Phần mở đầu.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được thành lập theo quyết định số 218/1999/QĐ-TTg, ngày 09 - 11 - 1999 của Thủ tướng Chính phủ và chính thức khai trương hoạt động từ ngày 07-7-2000. Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là một tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Việc thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
63 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1799 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đánh giá hoạt động các tổ chức tín dụng tại Việt Nam dựa trên các chỉ tiêu tài chính của mô hình CAMELS, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gửi và sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng.
Là một bộ phận cấu thành của hệ thống tài chính, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là công cụ quan trọng của chính phủ trong việc thanh tra giám sát hoạt động của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng.Trong thời gian tới, một trong những hoạt động quan trọng của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là xây dựng thành công mô hình cảnh báo sớm - một được sử dụng để cho những dự báo có độ chính xác cao về tình hình hoạt động của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng trong tương lai, thông qua đó Bảo hiểm tiền gửi nói riêng và các cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng nói chung có thể đưa ra các phương án giám sát thích hợp.
Là sinh viên đang theo học chuyên ngành Toán tài chính tại trường Đại học kinh tế quốc dân, sau 4 năm học tập, được sự giới thiệu của PGS-TS Nguyễn Quang Dong, em có cơ hội được thực tập tại Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.Sau một thời gian làm quen với các hoạt động của Bảo hiểm tiền tiền gửi, cùng với sự hướng dẫn của PGS-TS Nguyễn Quang Dong, sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ tại Bảo hiểm tiền gửi, em đã dần hình thành được chuyên đề thực tập cho mình.Nội dung chính của chuyên đề đề cập đến việc sử dụng các phương pháp toán học kinh tế trong việc thanh tra giám sát các ngân hàng và các tổ chức tín dụng.Do kiến thức thực tế của em còn nhiều hạn chế nên chuyên đề của em sẽ còn nhiều thiếu sót. Rất mong được sự chỉ bảo giúp đỡ của PGS-TS Nguyễn Quang Dong và các cán bộ tại Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam để em hoàn thành tốt chuyên đề thực tập của mình. Em xin chân thành cảm ơn.
Tên chuyên đề thực tập : “Đánh giá hoạt động các tổ chức tín dụng tại Việt Nam dựa trên các chỉ tiêu tài chính của mô hình CAMELS”
Chương I Giới thiệu về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
1.1 Tổng quan tình hình tài chính ngân hàng tại Việt Nam
1.1.1 Khái quát nền kinh tế Việt Nam trong năm vừa qua.
Trong năm vừa qua, bên cạnh những thuận lợi cơ bản do 20 năm đổi mới tạo ra, nền kinh tế Việt Nam phải đương đầu với nhiều khó khăn về thiên tai: đầu năm nắng hạn, giữa và cuối năm mưa lớn, lũ quét, lốc xoáy, mưa đá, bão, nhất là ba cơn bão thế kỷ số 1, số 6 và bão số 9 tàn phá nặng nề. Dịch bệnh lở mồm long móng đàn gia súc bùng phát trên diện rộng. Bệnh rầy nâu, vàng lùn và lùn xoắn lá phá hại vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long gây thiệt hại nặng nề. Giá cả một số mặt hàng như xăng dầu, phân bón, thuốc sâu trên thế giới biến động lớn. Thị trường xuất khẩu da giày vào EU bị thu hẹp... Song, nhờ sự chỉ đạo điều hành sát sao của Chính phủ thông qua những chính sách phù hợp và kịp thời, cùng với sự nỗ lực cố gắng của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp nên nền kinh tế Việt Nam năm 2006 vẫn phát triển toàn diện theo hướng bền vững.
Nền kinh tế nước ta năm 2006 vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu do Quốc hội đề ra đều đạt và vượt kế hoạch. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) ước tăng gần 8,2% (kế hoạch 8%), trong đó khu vực nông - lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,23% (kế hoạch 3,8%), khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,46% (kế hoạch 10,2%), riêng công nghiệp tăng 10,28% và khu vực dịch vụ tăng 8,26%, kế hoạch tăng 8%). Đáng chú ý là tốc độ tăng trưởng kinh tế thời kỳ sau cao hơn thời kỳ trước: quý I tăng 7,2%; quý II tăng 7,4%; quý III tăng 7,8% và quý IV ước tăng 8,4%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiến bộ: tỷ trọng khu vực I từ 20,89% GDP năm 2005 giảm còn 20,37% năm 2006, khu vực II tăng từ 41,03% lên 41,56% và khu vực III từ 38,07% tăng lên 38,08% trong 2 năm tương ứng. GDP bình quân đầu người đạt trên 11,5 triệu đồng, tương đương 720 USD, tăng 80 USD so năm 2005.
Do kinh tế tăng trưởng khá nên tình hình tài chính lành mạnh. Tổng thu ngân sách năm 2006 ước đạt trên 261,1 nghìn tỉ đồng vượt dự toán 9,8% (dự toán là 237,9 nghìn tỉ đồng), tăng 20,3% so năm 2005. Các khoản thu lớn trong nước đều tăng khá và đạt kế hoạch đề ra. Tổng chi ngân sách ước đạt trên 315 nghìn tỉ đồng, vượt dự toán (dự toán 294,4 nghìn tỉ đồng) và tăng 20% so với năm 2005. Các khoản chi lớn như: đầu tư phát triển, lương và bảo hiểm xã hội, phát triển y tế, văn hóa, giáo dục, điều chỉnh lương tối thiểu, chi đột xuất hỗ trợ vùng bị thiên tai, phòng chống dịch bệnh, sâu bệnh... đều được thực hiện kịp thời, đúng đối tượng. Bội chi ngân sách nhà nước ước bằng 5% GDP (dự toán 5%), trong đó trên 80% được bù đắp bằng vay trong nước, 20% vay nước ngoài.
Sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản vẫn tăng trưởng. Giá trị sản xuất khu vực này năm 2006 ước tăng 4,15% so năm 2005, trong đó nông nghiệp tăng 3,1%, lâm nghiệp, tăng 1,0%, thủy sản tăng 8,5%.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là điểm sáng nổi bật nhất trong bức tranh kinh tế Việt Nam. Năm 2006, tổng số vốn FDI đăng ký mới và đầu tư bổ sung đạt trên 10,2 tỉ USD, mức cao nhất kể từ năm 1988 (8,6 tỉ USD năm 1995). Vốn bình quân 1 dự án 8,4 triệu USD, tăng 1,2 triệu USD năm 2005. Địa phương thu hút nhiều dự án và vốn đầu tư là Bà Rịa - Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh; Bình Dương. Nét mới của năm 2006 là có những dự án đầu tư mới khá lớn như Công ty thép Posco 1126 triệu USD; Công ty TNHH Intel products VN 605 triệu USD; công ty TNHH phát triển THT 314 triệu USD; Công ty TNHH thép Tycoon Steel VN 556 triệu USD. Một số công ty tăng vốn nhiều như: Công ty Intel Produce VN tăng 395 triệu USD; Công ty Bạch Mã tăng 10 triệu USD; Công ty giày Linh Luh tăng 98 triệu USD; Công ty Canon tăng 70 triệu USD. Một số tập đoàn kinh tế lớn đã chuyển dự án từ Trung Quốc sang Việt Nam. Tập đoàn Nike lo ngại rủi ro kinh doanh ở Trung Quốc đã tuyển dụng 50.000 lao động tại Việt Nam để mở rộng sản xuất. Tập đoàn Intel gia tăng vốn đầu tư lên trên 1 tỉ USD tại Việt Nam trong năm 2006 là minh chứng rõ ràng.
Các đối tác đầu tư vốn lớn trong năm 2006 là: Hàn Quốc; Hồng Công, Hoa Kỳ, Nhật Bản, quần đảo Caymen Island, quần đảo Vigines thuộc Anh, Xin-ga-po. Sự gia tăng các dự án của những tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, nhất là Hoa Kỳ và Nhật Bản trong tháng 11 qua Hội nghị APEC 14 đã báo hiệu dòng đầu tư nước ngoài mới đang dồn về Việt Nam. Chỉ trong 1 ngày, tháng 11-2006 Việt Nam đã thu hút 2 tỉ USD vốn đầu tư và kinh doanh của các doanh nghiệp nước ngoài, đạt mức kỷ lục so với các năm trước. Cuối năm tỉnh Hà Tây đã trao giấy phép đầu tư cho Công ty TNHH điện tử Meiko Việt Nam - Nhật Bản với số vốn lên tới 300 triệu USD,...
Nét nổi bật trong thương mại năm 2006 có 3 sự kiện lớn: Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam và xuất khẩu đạt 39,6 tỉ USD vượt xa kế hoạch đầu năm, tăng 22,1% so với năm trước. Ba sự kiện đó đánh dấu bước ngoặt trong hoạt động thương mại của Việt Nam trong quá trình hội nhập sâu vào kinh tế thế giới.
