A . PHẦN MỞ BÀI
Trong xu hướng hội nhập mở cửa và đặc biệt là sự phân công hóa lao động ngày càng cao thì vai trò ngoại thương ngày càng quan trọng .Bất kỳ một nước nào muốn phát triển cũng không thể nằm ngoài quy luật đó được, mà cần phải xác định vai trò của mình trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Xuất phát từ vai trò trên việc đưa ra một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hoạt động ngoại thương là rất quan trọng. Vì vậy nhóm 5 chúng em xin đưa ra một sổ chỉ tiêu .Bài làm không tránh khỏi sự thiếu só
10 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1500 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đánh giá hoạt động ngoại thương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t và sơ sài ,mong sự đóng góp nhiệt tình của các bạn
B. NỘI DUNG
I. Lý luận
1.khái niện ngoại thương
đứng trên góc độ khác nhau ta có các cách hiểu khác nhau về ngoại thương.Xét về đặc trương thì ngoại thương được hiểu là việc mua bán hàng hóa và dịch vụ qua biên giới quốc gia.
Các nhà kinh tế học cho rằng ngoại thương như là một công nghệ khác để sản xuất hàng hóa và dịch vụ ( thậm chí là các yếu tố sản xuất).Như vật ngoại thương được hiểu như là một qúa trình sản xuất gián tiếp
Điều kiện để hoạt động ngoại thương ra đời ,tồn tại và phát triển là
Có sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hóa –tiền tệ kèm theo đó là sự xuất hiện của tư bản thương nghiệp
Sự ra đời của nhà nước và sự phát triển của phân công lao động quốc tế giữa các nước
2. Cơ sở lý luận của hoạt động ngoại thương
A.smith là người đầu tiên đưa ra lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương (1723-1790).Ông cho rằng nếu quốc gia A có thể sản xuất mặt hàng X rẻ hơn so với nước B, và nước B có thể sản xuất mặt hạng Y rẻ hơn so với nước A thì lúc đó mỗi quốc gia nên tập trung vào sản xuất mặt hàng mà mình có hiệu quả hơn và xuất khẩu mặt hàng này sang quốc gia kia.Trong trường hợp này mỗi quốc gia được xem là lợi thế tuyệt đối về sản xuất từng mặt hàng cụ thể .Nhờ có chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi mà cả hai quốc gia đều trở nên sung túc hơn
Trên cơ sở của A.smith ,Daví Ricardo đã đưa ra lý thuyết lợi thế so sánh tương đối.Có thể phát biểu lợi thế so sánh tương đối như sau :”một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng có giá cả thấp hơn
một cách tương đối so với quốc gia kia .Nói cách khác một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng mà quốc gia đó sản xuất với hiệu quả cao hơn một cách tương đối so với quốc gia kia”.
Ví dụ như so sánh giữa hai nước Việt Nam và Nga”
Sản phẩm
Chi phí sản xuất(ngày công lao động)
Chi phí so sánh
Việt Nam
Nga
Việt Nam
Nga
Thép(1đơn vị)
25
16
5
4
Quần áo(1đơn vị)
5
4
1/5
¼
Theo chi phí so sánh thì chi phí sản xuất thép của Việt Nam cao hơn Nga,nhưng chi phí sản xuất quần ao của Việt Nam lại thấp hơn .Như vậy Việt Nam sẽ sản xuất quần áo để xuất khẩu sang Nga ,còn Nga thì sản xuất thép để xuất khẩu sang Việt Nam.Việc trao đổi này mang lại lợi ích cho cả hai nước.
Như vậy ngoại thương nâng cao mức sống và thu nhập thực tế của một nước thông qua việc trao đổi ,mua bán hàng hóa với các nước khác dựa trên cơ sở chi phí so sánh đế sản xuất những hàng hóa
3.Các chỉ tiêu đánh gia kết quả của hoạt động ngoại thương
-Cán cân thanh toán xuất nhập khẩu
-Cơ cấu xuất nhập khẩu
-Khu vực xuất nhập khẩu
-các đối tác kinh tế
3.1. Cán cân thanh toán xuất nhập khẩu(còn gọi là cán cân thương mại) Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng.
