Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định

Tài liệu Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định: ... Ebook Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định

doc106 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 5334 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU 1.1.Tính cấp thiết của đề tài. Đất đai là một tài nguyên quý giá đối với mọi quốc gia. Mọi hoạt động của các ngành, các lĩnh vực đều cần đến một diện tích đất nhất định. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, là đối tượng của sản xuất nông – lâm nghiệp. Trong những năm qua, nước ta đã thực hiện chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đã thu được nhiều thành quả to lớn trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Bên cạnh đó nền nông nghiệp cũng đã từng bước chuyển từ tự cấp, tự túc sang sản suất hàng hoá. Kinh tế nông nghiệp có sự tăng trưởng khá, sức sản xuất ở nông thôn được giải phóng, tiềm năng đất nông nghiệp dần được khai thác. Ở nước ta hiện nay, với trên 70% dân số đang sống ở vùng nông thôn vì thế nền nông nghiệp vẫn có một vai trò rất quan trọng trong những năm tới. Những thập kỷ trước, nhiều diện tích đất canh tác sử dụng không hợp lý đã bị suy thoái, xói mòn, bạc màu, làm giảm độ phì nhiêu của đất… Ngày nay, xã hội phát triển, quá trình phát triển của công nghiệp hoá - hiện đại hoá, quá trình đô thị hoá, sự bùng nổ dân số diện tích đất nông nghiệp đã giảm rất nhiều do chuyển sang các mục đích sử dụng khác. Do đó, để đảm bảo vấn đề an ninh lương thực cần phải có những loại hình sử dụng đất cho hiệu quả kinh tế cao. Trong sản xuất nông nghiệp hiện nay, để nâng cao năng suất người dân đã sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu, phân bón hoá học một cách bừa bãi. Do đó đã làm ô nhiễm môi trường đất và nước. Như vậy, việc đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất nông nghiệp hiện tại là rất quan trọng để lựa chọn các loại hình sử dụng đất có hiệu quả nhất theo hướng phát triển bền vững (kinh tế, xã hội, môi trường). Nghĩa Hưng là một huyện đồng bằng ven biển thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, dân số đông, diện tích canh tác có hạn. Do đó, việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là rất quan trọng nhằm đưa ra giải pháp sử dụng đất nông nghiệp tốt nhất, hiệu quả nhất. Xuất phát từ những lý luận và thực tiễn trên, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định”. 1.2.Mục đích nghiên cứu - Đánh giá hiện trạng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp của huyện Nghĩa Hưng. - Đề xuất các LUT sử dụng đất có hiệu quả và các giải pháp sử dụng đất hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên dịa bàn toàn huyện. 2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 2.1.1. Sự cần thiết phải đánh giá đất. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt mà các tư liệu sản xuất khác không thể thay thế được. Đất cùng với nước, không khí tạo nên môi trường sống của con người, động vật và thực vật. Giá trị của tài nguyên đất đã được nhận thức đúng đắn qua nhiều thế hệ từ xưa tới nay. Đất đai chính là cơ sở tồn tại của con người trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Đất đai là cội nguồn của hệ thống cung cấp lương thực cho con người, là nguồn tài nguyên tái sinh sự sống của nhân loại, cuộc sống của con người gắn chặt với đất từ khi sinh ra cho tới khi chết đi (Nguyễn Đình Bồng) [4]. Khi dân số còn ít, xã hội loài người sinh sống hoà nhập cùng với môi trường tự nhiên. Cho tới những thế kỷ gần đây, đặc biệt ngày nay cùng với áp lực gia tăng dân số đã làm tăng nhanh các nhu cầu về lương thực, thực phẩm, bên cạnh đó để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế xã hội, con người đã khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách bừa bãi, không hợp lý đã tàn phá môi trường, làm suy thoái các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong đó có tài nguyên đất. Để ngăn chặn sự suy thoái tài nguyên đất do sự thiếu hiểu biết của con người gây ra, đồng thời nhằm hướng dẫn việc quản lý và sử dụng đất sao cho hợp lý, đạt hiệu quả kinh tế cao mà vẫn bảo vệ được nguồn tài nguyên này cho thế hệ tương lai thì việc đánh giá đất là một nhiệm vụ rất quan trọng của các nhà khoa học đất. Đánh giá đất là một phần rất quan trọng trong việc đánh giá các nguồn tài nguyên thiên nhiên của một quốc gia, nó nhằm phục vụ việc phát triển kinh tế của một đất nước, đồng thời đánh giá đất cũng là một phần rất quan trọng của quá trình quy hoạch sử dụng đất, là cơ sở để đề ra những quyết định sử dụng đất một cách hợp lý. Mỗi một quốc gia, một dân tộc việc sử dụng đất của họ như thế nào là tuỳ thuộc vào những nhân tố tổng hợp có quan hệ mật thiết với nhau, bao gồm cả các đặc tính của đất, các yếu tố kinh tế xã hội, hành chính và những hạn chế về chính trị cũng như nhu cầu và mục tiêu của con người (FAO, 1986) [39]. 2.1.2. Đánh giá đất trên thế giới và Việt Nam. a. Trên thế giới Trong sản xuất nông nghiệp ở những năm gần đây việc phát triển nông nghiệp bền vững đã trở thành đề tài nghiên cứu và ứng dụng rất quan trọng. Hiện nay, người ta không chỉ quan tâm tới việc khai thác nguồn lợi từ đất để đảm bảo nhu cầu về lương thực và vận dụng cho xã hội mà người ta còn rất quan tâm đến mối cân bằng giữa sản xuất, môi trường và tính bền vững của vấn đề phát triển nông nghiệp. Công tác đánh giá đất đai đã được hình thành từ lâu, là một yêu cầu cần thiết đối với sản xuất nông - lâm nghiệp với mục đích sử dụng đất hợp lý và bền vững (có hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường). Tuy vậy, việc đánh giá đất mới thực sự được ra đời từ những thập niên 50 của thế kỷ XX và nó đã được nhìn nhận như một sự nỗ lực quan trọng, đúng lúc của con người nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên đất đai quy báu và hướng đến mục tiêu phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững. Tuy nhiên, việc đánh giá đất đã xuất hiện khi những kết quả nghiên cứu có tính riêng rẽ về các đặc điểm, tính chất đất không cung cấp đủ những thông tin và không đáp ứng được một cách đây đủ đối với các hình thức và hiệu quả trong việc sử dụng đất. Theo Stewart đã định nghĩa đánh giá đất đai là: Đánh giá khả năng thích hợp của đất đai đối với các mục tiêu sử dụng của con người trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thiết kế thuỷ lợi, quy hoạch sử dụng đất…Theo. Young A [38]: Đánh giá đất đai là quá trình đoán định tiềm năng của đất đai cho một hoặc một số loại sử dụng đất đai được đưa ra để lựa chọn. Cùng với sự phát triển theo thời gian, những nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhiều cơ quan, tổ chức của quốc tế, của các nước trên thế giới về đánh giá đất đai ngày càng trở nên hoàn thiện hơn và có ý nghĩa thiết thực hơn. Những nghiên cứu và các hệ thống đánh giá đất đai sau đây đã được sử dụng khá phổ biến. - Đánh giá đất đai ở Hoa Kỳ: Cơ sở đánh giá tiềm năng sử dụng đất dựa vào các yếu tố hạn chế trong