Thị trường trong nước vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ toàn xã hội năm 2006 ước tăng 20,4%, nếu loại trừ tốc độ trượt giá cũng tăng 11%; doanh thu du lịch tăng 28,5%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12-2006 tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 6,6% so cùng kỳ năm ngoái, đạt mục tiêu đề ra, thấp hơn tốc độ tăng GDP. Trong bối cảnh thiên tai, dịch bệnh dồn dập trên diện rộng gây thiệt hại nặng nề nhưng thị trường và giá cả các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống vẫn ổn định, không có sốt giá là thắng lợi lớn của Chính phủ trong chỉ đạo vĩ mô, kiềm chế lạm phát. Giá USD khá ổn định: tháng 12 tăng 1,2% so cùng kỳ năm 2005. Giá vàng không ổn định và đứng ở mức cao, ước tháng 12-2006 tăng 25,1% so với cùng kỳ năm 2005.
Kim ngạch xuất khẩu cả năm ước đạt 40 tỉ USD, tăng 24% so năm 2005. Điều đáng chú ý là hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng trưởng cao và đạt kim ngạch cao. Đã có 9 mặt hàng có giá trị xuất khẩu đạt trên 1 tỉ USD là gạo, cao su, dầu thô, hàng dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, thủy sản, điện tử, máy tính, hàng hóa khác... Nhiều mặt hàng trong nhóm này sẽ vượt kế hoạch năm với khoảng cách lớn. Hai mặt hàng có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất là cao su, than đá. Hạt tiêu cũng là mặt hàng tăng trưởng mạnh, đạt kim ngạch cao nhất trong các năm gần đây. Mặt hàng giày dép vẫn tiếp tục có tốc độ tăng trưởng ấn tượng trong điều kiện bị áp thuế chống bán phá giá vào thị trường EU. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng giày dép vẫn tăng tới 21,5% so với cùng kỳ. Tốc độ tăng trưởng trên có sự đóng góp rất lớn của thị trường châu Mỹ.
Kim ngạch nhập khẩu cả năm 2006 ước đạt 44 tỉ USD tăng 20% so năm trước. Hàng hóa nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị, nhiên liệu, nguyên liệu, phụ liệu dệt may. Hàng tiêu dùng chiếm tỷ trọng nhỏ. Nhập siêu năm 2006 ước đạt 4,4 tỉ USD, bằng 10,4% kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn năm 2005.
Do kinh tế tăng trưởng khá nên các mục tiêu của chiến lược phát triển xã hội và môi trường đạt kết quả khá. Hầu hết các chỉ tiêu do Quốc hội đề ra về lĩnh vực này đạt kế hoạch. Đã tạo việc làm mới cho 1,6 triệu lao động, giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới xuống 19%, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng dưới 24%. Các lĩnh vực về khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa thông tin, dạy nghề, y tế, thể dục thể thao... cũng có chuyển biến tích cực. Đời sống dân cư ổn định và được cải thiện đáng kể. Thu nhập của cán bộ viên chức và người về hưu đựợc nâng lên do tăng lương tối thiểu từ 350 nghìn đồng lên 450 nghìn đồng/tháng từ ngày 1-10-2006. Bộ mặt nông thôn đổi mới, cơ sở hạ tầng được xây dựng mới và nâng cấp. Tình trạng thiếu đói giáp hạt trong nông thôn đã giảm so với các năm trước: số hộ giảm 58% và số khẩu giảm 58,9%, dù cho thiên tai, dịch bệnh năm 2006 nhiều hơn các năm trước. An ninh quốc phòng được giữ vững, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Điều đó đã được chứng minh qua Hội nghị Cấp cao APEC 14 tại Hà Nội.
Bên cạnh thành tựu và tiến bộ, tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2006 vẫn còn nhiều yếu kém và bất cập. Tốc độ tăng GDP chưa vững, chưa đều và còn thấp so với tiềm năng. Chất lượng của sự tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm và không đều. Tình trạng thất thoát nguồn lực tài chính, tài nguyên thiên nhiên và lao động còn lớn. Tham nhũng, lãng phí tài sản nhà nước, ngân sách quốc gia vẫn còn nghiêm trọng. Công tác cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chậm và không đạt kế hoạch. Các cân đối vĩ mô của nền kinh tế - tài chính chưa vững chắc. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, nhất là vùng nông thôn, miền núi. Một số vấn đề về phát triển kinh tế bền vững... còn nhiều hạn chế. Nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO và có PNTR còn nhiều bất cập. Nợ nước ngoài đã chạm ngưỡng khung an toàn... Những hạn chế và bất cập đó thể hiện rõ trong từng ngành và lĩnh vực kinh tế.
Về giá cả, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống chiếm tỷ trọng lớn nhất liên quan đến đời sống hàng chục triệu hộ gia đình giá lại tăng liên tục trong 12 tháng với mức trên 8%. Đáng lo ngại là giá lương thực tăng cao và liên tục, trong đó tháng 9 tăng 0,4%, tháng 10 tăng 1,3%, tháng 11 tăng 3,8% và ước tháng 12 vẫn tăng trên 2%, chung 12 tháng tăng trên 13%. Do vậy, Chính phủ đã quyết định ngừng xuất khẩu gạo. Nguyên nhân tăng giá lương thực là do cầu tăng nhanh, cung tăng chậm: lúa hàng hóa vụ hè thu giảm mạnh, nhất là đồng bằng sông Cửu Long, trong khi đó nhu cầu gạo xuất khẩu tăng cao. Tốc độ và kim ngạch xuất khẩu năm 2006 tăng cao, nhưng chưa vững vì tỷ trọng hàng xuất là hàng thô như dầu thô, than đá, thủy sản, cao su, cà phê, hạt tiêu, gạo... còn lớn, hàng tinh chế chất lượng cao còn ít. Những khó khăn và yếu kém trên cần được chú ý khắc phục trong những năm tiếp theo.
Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XI đã ra Nghị quyết về các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội nămt tới. Về kinh tế, Nghị quyết chỉ rõ: tốc độ tăng GDP đạt từ 5,2% - 5,5%, kim ngạch xuất khẩu tăng 17,4%, vốn đầu tư toàn xã hội đạt 40% GDP... Với thế và lực mới được tạo ra trong năm 2006, dự báo triển vọng tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2007 sẽ lạc quan. Cơ sở của dự báo đó là: Nguồn lực, nhất là vốn cho đầu tư phát triển sẽ tăng mạnh, nhất là vốn ODA, FDI. Với việc Quốc hội Hoa Kỳ thông qua PNTR, khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và vốn ODA sẽ tăng mạnh ngay từ những tháng đầu năm. Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam họp từ ngày 14 đến 15-12-2006, theo Giám đốc WB tại Hà Nội, ông Klaus Rohland, vốn ODA cho Việt Nam năm 2007 cao hơn năm 2006 (3,74 tỉ USD). Về vốn FDI từ Mỹ, có PNTR hai quỹ OPIC và Eximbank sẽ hoạt động tốt hơn trong việc thúc đẩy đầu tư và thương mại của các doanh nghiệp Mỹ ở nước ngoài (Quỹ OPIC bảo đảm đầu tư còn quỹ EXimbank bảo đảm tín dung xuất khẩu). Theo ông Michael Marine, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, "đầu tư của Mỹ và Việt Nam (năm 2007) sẽ tăng gấp đôi mức hiện nay" (4 tỉ USD). Đầu tư của các doanh nghiệp Mỹ tăng vọt sẽ thúc đẩy doanh nghiệp các nền kinh tế lớn khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, EU không đứng yên. Một dòng đầu tư mới vào Việt Nam sẽ chảy mạnh, tạo nguồn lực cho đầu tư phát triển, nhất là công nghiệp và dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Dự báo vốn FDI năm 2007 ít nhất sẽ lên tới trên 11 tỉ USD, tăng 2 tỉ USD so năm 2006. Hoạt động xuất nhập khẩu sẽ nhộn nhịp hơn năm 2006. Về thương mại, PNTR là cơ sở để Mỹ xét lại các mức thuế ưu đãi (trước đây là 3600 dòng, còn từ năm 2007 là 10 nghìn dòng) cho hàng nhập khẩu từ Việt Nam. Thêm vào đó, có PNTR và Việt Nam là thành viên WTO hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may, giày dép, thủy sản vào Mỹ cũng như các vấn đề về bán phá giá cá basa, tôm, giày da..., sẽ bị bãi bỏ. Do đó, hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ tăng mạnh nhất là gạo, cà phê, cao su... Chắc chắn quan hệ đầu tư và buôn bán giữa nền kinh tế số 1 thế giới và Việt Nam sẽ có bước ngoặt mới, đầy triển vọng. Dự báo kim ngạch xuất nhập khẩu giữa 2 nước sẽ đạt trên 11 tỉ USD trong năm 2007 (năm 2006 đã đạt gần 10 tỉ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu gần 8 tỉ USD). Theo các nhà kinh tế Hoa Kỳ sau PNTR và WTO, "Nền kinh tế Việt Nam sẽ thay đổi lớn trong đó cán cân thương mại sẽ nghiêng về Việt Nam" (Nhận định của Ông Walter Blocker, Chủ tịch Phòng Thương mại Hoa Kỳ tại thành phố Hồ Chí Minh). Cùng với Mỹ quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các thị trường khác nhất là EU, Trung Quốc, Nhật Bản cũng sẽ có bước đột biến và tăng tốc.
