình từ đó nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp . * Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp: Cơ cấu tổ chức đúng đắn sẽ phát huy được trí tuệ của tất cả các thành viên trong doanh nghiệp , phát huy tinh thần đoàn kết và sức mạnh tập thể đồng thời vẫn đảm bảo cho việc ra quyết định sản xuất kinh doanh được nhanh chóng và chính xác . Cơ cấu tổ chức hợp lí sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc phối hợp giải quyết những vấn đề nảy sinh, đối phó được với những biến động của môi trường kinh doanh và nắm bắt kịp thời các cơ hội một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất . * Đội ngũ cán bộ : Đóng vai trò quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trên thương trường bởi vì đội ngũ cán bộ , lao động là những người trực tiếp thực hiện nghiệp vụ chuyên môn . 1.4. Chính sách Marketing của doanh nghiệp : Các doanh nghiệp đang phải đối đầu với một cuộc canh tranh khốc liệt trên thị trường . Do đó, việc nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường cũng chính là lẽ sinh tồn của các doanh nghiệp . Để nâng cao sức canh tranh, bên cạnh các yếu tố chính như giá cả, chất lượng thì chính sách marketing rất được coi trọng đặt biệt trong giai đoạn hiện nay. Marketing là tổng thể các hoạt động của doanh nghiệp hướng tới thoả mãn, gợi mở những nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường để đạt mục tiêu lợi nhuận. Các chính sách marketing giúp nâng cao thế lực của doanh nghiệp trước các đối thủ cạnh tranh, marketing giúp các doanh nghiệp quảng cáo các sản phẩm của mình cho nhiều người biết đến, biện pháp marketing giúp cho các doanh nghiệp nâng cao uy tín của mình bằng quảng cáo, xúc tiến bán hàng, giới thiệu cho ngưòi tiêu dùng biết chất lượng, giá cả và những lợi thế sản phẩm của mình so với các đối thủ cạnh tranh khác . Để có thể giành thắng lợi trước đối thủ cạnh tranh ,các doanh nghiệp phải áp dụng một cách linh hoạt các chính sách marketing đó là : * Chính sách sản phẩm : để có thể đưa ra chính sách sản phẩm của mình hợp lí ,doanh nghiệp phải hiểu rõ sản phẩm của mình : Sản phẩm của mình có các lợi ích cốt lõi gì ? Lợi ích cốt lõi của sản phẩm cũng chính là giá trị sử dụng của sản phẩm hay công dụng của sản phẩm . Đây chính là mục tiêu mà các khách hàng theo đuổi ; Sản phẩm hiện thực của mình được thể hiện như thế nào ? Sản phẩm hiện thực là đặc điểm được thể hiện dưới dạng vật chất thực tế như hình dạng, kích thước, màu sắc kể cả nhãn hiệu bao bì sản phẩm; Sản phẩm mong đợi của sản phẩm có các thuộc tính , điều kiện mà ngưòi mua thưòng mong đợi và hài lòng khi mua sản phẩm hay không ? Nghiên cứu sản phẩm mong đợi nhằm mục đích thoả mãn tốt hơn mọi nhu cầu, mong muốn của khách hàng, đảm bảo hoạt động kinh doanh và cạnh tranh có hiệu quả ; Doanh nghiệp có sản phẩm bổ xung hay không? Sản phẩm bổ xung là phần tăng thêm vào sản phẩm hiện hữu những dịch vụ hay lợi ích khác để phân biệt về mức ưu việt của sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp so với sản phẩm các đối thủ cạnh tranh . Vị trí sản phẩm bổ xung ngày càng trở nên quan trọng vì cạnh tranh ngày nay chủ yếu bằng sản phẩm bổ xung; Sản phẩm tiềm năng của mình như thế nào ? Sản phẩm tiềm năng là cấp thứ 5 của sản phẩm , là toàn bộ những yếu tố bổ xung và đổi mới của sản phẩm đó có thể đạt mức cao nhất trong tương lai . Đó là các cơ hội để doanh nghiệp tìm kiếm các phương pháp mới thoả mãn nhu cầu của khách hàng và đặc tính hoá cho sản phẩm của mình . Việc nghiên cứu cấu thành sản phẩm theo 5 cấp trên sẽ giúp cho doanh nghiệp hoạch định thành công chiến lược sản phẩm trong marketing hiện nay. Ngoài hiểu rõ sản phẩm của mình , doanh nghiệp phải định vị được sản phẩm của mình và phải nắm vững vòng đời sản phẩm của mình . Định vị sản phẩm là xác định vị trí sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường so với sản phẩm cạnh tranh , là chiến lược marketing hướng tới những ý tưởng mong đợi của khách hàng trong mối tương quan với đối thủ nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược. Vòng đời sản phẩm là khoảng thời gian tồn tại của sản phẩm trên thị trường kể từ khi sản phẩm đó được thương mại hoá cho đến khi bị đào thải trên thị trường .Nghiên cứu vòng đời sản phẩm giúp doanh nghiệp hiểu rõ được qui luật vận động của vòng đời sản phẩm qua từng giai đoạn để phối hợp có hiệu quả các thành phần cơ bản trong hỗn hợp marketing ( Marketing-mix) ; giúp doanh nghiệp nắm được những đặc điểm biến động chính về chi phí , doanh số và lợi nhuận trong từng giai đoạn . Từ đó doanh nghiệp có thể khai thác tốt các nguồn lực nhằm đảm bảo thành công cho các mục tiêu chiến lược của mình. Giúp xây dựng được kịp thời kế hoạch tài chính chủ động để điều hành các hoạt động kinh doanh và tận dụng được những cơ hội tốt nhất . * Chính sách giá cả : Chính sách giá cả phù hợp , linh hoạt sẽ giúp cho các doanh nghiệp đảm bảo được các mục tiêu của mình . + Mục tiêu về lợi nhuận : Trên thực tế , lợi nhuận thường được xem xét đầy đủ dưới hai dạng , theo hai cách tính: Lợi nhuận tuyệt đối = Tổng thu - Tổng chi ( = Số tiền cụ thể) . Tỉ suất lợi nhuận = Lợi nhuận tuyệt đối x100% (= Con số tương đối %) Tổng vốn đầu tư Nếu như lợi nhuận tuyệt đối phản ánh kết quả cụ thể về khả năng sinh lợi của doanh nghiệp trong thời gian nhất định thì tỉ suất lợi nhuận cho biết khái quát chất lượng kinh doanh của doanh nghiệp đó . + Mục tiêu doanh số : Doanh số là số tiền bán hàng thu được trong một thời gian nhất định ( năm , tháng , quí) . Doanh số = Giá bán x Số lượng sản phẩm bán . Trong khi lợi nhuận chỉ rõ khả năng sinh lợi thì doanh số lại cho biết qui mô hay tầm cỡ của doanh nghiệp lớn hay nhỏ . + Mục tiêu thị phần : Thị phần là phần thị trường tiêu thụ sản p._.hẩm mà doanh nghiệp chiếm lĩnh . Thị phần = Doanh số bán của doanh nghiệp Tổng doanh số của thị trường hoặc Thị phần = Số sản phẩm bán ra của doanh nghiệp Tổng số sản phẩm tiêu thụ của thị trường Doanh số cho biết kết quả bán hàng của doanh nghiệp ở thị trường đang hoạt động , còn thị phần nói rõ phần sản phẩm tiêu thụ của riêng doanh nghiệp với tổng số sản phẩm tiêu thụ ở thị trường . *Chính sách phân phối : Đối với một doanh nghiệp , việc nghiên cứu thị trường để đưa ra được một chính sách sản phẩm phù hợp , một chính sách giá hợp lí thôi chưa đủ mà doanh nghiệp còn phải xem xét nên đưa sản phẩm đó ra thị trường như thế nào ? Bằng hình thức phân phối nào? để cho ngưòi tiêu dùng dễ tiếp nhận sản phẩm nhất , phù hợp với tập tính tiêu dùng trên thị trường . Theo quan điểm của marketing , việc xây dựng một chính sách phân phối không chỉ dừng lại ở việc quyết định khối lượng hàng hoá sẽ được tiêu thụ thông qua sự hoạt động mua bán của các trung gian mà nó còn bao gồm cả việc tổ chức vận hành các mạng lưới trung gian đó để kết hợp nhịp nhàng hoạt động tiêu thụ hàng hoá phù hợp với từng biến động trên thị trường . Trong chính sách phân phối các doanh nghiệp còn phải xây dựng hệ thống các biện pháp , thủ thuật để đưa hàng hoá từ người sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng . Chính sách phân phối có vai trò vô cùng quan trọng trong chính sách marketing . Một chính sách phân phối hợp lí sẽ giúp cho hoạt động kinh doanh an toàn hơn , tăng cường khả năng liên kết trong kinh doanh , giảm sự cạnh tranh và làm cho quá trình lưu thông hàng hoá nhanh chóng và hiệu quả . *Chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh : Chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh có vai trò to lớn trong marketing . Nhờ cócác công cụ của chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh thúc đẩy nhanh việc chào hàng , bán hàng , thâm nhập thị trường làm tăng doanh thu , quay vòng vốn nhanh và góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh . Hoạt động xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh giúp cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trở lên thuận lợi và có hiệu quả hơn nhờ khối lượng hàng bán ra tăng lên , đồng thời giúp cho doanh nghiệp thậm nhập được thị trường mới , tăng thị phần trên thị trường , thu hút thêm nhiều khách hàng tiềm năngvà đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi nhuận hơn , từ đó giúp doanh nghiệp vững vàng và lớn mạnh hơn qua những thất bại và thành công trên thương trường . Hoạt động xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh không chỉ nhằm lôi cuốn sự chú ý, sự thích thú và tạo ra tâm trạng thoải mái cho người mua đối với sản phẩm mà còn nâng cao uy tín cũng như danh tiếng của doanh nghiệp . Điều đó sẽ giúp cho doanh nghiệp có được lợi thế cạnh tranh hơn hẳn so với các doanh nghiệp khác. Mục đích của chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh là truyền đạt thông tin về doanh nghiệp và sản phẩm đến người tiêu dùng để tác động lên họ . Muốn làm được điều đó nhà kinh doanh phải hiểu được quá trình lôi kéo khách hàng và tác động của các yếu tố môi trường lên quá trình đó . Mặt khác, nếu không có chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh thì doanh nghiệp không thể có được thông tin phản hồi từ phía người tiêu dùng đối với chất lượng, mẫu mã sản phẩm , các dịch vụ trước và sau khi bán hàng , giá cả , mạng lưới phân phối . .. . . Mà chính những thông tin này sẽ giúp cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển được đồng thời nâng cao được năng lực cạnh tranh. 