Cán cân thanh toán có vai trò rất quan trọng đối vơi sự ổn định của một quốc gia.Một quốc gia mà nhập siêu quá lớn(tùy quy định của từng quốc gia lớn hơn 3%GDP hoạc 5%GDP) sẽ ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát
3.2. Cơ cấu xuất nhập khẩu:
Cơ cấu xuất nhập khẩu là tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu,nhập khẩu trong tổng xuất khẩu.Nhìn vào cơ cấu xuất nhập khẩu ta có thể biết được trình độ phát triển của nước đó.Đối với các nước đang phát triển thì chủ yếu là xuất khẩu các sản phẩm thô ,hàng xơ chế ;nhập khẩu máy móc,công nghệ ,sản phẩm trung gian.
3.3.Khu vực xuất nhập khẩu
Tức là khu vực trong nước xuất khẩu hoặc khu vực kinh tế nước ngoài xuất khẩu.Đánh giá năng lực khả năng thực sự của nền kinh tế .Nó mang lại tính bền vững ,ổn định
3.4.Số nước quan hệ
Đánh giá độ mở của nền kinh tế,khả năng đa dạng hóa quan hệ tránh tình trạng “bỏ trứng vào cùng một giỏ”
II. Đánh giá họat động ngoại thương Việt Nam dựa trên các chỉ tiêu trên
1.Cán cân thương mại
Việt Nam là một nước đang phat triển thì tình trạng nhập siêu là điều có thể chấp nhận được với điều kiện nhỏ hơn 5%GDP.Bởi vì hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là các sản phẩm thô ,giá trị gia tăng thấp nên giá rẻ mà hàng nhập khẩu là các máy móc có giá trị cao.
Ta có bảng kim ngạch xuất nhập khẩu như sau:
năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Nhập siêu
Quy mô(triệu USD)
Tốc độ(%)
Quy mô(triệu USD)
Tốc độ(%)
Quy mô(triệu USD)
Tốc độ(%)
2000
14.482
25.5
15.636
33.2
1.153
8
2001
15.027
3.8
16.162
19.4
2.77
16.8
2002
16.536
10
19.3
18.4
2.77
16.8
2003
16.88
19
24.995
26.7
5.115
25.7
2004
26.485
31968
5.483
2005
32.447
20
36.761
4.310
2006
39.826
44.891
5.064
2. Cơ cấu xuất nhập khẩu
Đối với nước ta thì xuất khẩu có ý nghĩa về nhiều mặt .Nó là một kênh tiêu thụ sản phẩm quan trọng của sản xuất .Nhờ đó mà có ngoại tệ nhập khẩu nguyên vật liệu chưa sản xuất được và quan trọng hơn là nhập khẩu máy móc và thiết bị ,công nghệ phục vụ cho công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước
Ta có bảng số liệu mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu :
Mặt hàng
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Dầu thô(nghìn tấn)
16.732
1.687
17.143
19.501
17.967
16.618
Dệt may(triệuUSD)
1.975
2.752
3.689
4.430
4.838
5.802
Dày dép(triệu USD)
1.578
1.875
2.281
2.691
3.04
3.555
Thủy sản(triẹu USD)
1.816
2.036
2.200
2.408
2.739
3.364
Gạo(nghìn tấn)
3.721
3.236
3.81
4.063
5.250
4.749
Cà phê
931
722
749
976
892
897
Điện tử ,máy tính
709
605
855
1.062
1.427
1.770
Hạt điều
44
62
82
105
109
127
Hạt tiêu
57
78
74
111
109
116
Cao su
308
455
13
513
587
697
Rau quả
344
221
152
178
236
263
Chè
68
77
59
104
88
105
Lạc
78
106
82
460
55
15
Gỗ và sản phẩm gỗ
324
421
567
1.102
1.563
1.904
Nhập khẩu
Máy móc thiết bị
2.706
3.790
5.409
5.249
5.282
6.555
Xăng dầu
9.083
9.971
9.916
11.048
11.477
11.041
Nguyên liẹu phu may măc
1.590
1.711
2.034
2.253
2.281
1.959
Sắt thép
3.870
4.946
4.632
5.186
5.125
5.624
Phân bón
3.288
3.820
4.135
4.079
2.877
3047
Thuốc trừ sâu
103
117
116
210
243
299
Hóa chất
422
426
529
683
865
1.026
Tân dược
329
350
400
410
502
547
Chất deo
551
613
829
1.191
1.456
1.846
Sợi dệt
211
265
217
215
230
341
Bong
98
98
92
138
151
185
Ôtô(nghìn chiếc)
35
47
838*
904*
1.080*
705*
Xe máy(nghìn chiếc)
2.380
1.480
329*
452*
541*
566*
Điện tử máy tính
677
649
975
1.342
1.707
2.055
*triệu USD
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của nước ta là : dầu thô, than đá, hàng dệt may, giầy dép, gạo, hải sản, cà phê, gỗ và sản phẩm gỗ, cao su, máy tính và linh kiện điện tử… Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là : máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, xăng dầu,phân bón, sắt thép, nhóm hàng nguyên phụ liệu dệt may, da, giày vải các loại, ô tô nguyên chiếc, linh kiện ô tô, linh kiện và phụ tùng xe máy, chất dẻo nguyên liệu, thức ăn gia súc và nguyên liệu, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện..