Sự tăng tốc về đầu tư và xuất khẩu, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ có vốn và thị trường mới sẽ tiếp tục phát triển và tăng trưởng cao hơn năm 2006. Do đó, khả năng tăng trưởng GDP 8,5% của năm 2007 là hiện thực. Nếu năm 2006 không có bão lũ lớn và dịch bệnh lúa đồng bằng sông Cửu Long thì GDP cũng sẽ tăng trên 8,5% cho dù chưa có PNTR và WTO. Vậy không có lý do gì từ nay kinh tế Việt Nam lại tăng chậm hơn năm 2006. Kinh nghiệm Trung Quốc sau 5 năm vào WTO và có PNTR, tốc độ tăng GDP của nước này luôn đạt trên 9%/năm và năm 2006 đã ước đạt trên 10,5%.
Để biến triển vọng thành thực tế, ngay từ đầu năm các ngành, các cấp, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cần thực hiện nghiêm chỉnh sự điều hành của Chính phủ trong việc triển khai nhiều giải pháp, tận dụng thời cơ, khắc phục yếu kém, vượt qua thách thức nhằm thực hiện vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch năm 2007.
1.1.2 Tình hình tài chính ngân hàng tại Việt Nam
Các công cụ chính sách tiền tệ tiếp tục được điều hành linh hoạt nhằm giảm áp lực tăng tổng phương tiện thanh toán, ổn định lãi suất thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Chủ động điều tiết kịp thời thị trường tiền tệ thông qua việc cung ứng tiền mua ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối nhà nước và hút tiền về qua nghiệp vụ thị trường mở (bán tín phiếu Ngân hàng Nhà nước - NHNN) và các kênh tái cấp vốn khác, phù hợp với chỉ tiêu tổng lượng tiền cung ứng được phê duyệt.Giữ nguyên các mức lãi suất chủ đạo (lãi suất cơ bản 8,25%/năm, tái cấp vốn 6,5%/năm, chiết khấu 4,5%/năm) và tỷ lệ dự trữ bắt buộc như cuối năm 2005 nhằm ổn định lãi suất thị trường trước tác động tăng lãi suất trên thị trường quốc tế. Chủ động can thiệp mua - bán ngoại tệ và thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có kiểm soát của Nhà nước để duy trì tỷ giá VND so với USD biến động tăng ở mức độ thấp (giảm nhẹ giá của VND so với USD). Tăng cường giám sát các tỷ lệ an toàn vốn của ngân hàng thương mại (NHTM), khuyến khích các NHTM sử dụng vốn khả dụng trong phạm vi tỷ lệ an toàn và đầu tư trái phiếu Chính phủ, giấy tờ có giá khác để cung ứng vốn cho nền kinh tế và tăng tính thanh khoản. Để tạo điều kiện cho các TCTD tiếp cận các kênh tái cấp vốn và tăng khả năng điều tiết tiền tệ, NHNN đã mở rộng danh mục giấy tờ có giá trong các giao dịch tái cấp vốn, bao gồm cả trái phiếu do Quỹ Hỗ trợ phát triển (nay là Ngân hàng Phát triển), trái phiếu đô thị do ngân sách thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội phát hành. NHNN thực hiện tái cấp vốn cho các TCTD chủ yếu thông qua phân bổ hạn mức chiết khấu, hạn chế cho các TCTD vay bằng cầm cố giấy tờ có giá. Đối tượng được NHNN tái cấp vốn không chỉ là các NHTM nhà nước như những năm trước, mà đã có thêm nhiều NHTM cổ phần.
Thực hiện mục tiêu kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng để góp phần kiềm chế lạm phát, đồng thời bảo đảm an toàn, hiệu quả trong hoạt động tín dụng, năm 2006, NHNN đã tăng cường chỉ đạo các TCTD tập trung vào việc nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát tăng trưởng tài sản có rủi ro. Thống đốc NHNN đã ban hành Chỉ thị số 02/2006/CT-NHNN và nhiều văn bản khác để chỉ đạo các TCTD tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh, nhất là việc cho vay đối với các nhu cầu vốn để kinh doanh bất động sản, đầu tư cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
NHNN đã kịp thời chỉ đạo việc xử lý, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp và hộ gia đình vay vốn bị thiệt hại do nguyên nhân khách quan như bão lụt, dịch bệnh đối với gia súc, gia cầm và cây trồng… Mặt khác, chủ động phối hợp với các bộ, ngành liên quan từng bước xử lý khoản nợ tồn đọng của các chương trình cho vay theo quyết định của Chính phủ trước đây (cho vay khắc phục hậu quả bão số 5 năm 1997, khắc phục hậu quả thiên tai 1998 - 1999, cho vay tôn nền hoặc làm sàn nhà trên cọc, chương trình 1 triệu tấn đường, đánh bắt cá xa bờ).Cơ chế, chính sách liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện theo hướng phù hợp hơn, tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của TCTD và khách hàng, như: sửa đổi Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của TCTD đối với khách hàng; sửa đổi Quy chế huy động tiền gửi tiết kiệm, Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng của TCTD đối với khách hàng; Quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất; Quy chế mua bán nợ của các TCTD… NHNN cũng đã xây dựng và trình Chính phủ Đề án đổi mới chính sách tín dụng ưu đãi đối với vùng khó khăn theo hướng tách bạch rõ tín dụng thương mại và tín dụng chính sách.
Với các giải pháp trên, điều hành chính sách tiền tệ trong năm 2006 về cơ bản, đã đạt được mục tiêu là ổn định tiền tệ, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế, đồng thời kiềm chế lạm phát ở mức thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Kết quả này thể hiện qua một số điểm:
- So với cuối năm 2005, lãi suất VND của các TCTD tăng nhẹ khoảng 0,25%/năm. Diễn biến này phù hợp với cung - cầu vốn thị trường, diễn biến kinh tế - tiền tệ trong nước và lãi suất thị trường quốc tế.
- Tỷ giá VND so với USD tăng dưới 1,5%, phù hợp với mục tiêu khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư, cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước. Nhờ nguồn cung ngoại tệ dồi dào, nên có thời điểm, tỷ giá bán ra của các NHTM ở dưới mức trần cho phép. Tỷ giá trên thị trường tự do cũng biến động theo xu hướng của tỷ giá trên thị trường chính thức với mức chênh lệch thấp (từ 3 - 20 đ/1USD), ngoại trừ việc tăng đột biến trong một vài ngày đầu tháng 5/2006. Tính đến ngày 31/12/2006, tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng tăng 1,36% so với cuối năm 2005, trong khi tỷ giá bán ra của các NHTM tăng 0,88%.
- Dư nợ cho vay nền kinh tế đến ngày 31/12/2006 tăng 21,4% so với cuối năm 2005, tương ứng với mức tăng của năm 2005, sát với mục tiêu đề ra từ đầu năm.
Pháp lệnh Ngoại hối ra đời đã tạo cơ sở pháp lý hết sức quan trọng cho công tác quản lý ngoại hối của NHNN trong điều kiện hội nhập quốc tế. Để kịp thời cụ thể hóa các nội dung quan trọng của Pháp lệnh, NHNN đã khẩn trương xây dựng, trình và được Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn Pháp lệnh Ngoại hối. Đồng thời, NHNN tiếp tục bổ sung, chỉnh sửa các quy định liên quan nhằm thực hiện tự do hóa các giao dịch vãng lai, như: hướng dẫn việc ủy quyền cho TCTD xem xét giải quyết nhu cầu mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài của công dân Việt Nam thay cho cơ chế xem xét, cấp phép của NHNN trước đây; huỷ bỏ việc báo cáo thu, chi ngoại tệ trong ngày đối với các ngân hàng được phép hoạt động ngoại hối; cho phép triển khai thí điểm cơ chế mua, bán ngoại tệ tiền mặt theo tỷ gá thỏa thuận tại các TCTD được phép hoạt động ngoại hối.
Cùng với đổi mới các cơ chế chính sách khác, việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý ngoại hối theo hướng thông thoáng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế đã có tác động tích cực đến đâu tư của nước ngoài vào Việt Nam (bao gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp), kéo theo dòng chảy của các luồng vốn và cải thiện đáng kể cung cầu ngoại tệ của Việt Nam.
Nhờ nguồn cung ngoại tệ dồi dào, nên lượng ngoại tệ NHNN mua được lớn hơn nhiều so với lượng ngoại tệ NHNN bán ra, làm cho dự trữ ngoại hối nhà nước tăng đều và tương đối ổn định, góp phần thực hiện tốt mục tiêu chiến lược của ngành Ngân hàng từ nay đến năm 2010 là tăng nhanh dự trữ ngoại hối nhà nước. Hiện nay, dự trữ ngoại hối nhà nước đã đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ tương đương 12 tuần nhập khẩu (đạt mức tối thiểu theo thông lệ quốc tế), giúp nâng cao khả năng thanh toán quốc tế và hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam. Khác với những năm trước, trong năm 2006, ngoài các NHTM nhà nước, NHNN còn đáp ứng nhu cầu mua ngoại tệ của nhiều NHTM cổ phần.