2. Các yếu tố bên ngoài của doanh nghiệp : 2.1. Môi trường quốc tế : Thương mại quốc tế có liên quan nhiều tới các quốc gia trên thế giới,dovậy, môi trường kinh tế ,chính trị của thế giới có tác động rất lớn đối với khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp . Hiện nay, xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế đang diễn ra ngày càng cành mạnh mẽ ,từng khu vực thành lập nên khu vực mậu dịch tự do ,các công ty khác nhau trên thế giới cũng có sự sáp nhập nhằm mở rộng hoạt động và thị trường tiêu thụ . Trong xu thế đó, Việt Nam đã và đang gia nhập các tổ chức APEC ,AFTA , WTO .Việc gia nhập này , đã tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nước ta nói chung và ngành dệt may xuất khẩu có điều kiện phát triển . Bên cạnh những thuận lợi của quá trình hội nhập kinh tế đưa lại, thì quá trình hội nhập này cũng đặt ra những thách thức ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam . Nhiều nước trên thế giới một mặt vẫn tích cực tham gia hội nhập , nhưng vẫn tìm mọi biện pháp nhằm bảo hộ cho các ngành sản xuất của mình .Thông qua các biện pháp bảo hộ mậu dịch như : + Biện pháp áp dụng hạn ngạch nhập khẩu + Biện pháp áp dụng cấp giấy phép nhập khẩu . +áp dụng biện pháp quản lí ngoại hối . + Biện pháp thuế quan . Các biện pháp trên đã khiến cho cạnh tranh của hàng dệt may may trở nên ngày càng gay gắt trên thị trường . Bên cạnh đó ,hiện nay trên thế giới có nhiều nước đang phát triển tăng cường đầu tư sản xuất ,đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may do đặc điểm của ngành này là tạo ra được nhiều việc làm cho người lao động , yêu cầu kĩ năng không cao ,vốn đầu tư không lớn và có điều kiện mở rộng quan hệ quốc tế , vì vậy chính điều này đã tạo thêm áp lực cạnh tranh cho hàng dệt may của Việt nam . 2.2. Môi trường trong nước : Môi trường trong nước có tác động rất quan trọng đối với khả năng cạnh tranh của hàng hoá thông qua các chính sách vĩ mô của nhà nước .Trong đó :các công cụ , chính sách kinh tế đóng vai trò quan trọng . Mỗi quốc gia đều có các chính sách kinh tế phù hợp mục tiêu và điều kiện phát triển của họ .Các công cụ , chính sách kinh tế này ảnh hưởng trực tiếp tới mọi thành phần kinh tế , mọi tầng lớp xã hội. Mục tiêu phát triển kinh tế của một đất nước trong từng thời kì có khác nhau , nhưng nhìn chung các công cụ chính sách, kinh tế đều nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh của mình , bảo vệ thị trường nội địa , hạn chế sự cạnh tranh bất lợi từ bên ngoài , tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp các ngành sản xuất trong nước phát triển,tăng năng lực cạnh tranh , xâm nhập được vào thị trường thế giới. Hiện nay , bên cạnh duy trì tình hình chính trị ổn định ,tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước yên tâm đầu tư ,sản xuất kinh doanh .Chính phủ Việt nam đã và đang tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp . Các chính sách kinh tế đang được điều chỉnh cho hợp lí , thông thoáng hơn để phù hợp với tình hình thực tế sản xuất trong nước và quốc tế góp phần làm tăng hiệu quả và sức cạnh tranh cho hàng hoá . Bên cạnh đó ,chính phủ cũng đang nỗ lực cải cách thủ tục hành chính nhằm giúp cho các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong kinh doanh và giảm các chi phí thủ tục hành chính không cần thiết góp phần làm tăng năng lực cạnh tranh của hàng hoá, của doanh nghiệp . Tuy nhiên hiện nay , sự quan tâm đầu tư của nhà nước vào việc phát triển vùng nguyên liệu cho nghành dệt để phục vụ cho nghành may chưa thoả đáng . Ngành dệt hiện nay chưa đáp ứng được nguyên liệu cho ngành may dẫn tới ngành may hiện nay chủ yếu phải nhập vật tư ,phụ liệu từ nước ngoài dẫn tới việc giá thành sản phẩm cao ,sản xuất và thời gian giao hàng luôn bị động .Những điều này đã khiến cho hàng may mặc Việt nam giảm sức cạnh tranh . Chương II : Thực trạng về khả năng cạnh tranh hàng DệT may của Việt nam I/ Khái quát về tình hình sản xuất và tiêu thụ hàng DệT may : 1. Tình hình sản xuất của ngành 1.1.Năng lực sản xuất *Sản lượng : Bảng 1 : Sản lượng ngành dệt may Việt nam (1996-2002) Mặt hàng Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Sợi dệt toàn bộ 1000tấn 56,9 61,9 64,4 72,5 78 83,4 89,2 Vải các loại Triệu m2 139 140,3 158 164 72,5 94,6 105 Sản phẩm dệt kim Triệu SP 20 20,2 22,1 21,3 24 26,2 30,1 Sản phẩm may Triệu SP 35,1 38,1 40,3 45,1 53 57,2 59,6 Nguồn : Tổng cục thống kê, Bộ công nghiệp Nếu xem xét giá trị sản lượng của ngành công nghiệp dệt may chia theo ngành dệt và ngành may,thì ta thấy rằng công nghiệp dệt có tốc độ tăng chỉ bằng một nửa tốc độ tăng chung trong khi đó công nghiệp may có tốc độ tăng rất nhanh , gấp đôi tốc độ tăng của toàn ngành và gấp bốn lần tốc độ tăng của ngành dệt . Điêù này cho thấy ngành may vẫn phải chủ yếu nhập khẩu nguyên liệu phục vụ cho quá trình sản xuất của mình . Đối với ngành dệt ,theo số liệu thống kê của Tổng công ty dệt may Việt nam doanh nghiệp nhà nước chiếm khoảng60% tổng sản lượng của ngành trong khi đó ,doanh nghiệp tư nhân chiếm khoảng24% và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 16%. Đối với ngành may ,doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm một tỉ lệ tương ứng là 15% ,trong đó doanh nghiệp tư nhân có vị trí quan trọng hơn ,chiếm 49% và các doanh nghiệp nhà nước chiếm 36% . Tình trạng khu vực tư nhân chiếm tỉ trọng quá nhỏ bé trong ngành dệt may Việt nam cần được xem như là một hiện tượng không bình thưòng bởi vì phần lớn các nước có nền kinh tế thị trường ,khu vực tư nhân thường chi phối ngành dệt may, do vốn đầu tư vào ngành may không lớn , trình độ kĩ thuật và công nghệ không phức tạp . Điều này cho thấy các doanh nghiệp tư nhân nước ta có tiềm lực tài chính yếu . Theo số liệu của Tổng công ty dệt may Việt nam , tổng năng lực sản xuất của ngành dệt may Việt nam hiện nay được đánh giá như sau : Bảng 2 : Năng lực sản xuất một số sản phẩm dệt, may Việt nam (1996-2002) Chỉ tiêu Đơn vị tính Doanh nghiệp Trong nuớc Doanh nghiệp có vốn ĐTNN Cộng Sợi dệt Tấn 72.000 90.000 162.000 Vải lụa Triệu m2 380 420 800 Dệt kim Triệu sản phẩm 31 8 39 Hàng may sẵn Triệu sản phẩm 280 120 400 Nguồn : Tổng công ty dệt may Việt Nam Các cơ sở dệt may tập trung chủ yếu ở hai khu vực đồng bằng sông Cửu Long và Đông nam bộ -chiếm khoảng 50%-60% sản lượng , vùng đồng bằng sông Hồng và các tỉnh phụ cận chiếm 30%-40% sản lượng . Vùng duyên hải miền trung chỉ chiếm khoảng 10% sản lượng của toàn ngành dệt may . * Năng suất : Lao động trong ngành dệt may Việt nam tạo ra giá trị thấp hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực . Ngoài lí do công cụ sản xuất còn lạc hậu ,còn có lí do khác là trình độ tay nghề chưa cao . Năng suất trong ngành dệt may Việt nam được tính bằng giá trị gia tăng theo lao động là rất thấp trong đâù những năm 1990 so với các nước Hàn quốc, Đài Loan , Singapore nhưng trong những năm gần đây giá trị gia tăng đã đuổi kịp Trung Quốc và có xu hướng tăng lên đáng kể . Chỉ số về chi phí cho một lao động có thể được xem như là đại diện cho năng lực cạnh tranh quốc tế về chi phí . Chỉ số này của Việt nam cao hơn so với Trung Quốc , Indonesia , Malaixia và Hàn Quốc ,nó chỉ ra rằng ngành dệt may việt nam có năng lực cạnh tranh thấp hơn so với các nước trên . Bảng 3 : Giá Trị Tăng theo lao động Đơn vị : USD/năm/lao động Năm Việt nam Trung Quốc Indonesia Malaixia Hàn Quốc Đài loan Xingapo 1995 1.380 1.490 3.900 9.890 37.870 20.300 16.230 1996 1.720 1.490 4.000 10.450 37.210 22.500 16.270 1997 1.720 1.650 3.700 10.700 33.160 22.900 16.190 1998 1.770 1.760 1.100 7.980 20.510 21.000 15.560 1999 1.787 1.820 2.400 9.500 28.000 21.600 16.000 2000 1.950 1.850 3.600 10.340 35.210 23.200 16.200 2001 1.940 1.900 3.800 10.500 35.500 23.570 16.950 Nguồn : Báo cáo của UNIDO và DTS tháng 9/2002 * Thiết bị công nghệ : + Thiết bị : Theo số liệu của Cục xúc tiến thưong mại -năm 2002 có được cho thấy tình trạng máy móc thiết bị của ngành dệt may rất lạc hậu , đặc biệt là ngành dệt . Trong số các xí nghiệp quốc doanh , ước tính chỉ có khoảng 20% máy móc là đạt chất lượng sản xuất ,45% cần được sửa chữa và 35% còn lại cần được thay thế . Trong số các máy dệt của cả nước thì phần lớn là máy dệt thoi khổ hẹp , chỉ có thể sản xuất được loại vải khổ hẹp chất lượng thấp . Khoảng một nửa số máy móc thiết bị đã được sử dụng ít nhất là 25 năm . Hiệu quả là nhiều doanh nghiệp chỉ hoạt động dưới 50% công suất. Trong lĩnh vực kéo sợi, nhà nước sở hữu là chính, khu vực này chỉ sản xuất được loại sợi chất lượng thấp .Ngược lại với tình trạng lạc hậu của ngành dệt,ngành may lại có thiết bị hiện đại hơn và đây là một ngành thu hút nhiều lao động .