2.1. Thành tưụ
Cơ cấu hàng xuất khẩu đã thay đổi theo hướng phát huy lợi thế so sánh trong mối quan hệ kinh tế quốc tế. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông lâm thuỷ sản tuy vẫn ở vị trí đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu nhưng cũng có xu hướng giảm dần,
Nhập khẩu trong những năm qua tuy có tăng nhưng tốc độ chậm dần. Chúng ta tập trung chủ yếu vào nhập nguyên liệu phục vụ sản xuất, trong khi cố gắng giảm dần tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng. Một số mặt hàng trước đây vẫn phải nhập khẩu nay đã được thay thế bằng sản xuất trong nước, nhờ vậy giảm tương đối thâm hụt cán cân thương mại. Kim ngạch nhập khẩu trong những năm qua cũng có thay đổi về cơ cấu. Tỷ trọng hàng tiêu dùng trong tổng kim ngạch nhập khẩu giảm đáng kể, trong khi tỷ trọng nhóm nguyên nhiên vật liệu tăng nhanh. Thay đổi này phản ánh chính sách khuyến khích sản xuất trong nước và giảm nhập khẩu những mặt hàng trong nước có thể thay thế nhập khẩu được.
2.2 Hạn chế
Bên cạnh những thành công đạt được, hoạt động xuất-nhập khẩu vẫn bộc lộ những hạn chế. Trước hết, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu còn lạc hậu, chủ yếu là các mặt hàng dễ sản xuất, hàm lượng giá trị tăng thêm thấp và là mặt hàng sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên và lao động giản đơn như dầu khí, hàng nông sản nhiệt đới, hàng dệt may…Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu lớn như hồ tiêu, gạo, cà phê…có khả năng chi phối đến giá cả thế giới nhưng thiếu cơ chế thực hiện. Nhiều thị trường đã được mở ra đối với hàng hoá xuất-nhập khẩu của Việt Nam bao gồm cả thị trường châu Á, châu Âu, châu Mỹ và gần đây đã phât trểin quan hệ với thị trường châu Phi là thị trường có rất nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, một trong những khía cạnh quan trọng trong hoạt động xuất khẩu Việt Nam là tỷ trọng xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài khá lớn. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu của khu vực này đạt con số 18,5 tỷ USD chiếm 57% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Hơn nữa, 75% kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là các mặt hàng đã qua chế biến và chế biến sâu, hàm lượng giá trị tăng cao và khả năng cạnh tranh cao. Đồng thời, số liệu còn cho thấy mối quan hệ khá chặt chẽ giữa việc thu hút đầu tư nước ngoài với việc đẩy mạnh xuất khẩu ở Việt Nam hay kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào kết quả thu hút đầu tư nước ngoài.
Do tỷ trọng quá cao của khu vực đầu tư nước ngoài trong tổng kim ngạch xấut khẩu cả nước cho nên có thể đánh giá khả năng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước khá hạn chế. Các mặt hàng xuất khẩu vẫn chủ yếu là các mặt hàng có giá trị gia tăng thấp mà thực chất là bán rẻ tài nguyên và lao động. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn gặp khá nhiều hạn chế về thông tin thị trường nước ngoài, kỹ năng đàm phán và chưa thật quen thuộc với những thông lệ quốc tế cho nên phải chịu những thua thiệt khi bị kiện (vụ kiện bán phá giá cá basa Việt Nam trên thị trường Mỹ và vụ kiện bán phá giá giày mũ da trên thị trường Liên minh châu Âu) hoặc chịu nhiều thiệt hạido gặp rủi ro khác. Sự hỗ tợ của nhà nước thời gian qua đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam sẽ khó khăn khi sự hỗ tợ này bị loại bỏ theo nguyên tắc WTO.