Năm 2006, NHNN đã tổ chức đánh giá toàn diện mô hình tổ chức, hoạt động, khung pháp lý, hạ tầng hỗ trợ hoạt động giám sát ngân hàng, đồng thời đánh giá mức độ tuân thủ của hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng Việt Nam theo các nguyên tắc của Uỷ ban giám sát ngân hàng quốc tế (BASEL). Trên cơ sở đó, xác định những vấn đề còn hạn chế, bất cập làm giảm hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, tạo cơ sở cho việc xây dựng Đề án cải cách tổ chức và hoạt động thanh tra ngân hàng phù hợp với định hướng chiến lược phát triển thanh tra ngân hàng đến năm 2010; đến nay, việc xây dựng Đề án này đã bước đầu được hoàn thành. Các nội dung quan trọng khác nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Thanh tra ngân hàng đang được NHNN khẩn trương chỉ đạo xây dựng để triển khai trong thời gian tới.
Năm 2006, bên cạnh việc thanh tra tính tuân thủ pháp luật, hoạt động thanh tra của NHNN đã tập trung vào việc đánh giá những tồn tại yếu kém về tổ chức, cơ chế hoạt động của hệ thống kiểm toán nội bộ tại các TCTD, trên cơ sở đó, có các khuyến cáo cần thiết nhằm chấn chỉnh, củng cố và nâng cao vai trò, hiệu quả của bộ máy kiểm toán nội bộ tại các TCTD. Hoạt động giám sát từ xa đã được thiết lập từ trung ương đến các địa phương theo chuẩn mực kế toán mới, việc cung cấp thông tin số liệu đã từng bước được cải thiện theo hướng chính xác và đầy đủ hơn.
Trên cơ sở kết quả thanh tra, giám sát, NHNN đã tăng cường công tác theo dõi và đề ra những biện pháp chấn chỉnh xử lý cụ thể nhằm nâng cao tính ổn định, an toàn và hiệu quả trong hoạt động của các TCTD.
Năm 2006, NHNN đã chỉ đạo xử lý dứt điểm các khoản nợ xấu từ ngày 31/12/2000 trở về trước theo Quyết định số 149/2001/QĐ-TTg; thực hiện kiên quyết các giải pháp nhằm ngăn ngừa nợ xấu mới phát sinh; chỉ đạo các ngân hàng nghiên cứu, xây dựng và áp dụng các mô thức quản trị ngân hàng hiện đại như: xây dựng chiến lược kinh doanh, sổ tay tín dụng, hoàn thiện hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ, quản lý tài sản Nợ - Có, quản lý rủi ro; thực hiện việc kiểm toán theo chuẩn mực quốc tế. Cùng với việc chỉ đạo xử lý nợ tồn đọng, NHNN đã phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng và trình Chính phủ phương án tăng cường năng lực tài chính đối với các NHTM nhà nước (tháng 11/2006).
Về tiến trình cổ phần hóa các NHTM nhà nước: Đến nay, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long vẫn đang trong giai đoạn kiểm kê, đối chiếu, phân loại tài sản công nợ, xử lý tồn tại tài chính và lựa chọn tổ chức tư vấn cổ phần hóa. Tiến độ cổ phần hóa 2 ngân hàng này chậm hơn so với yêu cầu và kế hoạch, do một số nguyên nhân như: (i) Quy mô hoạt động và tính chất hoạt động của 2 ngân hàng này có nhiều đặc thù so với các công ty nhà nước thuộc các lĩnh vực khác, nên việc cổ phần hóa phải vừa triển khai vừa nghiên cứu và cần có sự tham gia của các bộ, ngành liên quan, vì vậy, thời gian thực hiện kéo dài; (ii) Quá trình tuyển chọn, đàm phán và quyết định thuê tư vấn rất phức tạp với nhiều nội dung, thủ tục; (iii) Các quy định pháp lý về cổ phần hóa hiện hành cũng còn những nội dung chưa hoàn toàn phù hợp với đặc thù hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long, cần có văn bản hướng dẫn…
Đối với 3 NHTM nhà nước còn lại, Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận chủ trương và tiến độ cổ phần hóa do NHNN đề xuất. Ngân hàng Công thương Việt Nam và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã xây dựng xong và trình Chính phủ Phương án cổ phần hóa.
NHNN đã ban hành các quy định liên quan đến việc đổi mới cơ chế quản lý của các NHTM (công khai thông tin, kiểm toán, kiểm tra, kiểm soát nội bộ); tạo điều kiện để các ngân hàng nâng cao khả năng cạnh tranh, kiểm soát rủi ro và phát triển dịch vụ mới; cho phép một số NHTM cổ phần thí điểm bán cổ phần cho đối tác chiến lược nước ngoài để thu hút công nghệ, trình độ quản lý và nâng cao uy tín của ngân hàng. Năm 2006, 3 NHTM cổ phần đã được NHNN chấp thuận cho niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán (trong đó 2 ngân hàng đã niêm yết), 2 NHTM nhà nước cũng được phép niêm yết trái phiếu tăng vốn. Để từng bước hình thành những ngân hàng cổ phần có quy mô vốn lớn, NHNN đã phê duyệt Đề án cơ cấu lại NHTM cổ phần nông thôn. Đến nay, 5 NHTM cổ phần nông thôn đã được NHNN cho phép chuyển đổi mô hình kinh doanh thành NHTM cổ phần đô thị, 3 ngân hàng được chấp thuận về mặt nguyên tắc chuyển đổi mô hình kinh doanh.
NHNN tiếp tục quan tâm chỉ đạo, bảo đảm cho loại hình TCTD này hoạt động an toàn, hiệu quả, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn nông thôn. Đến cuối năm 2006, hệ thống QTDND bao gồm QTDND Trung ương với 24 chi nhánh hoạt động trên địa bàn 54 tỉnh, thành phố và 940 QTDND cơ sở (tăng 15 quỹ so với cuối năm 2005). Hoạt động của hệ thống QTDND tiếp tục có bước tăng trưởng bền vững; các QTDND phát triển ổn định, an toàn, hiệu quả, các chỉ tiêu cơ bản đều tăng trưởng khá so với năm 2005, nhất là nguồn vốn huy động tiền gửi dân cư. NHNN đã chỉ đạo các đơn vị chức năng xử lý dứt điểm các tồn tại và sai phạm mới phát sinh ở một số QTDND, trong đó, chú trọng đặc biệt đối với các QTDND yếu kém thuộc diện phải thu hồi giấy phép hoạt động; tích cực đôn đốc đẩy nhanh tiến độ thanh lý các QTDND đã bị giải thể và tăng cường kiểm tra, giám sát thủ tục cấp giấy phép hoạt động đối với các QTDND thành lập mới.
Tính đến nay, có 11 công ty cho thuê tài chính và 6 công ty tài chính được thành lập và hoạt động tại Việt Nam. Trong năm 2006, NHNN đã phối hợp với các bộ, ngành xây dựng các văn bản hướng dẫn các mặt hoạt động của loại hình TCTD này (quy định tại Nghị định số 16 và Nghị định số 65) và nghiên cứu triển khai việc xây dựng cơ sở pháp lý cho loại hình TCTD phi ngân hàng chuyên biệt, tập trung vào những nghiệp vụ đặc thù mà dịch vụ ngân hàng truyền thống không cung cấp nhằm đa dạng hóa và tạo điều kiện cho các TCTD phi ngân hàng phát triển.
Để đảm bảo cho các TCTD có đủ năng lực cạnh tranh trong bối cảnh mới, NHNN đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 về danh mục mức vốn pháp định của các TCTD (thay thế Nghị định số 82/1998/NĐ-CP), trong đó, đã nâng mức vốn pháp định mà các TCTD phải đáp ứng đến năm 2008 và năm 2010; trình và được Chính phủ phê duyệt Đề án về chủ trương thành lập ngân hàng mới và Đề án các tiêu chí thành lập ngân hàng mới tại Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. NHNN cũng đã ban hành kế hoạch sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định nhằm tăng cường kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng; đồng thời, khẩn trương chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung các quy định về phân loại nợ, xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng để tiếp tục tiến dần đến các chuẩn mực quốc tế tiên tiến nhất.
Dự án hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán giai đoạn 2 đang được khẩn trương thực hiện theo đúng lộ trình và cơ bản đáp ứng tiến độ đã cam kết với Ngân hàng thế giới (WB). Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng được mở rộng với 65 ngân hàng thành viên và 270 chi nhánh tham gia, mỗi ngày thực hiện khoảng 12.000 - 13.000 giao dịch với giá trị giao dịch bình quân 8.000 tỷ đồng/ngày. Trong năm 2006, NHNN đã triển khai thanh toán bù trừ điện tử thêm ở 9 tỉnh, thành phố, nâng số lượng các tỉnh, thành phố đã triển khai thanh toán bù trừ điện tử lên 33 tỉnh, thành phố.