Điều này cho thấy ngành may mặc có mức độ nhập khẩu nguyên phụ liệu cao .Tính đến năm 2002 , theo số liệu của Tông công ty dệt may Việt nam , ngành dệt có 54200 máy dệt , trong đó các xí nghiệp quốc doanh trung ương quản lí 13000 máy , xí nghiệp quốc doanh 5200 máy , các hợp tác xã và tư nhân 36000 máy . Các thiết bị nhuộm hoàn tất có thể nhuộm 450 triệu m/năm với các loại vải từ các nguyên liệu dệt khác nhau và các công nghệ nhuộm cũng như công nghệ in hoa khác nhau . Các thiết bị dệt kim có thể sản xuất được 20.900 tấn sản phẩm năm ,trong đó 19.500 tấn dệt kim tròn/năm và 1.400 tấn dệt kim dọc/năm . Tuy nhiên, phần lớn các thiết bị ngành dệt hầu hết đã rất cũ và thiếu đồng bộ giữa các khâu . Thiết bị dệt còn quá ít so với các thiết bị kéo sợi, phần lớn lại là các nhà máy dệt thoi khổ hẹp, chủng loại nghèo nàn, vải làm ra thường không đáp ứng được các nhu cầu của thị trường . . . . . Về thiết bị kéo sợi cũng có hơn 60% là cọc sợi chải thô, chỉ số chất lượng trung bình thấp ,chỉ có khoảng 25-30% là cọc sợi chải kĩ ,chỉ số cao dùng cho dệt kim và vải cao cấp . Dây chuyền nhuộm hoàn tất cũng đã lạc hậu ,phần lớn là thiết bị khổ hẹp ,tiêu hao nhiều hoá chất ,thuốc nhộm dẫn tới chi phí cao điều này đã khiến cho năng lực sản xuất hàng dệt may của Việt Nam bị suy giảm . Trong khi đó, trang thiết bị ngành may đã tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, nhất là về tính năng công dụng, từ máy đạp chân C22 của Liên xô cũ, máy 8322 của Đức đến JUKI của Nhật và FAP của Cộng hoà Liên Bang Đức. Số máy chuyên dùng cũng tăng lên đáng kể đáp ứng với yêu cầu của sản xuất và chủng loại mặt hàng như máy vắt 5 chỉ ,máy thùa đính ,máy trần pasant ,máy cạp 4 kim ,bàn là treo ,bàn là hơi điện có đệm hút chân không...Trong từng công đoạn sản xuất may cũng được trang bị thêm máy móc với tính năng công dụng mới nhằm tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm trên mỗi công đoạn của chu trình sản xuất . + Công nghệ : Trong những năm gần đây đã có một số dây chuyền kéo sợi mới, sử dụng công nghệ bông chải liên hợp tự động cao ,các máy ghép tự động khống chế chất lượng ,ứng dụng các kĩ thuật vi mạch điện tử vào hệ thống điều khiển tự động và kiểm tra chất lượng sợi , trong khâu dệt vải bông, nhờ sử dụng các thiết bị xe ,hấp ,giảm trọng lượng ...Nhiều sản phẩm giả tơ ,giả len,sản phẩm từ sợi microfiber đã bắt đầu được sản xuất và tạo uy tín trên thị trường . Trong khâu dệt kim, do phàn lớn máy móc được nhập chủ yếu từ Hàn quốc ,Nhật bản , Đài loan, Đức... thuộc thế hệ mới ,nhiều chủng loại đã được trang bị hệ thống điều khiển tự động đã giúp cho đạt năng suất chất lượng cao, tính năng sử dụng rộng song công nghệ và đào tạo chưa được nâng tương xứng nên mặt hàng còn đơn điệu , chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trưòng. Trong lĩnh vực may ,công nghệ đã có những chuyển biến khá kịp thời , các dây chuyền may được bố trí vừa và nhỏ (25-26 máy),sử dụng khoảng 34-38 lao động cơ động nhanh và có nhân viên kiểm tra thường xuyên ,có khả năng chấn chỉnh sai sót ngay cũng như thay đổi mã hàng nhanh . Khâu hoàn tất được trang bị các thiết bị là hết diện tích ,đóng túi ,súng bắn nhãn , máy dò kim... Công nghệ tin học cũng đã được đưa vào một số khâu thiết kế ở một số công ty lớn . Các doanh nghiệp dệt may Việt nam luôn cố gắng hoàn thiện công nghệ ,kĩ thuật ,nâng cao mức độ chấp nhận và độ tin cậy của khách hàng bằng cách đã được chứng nhận chất lượng bởi các cơ quan ,tổ chức giám định chất lượng có uy tín . các doanh nghiệp đã xây dựng và được cấp chứng chỉ ISO 9002 là : Công ty dệt may Hà Nội , Công ty May 10 , Công ty May thăng Long , Cty Dệt Việt thắng , Cty may Việt tiến , Công ty May Đức Giang , Phân viện kinh tế Kĩ Thuật Dệt -May TP Hồ Chí Minh . Các đơn vị đang tiến hành xây dựng hệ thống văn bản để đựoc cấp chứng chỉ là : Dệt Nam Định , Cty may Hưng yên , Cty May Nhà Bè. . . . .. 1.2. Tình hình sản xuất của ngành Trong những năm qua , tình hình sản xuất của ngành dệt may đặc biệt là may công nghiệp phục vụ xuất khẩu đã có những tiến bộ đáng kể .Sản lượng sợi dệt và sản lượng hàng may mặc có tốc độ tăng nhanh ,trong khi đó, mặc dù có tiềm năng tiêu thụ nội địa cũng như xuất khẩu cao ,sản xuất các sản phẩm dệt kim không mấy phát triển do không kịp thời đổi mới về thiết bị và công nghệ cho phù hợp với các yêu cầu đa dạng khác nhau và để nâng cao chất lượng sản phẩm . Từ sau năm 1993 ,sau khi ngành dệt may chuyển hướng và mở rộng thị trường xuất khẩu ,giá trị sản lượng của ngành may tăng vọt so với những năm trước đó . Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng sản lượng của ngành dệt thấp đã làm cho giá trị tổng sản lượng ngành dệt may thấp hơn giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp. Trong lĩnh vực dệt , các doanh nghiệp quốc doanh vẫn chiếm vị trí quan trọng với năng lực sản xuất tập trung trong khu vực này và tốc độ tăng trưởng giá trị tổng sản lượng khá ổn định . Tuy nhiên trong lĩnh vực may, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tỏ ra ngày cành chiếm ưu thế với tốc độ tăng trưởng giá trị tổng sản lượng cao hơn hẳn và chiếm tỉ trọng ngày càng lớn, phản ánh một xu thế trong ngành dệt may là phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc mọi thành phần kinh tế. Vì vậy, chủ trương nới lỏng quản lí đã cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu trực tiếp và gia công xuất khẩu có tác dụng to lớn trong việc nâng cao khả năng xuất khẩu của ngành dệt may. Trong những năm gần đây, sản phẩm dệt may đã dần được đa dạng hoá. Đầu tiên là khâu sản xuất sợi : tỷ trọng các mặt hàng Polyester pha bông với nhiều tỉ lệ khác nhau 50/50,65/35,83/17 tăng nhanh ,các loại sợi 100% polyester cũng bắt đầu được sản xuất ,các laọi sản phẩm cotton/visco, cotton/acrylic,wool0/arcylic đã bắt đầu được đưa ra thị trường . Về khâu dệt vải: nhiều mặt hàng dệt thoi mới ,chất lượng cao bắt đầu được sản xuất . Đối với mặt hàng 100% sợi bông , các mặt hàng sợi đơn chải kĩ chỉ số cao phục vụ cho xuất khẩu , mặt hàng sợi bông dày được tăng cường công nghệ làm bóng ,phòng co cơ học đã được xuất khẩu sang EU và Nhật bản . Với mặt hàng sợi pha, mặt hàng katê đơn màu sợi 76,76 đơn hay sợi dọc 76/2 , các loại vải dày như gabadin ,kaki,simili ,hàng tissu pha len, pha cotton và petex,pe/co/petex tuy sản lượng chưa cao những đã bắt đầu được đưa vào sản xuất rộng rãi ở nhiều doanh nghiệp . Đối với mặt hàng 100% sợi tổng hợp ,nhờ được trang bị thêm các hệ thống xe săn sợi với tốc độ săn cao , thiết bị comfit , thiết bị giảm trọng lượng đã tạo ra nhiều mặt hàng tơ tằm ,giả len thích hợp với khí hậu nhiệt đới , bước đầu giành được uy tín trong và ngoài nước . Đối với mặt hàng dệt kim ,75-80% sản lượng hàng dệt kim từ sợi Pe/Co được xuất khẩu, tuy nhiên chủ yếu là mặt hàng thuộc nhóm giá thấp và trung bình 2,5-3,5USD/sản phẩm ,tỷ trọng các mặt hàng chất lượng cao còn thấp , chủ yếu vẫn phải nhập khẩu . Cơ cấu sản phẩm may công nghiệp đã có những thay đổi đáng kể ,từ chỗ chỉ may được những loại quần áo bảo hộ lao động , quần áo thường ở nhà, đồng phục học sinh đến nay ngành may đã có những sản phẩm chất lượng cao từng bước đáp ứng được các yêu cầu của nhà nhập khẩu khó tính về quần áo thể thao ,quần áo jean . Bên cạnh đó,do thiết bị chuyên dùng hiện đại còn ít, phải dùng nhiều thao tác thủ công nên năng suất của ngành may Việt nam khá thấp so với các nước. Thêm vào đó,hệ số sử dụng năng lực thiết bị trong ngành dệt may rất thấp, chỉ đạt 40-60% năng lực thiết bị hiện có . Do năng suất thấp đã góp phần khiến cho năng lực cạnh tranh của hàng dệt may không cao. 2. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Trong xu thế chung của mậu dịch hàng dệt may thế giới , Việt nam chủ yếu là xuất khẩu hàng dệt may và nhập khẩu phần lớn nguyên phụ liệu để sản xuất hàng dệt may xuất khẩu . 2.1. Kim ngạch xuất khẩu : Ngành dệt may của Việt nam đã có những thay đổi đáng kể theo hướng sản xuất hàng xuất khẩu kể từ khi Hiệp định về hợp tác sản xuất và xuất khẩu dệt may giữa chính phủ Việt nam và Liên xô cũ được kí kết ngày 19/5/1987 , nhưng chủ yếu vẫn là xuất khẩu sang các nước trong khối hội đồng tương trợ kinh tế . Vì vậy ,trong những năm 1990 -1991 do tác động của những thay đổi về chính trị ,xã hội ở các nước này ,xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam bị suy giảm nghiêm trọng . Tuy nhiên ngành dệt may Việt nam đã có những nỗ lực vượt bậc , vượt qua giai đoạn đặc biệt khó khăn này để bước vào giai đoạn phát triển mới từ năm 1992 , từng bước mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước trong khu vực và trên thế giới . Từ sau hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt nam và EU kí ngày 15/12/1992 có hiệu lực từ ngày 1/1/1993 ,dệt may trở thành nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng thứ hai sau dầu thô trong giai đoạn hiện nay. Với tốc độ tăng trưởng bình quân là 43,5% /năm trong những năm 1991-1997 so với tốc độ tăng trưởng bình quân 27,5% của tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, kim ngạch xuất khẩu dệt may (XKDM) chiếm một tỉ trọng ngày cành lớn trong tổng kim ngạch xuất khâủ . Bảng 4 : Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt nam Năm Xuất khẩu dệt may Xuất khẩu cả nước Kim ngạch (triệu USD) Tốc độ tăng trưởng so với năm trước(%) Kim ngạch (triệu USD) Tốc độ tăng trưởng so với năm trước(%) 1991 158 - 2086 - 1992 221 39 2580 23 1993 335 51 2985 15 1994 554 65 3893 30 1995 847 52 5449 40 1996 1150 35 7256 33 1997 1502 30 9185 26 1998 1450 -3.5 9361 02 1999 1747 20 11541 23 2000 1892 08 14454 25 2001 1975 04 15027 04 2002 2700 36 16210 07 Nguồn : Bộ Kế hoạch và đầu tư So với tăng trưởng xuất khẩu cả nước thì xuất khẩu hàng dệt may có tốc độ tăng trưởng cao hơn rất nhiều , chứng tỏ dệt may là một ngành xuất khẩu rất quan trọng trong cơ cấu xuất khẩu theo ngành của Việt nam trong giai đoạn hiện nay . Tốc độ tăng trưởng của dệt may liên tục tăng trong vòng một thập kỉ qua, trừ năm 1998 tốc độ tăng trưởng âm so với năm trước do ảnh hưởng cuả cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực. Tuy nhiên ,sau đó tốc độ tăng trưởng được phục hồi và tăng mạnh .Năm 2002 đã đạt mức tăng trưởng về kim ngạch vượt bậc là 2700 triệu USD . Tuy nhiên ,hiện hàng dệt may của Việt nam chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới . Nguyên nhân chủ yếu là do trang thiết bị lạc hậu , chủng loại mặt hàng còn nghèo nàn ,đặc biệt là yếu kém trong thu thập và xử lí thông tin mặt hàng ,bạn hàng . Hàng dệt Việt nam cũng không đáp ứng được nhu cầu nguyên liệu cho may . Việt nam hiện nay chủ yếu phải nhập vải để may gia công cũng như may xuất khẩu . Chỉ tính riêng giá trị vải nhập để sản xuất gia công hàng may mặc đã chiếm tới 50% kim nghạch xuất khẩu hàng dệt may chưa kể đến các loại phụ liệu may khác mà Việt nam cũng phải nhập khẩu phần lớn từ các nước thuê gia công. Việc gia công cho nước ngoài không những có giá trị gia tăng thấp mà còn đặt ngành dệt may vào thế không ổn định, phụ thuộc vào giá gia công , bị động vào nguồn cung cấp nguyên liệu cũng như vào các đơn hàng gia công Ta nhận thấy kim ngạch xuất khẩu dệt may tăng đều trong thời gia vừa qua ,trừ năm 1998 ,kim nghạch xuất khẩu dệt may có giảm nhẹ , nhưng theo thống kê thì dệt may lại là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất trong năm 1998 ,tại sao lại có hiện tượng này? . Nguyên nhân chính khiến kim ngạch xuất khẩu dệt may giảm là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực . Năm 1997, kim ngạch chỉ đạt 1,502 tỉ USD so với dự tính là 1,6 đến 1,7 tỉ USD . Tình hình còn tồi tệ hơn khi bước sang năm 1998,kim ngạch thậm chí đã giảm nhẹ đạt 1,45 tỉ USD ,giảm 3,5% so với năm trước . Có thể giải thích suy giảm đó bằng sự ảnh hưởng cuả cuộc khủng hoảng tài chính khu vực : thứ nhất bởi vì đồng nội tệ của nhiều nước trong khu vực mất giá khiến Việt nam mất lợi thế về giá nhân công ,các khách hàng thuê gia công chuyển hợp đồng sang các nước này để hưởng đơn giá thấp hơn . Thứ hai , do các doanh nghiệp Việt nam đã phải giảm giá gia công cũng như giá xuất khẩu từ 20% tới 30% để cạnh tranh nên hiệu quả thực tế giảm mạnh . Thứ ba : như ta đã biết 75-80% nguyên phụ liệu hàng dệt may của Việt nam là nhập khẩu ,nên những bất ổn của nền kinh tế đã làm nguồn cung cấp nguyên liệu từ các nước trong khu vực như Hong Kong , Đài Loan rất không ổn định . Trị giá nhập khẩu nguyên liệu lại cao hơn do sự biến động của tỉ giá giữa đồng Việt nam và đồng USD . Cuối cùng,do nhập khẩu hàng dệt may của các nước Nhật Bản, Hàn Quốc ,Đài Loan-là những thị trường xuất khẩu không hạn ngạch của Việt nam giảm mạnh . Trong thời gian qua , ngành dệt may Việt nam tuy có nhiều bước thăng trầm nhưng đã khẳng định được vị trí quan trọng của mình .Trong nhiều năm liền ,dệt may luôn là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao thứ hai , mang lại nguồn ngoại tệ không nhỏ ,cũng như mang lại công ăn việc làm. . . . . . cho nền kinh tế quốc dân . Ta hãy đi sâu phân tích để nắm rõ hơn về tình hình xuất khẩu của ngành hàng không chỉ có ý nghĩa trong hiện tại mà còn trong cả tương lai sau sau này. 2.2. Thị trường xuất khẩu Tiêu thụ sản phẩm là vấn đề cốt lõi , có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp . Nhưng để tạo lập được thị trường tiêu thụ thì cần phải nghiên cứu và dự báo được nhu cầu của thị trường ,từ đó lựa chọn và tìm ra các biện pháp thích hợp để điều khiển các dòng hàng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng . Ngày nay, các nhà sản xuất phải tìm hiểu và nắm bắt nhu cầu của thị trường để sản xuất ra những gì mà thị trường đòi hỏi . Với ý nghĩa đó , thị trường có vai trò quyết định đối với sản xuất kinh doanh của ngành dệt may . Trong những năm vừa qua , kim nghạch xuất khẩu nghành Dệt may liên tục tăng . Tính từ năm 1997 đến năm 2002 bình quân mỗi năm Việt nam xuất khẩu trên 1,87 tỉ USD hàng dệt may , trong đó thị trường EU chiếm 32% kim nghạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam, sau đó đến Nhật chiếm 23% , ASEAN 18% , Mĩ chiếm 10% và các khu vực khác chiếm 17% . Bảng 5 : Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào các thị trường nước ngoài Danh mục Đơn vị tính 1997 1998 1999 2000 2001 2002 1.Tổng kim ngạch XK Tr.USD 1503 1450 1747 1892 1975.4 2700 2.Thị trường XK chủ yếu EU Tr.USD 450 620 700 726 735 705 Nhật Bản Tr.USD 325 32 417 430 455 481 ASEAN Tr.USD 70 42 68 70 75 78 Mĩ Tr.USD 23 27 70 91 315 944 Nguồn : Tổng Công ty dệt may Việt nam *Thị trường Châu Âu ( EU ) : Châu Âu được mênh danh là lục địa già nhưng lại là một khu vực thị trường rộng lớn , là nơi cung cấp các trang thiết bị , công nghệ hiện đại và đây cũng là một trung tâm tài chính-kinh tế lớn của thế giới.Với dân số trên 360 triệu người và có GDP 9000 tỉ USD , EU thực sự là một thị trường có đầy tiềm năng , có mức tiêu dùng hàng may mặc khá cao so với thế giới ( chỉ sau Mĩ và Nhật Bản ) 17kgs/người / năm . Giá cả , chất lượng, mẫu mã hàng may mặc xuất khẩu sang EU được đánh giá là khá tốt , chủng loại mặt hàng thì phong phú đa dạng . Do vậy giá trị xuất khẩu tăng đáng kể trong những năm gần đây , năm 1998 đạt 620 triệu USD , năm 1999 đạt 700 triệu USD , năm 2000 đạt 726 triệu USD , năm 2001 đạt 735 triệu USD , năm 2002 đạt 705 triệu USD . Hiện EU là một trong những thị trường xuất khẩu hàng dệt may chủ yếu của Việt nam . Sau hơn 10 năm thâm nhập thị trường EU , hàng dệt may của Việt nam có một chỗ đứng khá vững chắc . Nếu như năm 1993 , muốn xuất khẩu sang EU , Việt nam phải xin hạn ngạch cho 151 mặt hàng nhưng đến nay số mặt hàng quản lí bằng hạn ngạch chỉ còn 29 mặt hàng . Đây là một thuận lợi lớn cho các doanh nghiệp dệt may của Việt nam khi thâm nhập thị trường này . Mặc dù biết rằng thị trường