Về xuất khẩu, có mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là xăng dầu, sắt thép, các loại nguyên liệu phục vụ sản xấut và hàng tiêu dùng…Kim ngacgh nhập khẩu của Việt Nam ngày càng tăng thể hiện Việt Nam là thị trường tiêu thụ lớn hàng hoá các nước. Khi giá cả những mặt hàng nhậpkhẩu này biến động trên thị trường thế giới dẫn đến tình trạng biến động giá cả của hàng loạt các hàng hoá khác được sản xuất trong nước dựa vào nguyên liệu nhập khẩu và tiềm ẩn nguy cơ lạm phát. Kim ngạch nhập khẩu cao là yếu tố mà Việt Nam có thể khai thác để cải thiện vị thế đàm phán của mình. Đây cũng là lý do mà các nước gây áp lực lớn buộc Việt Nam phải mở cửa lớn thị trường. Các số liệu ở bảng 1 còn cho thấy cán cân thương mại Việt Nam thường xuyên thâm hụt và đây là hiện tượng thường gặp đối với các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá cần nhậpkhẩu nhiều máy móc, thiết bị trong khi khả năng xuất khẩu hạn chế và điều kiện thương mại bất lợi (giá nhập khẩu cao và giá xuất khẩu thấp). Vấn đề là mức thâm hụt này, tuy vậy vẫn chưa dẫn đến việc điều chỉnh cơ bản tỷ giá hay phải có những thay đổi quan trọng khác trong chính sách kinh tế. Khi gia nhập WTO, việc giảm thuế nhậpkhẩu là cơ hội để Việt Nam nhập khẩu các hàng hoá rẻ ở các nước.
Các hoạt động xuất khẩu và nhậpkhẩu dịch vụ của Việt Nam vẫn chưa tướng xứng với tiềm năng của nền kinhtế mặc dù xu hướng chung là thương mại dịch vụ tăng mạnh.
Những thách thức của cơ cấu xuất nhập khẩu trong tiến trình hội nhập WTO
2.3.1 Những thuận lợi
Với lợi thế vượt trội về chính trị, xã hội ổn định vững chắc, vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên đường quốc tế đang tăng lên, quy mô thị trường không nhỏ, lực lượng lao động trẻ,…
Bên cạnh đó Việt Nam ở trung tâm của khu vực ASEAN và cửa ngõ của Trung Quốc xuống phía Nam, chính sự phát triển bùng nổ của Trung Quốc trong khu vực phát triển năng động nhất thế giơi đang tạo ra yếu tố ‘thiên thời’ hiếm có cho Việt Nam trong những năm tới.Dưới con mắt của các chính khách và chuyên gia Mỹ, Việt Nam ngày càng có vai trò tích cực hơn, nhiều ảnh hưởng hơn trong ASEAN, vì thế cũng có vị trí quan trọng trong việc duy trì ảnh hưởng đối với khu vực và châu Á
Trước sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đã có tác dụng cho một cuộc đua đầu tư không chỉ giữa các cường quốc kinh tế thế giới, mà còn cả giữa các nền kinh tế có thực lực mạnh trong khu vực.
gia nhập WTO của Việt Nam sẽ tạo ra nguồn động lực mạnh hơn để thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn trong nhiều năm tới. Thời gian đầu gia nhập WTO, tốc độ xuất khẩu của Việt Nam khó có thể tăng đột biến, nhưng sau khi hàng loạt dự án đầu tư nước ngoài có quy mô hàng tỷ USD, cũng như những dự án có nguồn vốn trong nước hướng về xuất khẩu đi vào vận hành, nhằm khai thác những lợi thế do việc gia nhập WTO mang lại, thì xuất khẩu chắc chắn sẽ tăng tốc mạnh. Việc kim ngạch xuất khẩu đã tăng 22,76% trong năm 2006 cũng thể hiện xu thế phát triển khả quan của Việt Nam trong những năm tới.
nhờ tăng tốc đầu tư, đặc biệt là những nguồn vốn đầu tư nước ngoài khổng lồ, nhờ tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu, chắc chắn thị trường trong nước cũng sẽ nhanh chóng mạnh lên, vì thế cũng sẽ góp phần ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn trong những năm tới.
2.2 Khó khăn và thách thức
Việc Việt Nam trở thành thành viên WTO là cần thiết theo xu hướng của thời đại hội nhập kinh tế và toàn cầu hoá. Tuy nhiên, với trình độ phát triển kinh tế còn thấp nhưng độ mở cửa thị trường cao, Việt Nam gia nhập WTO có những thuận lợi và đứng trước những khó khăn, thách thức đan xen nhau đến mọi mặt của nền kinh tế, đặc biệt tác động lớn đến cán cân thanh toán quốc tế. Ngay sau khi gia nhập WTO, cán cân thương mại tiếp tục xu hướng thâm hụt.