Với nỗ lực nâng cao khả năng cạnh tranh, nhiều ngân hàng đã chú trọng phát triển, ứng dụng các công nghệ hiện đại vào việc thực hiện các dịch vụ của ngân hàng mình, một số ngân hàng đã nối mạng trực tuyến trong nội bộ hệ thống nhằm phục vụ việc quản lý tập trung và giao dịch trực tuyến. Bên cạnh dịch vụ thẻ, các nghiệp vụ mới đã được các TCTD chú trọng phát triển như bao thanh toán, internet banking, sản phẩm tiền gửi bảo toàn vốn bằng ngoại tệ gắn với biến động tỷ giá, sản phẩm đầu tư gắn với rủi ro tín dụng và hoán đổi rủi ro tín dụng…
NHNN đã trình Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể phát triển thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020, ban hành Nghị định thanh toán không dùng tiền mặt và đang trình Nghị định về giao._. dịch điện tử trong lĩnh vực ngân hàng; đồng thời, ban hành nhiều văn bản hướng dẫn các TCTD và khách hàng sử dụng các công cụ thanh toán, như: Quy định về cung ứng và sử dụng séc, Quy định về nhờ thu hối phiếu qua người thu hộ, dự thảo sửa đổi Quy chế thẻ ngân hàng…
Tỷ trọng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán ngày càng giảm (ước cuối năm 2006 còn 18,8%, giảm so với tỷ lệ 21,4% của năm 2005). Dịch vụ thẻ tiếp tục phát triển mạnh, trong năm 2006 tốc độ phát hành thẻ tăng 30% so với cuối năm 2005, nâng tổng số thẻ phát hành lên 3,5 triệu thẻ với gần 60 thương hiệu, 17 ngân hàng phát hành và trên 20 ngân hàng làm đại lý thanh toán. Toàn hệ thống ngân hàng hiện có khoảng 2.154 máy ATM (tăng 21% so với cuối năm 2005) và gần 17.000 thiết bị ngoại vi (tăng 17% so với cuối năm 2005).
Thực hiện thông báo kết luận số 191/TB/TW ngày 1/9/2005 của Bộ Chính trị về mục tiêu, giải pháp phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Thực hiện Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án, trong đó, đã xác định danh mục cụ thể các đề án, dự án cần triển khai, đơn vị thực hiện và thời gian hoàn thành.
NHNN đã thành lập Ban soạn thảo Luật Ngân hàng gồm tiểu ban Luật NHNN và tiểu ban Luật các TCTD, đồng thời xây dựng lộ trình cụ thể để triển khai việc tổng kết 2 Luật Ngân hàng. Đến nay, Ban soạn thảo đã triển khai việc tổng kết 2 Luật Ngân hàng trong toàn hệ thống; đồng thời, đang xúc tiến việc xây dựng Đề cương của 2 Luật Ngân hàng mới với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, chuyên gia nước ngoài.
Thực hiện lộ trình đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), trong năm 2006, NHNN đã tích cực phối hợp với các bộ, ngành tham gia đàm phán gia nhập WTO, xây dựng các phương án đàm phán, trả lời các nội dung liên quan đến lĩnh vực ngân hàng do các nước thành viên đưa ra để phục vụ cho việc cập nhật bản hiện trạng về chính sách thương mại thuộc lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam; chủ động phối hợp với các bộ, ngành liên quan trình Chủ tịch nước và Quốc hội phê chuẩn ngay khi Việt Nam kết thúc đàm phán và phối hợp với các bộ, ngành xây dựng kế hoạch hành động hậu WTO cho ngành Ngân hàng.
Các mối quan hệ với các tổ chức quốc tế như: IMF, WB, ADB, các cơ quan và Chính phủ các nước Châu Âu, Châu á, Châu Mỹ… tiếp tục được NHNN duy trì và mở rộng. Tốc độ giải ngân các dự án vay vốn của WB và ADB nhìn chung diễn ra đúng kế hoạch và từng bước được cải thiện, các hoạt động nhằm thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực tài chính được tích cực triển khai.
Định hướng nhiệm vụ ngân hàng trong các năm tới ngân hàng nhà nước đưa ra một số chỉ tiêu cụ thể như sau
_ Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm tạo điều kiện thông thoáng, nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động của các TCTD và phù hợp với các cam kết và chuẩn mực quốc tế. Xây dựng 2 Luật Ngân hàng mới tạo cơ sở pháp lý cho mô hình Ngân hàng Trung ương hiện đại và phát triển hệ thống TCTD trong giai đoạn mới.
_ Điều hành chính sách tiền tệ một cách chủ động, linh hoạt, kiểm soát lạm phát ở mức thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế bảo đảm mục tiêu ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
_ Đáp ứng có hiệu quả các nhu cầu vốn phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng đảm bảo an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững của các TCTD.
_ Đẩy nhanh chương trình tái cơ cấu, nâng cao năng lực hoạt động và khả năng cạnh tranh của các TCTD, tiếp tục hoàn thiện và phát triển hệ thống QTDND. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các NHTM nhà nước (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam).
_Đẩy mạnh các hoạt động nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngân hàng.
_Tiếp tục hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, hệ thống thanh toán, hệ thống thông tin ngân hàng.
_Thực hiện tốt công tác điều hòa lưu thông tiền mặt, đáp ứng kịp thời nhu cầu của nền kinh tế cả về giá trị và cơ cấu mệnh giá. Đẩy mạnh công tác phòng chống tiền giả.
_Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến về hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng.
1.2 Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam với hoạt động giám sát các Tổ chức tín dụng.
1.2.1 Giới thiệu về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Bảo Hiểm Tiền Gửi Việt Nam chính thức đi vào hoạt động từ năm 2000, là tổ chức tài chính do chính phủ thành lập.
Bảo Hiểm Tiền Gửi Việt Nam hoạt động theo quy định riêng, không bị điều chỉnh bởi Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm. Khung pháp lý hiện tại để điều chỉnh hoạt động của Bảo Hiểm Tiền Gửi Việt Nam là các Nghị Định.
Chức năng, nhiệm vụ của BHTGVN là: bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng và sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng, là bộ phận cấu thành của hệ thống giám sát tài chính quốc gia.
Về tổ chức và quy mô hoạt động:
Gồm 6 chi nhánh khu vực :Hà Nội, Đông Bắc Bộ (trụ sở tại Hải Phòng), Bắc Trung Bộ ( trụ sở tại tp Vinh), Nam Trung Bộ (trụ sở tại Nha Trang), Thành Phố Hồ Chí Minh, Đồng Bằng Sông Cửu Long (trụ sở tại Cần Thơ)
Trụ sở chính của BHTGVN tại Hà Nội. Giám sát 1001 định chế tài chính.Hội đông quản trị BHTGVN do chính phủ bổ nhịêm, bao gôm 5 thành viên, trong đó 3 uỳ viên thường trực, 1 phó thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước, 1 Thứ Trưởng Bộ Tài Chính.
Tổng giám đốc BHTGVN do chính phủ bổ nhiệm
Theo Quy chế về tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ của các phòng , ban, bộ phận thuộc BHTGVN ban hanh kèm theo quyết định số 241/2000/QĐ-BHTG ngày 3/10/2000 của Tổng Giám đốc Bảo hiểm tiền gửi Viềt Nam.
(1)Văn phòng
- Xây dựng và theo dõi, bố trí chương trình công tác của Banh lãnh đạo Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam;
- Xây dựng chương trình công tác tháng, quý, năm của BHTGVN và tổng hợp tình hình thực hiện công tác theo định kỳ hoặc đột xuất.
- Thực hiện công tác văn thư, hành chính tại trụ sở chính của BHTGVN (xử lý công văn đi, đến, in phát hành tài liệu, lưu trữ tài liệu…);
- Thực hiện công tác đối nội, đối ngoại theo quy định và uỷ quyền của Tổng giám đốc.
- Tổ chức và làm thư ký các phiên họp của Ban điều hành BHTGVN; làm theo đầu mối tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng kết và các hội nghị khác của BHTGVN;
- Tổ chức công bố, truyền đạt, theo dõi, đôn đốc, điều phối các ban, phòng, bộ phận thực hiện chương trình công tác và sự chỉ đạo của Ban lãnh đạo của BHTGVN;
- Xây dựng kế hoạch và thực hiện mua sắm, duy tu, bảo dưỡng các loại tài sản; có kế hoạch nâng cấp, phát triển cơ sở vật chất trong toàn hệ thống BHTGVN. Quản lý tài sản và phương tiện làm việc của BHTGVN;
- Cung cấp văn phòng phẩm, phương tiện giao thông, thông tin liên lạc…phục vụ hoạt động của BHTGVN;
- Đảm bảo công tác an ninh, y tế, điện nước, vệ sinh môi trường và lễ tân khánh tiết của BHTGVN;
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng Giám đốc giao;
(2) Phòng tổ chức và phát triển nguồn nhân lực
- Nghiên cứu và xây dựng mô hình tổ chức của BHTGVN trong từng giai đoạn phát triển phù hợp với tình hình thực tế;
- Nghiên cứu, xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực của BHTGVN; cụ thể hoá và theo dõi việc thực hiện chế lược đó cho từng thời kỳ, đặc biệt là công tác đào tạo cán bộ nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của BHTGVN;
- Giúp Tổng giám đốc trong việc lựa chọn, tuyển dụng, bố trí cán bộ;
- Phối hợp với phòng công nghệ và dịch vụ thông tin nghiên cứu xây dựng phương án ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý cán bộ và phát triển nguồn nhân lực;
- Thực hiện các chế độ chính sách liên quan đến đội ngũ cán bộ theo quy định của pháp luật;
- Tổ chức theo dõi công tác thi đua, khen thưởng;
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng Giám đốc giao.