sử dụng đất, chúng được chia làm 2 nhóm: Thứ nhất, nhóm các yếu tố hạn chế vĩnh viễn bao gồm những hạn chế không dễ dàng thay đổi và cải tạo được như: độ dốc, độ dày tầng đất, lũ lụt, khí hậu khắc nghiệt. Thứ hai, nhóm những yếu tố hạn chế tạm thời có thể khắc phục được bằng các biện pháp cải tạo trong quản lý đất đai như: độ phì, thành phần dinh dưỡng và những trở ngại về tưới tiêu. Đánh giá phân loại về mức độ khả năng sử dụng đất đai chủ yếu được xác định dựa trên cơ sở những yếu tố hạn chế vĩnh viễn. Nguyên tắc chung của phương pháp là các yếu tố nào có mức độ hạn chế lớn và khả năng chi phối mạnh đến sử dụng là yếu tố quyết định mức độ thích hợp mà không cần tính đến những khả năng thuận lợi của các yếu tố khác có trong đất. Đánh giá khả năng sử dụng đất đã chia đất đai trong lãnh thổ Hoa Kỳ ra thành 8 nhóm khác nhau, trong đó: Bốn nhóm đầu là thích hợp cho sản xuất nông nghiệp. Bốn nhóm sau là không thích hợp cho sản xuất nông nghiệp và được dùng vào các mục đích sử dụng khác. Các nhóm sử dụng đất chính tiếp tục được chia thành những nhóm phụ và từ các nhóm phụ lại được chia chi tiết ra các loại thích hợp theo mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào các tính chất và khả năng sản xuất cụ thể của đất đai. Phương pháp này tuy không đi sâu vào từng loại sử dụng cụ thể đối với sản xuất nông nghiệp và hiệu quả kinh tế xã hội, song rất quan tâm đến những yếu tố hạn chế bất lợi cho đất và việc xác định các biện pháp bảo vệ đất, đây cũng chính là điểm mạnh của phương pháp đối với mục đích duy trì và sử dụng đất bền vững. - Đánh giá đất đai ở Liên Xô (cũ) Ở Liên Xô cũ, đánh giá đất đai bắt đầu xuất hiện từ trước thế kỷ XIX, cho đến những năm 60 của thế kỷ này thì việc phân hạng và đánh giá đất đai mới được quan tâm và tiến hành trên cả nước theo phương pháp phân loại đất theo phát sinh. Cơ sở của phương pháp này là theo học thuyết phát sinh đất của nhà bác học Nga Docutraep (1846-1903) đưa ra năm 1883, bao gồm 3 bước: + Đánh giá lớp phủ thổ nhưỡng (so sánh các loại thổ nhưỡng theo tính chất tự nhiên). + Đánh giá khả năng sản xuất của đất đai (yếu tố được xem xét kết hợp với yếu tố khí hậu, độ ẩm, địa hình…). + Đánh giá kinh tế đất (chủ yếu đánh giá khả năng sản xuất hiện tại của đất đai). Đây là phương pháp quan tâm chủ yếu đến khía cạnh tự nhiên của đất đai, chưa xem xét đầy đủ đến khía cạnh kinh tế - xã hội của việc sử dụng đất đai. Quan điểm đánh giá đất của Docutraep áp dụng phương pháp cho điểm các yếu tố đánh giá trên cơ sở thang điểm đã được xây dựng thống nhất. Dựa trên quan điểm khoa học của ông, các học trò của ông đã bổ sung hoàn thiện dần phương pháp này và phương pháp đánh giá đất của ông đã được thừa nhận và phổ biến rộng rãi ra các nước đặc biệt là những nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên phương pháp này còn có một số hạn chế như quá đề cao khả năng tự nhiên của đất hay không có khả năng dung hoà quy luật tối thiểu với phương pháp tổng hợp các yếu tố riêng biệt… Mặt khác phương pháp đánh giá đất đai cho điểm cụ thể chỉ đánh giá được đất đai hiện trạng mà không đánh giá được đất đai trong tương lai, tính linh động kém vì các chỉ tiêu đánh giá đất đai ở các vùng cây trồng khác nhau là khác nhau do đó không thể chuyển đổi việc đánh giá đất đai giữa các vùng với nhau. - Đánh giá đất của FAO. Muốn sản xuất khối lượng lương thực lớn cho nhân loại, Liên Hợp Quốc cần phải quản lý và bảo vệ nguồn tài nguyên đất một cách hợp lý nhất. Để thực hiện được mục tiêu đó Liên Hợp Quốc đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác đánh giá đất đai. Ngay từ những năm 1970, các nhà khoa học đất của nhiều nước trên thế giới đã tập trung nghiên cứu nhằm xây dựng một phương pháp đánh giá đất đai có tính khoa học cao, đồng thời khắc phục được tình trạng không thống nhất về phương pháp. Đến năm 1972, tổ chức Nông nghiệp và Lương thực của Liên hợp quốc (FAO) đã phác thảo đề cương đánh giá đất đai và công bố năm 1973. Hai năm sau tại hội nghị về đánh giá đất đai ở Rome, dự thảo đó được các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này biên soạn, bổ sung và công bố tài liệu chính thức đầu tiên về phương pháp đánh giá đất đai năm 1976. Tài liệu này được coi như cẩm nang cho nhiều nước trên thế giới nghiên cứu vận dụng, thử nghiệm và được coi là phương tiện tốt nhất để đánh giá đất đai phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp. Bên cạnh những tài liệu tổng quát của FAO về đánh giá đất đai, một số hướng dẫn cụ thể khác về đánh giá đất đai cho từng đối tượng chuyên biệt cũng được FAO ấn hành như: + Đánh giá đất cho nền nông nghiệp nhờ mưa + Đánh giá đất đai cho nền nông nghiệp có tưới (Land Evaluation for Rainfed Agriculture,1985) [33]. + Đánh giá đất đai cho trồng trọt đồng cỏ quảng canh (Land Evaluation for Extensive Grazing, 1989). + Đánh giá đất đai cho mục tiêu phát triển ( Land Evaluation for Devenlopment, 1990). + Đánh giá đất đai và phân tích hệ thống canh tác cho việc quy hoạch sử dụng đất (Land Eveluation and Farming System Anaylyis for Land Use Planning, 1992). FAO đã đề xuất định nghĩa về đánh giá đất đai như sau: đánh giá đất đai là quá trình so sánh, đối chiếu những tính chất vốn có của vạt (khoanh) đất cần đánh giá với những tính chất đất đai mà loại yêu cầu sử dụng đất cần phải có. Như vậy, theo FAO mục tiêu chính của việc đánh giá đất đai là đánh giá khả năng thích nghi của các dạng đất đai khác nhau đối với các loại hình sử dụng đất riêng biệt đã lựa chọn. Nguyên tắc đánh giả đất đai của FAO là đánh giá đất đai phải gắn với loại sử dụng đất xác định, có sự so sánh giữa lợi nhuận thu được với đầu tư cần thiết. Đánh giá đất liên quan chặt chẽ tới các yếu tố môi trường tự nhiên của đất và các điều kiện kinh tế, xã hội. Tiến trình tổng quát trong đánh giá đất của FAO gồm các bước sau: + Lựa chọn và mô tả các loại hình sử dụng đất phù hợp với chính sách, mục tiêu phát triển, điều kiện về sinh thái tự nhiên, tập quán sử dụng đất và các hạn chế sử dụng đất đặc biệt của khu vực nghiên cứu. + Xác định yêu cầu sử dụng đất của mỗi loại hình sử dụng đất đã được lựa chọn. + Khoanh định và mô tả được các đơn vị bản đồ đất đai dựa trên kết quả điều tra tài nguyên đất (khí hậu, dạng đất, loại đất, thực vật…). Mỗi một LMU trong số các LMU có số lượng các đặc tính như độ dốc, lượng mưa, phẫu diện đất, thoát nước, thảm thực vật,… khác với các LMU kề bên. + Mô tả tính chất và chất lượng của các đơn vị đất đai, những yếu tố có tác động trực tiếp đến khả năng thực hiện các loại sử dụng đất được lựa chọn. + So sánh giữa yêu cầu sử dụng đất của mỗi LUT với chất lượng đất đai của từng đơn vị đất đai đối với mỗi loại hình sử dụng đất gồm khả năng thích hợp trong điều kiện hiện tại và khả năng thích hợp trong tương lai. + Phân tích những tác động môi trường có thể xảy ra các vấn đề kinh tế - xã hội trong quá trình thực hiện các loại sử dụng đất được đánh giá. Qua đó đưa ra phân loại cuối cùng của khả năng thích hợp đất đai. Tuỳ theo mục tiêu, quá