WTO là phương tiện để đưa đất nước tiến lên, mốc quan trọng nhưng không phải là mốc cuối cùng. Mở cửa thị trường trong nước, chấp nhận cạnh tranh từ bên ngoài trên hầu hết các lĩnh vực hàng hoá, dịch vụ, nhân lực tác động đến cán cân thương mại. Nhưng sân chơi WTO là sân chơi cho xuất khẩu, phải hướng vào xuất khẩu để tăng quy mô thương mại (xuất khẩu của Việt Nam hiện nay khoảng 33 tỷ USD trong khi xuất khẩu toàn cầu là 10.000 tỷ USD, cho thấy xuất khẩu của Việt Nam còn nhỏ bé).
Việt Nam gia nhập WTO với những xu hướng của các cán cân thương mại với nhiều bộ phận. Cán cân vãng lai tiếp tục xu hướng thâm hụt với mức độ cao hơn giai đoạn 2001-2005. Cán cân vốn được cải thiện mạnh mẽ do vốn nước ngoài tiếp tục chảy vào khi Việt Nam mở cửa hoạt động thương mại đầu tư, bao gồm ODA và FDI, đầu tư gián tiếp. Dự báo trong năm 2007 , tỷ trọng các nguồn vốn này có thể lên tới 35% tổng đầu tư toàn xã hội so với 30% năm 2006 và khoảng 20% giai đoạn 2001-2005. Điều này tạo thuận lợi cho Việt Nam ổn định cán cân thanh toán về trung hạn. Việc thâm hụt cán cân vãng lai có thể thu hẹp dần tiến tới cân bằng và thặng dư phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam được cải thiện và việc sử dụng các nguồn vốn nước ngoài có hiệu quả ở mức nào.
nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực có thể sẽ biến động mạnh theo hướng cơ cấu các mặt hàng công nghiệp tăng nhanh, mặt hàng chủ lực truyền thống tăng chậm. Nhóm hàng có kim ngạch thấp hiện nay như hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, túi xách, ô dù, mũ, vali, sản phẩm gốm sứ, dây điện và dây cáp điện, xe đạp và phụ tùng xe đạp... chiếm khoảng 15% tổng kim ngạch xuất khẩu, sẽ tham gia vào thị trường rộng lớn hơn, có thể tăng tốc.
Hàng dệt may, giày dép chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch gặp khó khăn hơn trong việc tăng nhanh kim ngạch do phải cạnh tranh trực tiếp với hàng dệt may của Trung Quốc, Ấn Độ.... Bởi vì, hàng dệt may của Việt Nam là loại gia công, hàng cấp trung bình cùng đẳng cấp với hàng dệt may các nước trong khu vực. Đồng thời, thuế suất đối với hàng dệt may Việt Nam trung bình là 15%, bằng mức thuế của các nước Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan. Đặc biệt, hàng Việt Nam phải cạnh tranh với hàng của nhóm các nước Caribe, Canada và Mexico chỉ chịu thuế 0%. Theo các chuyên gia kinh tế, năng lực cạnh tranh hàng Việt Nam không thể bằng Trung Quốc, nhưng hiện nay hàng dệt may Trung Quốc đang bị áp đặt các biện pháp hạn chế nên hàng Việt Nam có thể tận dụng cơ hội để tăng cao.
Nhóm hàng chủ lực truyền thống như cao su, gạo, cà phê, dầu thô, than đá, rau quả... chiếm khoảng 35%, tiếp tục đạt tăng trưởng cao do được tham gia trực tiếp và bình đẳng hơn vào các thị trường lớn. Khi Việt Nam vào WTO, hàng thuỷ sản không có chuyển biến nổi bật, mức độ thách thức và cơ hội cho ngành thuỷ sản ở một chừng mực nào đó đã có từ lâu. Về thách thức, tính minh bạch, rõ ràng về chất lượng sản phẩm, nguồn gốc nguyên liệu, chứng chỉ kiểm soát quá trình chế biến, sản xuất, thông tin liên quan đến tiêu chuẩn, hệ thống chất lượng ở các thị trường xuất khẩu là vấn đề khó khăn đối với doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Việt Nam gia nhập WTO trong điều kiện nền kinh tế còn đang ở trình độ phát triển rất thấp, nhưng đang trên đà tăng trưởng nhanh, điều này không chỉ đồng nghĩa với cơ hội kinh doanh còn rất nhiều, mà nền kinh tế Việt Nam đang trong tư thế sẵn sàng đón nhận các nhà đầu tư nước ngoài để bước vào một giai đoạn phát triển mới.
3.Khu vực xuất khẩu
Tỷ trọng xuất khẩu trong khu vực nước ngoài vẫn còn cao ,trong khi đó xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao
III. Giải pháp
Mục tiêu quan trọng trong chiến lược xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2007-2010 là, “chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị tăng cao; tăng sản phẩm chế biến chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô. Theo đó, tỷ trọng của các nhóm hàng nông-lâm-thuỷ sản và nhiên liệu và thủ công mỹ nghệ sẽ giảm mạnh.
Các giải pháp
1.Thận trọng giữ các thị trường truyền thống đang có ,nhất là các thị trường lớn như Mỹ , EU,Nhật Bản,ASEAN…Muốn vậy phải thực hiện đúng các thông lệ quốc tế,nhất là cam kết thuế trong WTO,các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý các hoạt đông xuất nhập khẩu cần thực hiện đúng những quy định của nghị định 12 do bộ thương mại vừa ban hành. Đồng thời tiếp tục cải cách thủ tục hành chính theo hướng thông thoáng, thuận lợi, khiên quyết chống lại thệ nạn tham nhũng và nhanh chóng bãi bỏ các thủ tục ruờm rà trong hoạt động kinh doanh và quản lí xuất nhập khẩu.
2.Công tác xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin của bộ thương mại thời gian qua đã có nhiều tiến bộ, góp phần tích cực vào tăng trưởng ngoại thương nhưng so với yêu cầu thực tiễn đặt ra vẫn cần phải được tăng cường hơn nữa, đặc biệt là các tham tán nước ngoài có trách nhiệm cung cấp đầy đủ , chi tiết các thông tin về thị trường phụ trách và thông tin thị trường thế giới để các doanh nghiệp kịp thời xử lý các vấn đề đột xuất , không gặp phải các rào cản không đáng có…
3. Tiếp tục đa dạng hóa thị trường, ngoài việc hướng sự tăng trưởng vào thị trường lớn mới mở rộng là Mỹ thì cần khuyến cáo các doanh nghiệp nên tích cực tìm kiếm các thị trường không hoặc ít sử dụng đồng USD để tránh thiệt hại cho xuất khẩu do đồng USD giảm giá. Đương nhiên đối với những thị trường sử dụng đồng USD thì cần thận trọng để đề phòng khả năng xảy ra trường hợp đó có biện pháp kịp thời, chủ động tránh các thiệt hại có thể xảy ra.
4. Đẩy mạnh hơn nữa cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và phát triển kinh tế tư nhân, khuyến khích họ tham gia các hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu. Phát triển thị trường chứng khoán để thu hút nhiều vốn và phát triển kinh tế nói chung và tăng trưởng xủất khẩu nói riêng. Mở rộng hơn nữa cơ chế, chính sách thu hút các nguồn viên trợ phát triển và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và tạo nhiều điều kiện thuận lợi, hỗ trợ mạnh mẽ vốn đầu tư và công nghệ…cho khu vực kinh tế phát triển mạnh, góp phàn tích cực cho tăng trửong XK.
5. Nhanh chóng đổi mới tư duy trong nhận thức về tiềm năng , thế mạnh của Việt Nam đã đến lúc không thể trông chờ vào việc khai thác nguồn lợi tự nhiên sẵn có để XK các sản phẩm thô như trước nữa mà phải thấy nếu còn kéo dài thêm tình trạng đó là một hạn chế, bất cập rất lớn trước yêu cầu phát triển thực tiễn hiện nay, là một thiệt thòi rất lớn về giá trị XK thu được và hơn thế nữa còn là cạn kiệt dần các nguồn tài nguyên khoáng sản của ta. Vì thế,ngoài việc tiếp tục năng động tìm kiếm, đa dạng hóa thêm các mặt hàng XK, cần tập trung các nguồn đầu tư có thể có để xây dựng và phát triển mạnh hơn nữa các khu công nghiệp chế xuất các sản phẩm công nghiệp và nông lâm ngư nghiệp đã qua công nghiệp chế biến.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0124.doc