EU là một thị trường khó tính , luôn luôn đòi hỏi chất lượng cao , mẫu mã đổi mới liên tục , số lượng đơn hàng chia nhỏ . Hơn nữa hàng may mặc của Việt nam còn phải chịu sự cạnh tranh từ các nước Châu á và Châu Mĩ khác . Hàng năm, EU nhập khẩu 0,63 tỉ USD hàng dệt may các loại của Việt nam , trong đó Đức là thị trường lớn nhất chiếm 36,1% , tiếp theo là Pháp 12,15% , Hà Lan 9,41% , Thuỵ Sĩ 7,46% , Anh 7,06% còn lại là các nước khác . Điều này , cho thấy tỉ trọng hàng dệt may của Việt nam xuất khẩu sang EU còn quá ít . Mặc dù phải thừa nhận rằng hiệp định buôn bán hàng dệt may giai đoạn thứ hai 1998-2000 giữa Việt nam và EU ( kí kết vào ngày 17.11.1997 ) đã tạo ra một bước tiến trong xuất khẩu hàng dệt may của nước ta. Do vậy , điều quan trọng để thâm nhập và tăng cường xuất khẩu vào thị trường này là phải không ngừng cải tiến chất lượng hàng hoá , mẫu mã hấp dẫn đồng thời hạ giá thành sản phẩm ,đảm bảo thời gian giao hàng thì mới có thể cạnh tranh được với hàng dệt maycủa các nước khác . Hiện EU dành cho hàng dệt may Việt nam được hưởng qui chế tối huệ quốc ( MFN) nhưng phải chịu hạn nghạch . Đây là một thuận lợi lớn cho hàng dệt may Việt nam khi vào thị trường này vì chỉ bị đánh thuế thấp , nâng cao được khả năng cạnh tranh về giá . Tuy nhiên , việc áp dụng hạn nghạch cũng có mặt trái của nó . Đó là cản trở số lượng hàng dệt may của Việt nam vào thị trường này . Nhiều chủng loại mặt hàng đã có số lượng xuất vượt quá số lượng hạn nghạch mà EU dành cho Việt nam . Cụ thể trong năm 2002 tình hình thực hiện hạn nghạch xuất khẩu hàng may mặc sang EU được thể hiện qua bảng số liệu thống kê sau : Bảng 6 :Tình hình thực hiện hạn nghạch xuất khẩu hàng Dệt may sang EU năm 2002 Chủng loại hạn ngạch (cat) Đơn vị Tổng hạn nghạch Số lượng hạn nghạch đã thực hiện ( đến 23.01.03) Số lượng Tỉ lệ % 4 Chiếc 10.397.000 12.075.080 116,14 5 Chiếc 3.448.000 4.163.318 120,75 6 Chiếc 5.305.000 5. 989.724 112,91 7 Chiếc 2.917.000 3.361.579 115.24 8 Chiếc 13.792.000 14.193.227 102.91 15 Chiếc 524.000 572.604 109.28 18 Chiếc 939.000 983.090 104.70 29 Chiếc 371.000 389.585 105.01 31 Chiếc 4.244.000 4.613.293 108.70 41 Chiếc 773.000 773.378 100.05 68 Tấn 456.000 481.920 105.68 78 Tấn 1.273.000 1.398.184 109.83 83 Tấn 424.000 451.398 106.46 97 Tấn 216.000 229.075 106.05 Nguồn : Tạp chí Thông tin thương mại Bên cạnh đó , tính đến ngày 23.01.2003 , đã có tới 15 trong tổng số 29 chủng loại hàng dệt may bị áp dụng hạn nghạch đã được t._.ến lược phát triển và các giải pháp . I. Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt nam đến 2010 Triển vọng của ngành dệt may : Trong kì kế hoach 10 năm 2001-2010,có thể dự báo một số thuận lợi cơ bản để giúp cho ngành dệt may Việt nam thêm sức cạnh tranh trên thị trường thế giới ,như sau : Thứ nhất : sự ổn định về chính trị xã hội , cũng như sự khuyến khích phát triển được thể hiện trong những qui định của pháp luật là nền tảng vững chắc tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp . Thứ hai: trong bối cảnh nền kinh tế đang trên đà hồi phục trở lại , ngành dệt may sẽ có nhiều triển vọng mở rộng qui mô và thu hút được đầu tư trong nước cũng như nước ngoài . Trong thời gian qua , Việt nam đã thiết lập quan hệ thương mại với khoảng 160 quốc gia và vùng lãnh thổ, mở rộng thị trường xuất khẩu .Với đường lối chính sách đối ngoại đúng đắn ,Việt nam đã đạt được những cải thiện đáng kể trong quan hệ thương mại nói chung và quan hệ thưong mại dệt may nói riêng . Chính điều này đã tạo điều kiện cho ngành dệt may Việt nam hoà nhập và phát triển cùng ngành dệt may thế giới . Thứ ba: sau những năm cọ sát với thị trường thế giới ,các doanh nghiệp Việt nam đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm, sản phẩm dệt may của ta đang dần được ưa chuộng ngay tại các thị trường khó tính như EU ,Mỹ , Nhật bản ... còn thị trường truyền thống như SNG , Đông Âu ,đã dần khôi phục lại. Từng bước tiếp cận thị trường Mĩ tạo chỗ đứng chân để có thể khai thác qui mô lớn khi có đủ tiêu chuẩn . Thứ tư : trong tổ chức thương mại thế giới WTO ,Mĩ là một nhà đàm phán lớn đối với tất cả các quốc gia xin gia nhập. Cho nên việc kí hiệp định thương mại Việt-Mĩ có thể được coi là thành công lớn nhất trong quá trình đàm phán song phương gia nhập WTO của Việt nam . Mĩ là một thị trường đầy tiềm năng đối với ngành dệt may của Việt nam , hai bên đã kí tắt hiêp định dệt May vào tháng 5-2003 , điều này đã và sẽ giúp cho ngành dệt may của Việt nam thêm nhiều cơ hội tăng khả năng cạnh tranh , đẩy mạnh xuất khẩu dệt may thâm nhập sâu hơn vào thị trường này. Chiến lược phát triển của ngành dệt may đến năm 2010 , Quyết định số 55/2001/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ ra ngày 23tháng 4 năm 2001 phê duyệt chiến lược và một số chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lược phát triển ngành dệt may Việt nam đến năm 2010 ,có những nội dung chính sau đây: Mục tiêu: Phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước, tạo nhiều việc làm cho xã hội,nâng cao khả năng cạnh tranh ,hội nhập kinh tế vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. 2.1. Chiến lược chung : * Đối với ngành dệt : gồm có sản xuất nguyên liệu dệt ,sợi ,dệt,in nhuộm hoàn tất . -Kinh tế nhà nước làm nòng cốt,giữ vai trò chủ đạo,khuyến khích các thành phần kinh tế ,kể cả đầu tư trực tiếp của nước ngoài tham gia phát triển lĩnh vực này . -Đầu tư phát triển phải gắn với bảo vệ môi trường ,qui hoạch xây dựng các cụm công nghiệp sợi , dệt, in nhộm hoàn tất ở xa các trung tâm đô thị lớn -Tập trung đầu tư tranh thiết bị hiện đại ,công nghệ cao ,kĩ thuật tiên tiến ,trình độ chuyên môn hoá cao . Chú trọng công tác thiết kế các sản phẩm dệt mới ,nhằm từng bước củng cố vững chắc uy tín nhãn mác hàng dệt Việt nam trên thị trường quốc tế . Tổ chức lại hệ thống quản lí chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ,tạo bước nhảy vọt về chất lượng ,tăng nhanh sản lượng các sản phẩm dệt nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước . * Đối với ngành may : -Đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá những doanh nghiệp may mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn . Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển ngành may , nhất là ở các vùng đông dân cư , nhiều lao động. -Đẩy mạnh công tác phát triển các vùng trồng bông ,dâu tằm ,các loại cây có xơ ,tơ nhận tạo ,các loại nguyên liệu ,phụ liệu ,hoá chất , thuốc nhuộm cung cấp cho ngành dệt may nhằm tiến tới tự túc phần lớn nguyên liệu,vật liệu và phụ liệu thay thế nhập khẩu . -Khuyến khích mọi hình thức đầu tư, kể cả đầu tư nước ngoài ,để phát triển cơ khí dệt may , tiến tới cung cấp phụ tùng , lắp ráp và chế tạo thiết bị dệt may trong nước . . Một số chỉ tiêu cụ thể : * Sản xuất : -Đến năm 2005,sản phẩm chủ yếu đạt : Bông xơ 30.000 tấn , xơ sợi tổng hợp 60.000 tấn , sợi các loại 150.000 tấn ,vải lụa thành phẩm 800 triệu mét vuông, dệt kim 300 triệu sản phẩm , may mặc 780 triệu sản phẩm . -Đến năm 2010 , sản phẩm chủ yếu đạt : Bông xơ 80.000 tấn , xơ sợi tổng hợp 120.000 tấn , sợi các loại 300.000 tấn , vải lụa thành phẩm 1.400 triệu mét vuông , dệt kim 500 triệu sản phẩm , may mặc 1.500 triệu sản phẩm * Kim ngạch xuất khẩu : Đến năm 2005 : 4000 dến 5000 triệu đô la Mĩ Đến năm 2010 : 8000 đến 9000 triệu đô la Mĩ *Sử dụng lao động : Đến năm 2005 : Thu hút 2,5 đén 3 triệu lao động Đến năm 2010 : thu hút 4,0 đến 4,5 triệu lao động *Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu nội địa trên sản phẩm dệt may xuất khẩu : Đến năm 2005 : Trên 50% Đến năm 2010 : Trên 75% *Vốn đầu tư phát triển : Tổng vốn đàu tư phát triển ngành dệt may Việt nam giai đoạn 2001-2005 khoảng 35.000 tỉ đồng trong đó Tổng công ty Dệt may Việt nam khoảng 12.500 tỉ đồng . Tổng vốn đầu tư phát triển ngành dệt may Việt nam giai đoạn 2006-2010 khoảng 30.000 tỉ đồng ,trong đó Tổng công ty Dệt may Việt nam khoảng 9500 tỉ đồng . Tổng vốn đầu tư phát triển vùng nguyên liệu trồng bông đến năm 2010 khoảng 1500 tỉ đồng . II. Một số giải pháp góp phần tăng khả năng cạnh tranh hàng dệt may của Việt Nam 1. Các chính sách ,giải pháp vĩ mô từ phía nhà nước : Chính sách về đầu tư phát triển cho ngành dệt may : Hiện nay nhu cầu nguyên phụ liệu trong nuớc là rất lớn , trong khi đó nghành dệt chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ về nhu cầu nguyên phụ liệu của nghành may , phần còn lại phải nhập từ nước ngoài . Điều này góp phần giảm sức