(3) Ban tư vấn luật và chính sách
- Thực hiện các nhiệm vụ tư vấn pháp lý cho HĐQT, Ban Tổng Giám đốc và các ban, phòng, bộ phận thuộc BHTGVN và cho các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi(nếu có);
- Chuẩn bị các văn bản pháp lý về bảo hiểm tiền gửi; soạn thảo các hợp đồng kinh tế của BHTGVN; xem xét tính pháp lý của các nghị quyết, quyết định của HĐQT, của Ban Tổng Giám đốc;
- Đại diện cho BHTGVN trước toà với tư cách là bên tham gia vào mối quan hệ với các bên đối tác khi tiếp nhận và thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị chấm dứt hoạt động, khi có khiếu kiện…
- Nghiên cứu và xây dựng các văn bản về chính sách và nghiệp vụ về bảo hiểm tiền gửi; dự thảo các kế hoạch và chiến lược hoạt động, chiến lược tài chính của BHTGVN;
- Làm đầu mối, chủ trì, phối hợp với các phòng chức năng trình phương án chấm dứt bảo hiểm tiền gửi đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định;
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng Giám đốc giao.
(4) Phòng nguồn vốn và Đầu tư
- Theo dõi xây dựng phương án bảo đảm khả năng thanh toán thường xuyên của BHTGVN;
- Xây dựng đề xuất trình HĐQT phương án về tiếp nhận nguồn vốn hỗ trợ và vay đặc biệt khi cần thiết; vay vốn của các tổ chức tín dụng và tổ chức khác; cho vay hỗ trợ để chi trả tiền gửi được bảo hiểm; bảo lãnh cho các khoản vay đặc biệt để chi trả tiền gửi được bảo hiểm đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và mua lại nợ của tổ chức đó trong trường hợp khoản nợ đó có tài sản bảo đảm;
- Đề xuất phương án đầu tư các nguồn vốn nhàn rỗi của BHTGVN;
- Tổ chức thực hiện theo dõi tình hình đầu tư vốn tạm thời nhàn rỗi, tình hình thực hiện các nghiệp vụ hỗ trợ các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và tình hình đi vay và trả nợ của BHTGVN;
- Thực hiện chế độ báo cáo tình hình thực hiện các mảng nghiệp vụ theo quy định;
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng Giám đốc giao.
(5). Phòng Tài chính Kế toán
- Tổ chức mở sổ sách báo biểu kế toán, thực hiện công tác hạch toán kế toán đảm bảo kịp thời, chính xác các nghiệp vụ phát sinh, lưu trữ chứng từ, sổ sách theo đúng quy định của Nhà nước;
- Tiếp nhận, theo dõi, quản lý nguồn vốn ( theo điều lệ) của BHTGVN;
Tham mưu cho Tổng giám đốc các vấn đề liên quan đến công tác tài chính, kế toán;
- Xây dựng các báo cáo định kỳ, đột xuất về tài chính, kế toán theo quy định;
- Xây dựng các cơ chế quản lý nội bộ về tài chính và kế toán;
- Cung cấp các dịch vụ kế toán và ngân hàng;
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng giám đốc giao.
(6) Phòng Công nghệ và dịch vụ thông tin
- Nghên cứu, xây dựng chiến lược ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của toàn hệ thống;
- Phối hợp với các phòng, ban và bộ phận khác thuộc BHTGVN, xây dựng các giải pháp ứnh dụng công nghệ thông tin nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống;
- Nghiên cứu, triển khai viết các phần mềm ứng dụng (nếu có thể) hoạc trình HĐQT và Tổng gGám đốc mua các phần mềm ứng dụng cho hoạt động của BHTGVN;
- Xây dựng kế hoạch lắp đặt, mua sắm bảo quản, bảo dưỡng hệ thống máy vi tính trong toàn bộ hệ thống; đảm bảo sử dụng có hiệu quả máy vi tính đó;
- Đảm nhận công tác thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng và tiếp xúc với công chúng;
- Đảm nhận việc liên lạc và quan hệ qua lại với các tổ chức và cơ quan khác;
- Đảm nhận việc thông tin, hướng dẫn và trợ giúp khác cho người gửi tiền tại các tổ chức tham gia bảo hiểm bị chấm dứt hoạt động;
- Tổng hợp thông tin và xây dựng Báo cáo thường niên và các báo cáo tổng hợp khác của BHTGVN;
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng Giám đốc giao.
(7). Phòng Giám sát và Đánh giá
- Xem xét, đánh giá tư cách tham gia bảo hiểm tiền gửi của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Kiến nghị Ban điều hành để trình Hồi đồng quản trị về vịêc chấp thuận bảo hiểm và cấp giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi;
- Tiếp nhận các báo cáo, các thông tin liên quan tới hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm để làm cơ sở đánh giá về các tổ chức này;
Nghiên cứu theo dõi các diễn biến kinh tế trong nước và nước ngoài có thể gây ảnh hưởng hoạt động ngân hàng và hiệu quả hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi;
- Kiểm tra đôn đốc vịêc tính và nộp phí bảo hiểm tiền gửi của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi;
- Giám sát việc các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trong việc chấp hành các quy định về quảng cáo thông tin tuyên truyền về bảo hiểm tiền gửi; và tuân thủ các chính sách hiện hành liên quan tới bảo hiểm tiền gửi , kiến nghị các biện pháp xử lý vi phạm;
- Thực hiện và xây dựng cơ chế giám sát từ xa nhằm phát hiện và cảnh báo kịp thời những khó khăn tài chính tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi; trình Ban điều hành kiến nghị Ngân hàng Nhà nước áp dụng các biện pháp xử lý cần thiết;
- Liên lạc phối kết hợp thường xuyên với Ngân hàng Nhà nước để thu nhận thông tin và phân tích đánh giá về các thông tin đó;
- Đánh giá các bản báo cáo thường niên của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và theo dõi diễn biến có liên quan;
- Kiến nghị chấm dứt bảo hiểm tiền gửi đối với những tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có vấn đề;
- Xây dựng các cơ chế và thực hiện cồng khai công tác kiểm tra tại chỗ đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gủi, kiểm tra việc tuân thủ các quy định về bảo hiểm tiền gửim việc chấp hành các quy chế an toàn trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và kiến nghị các giải pháp thích hợp;
- Thực hiện các nhiệm vụ do Tổng Giám đốc giao.
(8) Phòng Xử lý nợ, tiếp nhận và thanh lý tài sản
- Xem xét các sổ sách kế toán của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị chấm dứt hoạt động và mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản nhằm xác định các khoản tiền gửi được bảo hiểm của người gửi tiền tại tổ chức đó;
- Xử lý, giải quyết các yêu cầu thanh toán và chi trả cho người gửi tiền;
- Theo dõi việc bán các tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và tài sản thế chấp đối với tổ chức đó để thu hồi vốn;
- Tiếp nhận và xác nhận nợ của tổ chức tham gia bảo hiển tiền gửi bị đóng cửa;
- Đại diện cho bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trước toà án với tư cách là bên tiếp nhận và thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị chấm dứt hoạt dộng; theo dõi, phối kết hợp với các bên liên quan giải quyết các thủ tục xử lý nợ và thanh lý tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị chấm dứt hoạt động;
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng Giám đốc giao.
(9). Phòng Kiểm soát và Kiểm toán nội bộ
- Theo dõi, đánh giá tình hình thực hiện chức năng nhiệm vụ của Ban, phòng, bộ phận thuộc BHTGVN; tình hình và hiệu quả thực hiện các Nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị, của Ban Giám đốc, của các phòng ban, bộ phận thuộc BHTGVN;
- Báo cáo định kỳ cho Tổng Giám đốc về các kết quả kiểm soát, kiểm toán nội bộ và các khuyến nghị, biện pháp cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động;
- Kiểm tra, kiểm soát tình hình tài chính, việc chấp hành chế độ kế toán tài chính nội bộ;
- Kiểm tra tình hình thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng;
- Theo dõi giãi quyết công tác khiếu tố, khiếu nại trong BHTGVN;
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng Giám đốc giao.
(10) Chi nhánh của BHTGVN
-chi nhánh của BHTGVN được thành lập theo khu vực, có các nhiệm vụ sau:
-Đại diện cho BHTGVN trong việc thiết lập, xử lý các mối quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và công chúng trên điạ bàn khu vực và các tổ chức khác co liên quan.
- Theo dõi nắm bắt tình hình kinh tế xã hội và tình hình hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên địa bàn;
- Phối hợp và triển khai thực hiện các nhiêm vụ của BHTGVN.
- Thực hiện công tác thông tin tuyên truyền đế công chúng về bảo hiểm tiền gửi.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng Giám đốc giao.