trình đánh giá phân hạng đất có thể tiến hành theo phương pháp hai bước hoặc phương pháp song song. + Phương pháp 2 bước: gồm có đánh giá đất tự nhiên và phân tích kinh tế - xã hội. + Phương pháp song song: Các bước đánh giá đất tự nhiên cùng đồng thời với phân tích kinh tế - xã hội. Phương pháp này thường được đề nghị để đánh giá đất chi tiết và bán chi tiết. Trên thực tế hai phương pháp này khác nhau không thật rõ nên khi áp dụng cần lựa chọn phương pháp thích hợp, tuỳ thuộc và điều kiện cụ thể. + Phân hạng định tính: Kết quả được trình bày trong phạm vi tính chất mà không có sự đánh giá riêng biệt ở đầu vào và đầu ra. + Phân hạng định lượng: Kết quả được trình bày bằng số. Nếu kết quả chỉ để cập đến số lượng đầu tư chi phí ở đầu vào và khối lượng sản xuất ở đầu ra thì đó là phân hạng định lượng thông thường, còn nếu kết quả đề cấp tới chi phí, giá thành ở đầu vào và giá cả, lợi nhuận ở đầu ra thì đó là phân hạng thích hợp kinh tế. Trong đánh giá đất đai thì cần sử dụng cả hai phương pháp phân hạng thích hợp trên. Theo FAO, phân hạng thích hợp đất đai đựơc phân chia thành 4 cấp: Bậc (order) Lớp (class) Lớp phụ (subclass) Đơn vị đất (unit) Trong bậc thích hợp chia làm 2 cấp: Bậc thích hợp (suitability order) và bậc không thích hợp (not suitability order). Trong một số trường hợp có dùng thêm pha thích hợp có điều kiện (conditionally suitable). Trong bậc thích hợp thường chia làm 3 lớp : + Thích hợp cao (S1) + Thích hợp trung bình (S2) + Kém thích hợp (S3) Trong bậc không thích hợp được chia làm 2 lớp + Không thích hợp hiện tại (N1) + Không thích hợp vĩnh viễn (N2) Trong lớp phụ chia ra các đơn vị đất thích hợp Như vậy, theo phương pháp đánh giá của FAO vừa có thể phân hạng đất đai ở mức độ khái quát vừa phân hạng được ở mức độ chi tiết cho một vùng cây chuyên canh. Sơ đồ 1: Cấu trúc phân hạng khả năng thích hợp đất đai (FAO, 1976, 1983) Bậc (order) Lớp (class) Lớp phụ (subclass) Đơn vị (unit) S1 S2t S2i-1 S – thích hợp S2 S2I S2i-2 S3 S2f N1 N1i N – không thích hợp N1f N1 - Nhận xét chung Các phương pháp đánh giá đất trên tuy có khác nhau về mức độ chi tiết, phương thức và hệ thống phân vị xong cũng có những điểm giống nhau: * Những điểm tương đồng giữa các phương pháp: + Mục đích của các phương pháp đều là để phục vụ việc quản lý và sử dụng đất đai hợp lý. Tuy nhiên trong đánh giá đất nông nghiệp thì phương pháp của Liên Xô cũ và Hoa Kỳ chưa đi sâu vào các đối tượng sử dụng đất như phương pháp đánh giá đất của FAO. + Mỗi phương pháp đều có những thích ứng linh hoạt trong việc lựa chọn các đặc tính và các yếu tố hạn chế có liên quan trong quá trình đánh giá đất đai, do đó có thể dễ dàng điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện từng vùng. + Các phương pháp đều đảm bảo cho việc cung cấp những thông tin có liên quan đến các yếu tố thổ nhưỡng, môi trường đất đai, và những kỹ thuật áp dụng đối với các loại hình sử dụng đất, điều này rất có ý nghĩa cho việc xác định các mục đích sử dụng và quản lý đất đai một cách có hiệu quả. + Hệ thống phân vị của mỗi phương pháp cho phép dễ dàng áp dụng ở các mức độ và phạm vi khác nhau, từ những vùng rộng lớn cho tới các trang trại sử dụng đất trực tiếp. Tuy nhiên đối với những loại đất có nhiều yếu tố hạn chế thì khó có thể cân nhắc, tính toán được tác động tương hỗ giữa các yếu tố hạn chế với nhau, do đó khó sắp xếp đúng mức độ theo tiêu chuẩn đã thiết lập. b. Ở Việt Nam. Từ thời phong kiến các triều đại vua chúa nước ta đã thực hiện đạc điền, phân hạng đất theo kinh nghiệm nhằm quản lý đất đai cả về số lượng và chất lượng. Năm 1092, nhà Lý lần đầu tiên đã tiến hành đạc điền, lập điền bạ, đánh thuế ruộng đất. Thời nhà Lê vào thế kỷ XV, ruộng đất đã được phân chia tứ hạng điền (nhất đẳng điền, nhị đẳng điền, tam đẳng điền và tứ đẳng điền) nhằm phục vụ cho chính sách quản điền và tô thuế. Trong thời kỳ thống trị của thực dân Pháp, việc nghiên cứu đánh giá đất đã được tiến hành ở những vùng đất đai phì nhiêu, những vùng đất có khả năng khai phá với mục đích xác định tiềm năng sử dụng để lựa chọn đất lập đồn điền, tiêu biểu là một số công trình của Yves Henry (1931), Castagnol E.M (1959,1952), Smith (1951 ). Trong giai đoạn 1954- 1975, ở miền Nam đã có một số công trình nghiên cứu về đất của Moorman F.R (1958 - 1960), Thái Công Tụng, Moorman F.R (1958), Trương Đình Phú (1960 - 1961)...các công trình nghiên cứu trên đã xác định được hầu hết các loại đất chính phân bố trên địa bàn Miền Nam (nguồn gốc phát sinh, tính chất lý học, hiện trạng và khả năng sử dụng đất). Ở miền Bắc các nhà khoa học Việt Nam đã tiến hành điều tra về đất và xây dựng bản đồ thổ nhưỡng toàn quốc tỷ lệ 1:1.000.000. Một số công trình nghiên cứu cơ bản về đất đã được công bố như Frinland VM với "Một số kết quả nghiên cứu bước đầu về đất Miền Bắc" (1962). Vũ Ngọc Tuyên, Trần Khải, Phan Gia Tu với "Những loại đất chính Miền Bắc Việt Nam", Tôn Thất Chiểu với "Tổng quan về điều tra phân loại đất Việt Nam" . Từ đầu những năm 70, vấn đề luân canh bố trí hệ thống cây trồng để tăng vụ, gối vụ, xen canh nhằm sử dụng tốt hơn nguồn lực đất đai, khí hậu được nhiều tác giả đề cập như Bùi Huy Đáp (1974), Ngô Thế Dân (1982), Vũ Tuyên Hoàng (1978), Bùi Quang Toản và một số cán bộ khoa học viện thổ nhưỡng nông hóa đã thực hiện công tác nghiên cứu đánh giá đất và phân hạng đất ở 23 huyện, 286 hợp tác xã (HTX) và 9 vùng chuyên canh. Các kết quả nghiên cứu bước đầu đã phục vụ thiết thực cho công tác tổ chức lại sản xuất. Từ kết quả nghiên cứu đó, Bùi Quang Toản đã đề xuất quy trình phân hạng đất đai áp dụng cho các HTX và vùng chuyên canh gồm 4 bước, các yếu tố chất lượng được chia ra thành yếu tố thuận và yếu tố nghịch, đất đai được chia làm 4 hạng: rất tốt, tốt, trung và kém . Năm 1983, tổng cục quản lý ruộng đất đã ban hành "Dự thảo phương pháp phân hạng đất lúa nước cấp huyện". Theo phương pháp này, đất đai được chia thành 8 hạng, chủ yếu là dựa vào năng suất cây trồng, ngoài ra còn sử dụng một số chỉ tiêu như độ dày tầng canh tác, địa hình, thành phần cơ giới, độ nhiễm mặn, nhiễm phèn (dẫn theo Phạm Quang Khánh, Vũ Cao Thái, 1994) [11]. Nhiều công trình nghiên cứu về đánh giá đất đai của các tác giả như Nguyễn Khang, Phạm Dương Ưng (1995) [13] với "Kết quả bước đầu đánh giá tài nguyên đất đai Việt Nam". Đánh giá hiện trạng sử dụng đất theo quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền (Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, 1995)[30]. Phạm Quang Khánh với "Kết quả nghiên cứu hệ thống sử dụng đất trong nông nghiệp" (1994), Nguyễn Công Pho với "Đánh giá đất vùng đồng bằng sông Hồng" (1995). Thực tế trong những năm qua nước ta đã quan tâm giải quyết tốt các vấn đề kỹ thuật và kinh tế, tổ chức trong sử dụng đất nông nghiệp. Việc nghiên cứu và ứng dụng được tập trung vào các vấn đề như: lai tạo giống cây trồng mới có năng suất cao, bố trí luân canh cây trồng vật nuôi, thực hiện thâm canh toàn diện, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Trong