cạnh tranh của ngành may do giá nhập khẩu nguyên phụ liệu cao ,thưòng bị động trong sản xuất kinh doanh do vật tư phải nhập khẩu . Trong khi đó , ngành dệt là ngành đòi hỏi nguồn vốn rất lớn , khả năng thu hồi vốn chậm nên các doanh nghiệp rất ngại đầu tư vào lĩnh vực này , do đó nhà nước cần có chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào ngành dệt dưới mọi hình thức . Hình thức được sử dụng trước đây vẫn là liên doanh và 100% vốn nước ngoài . Thành lập một qũi đầu tư riêng cho ngành dệt, quĩ này sẽ được dùng để hiện đại hoá và xây mới các nhà máy dệt , cũng như trang bị đồng bộ các thiết bị máy móc hiện đại ; để thực hiện các khoá huấn luyện đào tạo thêm cho cán bộ công nhân ngành dệt ; để mua các các dây chuyền sản xuất đã được sử dụng và thành công ở các nước tiên tiến trên thế giới.. có chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp may có tỉ trọng nội địa hoá cao , sử dụng nguyên vật liệu trong nước . Thu hút sự trợ giúp của các tổ chức phi chính phủ , các tổ chức môi trường thế giơí cho sản phẩm xanh và sạch , với mục đích dần cải tiến công nghệ dệt nhuộm của Việt nam phù hợp với các qui định của ISO9000 và ISO 14000 .Bởi lẽ , những điều kiện rất khắt khe về bảo vệ môi trường sẽ được đặt ra khi hàng dệt của Việt nam xâm nhập vào thị trường khó tính như Mĩ , EU . . . .. . . Với ngành may , hiện đang có quan điểm cho rằng ngành may đã dư thừa trong khi thị trường tiêu thụ đang gặp khó khăn , bên cạnh đó , các doanh nghiệp may không đòi hỏi vốn đầu tư lớn . Vì vậy nên hạn chế đầu tư nưóc ngoài vào ngành này đẻ giảm sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp may có vốn đầu tư nước ngoài thường có ưu thế hơn về vốn , công nghệ cũng như khả năng tiếp cận thị trường so với các doanh nghiệp nội địa . Nhưng theo tác giả , thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực may vẫn cần thiết nếu chúng ta muốn có một ngành công nghiệp thực sự hướng tới xuất khẩu . Các sản phẩm may của các doanh nghiệp này , với các ưu thế về công nghệ , nguyên liệu mẫu mã sẽ mở đường cho sản phẩm với nhãn hiệu hàng hoá của Việt nam trên thị trường thế giới . Tuy nhiên , nên tập trung vào các mặt hàng mới , phức tạp mà các doanh nghiệp trong nước hiện chưa sản xuất được cũng như ưu tiên phân bổ hạn nghạch xuất khẩu sang EU và Mĩ cho các doanh nghiệp trong nước , khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tìm thị trường phi hạn ngạch . . Chính sách về nguyên liệu phục vụ cho ngành may : Cần có qui hoạch phát triển vùng nguyên liệu các loại tơ sợi thiên nhiên cho ngành dệt và các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển vùng nguyên liệu ,tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho sự phát triển của nghành dệt ,đồng thời đặt cơ sở cho sự hình thành ngành sản xuất sợi hoá học. Kết hợp với ngành sản xuất hoá chất để cung ứng thuốc nhuộm và các loại hoá chất khác cho ngành dệt. Khuyến khích đầu tư cho sản xuất phụ liệu cũng như sản xuất vải đạt tiêu chuẩn xuất khẩu ,giảm bớt sự phụ thuộc của ngành may vào nguồn nguyên phụ liệu nhập ngoại . Đồng thời xây dựng hệ thống các chính sách thuế ,hàm lượng nội địa của sản phẩm xuất khẩu để khuyến khích sử dụng nguyên phụ liệu trong nước . Ta cũng biết rằng khi gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới , Việt nam sẽ có lợi khi nhập khẩu nguyên phụ liệu với giá rẻ hơn so với sản xuất trong nước nhưng không vì thế mà ta dựa hoàn toàn vào nguồn nguyên liệu ngoại nhập , mặt khác phải tăng hàm lượng nội địa của một sản phẩm dệt may xuất khẩu , có thế mới phát huy được các lợi thế khi hội nhập kinh tế . . Chính sách về thị trường : Khi hội nhập kinh tế quốc tế , sẽ giúp cho nghành dệt may của Việt nam mở rộng được thị trường xuất khẩu và khi thị trường xuất khẩu được mở rộng sẽ góp phần đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế Việt nam nói chung và ngành dệt may nói riêng . Để thực hiện được điều này nhà nước cần hỗ trợ trong việc tăng cường vai trò các tổ chức xúc tiến thương mại của nhà nước , hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác marketing . Có chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may , đặc biệt là các doanh nghiệp tự tìm được thị trường xuất khẩu phi hạn nghạch ,tạo điều kiện về mặt thủ tục giấy tờ ,giúp các doanh nghiệp tháo gỡ các khó khăn về mặt pháp lí khi tham gia vào thị trường mới , với những luật lệ mới . Có các ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp sử dụng nguyên vật liệu trong nước . Không chỉ chú trọng và mở rộng thị trường xuất khẩu ,nhà nước cũng cần có các biện pháp thúc đẩy các doanh nghiệp dệt may chiếm lĩnh lại thị trường nội địa, bấy lâu nay đã dành một thị phần lớn cho các loại sản phẩm dệt may từ Trung quốc với ưu thế giá thành hạ và mẫu mã phong phú . Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn thế giới , Việt nam đã là thành viên của một số tổ chức , hiệp hội kinh tế quốc tế, lại đang nỗ lực để trở thành thành viên chính thức của WTO , nên những biện pháp bảo hộ kể cả thuế quan và phi thuế quan đều phải dần hạn chế . Chính vì thế mà không còn cách nào khác để đứng vững trên thị trường nước ngoài cũng như nội địa , ngành dệt may cần cạnh tranh và chiến thắng bằng chính chất lượng vượt trội của mình . Đây mới là giải pháp lâu dài cho ngành dệt may nói chung . . Chính sách về phát triển sản phẩm : Để có thể nâng cao hiệu quả và chất lượng hàng may gia công , tạo dựng và củng cố uy tín trên thị trưòng thế giới , đồng thời tạo lập cơ sở để chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp sản phẩm theo đơn đặt hàng , tiến tới xuất khẩu sản phẩm dưới nhãn mác của Việt nam . Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ , khuyến khích đầu tư cho khâu thiết kế và sản xuất hàng mẫu , đầu tư đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ khả năng thiết kế mẫu mã đồng thời hỗ trợ cho công tác đăng kí nhãn hiệu hàng hoá , tạo điều kiện đưa các sản phẩm tên hiệu Việt Nam ra thị trường thế giới . . Chính sách về tổ chức quản lí : Khắc phục những bất cập trong công tác quản lí xuất nhập khẩu , các chính sách tài chính , thuế , vốn ưu đãi đầu tư , đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính rườm rà đang gây nhiều trở ngại cho các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhằm tạo một môi trưòng thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp , tạo thế mạnh trong thu hút đầu tư nước ngoài thông qua hệ thống chính sách hợp lí , thông thoáng . Tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp dệt may trên phạm vi cả nước theo phương châm gắn vùng nguyên liệu với vùng công nghiệp , công nghiệp may với các trung tâm tiêu thụ , xuất khẩu . Cụ thể như sau : - Gắn vùng công nghiệp dệt may với các ngành công nghiệp khác , nhằm tận dụng lao động , mối quan hệ liên ngành . - Gắn công nghiệp dệt may vào các trung tâm dân cư để vừa tận dụng các lao động tại chỗ, vừa tận dụng điều kiện cơ sở hạ tầng giao thông ,dịch vụ văn hoá , liên lạc viễn thông ,vận chuyển . - Gắn công nghiệp dệt may qui mô nhỏ , xí nghiệp cổ phần ,xí nghiệp tư nhân và các hộ cá thể với vùng làng nghề truyền thống để phát huy mọi khả năng của các thành phần kinh tế cùng tham gia phát triển nghành dệt may Việt nam . - Gắn công nghiệp dệt may thành khu công nghiệp liên hoàn nguyên liệu ,sợi ,dệt, nhộm ,may ,dịch vụ nhằm giảm chi phí vận chuyển nguyên liệu ,sản phẩm nâng cao một bước công nghiệp hoá và có điều kiện gọi vốn nuớc ngoài. . Chính sách về lao động ,đào tạo và phát triển nguồn nhân lực : Cần có chính sách hỗ trợ , khuyến khích và thu hút học sinh có khả năng theo học ngành công nghiệp dệt may , khắc phục tình trạng thiếu kĩ sư dệt may trầm trọng đang diễn ra và có thể kéo dài trong vài năm tới . Đầu tư cho các trường dậy nghề ,đào tạo công nhân kĩ thuật đáp ứng được yêu cầu sản xuất theo dây chuyền hiện đại ,nhằm đào tạo đội ngũ công nhân có tay nghề cao , thực sự trở thành thế mạnh về nhân lực của ngành dệt may Việt nam . Ưu tiên đào tạo các chuyên gia về thiết kế thời trang, marketing , khắc phục điểm yếu cơ bản của ngành may trong khâu thiết kế mẫu mốt và xúc tiến thị trưòng , từng bước tạo lập cơ sở để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam . Đồng thời ,có chính sách hỗ trợ bảo đảm việc làm ,tạo nguồn thu nhập ổn định cho nguời lao động , khắc phục tình trạnh thiếu lao động do các kĩ sư công nghệ và công nhân có tay nghề cao bị hút sang các công ty lien doanh đang ngày trở lên phổ biến trong ngành dệt may Việt nam 1.7. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành: Việc thực hiện CEFT/AFTA đang là vấn đề thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam. Hơn nữa, nguy cơ hàng Dệt May của các nước ASEAN xâm nhập vào thị trường nội địa sẽ xảy ra khi Việt Nam hội nhập khu vực (AFTA) và thế giới (WTO). Theo lộ trình CEFT/AFTA, hàng dệt may đang được bảo hộ ở mức cao (thuế suất nhập khẩu sợi 20%, vài 40%, hàng may mặc 50%) sẽ giảm dần tới mức 5% từ năm 2006. Trong khi đó ngành dệt may Việt Nam lại có trình độ công nghệ thấp, năng lực sản xuất, chủng loại, mẫu mã hàng hoá nghèo nàn dẫn đến giá thành sản phẩm cao. Sản phẩm dệt may chủ yếu ở dạng gia công, giá trị gia tăng chỉ khoảng 15-20%. Khả năng thương mại và thương hiệu còn nhiều hạn chế, do vậy tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế vẫn thấp. Để nâng cao sức cạnh tranh cho ngành dệt may Việt Nam trong thời kỳ hội nhập cần tăng cường khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của toàn ngành. - Tăng cường và nâng cao chất lượng của công tác nghiên cứu thị trường, chú ý cả đến thị trường trong nước và nước ngoài, thị trường hiện có và thị trường tiềm năng của ngành dệt may Việt Nam. Đối với thị trường xuất khẩu, cần chú ý đến thị trường Mỹ vì đây là thị trường xuất khẩu có nhiều tiềm năng của ngành dệt may Việt Nam trong những năm tới. Chú ý khôi phục sớm thị trường xuất khẩu truyền thống SNG và Đông Âu. Các doanh nghiệp ngành Dệt May Việt Nam cần có những giải pháp thích hợp để lựa chọn và tìm ra những ngách thị trường xuất khẩu mà Việt Nam có những lợi thế nhất định trong cạnh tranh ở các khu vực thị trường xuất khẩu. Đối với thị trường trong nước, cần đặc biệt quan tâm đến các thị trường nông thôn vùng sâu, vùng xa, các đối tượng có thu nhập và nhu cầu cụ thể khác nhau về hàng may mặc như học sinh, công nhân. Kết hợp việc nghiên cứu mẫu, mốt, sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng. - Xây dựng hoàn thiện chiến lược sản phẩm đúng đắn cho từng sản phẩm may mặc , xác định được những sản phẩm mũi nhọn và có thế mạnh trong cạnh tranh ở từng thị trường và của mỗi doanh nghiệp. Đa dạng hoá các mặt hàng sản phẩm dệt may để đáp ứng tối đa các nhu cầu trong nước về hàng may mặc . - Khai thác và huy động mọi nguồn vốn để tập trung đầu tư và nâng cao năng lực hiện đại hoá trình độ công nghệ, thiết bị cho các doanh nghiệp May mặc Việt Nam, tạo lập sự cân đối trong toàn ngành, đặc biệt là sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp dệt may. Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, thiết kế mẫu mã sản phẩm dệt may, nghiên cứu thời trang, quảng bá các sản phẩm mới để hàng dệt may Việt Nam nhanh chóng đáp ứng được thị trường người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. - Hoàn thiện hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư để thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư nhiều hơn vào ngành sản xuất nguyên liệu, phụ liệu cho ngành Dệt May trong giai đoạn 2001 - 2010. Đặc biệt là nghiên cứu giống bông, sơ chế bông hạt, các nhà máy ươm tơ, sản xuất các loại xơ sợi tổng hợp, tạo lập cơ sở ổn định bền vững về nguyên liệu cho ngành Dệt May phát triển. Ưu tiên cho ngành Dệt May vay vốn đầu tư ưu đãi của Nhà nước với lãi suất 3%/năm và thời hạn vay từ 10-12 năm để tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị cho ngành Dệt May, đặc biệt là đổi mới thiết bị ở các nhà dệt nhuộm lớn như nhà máy Dệt 8-3, Dệt Nam Định mà hệ thống thiết bị dệt, nhuộm đã quá lạc hậu. - Giảm thuế nhập khẩu các loại nguyên phụ liệu cho ngành dệt may mà trong nước hiện chưa sản xuất được để giảm chi phí phí về nguyên phụ liệu. Ngành Dệt May là ngành kinh tế xã hội phát triển để giải quyết việc làm là chủ yếu. Vì vậy, cần giảm hoặc miễn hẳn thuế VAT từ 10% cho ngành sợi dệt xuống mức 4-5% để tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh về giá cho các sản phẩm Dệt May. - Củng cố và phát huy vai trò Tổng công ty Dệt May Việt Nam ,hiệp hội các doanh nghiệp dệt may Việt nam nhằm tổ chức mối quan hệ liên kết kinh tế và phân công chuyên môn hoá trong sản xuất và tiêu thụ của các doanh nghiệp ngành Dệt May. Nâng cao sức cạnh tranh tổng thể của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế và trong nước. - Tạo môi trường để thúc đẩy các doanh nghiệp Dệt May cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích đổi mới công nghệ hợp lý hoá sản xuất, cải tiến quản lý giảm chi phí sản xuất cá biệt. - Khuyến khích và giúp đỡ các doanh nghiệp đăng ký tiêu chuẩn quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002 nhằm nâng cao chất lượng của hàng Dệt May Việt Nam. - Đầu tư là một trong những giải pháp quan trọng góp phần vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành .Có đầu tư thì có đổi mới. Không đầu tư thì không bao giờ có đổi mới. Do vậy, ngành dệt may cần phối hợp với các doanh nghiệp dệt may cần sớm xây dựng các dự án đầu tư, trình các cấp có thầm quyền phê duyệt. Các dự án đã được phê cần được triển khai thực hiện bởi nhiều đối tác khác nhau, bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, ngay cả việc kêu gọi đầu tư nước ngoài cũng cần các dự án đã được phê duyệt. Do đó, ngành Dệt May cần đầu tư vào các lĩnh vực sau: Đầu tư phát triển ngành may rộng khắp đến tận các vùng thị trấn, những khu dân cư nhằm kết hợp phát triển ngành với công nghiệp hoá ở nông thôn. Khác với ngành Dệt, ngành May chỉ cần vốn đầu tư ít với công nghệ đơn giản; lao động giản đơn; sử dụng lao động nhiều (có thể từ nông thôn và miền núi). Hiện các sản phẩm May có chất lượng cao, xuất khẩu trực tiếp được tập trung may tại các thành phố lớn (Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng). Các sản phẩm may trung bình và cấp thấp , là các đơn vị vệ tinh, may giaa công tập trung may chủ yếu ở các tỉnh, huyện và xã. 2. Các giải pháp vi mô nhằm tăng khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam : 2.1. Giải pháp về nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm : * Cải thiện chất lượng sản phẩm : Ưu thế của các sản phẩm may mặc Việt nam so với nhiều nước đang phát triển khác là chất lượng cao . Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt , nhất là sau năm 2005 , khi hạn ngạch và các hàng rào phi thuế quan khác được bãi bỏ , thị phần của mỗi nước xuất khẩu phụ thuộc chủ yếu vào khả năng canh tranh của sản phẩm . Đối với hàng dệt may các biện pháp cạnh tranh phi giá, trước hết là cạnh tranh về chất lượng hàng hoá , trong rất nhiều trường hợp ,trở thành yếu tố quyết định trong cạnh tranh . Các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm bao gồm : * Kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu ,tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định ,đúng thời hạn. Cần lưu ý rằng vải sợi là những mặt hàng hút ẩm mạnh ,dễ hư hỏng ,nên phải bảo quản tốt nguyên phụ liệu,tránh để xuống phẩm cấp . * Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên phụ liệu, công nghệ, qui trình sản xuất theo đúng mẫu hàng và tài liệu kĩ thuật bên đặt hàng cung cấp về mã hàng qui cách kĩ thuật,nhãn mác, đóng gói bao bì . * Tuân thủ đúng qui trình kiểm tra chất lượng trước khi xuất hàng . Hiện nay nhiều khách hàng đã yêu cầu các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may thực hiện PSI ( Giám định hàng hoá bến đi- Pre Shipment inspection). Đây là biện pháp hữu hiệu để bảo đảm chất lượng cũng như các tiêu chuẩn khác của sản phẩm ,cho phép khắc phục các thiếu sót của lô hàng ngay tại nơi cung cấp và giúp tiết kiệm chi phí và thời gian thông quan tại cảng đến ( chứng thư PSI cho phép hàng nhập khẩu được ưu tiên vào cửa xanh của Hải quan nước nhập khẩu ,nhưng Việt nam chưa có yêu cầu triển khai PSI với hàng nhập khẩu ). Trong tương lai gần , ngành dệt may cần phối hợp với các cơ quan Hải Quan để tổ chức tốt dịch vụ này ,đồng thời yêu cầu PIS với nguyên phụ liệu và trang thiết bị nhập khẩu , bảo đảm chất lượng đầu vào của sản phẩm . * Khai thác lợi thế về xuất khẩu hàng may mặc có sử dụng nguyên liệu truyền thống : Các nguyên liệu truyền thống như : tơ thô, lụa tơ tằm ,gấm ,lụa vân ,các sản phẩm thêu tay... đã thu hút được sự chú ý của thị trường thế giới . Các sản phẩm may mặc làm từ các nguyên liệu trên thuộc nhóm hàng có nhu cầu ngày càng cao trong khi nguồn cung cấp rất hạn chế với lí do nhiều nước không có khả năng sản xuất mặt hàng naỳ . Việt nam có lợi thế trong sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm truyền thống,mang đậm bản sắc dân tộc được thừa hưởng từ nền văn hoá " Trồng dâu nuôi tằm" ,lại có lợi thế về lực lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực này . Để có thể khai thác về sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm truyền thống thông qua trợ giúp về vốn kĩ thuật ,kết hợp với kĩ thuật hiện đại với kinh nghiệm truyền thống ,tìm kiếm thị trường xuất khẩu và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm . * Đảm bảo yêu cầu về giao hàng : giao hàng đúng hạn là yêu cầu rất quan trọng với sản phẩm dệt may do yếu tố thời vụ và thời trang là một yếu tố quyết định về tính cạnh tranh của nhóm hàng này ,vì vậy các doanh nghiệp dệt may phải chủ động trong việc kiểm soát nguyên phụ liệu đầu vào ,thông qua việc tìm những nhà cung cấp ổn định ,có chất lượng đẩm bảo và đặc biệt là phaỉa giao hàng đúng hạn . 