Vốn và các quỹ (đến năm 2005)
- vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng do chính phủ cấp
- Quỹ dự phòng nghiệp vụ 787 tỷ đồng.
- Các quỹ khác và nợ phải trả 204 tỷ đồng
- Tổng nguồn vốn 1.991 tỷ đồng
Trong đó Ngân hàng Thương mại quốc doanh là 185,405 tỷ đồng chiếm 73,18%,
Ngân hàng Thương mại cổ phần 57,791 tỷ đồng chiếm 22,81%. Công ty Tài chính
83 triệu đồng chiếm 0,03%. Ngân hàng liên doanh 444 triệu đồng chiếm 0,18%. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 1,748 tỷ đồng chiếm 0,69%. Quỹ tín dụng nhân dân 7,869 tỷ đồng chiếm 3,11%.
1.2.2 Các hoạt động nghiệp vụ của BHTGVN
Cấp giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi cho tất cả các tổ chức tín dụng có nhận tiền gửi, cấp bổ sung lượng cần thiết và kịp thời theo yêu cầu của các tổ chức để niêm yết công khai trước công chúng; thu hồi giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi đối với các tổ chức bị giải thể, sáp nhập. Tổng số đã cấp bản chính là 1.076, thu hồi 100, hiện còn 976 tổ chức đang tham gia bảo hiểm tiền gửi. Tính đến nay Ngân hàng Chính sách-xã hội, Tiết kiệm Bưu điện, Ngân hàng phát triển và các tổ chức tài chính quy mô nhỏ chưa tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Cơ chế thu phí bảo hiểm tiền gửi hiện nay đang áp dụng mức phí đồng hạng 0,15%/ năm trong khi chưa có điều kiện đánh giá phân loại mức độ rủi ro hoạt động của các tổ chức. Tổng thu phí luỹ kế từ quý III năm 2000 đến quý II năm 2005 đạt 680 tỷ đồng, tốc độ thu phí hàng năm tăng trên 20%.
Giám sát từ xa được triển khai ngay từ những ngày đầu BHTGVN đi vào hoạt động bao gồm các hoạt động: kiểm soát các hồ sơ pháp lý tham gia bảo hiểm tiền gửi, giám sát thực trạng hoạt động trên cơ sở nguồn thông tin báo cáo, đánh giá theo định kỳ hàng quý đối với tất cả các tổ chức có quan hệ bảo hiểm tiền gửi; giám sát việc chấp hành các quy định về bảo hiểm tiền gửi và tuân thủ quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng; cảnh báo các rủi ro tiềm tàng và những sai phạm, yếu kém cần khắc phục.
Kiểm tra trực tiếp định kỳ hàng năm trên diện rộng theo kế hoạch được Hội Đồng Quản Trị phê duyệt và kiểm tra đột xuất theo kết quả báo cáo của giám sát từ xa. Đến cuối cuối năm 2004, BHTGVN đã tiến hành 107 cuộc kiểm tra các ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng, 1.422 cuộc kiểm tra quỹ tín dụng nhân dân.
Nghiệp vụ hỗ trợ tài chính theo quy định hiện hành chỉ giới hạn giải toả tình trạng mất khả năng chi trả, chưa được thực hiện rộng rãi do năng lực tài chính của BHTGVN còn hạn chế và chưa có cơ chế xử lý rủi ro thoả đáng. Do đó nghiệp vụ này mới được triển khai thí điểm ở quỹ tín dụng cơ sở theo đề án được duyệt.
Chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền là nghĩa vụ tất yếu. Trong giai đoạn cũng cố, chấn chỉnh các tổ chức tín dụng, BHTGVN đã góp phần xử lý an toàn một loạt các quỹ tín dụng nhân dân yếu kém không có khả năng khôi phục, chi trả bảo hiểm 16,337 tỷ đồng tại 33 đơn vị trong các năm 2001-2004 với mức chi trả tối đa theo quy định của chính phủ.
Thu hồi nợ trong quá trình thanh lý đơn thuần là thực hiện các biện pháp đôn đốc tận thu trong điều kiện có thể, pháp luật chưa cho phép có bất kỳ sự can thiệp nào của BHTGVN đối với các quan hệ về quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó với khách hàng. Với việc khẳng định quyền chủ nợ sau chi trả bảo hiểm, BHTGVN đã thu hồi 1,681 tỷ đồng từ hoạt động thanh lý.
Đầu tư tài chính các khoản vốn nhàn rỗi hiện giới hạn ở đầu tư vào trái phiếu chính phủ, giấy tờ có giá của Ngân hàng Nhà nước, tiền gửi tạị các ngân hàng thương mại nhà nước. Các khoản đầu tư đảm bảo an toàn, có thu nhập đủ bù đắp chi phí hoạt động và tích luỹ phát triển.
1.2.3 Một số định hướng hoạt động của BHTGVN trong thời gian tới.
Về hoạt động giám sát kiểm tra, mô hình giám sát mới của BHTGVN phải đạt được các mục tiêu:
Thống nhất chuẩn mực giám sát, phân định chức năng và hợp tác chia sẻ thông tin giữa các cơ quan có chức năng giám sát, qua đó nâng cao hiệu quả công việc và tránh chồng chéo khi thực hiện nhiệm vụ giám sát.
BHTGVN xây dựng các chuẩn mực giám sát theo mô hình CAMELS và các tiêu chí tài chính theo khuyến nghị của Uỷ ban BASEL nhằm phân loại đánh giá các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên cơ sở rủi ro.
BHTGVN xây dựng hệ thống công nghệ thông tin phục vụ cho công tác giám sát từ xa, và kiểm tra tại chỗ; hệ thống này giúp cho việc thu thập các nguồn thông tin từ các kênh khác nhau tạo dựng cho kho dữ liệu tập trung, từ đó tiến hành phân tích khai thác thông tin theo mô hình tập trung các dữ liệu với các tiêu chí đánh giá về tình hình hoạt động của các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính theo các mặt liên quan như tín dụng, thanh khoản, thị trường và hoạt động
Dựa vào các số liệu phân tích, BHTGVN và các cơ quan giám sát có thể đánh giá kịp thời và đưa ra các chính sách phù hợp cho các tổ chức được bảo hiểm tiền gửi như cảnh báo, yêu cầu khắc phục, hỗ trợ tài chính, hoặc xử lý nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính quốc gia.
Về hoạt động tiếp nhận xử lý, các tổ chức tiếp nhận tiền gửi được bảo hiểm bị đổ vỡ được xử lý hiệu quả nhất phù hợp với quy định của pháp luật, tài sản tiếp nhận được quản lý và bán ra thị trường một cách hiệu quả với chi phí thấp nhất để thu hồi, tiền gửi và tài sản tiếp nhận kể cả các khoản nợ và nghĩa vụ khác được xử lý công bằng và hiệu quả.
về sản phẩm và dịch vụ và hệ thống quản lý, phát triển các sản phẩm dịch vụ và các phương pháp quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế, từng bước nâng cao hiệu quả tài chính, thoả mãn yêu cầu quản lý Nhà nước, xây dựng hệ thống quản lý thông tin khách hàng, qua đó xây dựng các dòng sản phâm phục vụ cho từng loại khách hàng.
Chương II Hoạt động thanh tra và giám sát ngân hàng.
2.1 Ủy ban Basel và hệ thống các nguyên tắc thanh tra giám sát hoạt động Ngân hàng
Uỷ ban Basel về giám sát nghiệp vụ ngân hàng là một Uỷ ban bao gồm các chuyên gia giám sát hoạt động ngân hàng được thành lập bởi một số Thống đốc Ngân hàng Trung ương vào năm 1975. Uỷ ban này bao gồm đại diện cao cấp của các cơ quan giám sát nghiệp vụ ngân hàng tại 10 quốc gia trên thế giới, bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức, Italia, Hà Lan, Canada, Thụy Điển và Bỉ.
Quan điểm của Basel là sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng của một quốc gia có thể ảnh hưởng tới sự ổn định về tài chính không chỉ trong phạm vi quốc gia đó mà trên phạm vi toàn cầu. Chính vì thế, đây là vấn đề cần được cơ quan giám sát tại các quốc gia và Ủy ban Basel về Giám sát Nghiệp vụ ngân hàng đặc biệt quan tâm.
Trong quá trình hoạt động, Uỷ ban đã xây dựng và xuất bản hai nhóm ấn phẩm chủ yếu: 1) Bộ các nguyên tắc cơ bản cho việc giám sát hoạt động của ngân hàng một cách có hiệu quả; và 2) Bộ sách hướng dẫn (được cập nhật định kỳ) với các khuyến nghị hiện nay của Uý ban Basel, các hướng dẫn và tiêu chuẩn.