nghiên cứu hệ thống sử dụng đất và các yếu tố sinh thái nông nghiệp phục vụ quy hoạch sử dụng đất trên quan điểm sinh thái và phát triển bền vững đã có nhiều công trình nghiên cứu trên các vùng sinh thái của cả nước. Những công trình nghiên cứu sử dụng đất chung trên phạm vi cả nước với quan niệm này gồm "Hệ sinh thái nông nghiệp" (Đào Thế Tuấn, 1984), "Khả năng phát triển nông nghiệp nước ta trong giai đoạn tới" (Tôn Thất Chiểu, 1992), "Chiến lược sử dụng đất, bảo vệ, bồi dưỡng đất đai và môi trường” (Nguyễn Vy, 1992). Năm 1995, Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp đã tổ chức hội thảo quốc gia về đánh giá đất đai và quy hoạch sử dụng đất trên quan điểm sinh thái, phát triển bền vững. Hội nghị đã tổng kết đánh giá việc ứng dụng quy trình đánh giá đất của FAO vào thực tiễn ở Việt Nam, nêu những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu để sử dụng kết quả đánh giá đất vào công tác quy hoạch sử dụng đất có hiệu quả. Thông qua việc đánh giá khả năng thích hợp của đất đai để thấy tiềm năng đa dạng hóa của nông nghiệp, khả năng tăng vụ, lựa chọn hệ thống sử dụng đất, loại hình sử dụng đất phù hợp để tiến tới sử dụng đất hợp lý và có hiệu quả cao hơn. Đánh giá đất của FAO gồm 9 bước được vận dụng trong đánh giá đất đai từ các địa phương đến các vùng sinh thái lớn có đóng góp rất nhiều của các nhà nghiên cứu như: - Vùng đồi núi Tây Bắc và Trung du phía Bắc có các công trình nghiên cứu của Lê Duy Thước (1992), Lê Văn Khoa (1993), Lê Thái Bạt (1995), các tác giả có những nhận định tổng quát về quỹ đất của vùng . - Vùng đồng bằng Sông Hồng với những công trình nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Công Pho, Lê Hồng Sơn (1995), Cao Liêm, Vũ Thị Bình, Quyền Đình Hà (1992 - 1993); Đỗ Nguyên Hải (1999). Trong chương trình nghiên cứu vận dụng phương pháp đánh giá đất của FAO thực hiện trên bản đồ tỷ lệ 1:250.000 cho phép đánh giá mức độ tổng hợp phục vụ quy hoạch tổng thể vùng đồng bằng Sông Hồng. - Vùng đồng bằng sông Cửu Long: Nguyễn Văn Nhân (1996) [16] đã ứng dụng kỹ thuật GIS vào việc đánh giá đất thích hợp của FAO trên phạm vi toàn vùng với diện tích 3,9 triệu ha. Kết quả đánh giá đã xác định được 25 loại hình sử dụng đất nông nghiệp, 3 loại hình sử dụng đất lâm nghiệp, 1 loại hình thủy sản và phân lập được 57 hệ thống sử dụng đất trên 6 tiểu vùng đại diện chính, lựa chọn được 12 loại hình sử dụng đất có triển vọng cho vùng. - Vùng Đông Nam Bộ: Các công trình nghiên cứu của Phạm Quang Khánh, Trần An Phong, Vũ Cao Thái (1994) cho thấy 7 loại hình sử dụng đất chính, 49 loại hình sử dụng đất chi tiết với 94 hệ thống sử dụng đất trong nông nghiệp, trong đó 50 hệ thống sử dụng đất được lựa chọn [11], [28]. - Vùng Bắc Trung Bộ: Nhóm đất cát ven biển có diện tích là 479,1 nghìn ha, trong đó vùng Bắc Trung Bộ là 202,8 nghìn ha, Nam Trung Bộ 244,6 nghìn ha. Như vậy Duyên hải miền Trung có diện tích lớn nhất chiếm 93,4%. Năm 1981, tác giả Phan Liêu trong quá trình nghiên cứu về đất cát ven biển cũng đã đề cập đến một số khía cạnh về phát sinh, xây dựng hệ thống phân loại đất cát ven biển nhưng chưa đi sâu nghiên cứu hiệu quả sử dụng đất dụng nhóm đất này. Đất cát ven biển đã được áp dụng thành công những mô hình đạt giá trị kinh tế cao như: Cây lạc xuân theo phương pháp phủ nilon ở xã Diễn Quỳnh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, cho giá trị sản lượng đạt từ 12 - 13 triệu đồng/ha. Bông xen dưa hấu trên đất cát ven biển ở Hương Trà, tỉnh Thưa Thiên Huế đạt giá trị sản lượng 29,36 triệu đồng, thu nhập 13,32 triệu đồng. Mô hình nuôi trồng thủy sản trên đất cát với hơn 20.000 ha đất cát ven biển miền Trung, trong đó Hà Tĩnh (1.300 ha), Quảng Trị (4.000 ha), Quảng Bình (4.500 ha)…Dự án 2.800 ha nuôi tôm công nghiệp ở 2 huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy - Quảng Bình. Các công trình nghiên cứu tập trung đánh giá tiềm năng đất đai, phân tích hệ thống cây trồng hiện đại, xác định khả năng thích nghi của đất đai cho các loại hình sử dụng đất, đề xuất phương án quy hoạch sử dụng đất phù hợp với đặc điểm đất đai, các yếu tố kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Năm 1995, tổng cục địa chính đã xây dựng "Dự án đánh giá đất cấp huyện", chọn một số huyện đại diện cho các vùng kinh tế tự nhiên (miền núi và trung du phía bắc, đồng bằng sông Hồng, khu IV cũ, ven biển miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long). Các nghiên cứu sâu về đất và sử dụng đất đây là cơ sở cần thiết cho việc định hướng sử dụng đất và bảo vệ tài nguyên đất thời kỳ tiếp theo. * Tình hình nghiên cứu đánh giá đất đai của tỉnh Nam Định Công tác phân hạng đánh giá đất đai từ lâu đã được tỉnh Nam Định rất coi trọng và quan tâm. Từ năm 1960 – 1967 cùng với công tác nghiên cứu phân loại đất trên toàn miền Bắc, ở Nam Hà các nghiên cứu phân loại và xây dựng bản đồ đất tỷ lệ 1/50.000 được tiến hành do các nhóm tác giả V.M Fritland, Bùi Xuân Sơn, Nguyễn Văn Tích và các cộng tác viên thực hiện theo hệ thống phân loại phát sinh. Từ năm 1967 đến năm 1995 phòng Thổ nhưỡng - Nông hoá tỉnh Nam Hà tiếp tục điều tra, khảo sát xây dựng bản đồ dinh dưỡng đất cho tất cả các hợp tác xã trong tỉnh. Từ năm 1995 đến năm 2002 Trạm nông hoá và cải tạo đất của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của tỉnh Nam Định phối hợp với trường Đại học Nông nghiệp I đã tiến hành thực hiện dự án “Điều tra, khảo sát, xây dựng tài liệu và bản đồ thổ nhưỡng tỷ lệ 1/50.000 tỉnh Nam Định theo tiêu chuẩn quốc tế FAO/UNESCO”. Các công trình khoa học trên đã góp phần rất lớn vào thành quả phát triển nông nghiệp nông thôn của tỉnh. Nhưng trong giai đoạn hiện nay, các nông hộ là những đơn vị sản xuất độc lập, sản xuất nông nghiệp đang phát triển theo cơ chế thị trường. Do đó, để định hướng đúng cho việc quản lý sử dụng đất đai cũng đòi hỏi đánh giá đất phải tiếp cận ở phạm vi vùng lãnh thổ hẹp với điều kiện sinh thái đặc thù. Những đánh giá ở mức độ chi tiết đặc biệt càng có ý nghĩa quan trọng trong những vùng sản xuất nông nghiệp có điều kiện đất đai đa dạng và hạn chế như ở vùng ven biển Đông của huyện Nghĩa Hưng. Do đó, đề tài đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp cho huyện Nghĩa Hưng được thực hiện nhằm xây dựng cơ sở khoa học cho các phương án sử dụng đất hướng đến mục tiêu sử dụng đất hiệu quả và bền vững. 2.2. Khái quát về hiệu quả sử dụng đất. Mọi hoạt động sản xuất của con người đều có mục tiêu chủ yếu là kinh tế. Tuy nhiên, kết quả hoạt động đó không chỉ duy nhất đạt được về mặt kinh tế mà đồng thời tạo ra nhiều kết quả liên quan đến đời sống kinh tế xã hội của con người [4]. Những kết quả đó là: - Cải thiện điều kiện sống và làm việc của con người, nâng cao thu nhập. - Cải tạo môi sinh, nâng cao đời sống tinh thần cho người lao động. - Cải tạo môi trường sinh thái, tạo ra một sự phát triển bền vững trong sử dụng đất đai. Để phân loại hiệu quả thì có nhiều cách phân loại khác nhau, nếu căn cứ vào nội dung và cách biểu hiện thì hiệu quả được