2.2. Giải pháp về tài chính và vốn: Vốn đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh và trong quá trình cạnh tranh .của các doanh nghiệp . Để có vốn đầu tư cho quá trình sản xuất , kinh doanh ( đặc biệt là cho các đơn hàng hàng bán trực tiếp, đơn hàng lớn và đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ ,mở rộng sản xuất ) , các doanh nghiệp dệt may cần phải nghiên cứu và áp dụng các giải pháp huy động vốn sau đây: + Cần huy động mọi nguồn lực tự có trong công ty như khấu hao tài sản cơ bản, vốn có được bằng cách bán, khoán, cho thuê các tài sản không dùng đến, giải phóng hàng tồn kho, huy động từ cán bộ công nhân viên,… + Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, cần nghiên cứu khả năng phát hành trái phiếu, phát hành cổ phiếu nhằm huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển. + Tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích và kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm huy động mọi nguồn vốn từ bên ngoài và của mọi thành phần kinh tế. + Vay tín dụng trả chậm từ các nhà cung cấp, từ các tổ chức tài chính, ngân hàng, thuê tài chính, vay thương mại,.. Đối với các hình thức này, doanh nghiệp Dệt May rất cần được bảo lãnh của Chính phủ. 2.3. Giải pháp về thị trường * Đối với thị trường xuất khẩu : Thị trường xuất khẩu là thị trường chủ yếu thu hút sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam vì nhu cầu về hàng dệt may trên thế giới là rất lớn. Thông qua thị trường xuất khẩu, ngành công nghiệp dệt may mới phát huy được hết lợi thế so sánh của mình so với các nước trên thế giới và các nước trong khu vực. Hơn nữa, xu thế hội nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã thúc đẩy ngành dệt may nâng cao khả năng xuất khẩu vào thị trường các nước trên thế giới. Vì vậy các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc cần : - Đẩy mạnh xúc tiến thương mại đối với các thị trường trọng điểm như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ, vì đây là thị trường xuất khẩu hàng dệt may chủ yếu của Việt Nam. Để làm được việc này, HIệp hội dệt may, Tổng công ty dệt may Việt Nam và các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam và các doanh nghiệp May mặc cần tự mình đưa ra các cơ chế ,chính sách để có thể khai thác một cách có hiệu quả nhất các thị trường đó .Đồng thời đẩy mạnh việc tìm kiếm các thị trường phi hạn ngạch khác . - Mỗi doanh nghiệp sản xuất hàng Dệt May cần coi trọng việc thiết kế các sản phẩm với mẫu mốt phù hợp, đặc biệt là xây dựng cho bản thân mỗi đơn vị có phong cách và nhãn hiệu riêng và có các bộ sưu tập theo từng mùa như phương pháp kinh doanh của các tập đoàn phân phối hang Dệt May lớn nhất trên thế giới. Muốn vậy cần : Tập trung đầu tư cho công nghệ tiên tiến trong khâu thiết kế các sản phẩm may mặc . Có kế hoạch hợp tác với các viện mốt ,hoặc thuê chuyên gia thiết kế mốt của nước ngoài để đẩy nhanh quá trình hoà nhập vào thị trường thế giới . - Cần coi trọng việc xây dựng và đăng ký nhãn mác, thương hiệu sản phẩm. Đây là một công việc hết sức cần thiết cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng may mặc và tăng cường đẩy mạnh việc xuất khẩu trực tiếp hàng may mặc . Hiện nay ,các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may mặc chủ yếu xuất khẩu qua các nước trung gian hoặc gia công cho nước khác . Muốn cải thiện được tình hình và xuất khẩu trực tiếp ,sản phẩm dệt may của các doanh nghiệp Việt nam cần phải khẳng định vị trí trên thị trường dệt may thế giới ,bắt đầu bằng việc đứng vững trên thị trường với nhãn hiệu của chính mình . * Tại thị trường trong nước : - Hiện nay, các sản phẩm dệt may ở trong nước tiêu thụ chậm, sức cạnh tranh kém cả về mẫu mã và giá cả so với hàng nhập ngoại, nhất là hàng dệt may nhập từ Trung Quốc. Hàng dệt may của ta sản xuất ra tiêu thụ rất chậm không chỉ ở ở các thành phố lớn mà ngay cả tại vùng nông thôn cũng tiêu thụ chậm vì giá bán cao so với hàng của Trung Quốc. Với nhu cầu sử dụng thu nhập vào việc may mặc trong nước ngày càng phát triển và đa dạng. Trong khi đó lại bị cạnh tranh khốc liệt với thị trường Trung Quốc nên để giữ vững thị trường trong nước, ngành dệt may Việt Nam cần coi trọng việc xây dựng và đăng ký nhãn mác, thương hiệu sản phẩm. Coi trọng việc quảng bá tên, nhãn hiệu, truyền thống của các công ty Dệt May nhằm nâng cao uy tín của công ty. Tìm các biện pháp để tiết kiệm các chi phí sản xuất , từ đó giảm giá sản phẩm. 2.4. Giải pháp về điều hành và quản lý nguồn nhân lực : - Cần nghiên cứu và triển khai áp dụng mô hình quản lý tiên tiến, hiện đại ( như ISO 9000 , SA8000 . . .. . ) nhằm nâng cao hiệu quả điều hành trong các doanh nghiệp sản xuất hàng May mặc . - Các doanh nghiệp dệt may cần có kế hoạch xây dựng hệ thống mạng thông tin điều hành nội bộ nhằm nâng cao hiệu quả của việc điều hành và quản lý xí nghiệp. Sản phẩm may mặc của Việt nam là mặt hàng có lợi thế so sánh quốc tế, có thị trường xuất khẩu , thời gian đầu tư nhanh , giải quyết nhiều việc làm cho người lao động . Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng may mặc Việt nam . Kết luận Ngành dệt may của Việt nam trong những năm gần đây đã có những thành công nhất định . Tốc độ tăng trưởng qua các năm cao , kim nghạch xuất khẩu tăng nhanh , thị trường xuất khẩu ngày cành được mở rộng . Tuy nhiên so với các nước xuất khẩu dệt may trong khu vực thì có thể thấy rằng nội lực , khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam còn yếu . Để giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh và đứng vững được trên thị trường đặc biệt khi Việt nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO ) , đòi hỏi ngành dệt may Việt nam phải có sự đầu tư chiều sâu cho sự phát triển, nâng cao trình độ khoa học kĩ thuật , hạ giá thành sản phẩm , nâng cao chất lượng mẫu mã , chú trọng xây dựng thương hiệu ,đẩy mạnh xúc tiến thương mại , chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh từ chính nội lực của ngành . Những ý kiến đóng góp nhằm nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam em đã đề cập trong bài khoá luận này tuy chưa thật đầy đủ và cụ thể nhưng rất mong đề tài có tính khả thi vào thực tế của ngành . Một lần nữa , em xin chân thành cảm ơn cô giáo -Thạc sĩ Nguyễn Xuân Nữ và các bác , cô ,chú , anh chị ở phòng thị trường , phòng xuất nhập khẩu của các công ty May Thăng Long , May 10 , May Chiến Thắng , May Đức Giang, cũng như ban Kế hoạch -Thị Trường của Tổng công ty dệt may Việt nam -VINATEX , đã giúp em hoàn thành bài khoá luận này . Hà nội , ngày 30 tháng 04 năm 2003 Học viên Phạm Thế Cường Tài Liệu tham khảo Giáo trình Marketing Lí thuyết - Trường ĐHNT - Nhà xuất bản giáo dục ,năm 2000. Giáo trình kinh tế thương mại - Trường Đại học Kinh tế quốc dân - Nhà xuất bản giáo dục . Giáo trình Kinh tế Ngoại thương - Bùi Xuân Lưu - Nhà xuất bản giáo dục . Giáo trình Thanh toán quốc tế trong Ngoại Thương -PGS. Đinh Xuân Trình - Nhà xuất bản giáo dục . Giáo trình Kĩ thuật Nghiệp vụ Ngoại Thương - PGS. Vũ Hữu Tử u -Nhà xuất bản giáo dục . Tập bài giảng : Địa lí kinh tế thế giới- Trường Đại Học Luật Hà nội -Nhà xuất bản công an nhân dân. Hướng dẫn ôn thi Môn Kinh tế chính trị Mác -Lênin -Trung tâm bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lí luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh - Nhã xuất bản Đại học quốc gia Hà nội . Tạp chí công nghiệp. Tạp chí Dệt May. Tạp chí Thông tin thương mại. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28161.doc
Tài liệu liên quan