Nhóm ấn phẩm nguyên tắc cơ bản của Ủy ban Basel (25 nguyên tắc)
Bộ 25 nguyên tắc cơ bản Basel là tài liệu dành cho cán bộ thực hiện công tác giám sát ở các quốc gia và cả trên phạm vi quốc tế. Các nguyên tắc này đã được thiết kế cho các chuyên gia giám sát, nhóm giám sát khu vực và thị trường nói chung theo nguyên tắc dễ áp dụng và kiểm chứng. Uỷ ban Basel sẽ cùng với các tổ chức liên quan khác đóng vai trò nhất định trong việc giám sát tiến độ áp dụng các nguyên tắc trên đây của các quốc gia nhằm xây dựng hệ thống giám sát đủ mạnh. Bộ nguyên tắc cơ bản bao hàm một số nhóm nội dung chủ yếu sau:
- Các Nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về điều kiện tiên quyết cho việc giám sát ngân hàng hiệu quả: cụm chủ đề này được thể hiện bởi nguyên tắc 1. Nguyên tắc chỉ ra điều kiện của một hệ thống giám sát nghiệp vụ ngân hàng có hiệu quả là: i) phải có một khung pháp lý phù hợp; ii) phân định mục tiêu, nguồn lực và trách nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan giám sát; iii) quy định về chia sẻ và bảo mật thông tin.
- Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề cấp phép và cơ cấu: bao gồm từ nguyên tắc 2 đến nguyên tắc 5, với các nội dung chính: i) xác định rõ ràng các hoạt động tổ chức tài chính được phép làm và chịu sự giám sát; ii) quyền đưa ra các tiêu chí và bác bỏ đơn xin thành lập nếu không đạt yêu cầu của cơ quan cấp phép; iii) quyền rà soát và từ chối bất kỳ một đề xuất nào đối với việc chuyển quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát ngân hàng hiện tại cho các bên khác.
- Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về các quy định và yêu cầu thận trọng: cụm chủ đề bao gồm từ nguyên tắc số 6 đến số 15. Nội dung chính của nhóm nguyên tắc là đưa ra các chuẩn mực mà các chuyên gia giám sát nghiệp vụ ngân hàng được làm và nhất thiết phải biết xử lý trong hoạt động của mình ví dụ như: yêu cầu về an toàn vốn cho các ngân hàng, xác định rõ những khu vực nào của vốn ngân hàng chịu rủi ro; đánh giá các chính sách, thực tiễn hoạt động, các thủ tục cho vay vốn, đầu tư, việc kiểm soát vốn vay hiện tại và hồ sơ đầu tư của ngân hàng đó; đánh giá chất lượng tài sản và tính thích hợp của các điều khoản chống thất thoát và quĩ dự trữ thất thoát khoản vay.
- Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về giám sát nghiệp vụ ngân hàng hiện nay: bao gồm từ nguyên tắc số 16 đến nguyên tắc số 20. Nhóm nguyên tắc này quy định yêu cầu đối với một hệ thống giám sát nghiệp vụ ngân hàng hiệu quả bao gồm cả các hình thức giám sát từ xa và giám sát tại chỗ. Cơ quan giám sát cần thường xuyên liên hệ với Ban giám đốc ngân hàng để hiểu rõ về hoạt động của NH, xây dựng phương pháp phân tích báo cáo thống kê và có biện pháp thẩm định độc lập thông tin giám sát thông qua kiểm tra tại chỗ.
- Nguyên tắc thuộc cụm chủ đề yêu cầu về thông tin: chủ đề này có 1 nguyên tắc số 21 chỉ ra cán bộ giám sát phải biết chắc mỗi ngân hàng có hệ thống lưu trữ tài liệu phù hợp cho phép chuyên gia giám sát có thể tiếp cận và thấy được tình hình tài chính thực tế của ngân hàng.
- Nguyên tắc thuộc cụm chủ đề quyền hạn hợp pháp của chuyên gia giám sát: cụm chủ đề này có 1 nguyên tắc số 22 chỉ ra các biện pháp giám sát bắt buộc để có thể đưa ra được hành động can thiệp kịp thời khi ngân hàng không đáp ứng được những yêu cầu cơ bản (ví dụ tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu không đảm bảo, năng lực quản trị điều hành yếu...). Trong trường hợp khẩn cấp, hoạt động can thiệp này bao gồm cả việc thu hồi giấy phép lập tức hoặc đề nghị thu hồi giấy phép hoạt động.
- Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề nghiệp vụ ngân hàng xuyên biên giới: cụm chủ đề này bao gồm từ nguyên tắc số 23 đến nguyên tắc số 25 với nội dung hướng dẫn giám sát đối với các nghiệp vụ giao dịch ngân hàng quốc tế, yêu cầu các ngân hàng nước ngoài hoạt động theo đúng các tiêu chuẩn cao bằng tiêu chuẩn của các ngân hàng trong nước và thiết lập quan hệ và hệ thống trao đổi thông tin với các chuyên gia giám sát khác, đặc biệt là với chuyên gia giám sát của nước sở tại.
Bộ sách hướng dẫn được cập nhật tháng 6 năm 2006 (10 nguyên tắc)
Tháng 6 năm 2006, Uỷ ban Basel đã phát hành tài liệu hướng dẫn với nội dung “Đánh giá chính xác rủi ro tín dụng và định giá khoản cho vay”. Tài liệu bao gồm 10 nguyên tắc được chia làm 2 chủ đề chính: i) những vấn đề giám sát liên quan đến đánh giá chính xác rủi ro tín dụng và định giá khoản cho vay và ii) vấn đề đánh giá rủi ro tín dụng các khoản cho vay về phía cơ quan giám sát.
Về những vấn đề giám sát liên quan đến đánh giá chính xác rủi ro tín dụng và định giá khoản cho vay. Phần này bao gồm 7 nguyên tắc đầu tiên với các vấn đề được đề cập như sau:
_ Ban giám đốc của ngân hàng phải có trách nhiệm bảo đảm ngân hàng có trình tự đánh giá rủi ro tín dụng phù hợp và hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả phù hợp với tính chất, quy mô và tính phức tạp của nghiệp vụ cho vay của đơn vị đồng thời phù hợp với chính sách, hệ thống kế toán và hướng dẫn giám sát của nước sở tại
_ Ngân hàng phải có một hệ thống phân loại khoản cho vay đáng tin cậy dựa trên cơ sở rủi ro tín dụng
_ Chính sách của ngân hàng phải được mô hình đánh giá rủi ro tín dụng nội bộ nhất định phê chuẩn
_ Ngân hàng phải phê chuẩn và ban hành phương pháp quản lý tổn thất khoản cho vay hợp lý trong đó đề cập đến: quy trình, chính sách đánh giá rủi ro tín dụng, quy trình kiểm tra lại và xác định những vấn đề về khoản cho vay, hướng trích lập dự phòng một cách kịp thời
_ Khoản dự phòng trích lập phải đủ để có thể bù đắp những tổn thất cho vay trong danh mục các khoản cho vay
_ Việc sử dụng phương pháp đánh giá tín dụng đã được kiểm chứng và ước lượng hợp lý là một phần cơ bản trong việc đánh giá tổn thất cho vay
_ Quy trình đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng phải cung cấp cho ngân hàng những công cụ, trình tự và dữ liệu thích hợp để đánh giá rủi ro tín dụng.
Về vấn đề đánh giá rủi ro tín dụng các khoản cho vay về phía cơ quan giám sát. Phần này bao gồm 3 nguyên tắc, từ nguyên tắc số 8 đến nguyên tắc số 10; cụ thể:
_ Định kỳ, cơ quan giám sát phải đánh giá tính hiệu quả của chính sách rủi ro tín dụng và đánh giá thực tế chất lượng khoản cho vay
_ Cơ quan giám sát phải xác nhận phương pháp tính dự phòng tổn thất cho vay của ngân hàng là phù hợp
_ Cơ quan giám sát ngân hàng phải xem xét chính sách và thực tế áp dụng đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng khi kiểm tra mức đủ vốn của ngân hàng.
Thực trạng công tác giám sát tại Việt Nam và vấn đề áp dụng các nguyên tắc Basel vào hoạt động giám sát Trong điều kiện Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, hệ thống ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tốc độ tăng trưởng tiền gửi, tín dụng nhanh
là một tín hiệu khả quan, nhưng đồng thời cũng là nguy cơ khi năng lực quản trị điều hành, khả năng cạnh tranh của các ngân hàng còn yếu kém.
Với trách nhiệm đảm bảo an toàn hệ thống, Bộ máy giám sát tài chính ngân hàng tại Việt Nam chưa được xây dựng đồng bộ và hiệu quả để đảm bảo giảm thiểu rủi ro. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chưa được chuyển đổi hoạt động theo mô hình Ngân hàng Trung ương. Thanh tra ngân hàng được giao thực hiện một số hoạt động giám sát an toàn hệ thống ngân hàng trong khi vẫn có chức năng thanh tra chuyên ngành như mọi cơ quan thanh tra trong các Bộ, cơ quan ngang bộ khác. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế việc thực thi có hiệu quả chính sách giám sát ngân hàng. Bên cạnh đó, việc phân định chức năng, phối hợp nghiệp vụ và trao đổi thông tin giữa các cơ quan thực hiện giám sát chủ yếu bao gồm: Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và Bộ Tài chính chưa được quy định cụ thể gây khó khăn trong quá trình tác nghiệp, hoạt động chồng chéo. Phương pháp thanh tra giám sát đang từng bước được đổi mới nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý. Kiểm tra tại chỗ, thanh t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0103.doc