phân thành 3 loại: Hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. * Hiệu quả kinh tế Theo Các Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể là quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối một cách có kế hoạch thời gian lao động theo các ngành sản xuất khác nhau, theo các nhà khoa học Đức: Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội (dẫn theo Vũ Thị Phương Thuỵ, 2000) [23] . Như vậy, hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế chung nhất, là khâu trung tâm của các loại hiệu quả. Hiệu quả kinh tế có vai trò quyết định các hiệu quả còn lại bởi vì trong mọi hoạt động sản xuất con người đều có mục tiêu chủ yếu là khi có được hiệu quả kinh tế thì mới có các điều kiện vật chất để đảm bảo cho các hiệu quả về xã hội và môi trường. Hiệu quả kinh tế có khả năng lượng hoá, tính toán chính xác trong mối quan hệ so sánh giữa lượng kết quả đạt được và chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất. Kết quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là phần các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xét cả về phần so sánh tuyệt đối và so sánh tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai đại lượng đó. Vì vậy, bản chất của phạm trù kinh tế sử dụng đất là: với một diện tích đất đai nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất nhiều nhất với một lượng đầu tư chi phí về vật chất và lao động thấp nhất nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội [18]. * Hiệu quả xã hội Hiệu quả xã hội có liên quan mật thiết với hiệu quả kinh tế, nó thể hiện mục tiêu hoạt động kinh tế của con người. Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xã hội và lượng chi phí bỏ ra [23]. Ở đây hiệu quả xã hội phản ánh những khía cạnh về mối quan hệ xã hội giữa con người với con người như vấn đề công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, định canh, định cư, công bằng xã hội... Hiệu quả xã hội trong sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu được xác định bằng khả năng tạo việc làm trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp. Trong giai đoạn hiện nay, việc đánh giá hiệu quả xã hội của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp là nội dung đang được nhiều nhà khoa học quan tâm . * Hiệu quả môi trường Hiệu quả môi trường là một vấn đề mang tính toàn cầu, ngày nay đang được chú trọng quan tâm và không thể bỏ qua khi đánh giá hiệu quả. Điều này có ý nghĩa là mọi hoạt động sản xuất, mọi biện pháp khoa học kỹ thuật, mọi giải pháp về quản lý... được coi là có hiệu quả khi chúng không gây tổn hại hay có những tác động xấu đến môi trường đất, môi trường nước và môi trường không khí cũng như không làm ảnh hưởng xấu đến môi sinh và đa dạng sinh học. Có được điều đó mới đảm bảo cho một sự phát triển bền vững của mỗi vùng lãnh thổ, mỗi quốc gia cũng như cả cộng đồng quốc tế. Trong sản xuất nông nghiệp hiệu quả môi trường là hiệu quả mang tính lâu dài, vừa đảm bảo lợi ích hiện tại mà không làm ảnh hưởng xấu đến tương lai, nó gắn chặt với quá trình khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên đất và môi trường sinh thái [32]. Bên cạnh cách phân loại hiệu quả nói trên, người ta còn có thể căn cứ vào yêu cầu tổ chức và quản lý kinh tế, căn cứ vào các yếu tố cơ bản về sản xuất, phương hướng tác động ._.vào sản xuất cả về mặt không gian và thời gian ... Tuy nhiên, dù nghiên cứu ở bất cứ góc độ nào thì việc đánh giá hiệu quả cũng phải xem xét về mặt không gian và thời gian, trong mối liên hệ chung của toàn bộ nền kinh tế. Ở đó, hiệu quả bao gồm cả hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường với một mối quan hệ mật thiết thống nhất và không thể tách rời nhau. Có như vậy mới đảm bảo cho việc đánh giá hiệu quả được đầy đủ, chính xác và toàn diện. * Đánh giá hiệu quả sử dụng đất theo hướng bền vững. a. Nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp Đất đai là nguồn tài nguyên có hạn trong khi đó nhu cầu của con người được lấy từ đất ngày càng tăng, mặt khác đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp do bị trưng dụng sang các mục đích khác. Vì vậy, sử dụng đất nông nghiệp ở nước ta với mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội trên cơ sở bảo đảm an ninh lương thực, thực phẩm, bảo vệ, khôi phục và phát triển rừng, tăng cường nguyên liệu cho công nghiệp, đảm bảo khả năng phòng hộ môi trường, bảo vệ tính đa dạng sinh học, bảo vệ hệ động thực vật quí hiếm của rừng, phát triển công nghiệp chế biến vừa và nhỏ với thiết bị công nghệ tiên tiến; khai thác tiềm năng lao động, giải quyết công ăn việc làm góp phần xóa đói giảm nghèo, thu hút các nguồn lực đầu tư, nâng cao vai trò và giá trị đóng góp của ngành nông - lâm nghiệp vào phát triển kinh tế quốc dân (dẫn theo Phùng Tuấn Anh) [1]. Sản xuất nông nghiệp trên cơ sở cân nhắc những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, tận dụng được tối đa lợi thế so sánh về điều kiện sinh thái và không làm ảnh hưởng xấu đến môi trường là những nguyên tắc cơ bản và cần thiết để đảm bảo cho khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên đất. Do đó, đất nông nghiệp cần được sử dụng theo nguyên tắc "đầy đủ, hợp lý và hiệu quả". - Đầy đủ: Đây là nguyên tắc quan trọng, đảm bảo diện tích đất canh tác luôn đáp ứng được nhu cầu về an toàn lương thực, diện tích đất nông nghiệp đáp ứng được tiêu chuẩn môi trường sinh thái được bền vững cũng như nhu cầu sinh hoạt của con người. - Hợp lý: Đây là nguyên tắc giúp cho việc khai thác, sử dụng đất đạt hiệu quả cao nhưng vẫn đảm bảo được tính an toàn và hiệu quả. - Hiệu quả: Trong khai thác và quản lý sử dụng đất tính hiệu quả cao nhất cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Mặt khác phải có những quan điểm đúng đắn theo xu hướng tiến bộ phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, làm cơ sở thực hiện sử dụng đất có hiệu quả kinh tế xã hội cao. b. Quan điểm sử dụng đất bền vững * Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp Theo chiến lược phát triển nông nghiệp - nông thôn Việt Nam đến năm 2010 (2000) [3] quan điểm sử dụng đất nông - lâm nghiệp là: - Tận dụng triệt để các nguồn lực thuận lợi, khai thác lợi thế so sánh về khoa học kỹ thuật, đất đai, lao động để phát triển cây trồng, vật nuôi có tỷ xuất hàng hóa cao, tăng sức cạnh tranh và hướng tới xuất khẩu. - Áp dụng phương thức sản xuất nông lâm kết hợp, lựa chọn các loại hình sử dụng đất thích hợp, đa dạng hóa sản phẩm, chống xói mòn, thâm canh sản xuất bền vững. Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông lâm nghiệp trên cơ sở thực hiện đa dạng hóa cây trồng vật nuôi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với sinh thái và bảo vệ môi trường. - Phát triển nông lâm - nghiệp một cách toàn diện và có hệ thống trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển theo chiều sâu, đáp ứng yêu cầu đa dạng hóa của nền kinh tế quốc dân. - Phát triển nông nghiệp toàn diện gắn liền với việc xóa đói giảm nghèo, giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc phòng và phát huy nền văn hóa truyền thống của các dân tộc, không ngừng nâng cao vai trò nguồn lực của con người. - Phát triển kinh tế nông nghịêp trên cơ sở áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. - Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của địa phương phải gắn liền với định hướng phát triển kinh tế, xã hội của vùng và cả nước. * Quan điểm sử dụng đất bền vững Từ khi biết sử dụng đất đai vào mục đích sinh tồn, đất đai đã trở thành cơ sở cần thiết cho sự sống và cho tương lai phát triển của loài người. Trước đây, khi dân số còn ít để đáp ứng yêu cầu của con người việc khai thác từ đất khá dễ dàng và chưa có những ảnh hưởng lớn đến tài nguyên đất. Nhưng ngày nay, mật độ dân số ngày càng tăng, đặc biệt là ở các nước đang phát triển thì vấn đề đảm bảo lương thực cho sự gia tăng dân số đã trở thành sức ép ngày càng mạnh mẽ lên đất đai. Diện tích đất thích hợp cho sản xuất nông nghiệp ngày càng cạn kiệt, con người phải mở rộng thêm diện tích canh tác trên các vùng đất không thích hợp cho sản xuất, hậu quả đã gây ra quá trình thoái hóa đất một cách nghiêm trọng (Smyth A.J & Julian Dumaski, 1993) [36 ]. Tác động của con người tới đất đã làm cho độ phì nhiêu của đất ngày càng suy giảm và dẫn đến thoái hóa đất, lúc đó rất khó có khả năng phục hồi độ phì nhiêu của đất hoặc phải chi phí rất tốn kém mới có khả năng phục hồi được. Đất với 5 chức năng chính là ''Duy trì vòng tuần hoàn sinh học và địa hóa học, phân phối nước, tích trữ và phân phối vật chất, mang tính đệm và phân phối năng lượng" (De Kimpe và Warkentin - 1998) [34], là những trợ giúp cần thiết cho các hệ sinh thái. Mục đích của sản xuất là tạo ra lợi nhuận luôn chi phối các tác động của con người lên đất đai và môi trường tự nhiên, những giải pháp sử dụng và quản lý đất không thích hợp chính là nguyên nhân dẫn đến sự mất cân bằng lớn trong đất, sẽ làm cho đất bị thoái hóa. Sử dụng đất một cách có hiệu quả và bền vững luôn là mong muốn cho sự tồn tại và tương lai phát triển của loài người, bởi vậy việc tìm kiếm các giải pháp sử dụng đất thích hợp, bền vững đã được nhiều nhà khoa học đất và các tổ chức quốc tế quan tâm. Thuật ngữ "Sử dụng đất bền vững" (Suitainable land use) đã trở thành thông dụng trên thế giới hiện nay. Nội dung sử dụng đất bền vững bao hàm ở một vùng trên bề mặt trái đất với tất cả các đặc trưng: Khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng, chế độ thủy văn, động vật - thực vật và cả những hoạt động cải thiện việc sử dụng và quản lý đất đai như: hệ thống tưới tiêu, xây dựng đồng ruộng… Do đó thông qua hoạt động thực tiễn sử dụng đất chúng ta phải xác định được những vấn đề liên quan đến các yếu tố tác động đến khả năng bền vững đất đai trên phạm vi cụ thể của từng vùng để tránh những sai lầm trong sử dụng đất, đồng thời hạn chế được những tác hại đối với môi trường sinh thái [9]. Theo Fetry [35] sự phát triển bền vững trong lĩnh vực nông nghiệp chính là sự bảo tồn đất, nước, các nguồn động và thực vật, không bị suy thoái môi trường, kỹ thuật thích hợp, sinh lợi kinh tế và chấp nhận được về mặt xã hội. FAO đã đưa ra các chỉ tiêu cụ thể cho nông nghiệp bền vững là. - Thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng cơ bản của các thế hệ hiện tại và tương lai về số lượng, chất lượng và các sản phẩm nông nghiệp khác. - Cung cấp lâu dài việc làm, đủ thu thập và các điều kiện sống, làm việc tốt cho mọi người trực tiếp làm nông nghiệp. - Duy trì và có thể tăng cường khả năng sản xuất của các cơ sở tài nguyên thiên nhiên, khả năng tái sản xuất của các nguồn tài nguyên tái tạo được mà không phá vỡ chức năng của các chu trình sinh thái cơ sở, cân bằng tự nhiên không phá vỡ bản sắc văn hóa - xã hội của các cộng đồng sống ở nông thôn hoặc không gây ô nhiễm môi trường. - Giảm thiểu khả năng bị tổn thương trong nông nghiệp, củng cố lòng tin trong nông dân [19]. c. Tiêu chí đánh giá tính bền vững. Vào năm 1991, ở Nairobi đã tổ chức Hội thảo về “Khung đánh giá quản lý đất bền vững” đã đưa ra định nghĩa: “Quản lý bền vững đất đai bao gồm tổ hợp các công nghệ, chính sách và hoạt động nhằm liên hợp các nguyên lý kinh tế xã hội với các quan tâm môi trường để đồng thời: - Duy trì, nâng cao sản lượng (hiệu quả sản xuất); - Giảm rủi ro sản xuất (an toàn). - Bảo vệ tiềm năng nguồn lực tự nhiên và ngăn ngừa thoái hoá đất và nước (bảo vệ). - Có hiệu quả lâu dài (lâu bền). - Được xã hội chấp nhận (tính chấp nhận) [8]. Năm nguyên tắc trên được coi là trụ cột của sử dụng đất đai bền vững và là những mục tiêu cần phải đạt được, nếu thực tế diễn ra đồng bộ, so với các mục tiêu cần phải đạt được. Nếu chỉ đạt một hay một vài mục tiêu mà không phải tất cả thì khả năng bền vững chỉ mang tính bộ phận. Để đánh giá tính bền vững trong sử dụng đất cần dựa vào 3 tiêu chí sau đây: * Bền vững về kinh tế Ở là đây cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, được thị trường chấp nhận. Hệ thống sử dụng đất phải có mức năng suất sinh học cao trên mức bình quân vùng có cùng điều kiện đất đai. Năng suất sinh học bao gồm các sản phẩm chính và phụ (đối với cây trồng là gỗ, hạt, củ, quả...và tàn dư để lại). Một hệ bền vững phải có năng suất trên mức bình quân vùng, nếu không sẽ không cạnh tranh được trong cơ chế thị trường. Về chất lượng: sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn tiêu thụ tại địa phương, trong nước và xuất khẩu, tùy mục tiêu của từng vùng. Tổng giá trị sản phẩm trên đơn vị diện tích là thước đo quan trọng nhất của hiệu quả kinh tế đối với một hệ thống sử dụng đất. Tổng giá trị trong một giai đoạn hay cả chu kỳ phải trên mức bình quân của vùng, nếu dưới mức đó thì nguy cơ người sử dụng đất sẽ không có lãi, hiệu quả vốn đầu tư phải lớn hơn lãi suất tiền vay vốn ngân hàng [8]. * Bền vững về xã hội. Thu hút được lao động, đảm bảo đời sống và phát triển xã hội. Đáp ứng nhu cầu của nông hộ là điều quan tâm trước, nếu muốn họ quan tâm đến lợi ích lâu dài (bảo vệ đất, môi trường..). Sản phẩm thu được cần thoả mãn cái ăn, cái mặc, và nhu cầu sống hàng ngày của người nông dân. Nội lực và nguồn lực địa phương phải được phát huy. Về đất đai, hệ thống sử dụng đất phải được tổ chức trên đất mà nông dân có quyền hưởng thụ lâu dài, đất đã được giao và rừng đã được khoán với lợi ích các bên cụ thể. Sử dụng đất sẽ bền vững nếu phù hợp với nền văn hoá dân tộc và tập quán địa phương, nếu ngược lại sẽ không được cộng đồng ủng hộ [8]. * Bền vững về môi trường. Loại hình sử dụng đất phải bảo vệ được độ màu mỡ của đất, ngăn chặn thoái hoá đất và bảo vệ môi trường sinh thái. Giữ đất được thể hiện bằng giảm thiểu lượng đất mất hàng năm dưới mức cho phép. Độ phì nhiêu đất tăng dần là yêu cầu bắt buộc đối với quản lý sử dụng đất bền vững. Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh thái (>35%). Đa dạng sinh học biểu hiện qua thành phần loài (đa canh bền vững hơn độc canh, cây lâu năm có khả năng bảo vệ đất tốt hơn cây hàng năm ...). Ba yêu cầu bền vững trên là để xem xét và đánh giá các loại hình sử dụng đất hiện tại. Thông qua việc xem xét và đánh giá các yêu cầu trên để giúp cho việc định hướng phát triển nông nghiệp ở vùng sinh thái [8]. Tóm lại: Khái niệm sử dụng đất đai bền vững do con người đưa ra được thể hiện trong nhiều hoạt động sử dụng và quản lý đất đai theo các mục đích mà con người đã lựa chọn cho từng vùng đất xác định. Đối với sản xuất nông nghiệp việc sử dụng đất bền vững phải đạt được trên cơ sở đảm bảo khả năng sản xuất ổn định của cây trồng, chất lượng tài nguyên đất không suy giảm theo thời gian và việc sử dụng đất không ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của con người, của các sinh vật. 2.3. Tổng quan về sử dụng đất nông nghiệp. 2.3.1. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới. Đất nông nghiệp là nhân tố vô cùng quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp. Trên thế giới, mặc dù nền sản xuất nông nghiệp của các nước phát triển không giống nhau nhưng tầm quan trọng đối với đời sống con người thì quốc gia nào cũng thừa nhận. Hầu hết các nước coi sản xuất nông nghiệp là cơ sở nền tảng của sự phát triển. Tuy nhiên, khi dân số ngày một tăng nhanh thì nhu cầu lương thực, thực phẩm là một sức ép rất lớn. Để đảm bảo an ninh lương thực loài người phải tăng cường các biện pháp khai hoang đất đai. Do đó, đã phá vỡ cân bằng sinh thái của nhiều vùng, đất đai bị khai thác triệt để và không còn thời gian nghỉ, các biện pháp gìn giữ độ phì nhiêu cho đất chưa được coi trọng. Kết quả là hàng loạt diện tích đất bị thoái hoá trên phạm vi toàn thế giới qua các hình thức bị mất chất dinh dưỡng và chất hữu cơ, bị xói mòn, bị nhiễm mặn và bị phá hoại cấu trúc của tầng đất... Người ta ước tính có tới 15% tổng diện tích đất trên trái đất bị thoái hoá do những hành động bất cẩn của con người gây ra (De Kimpe và Warkentin - 1998) [34]. Đất đai trên thế giới phân bố ở các châu lục không đều. Tuy có diện tích đất nông nghiệp khá cao so với các châu lục khác nhưng châu Á lại có tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp trên tổng diện tích đất tự nhiên thấp. Mặt khác, châu Á là nơi tập trung phần lớn dân số thế giới, ở đây có các quốc gia dân số đông nhất nhì thế giới là Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia. Ở châu Á, đất đồi núi chiếm 35% tổng diện tích. Tiềm năng đất trồng trọt nhờ nước trời nói chung là khá lớn khoảng 407 triệu ha, trong đó xấp xỉ 282 triệu ha đang được trồng trọt và khoảng 100 triệu ha chủ yếu nằm trong vùng nhiệt đới ẩm của Đông Nam Á. Phần lớn diện tích này là đất dốc và chua; khoảng 40-60 triệu ha trước đây vốn là đất rừng tự nhiên che phủ, nhưng đến nay do bị khai thác khốc liệt nên rừng đã bị phá và thảm thực vật đã chuyển thành cây bụi và cỏ dại. Đông Nam Á là một khu vực đặc biệt. Từ số liệu của UNDP năm 1995 (dẫn theo Đỗ Nguyên Hải, 2000) [9], cho ta thấy đây là một khu vực có dân số khá đông trên thế giới nhưng diện tích đất canh tác thấp, trong đó chỉ có Thái Lan là diện tích đất canh tác trên đầu người khá nhất, Việt Nam đứng hàng thấp nhất trong số các quốc gia ASEAN. Nhiều quyết sách sai lệch đã làm diện tích trồng cây lương thực trên thế giới giảm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến an ninh lương thực quốc gia. Đô thị hóa làm diện tích đất nông nghiệp bị giảm nhiều nhất là ở Philippines, mất đến 50%. Sau một thời gian thúc đẩy mạnh mẽ đô thị hóa và xây dựng các khu công nghiệp, các chuyên gia cảnh báo nước này có diện tích đất nông nghiệp trồng lúa quá ít, chỉ 2,3 triệu hecta so với 9,9 triệu ở Thái Lan và 7,5 triệu ở VN. Philippines vào những năm 1970 là nhà xuất khẩu gạo nhưng sau hai thập niên đô thị hóa và công nghiệp hóa, nước này trở thành nhà nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới với con số 2 triệu tấn mỗi năm và năm nay con số này lên đến 2,7 triệu tấn. Các chuyên gia cho rằng một nghịch lý lớn nữa chính là Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế được đặt tại Philippines nhưng nước này vẫn không đủ lúa gạo để phục vụ người dân của mình. Theo Bộ Nông nghiệp nước này thì dự trữ lúa gạo thường xuyên của Philippines chỉ đủ cung cấp cho cả nước trong 59 ngày. Mỹ giờ đây cũng đang lên kế hoạch cứu vãn diện tích đất nông nghiệp đang ngày càng ít đi. Theo nghiên cứu của Tổ chức Sự thật về đất nông nghiệp ở Mỹ, cứ mỗi phút nước này mất đi 2 mẫu Anh (1,6ha) đất trồng trọt. Nơi mất nhiều nhất là các khu vườn ở ngoại thành, nơi những vườn cây cho các loại trái cây ngon nhất đất nước đã bị thay thế bằng những khu dân cư mới, đường cao tốc và trung tâm mua sắm. Thật ra sự phát triển là tất yếu, nhưng điều đáng nói là sự phát triển lộn xộn, thiếu quy hoạch đã làm nhiều thành phố lớn ở Mỹ cũng rơi vào tình trạng mất đất đai dành cho trồng trọt. Theo nghiên cứu, người Mỹ hiện nay “xài” đất nhiều hơn bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử nước này và “xài” rất hoang phí. Các bang Arkansas, New York, Illinois, Alabama và Mississippi đứng đầu danh sách những bang có diện tích đất nông nghiệp bị đô thị hóa nhiều nhất. Trong khi đó tại Nga sản xuất nông nghiệp cũng gặp khó khăn, bị đình trệ nhiều năm qua, nhưng nguyên nhân không phải do thiếu đất mà do đất đai bị các chính sách cải cách nông nghiệp sau khi Liên Xô tan rã biến thành những cánh đồng hoang. Khi đó, các nhà cải cách chủ trương giải tán nông trang tập thể, giao đất cho nông dân, biến nông dân Nga thành những ông chủ trên mảnh đất của mình và hô hào thị trường tự do. Đồng thời, Chính phủ Nga cắt giảm ngân sách dành cho nông nghiệp với quan niệm được hiểu nửa vời là thị trường sẽ điều chỉnh nông nghiệp. Từ năm 1990-2007, kinh phí dành cho nông nghiệp giảm từ 27% xuống 1-1,2%. Đồng thời tỉ trọng ngân sách địa phương dành cho nông nghiệp cũng giảm mạnh. Năm 1990 có 117 triệu hecta đất được gieo cấy. Năm 2007 chỉ còn 76 triệu. Như vậy theo số liệu của Cơ quan Thống kê Nga, 41 triệu ha đất nông nghiệp bị hoang hóa. Đó là diện tích vượt quá toàn bộ đất canh tác của Pháp, Ý và Tây Ban Nha cộng lại. Năm 2007, Nga chỉ tự đảm bảo 55% nhu cầu thực phẩm. Cả nước Nga với đất đai mênh mông nhưng mỗi năm phải chi ra 27 tỉ USD nhập khẩu lương thực thực phẩm. Một vài nước đang phát triển đang cố gắng làm chậm lại hoặc dừng tiến trình đô thị hóa. Trung Quốc sau khi nhận thấy hàng chục triệu hecta đất nông nghiệp biến mất trong những năm gần đây đã quyết định nghiêm khắc đối với việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Hồi tháng 1-2008, Trung Quốc đã xét xử hàng ngàn người về việc sử dụng đất sai mục đích. Tháng 4-2008, Chính phủ Philippines ra quyết định tạm ngừng chuyển đổi mục đích sử dụng của đất nông nghiệp nhằm tăng diện tích trồng lúa, đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước. Song song đó, Tổng thống Gloria Arroyo cũng quyết định chi 1 tỉ USD cho dự án phát triển trồng lúa và sản xuất lương thực. Đến tháng sáu, Tổng thống Arroyo đến thăm Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế và ký hiệp ước hỗ trợ kỹ thuật với viện này để giúp toàn dân Philippines đủ gạo ăn vào năm 2013, với sản lượng 21,58 triệu tấn mỗi năm. Hiệu quả tức thì của “kế hoạch hành động vì gạo” đã giúp Philippines tăng sản lượng lúa gạo lên 7% trong quý 3 năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007. Theo tính toán của ủy ban liên ngành Bộ Nông nghiệp Philippines, họ sẽ tiết kiệm được 1,8-2 tỉ USD nhập khẩu lúa gạo dù phải chi 1,47 tỉ USD trong vòng 5 năm tới đầu tư cho nông nghiệp. Nhưng sản lượng lúa sẽ tăng 5,8%, lên 17,81 triệu tấn vào năm 2009; 4,6% vào năm 2010 và khoảng 5% mỗi năm kể từ 2011-2013. Còn tại Nga, cho đến năm 2006, hạ viện mới thông qua đạo luật đầu tiên về nông nghiệp kể từ cuộc cải cách đầu thập niên 1990, theo đó yêu cầu chính phủ phải có chương trình cấp quốc gia đầu tư cho nông nghiệp và xem xét lại chương trình này năm năm một lần, nhằm khai hoang, phục hóa đất đai. Tiến sĩ nông nghiệp Albert Semin kêu gọi cần thành lập ủy ban quốc gia về khôi phục nông nghiệp, và tốt nhất ủy ban này do Tổng thống Dmitry Medvedev đứng đầu. Trong khi đó, một số không nhỏ các quốc gia gần như tuyệt vọng về đất nông nghiệp đang tìm lối thoát tự cứu mình. Trong những tháng gần đây, Saudi Arabia đã cử đại diện gặp Thái Lan, Nam Phi để bàn chuyện mua đất nông nghiệp. Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) đang dòm ngó đất trồng trọt ở Sudan, Ai Cập, Yemen và đang thuyết phục một hợp đồng trị giá 3 tỉ USD ở Pakistan để xây dựng những đại trang trại trồng lúa, ngũ cốc, mía và cây ăn quả. Abu Dhabi gần đây đã ký hợp đồng với Sudan để phát triển hơn 50.000ha đất nông nghiệp. Mới đây, Bahrain đã ký hợp tác đầu tư nông nghiệp, cụ thể là trồng lúa tại Philippines. Ở châu Á, tháng 4-2008, Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung Bak đã rất quan tâm việc thuê đất trồng trọt ở miền Viễn đông Nga và các nước Đông Nam Á. Còn các công ty Trung Quốc đang thuyết phục một hợp đồng thuê đất ở Philippines và châu Phi, đồng thời đang nhắm tới Úc. Thậm chí một số chủ trang trại ở Mỹ và Úc cũng bắt đầu dòm ngó các vùng trồng trọt rộng lớn ở nước ngoài, đặc biệt là ở Nam Mỹ.  2.3.2. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp của Việt Nam Đất sản xuất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp…[14]. Theo kết quả kiểm kê đất đai năm 2005, Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên là 33.069.348 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp chỉ có 9.415.568 ha, dân số là 82.018 nghìn người, bình quân diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 1132 m2/ người. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nhằm thoả mãn nhu cầu cho xã hội về sản phẩm nông nghiệp đang trở thành vấn đề cáp bách luôn được các nhà quản lý và sử dụng đất quan tâm. Thực tế cho thấy, trong những năm qua do tốc độ công nghiệp hoá cũng như đô thị hoá diễn ra khá mạnh mẽ ở nhiều địa phương trên phạm vi cả nước làm cho diện tích đất nông nghiệp ở Việt Nam có nhiều biến động, theo những tư liệu của Tổng cục Thống kê thì biến động về số lượng đất nông nghiệp của nước ta trong 10 năm gần đây được thể hiện ở bảng 2.1. Bảng 2.1 Biến động về diện tích đất nông nghiệp và diện tích đất canh tác hàng năm ở Việt Nam (1993-2003) Năm Tổng diện tích đất nông nghiệp (1000ha) Tổng diện tích đất canh tác hàng năm (1000ha) Dân số (1000 người) Bình quân diện tích đất canh tác hàng năm/người (m2) 1993 9979,7 8894,0 71025,6 1252 1994 10381,4 9000,6 72509,5 1241 1995 10496,9 9224,4 73962,4 1247 1996 10928,9 9486,1 75355,2 1258 1997 11316,4 9680,9 76714,5 1261 1998 11704,8 10011,3 76325,0 1311 1999 12320,3 10468,9 76596,7 1372 2000 12644,3 10540,3 77635,4 1357 2001 12507,0 10352,2 78685,8 1315 2002 12831,4 10595,9 79727,4 1329 2003 12972,6 10681,6 80902,4 1320 Niên giám thống kê 2003. Theo Nguyễn Đình Bồng (2002) [4], đất nông nghiệp của chúng ta chỉ chiếm 28,38% và gần tương đương với diện tích này là diện tích đất chưa sử dụng. Đây là tỷ lệ cho thấy cần có nhiều biện pháp thiết thực hơn để có thể khai thác được diện tích đất nói trên phục cho các mục đích khác nhau. So với một số nước trên thế giới, nước ta có tỷ lệ đất dùng vào nông nghiệp rất thấp. Bảng phân loại đất quốc gia theo phương pháp định lượng: FAO - UNESCO - WRB, tài nguyên các nhóm đất chính của Việt Nam trình bày ở bảng 2.2. Như vậy, trong các loại đất, đất đồi núi dốc chiếm đến 70% tổng diện tích. Trong các loại đất vùng đồng bằng, đất phù sa có hơn 3 triệu ha, chiếm 10.27% tổng diện tích. Nếu kể thêm một số loại đất tốt khác thì Việt Nam chỉ có khoảng 20% diện tích. Diện tích đất còn lại là các loại đất xấu, có nhiều trở ngại cho sản xuất nông nghiệp như quá dốc, khô hạn, úng, phèn mặn, nghèo dinh dưỡng hoặc tầng đất quá mỏng... Bảng 2.2: Diện tích các nhóm đất Việt Nam Nhóm đất Diên tích (ha) 1. Đất cát 533,434 2.Đất mặn 971,356 3.Đất phèn 1863,128 4.Đất phù sa 3400,059 5.Đất Glây 452,418 6.Đất than bùn 24,941 7.Đất đá bọt 171,402 8.Đất đen 112,939 9. Đất nâu 42,33 10. Đất tích vôi 5,527 11.Đất xám 19970,642 12.Đất nâu tím 99,199 13. Đất đỏ 3071,594 14.Đất mùn Anlit núi cao 280,714 15.Đất xói mòn tro sỏi đá 495,727 Nguồn:[8] Theo Lê Thái Bạt thì trong khoảng 33 triệu ha đất tự nhiên của Việt Nam, diện tích “đất có vấn đề” về độ phì nhiêu và khả năng sản xuất đã chiếm hơn 50%. Về vấn đề sử dụng đất, hiện nay tài nguyên đất ngày càng được sử dụng hợp lý và có hiệu quả hơn so với các năm trước. Ở nước ta, trong cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp, cây lâu năm chiếm hơn 30%, cây hàng năm khoảng trên 60% diện tích. Tuy nhiên, với trên 3/4 diện tích tự nhiên là đất dốc thì tỷ lệ cây lâu năm cần phải tăng hơn nữa. Tuy nhiên, ở miền núi du canh, quảng canh, độc canh còn khá phổ biến, năng suất cây trồng thấp so với các nước khác [2]. Vấn đề thoái hoá đất Việt Nam đang là một thách thức to lớn. Nguyên nhân thoái hoá đất bắt nguồn từ các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và hậu quả của chiến tranh. Thoái hoá đất điễn ra trên quy mô rộng lớn từ đồng bằng ven biển đến trung du miền núi. Hậu quả thoái hoá đất rất nghiêm trọng dẫn tới sự suy thoái tài nguyên động thực vật, suy giảm và mất khả năng sản xuất của đất. Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách, nhằm bảo vệ, quản lý và sử dụng tài nguyên đất bền vững và đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên các chính sách, giải pháp trên đây chưa được thực hiện đồng bộ và triệt để, mạng lưới quan trắc và quản lý môi trường đất còn quá mỏng. Để bảo vệ môi trường đất, cần khắc phục các tồn tại đồng thời áp dụng các biện pháp ưu tiên như: + Nghiên cứu và phổ biến công nghệ tiến bộ trong sinh học, đầu tư thâm canh, đảm bảo sản xuất bền vững nâng cao độ phì nhiêu đất. + Đẩy mạnh trồng cây lâu năm (cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu, cây đặc sản) có giá trị kinh tế cao trên đất dốc, nhân rộng các mô hình trang trại. Phục hồi lớp phủ thực vật bằng trồng rừng và hệ thống nông lâm kết hợp. Về đất lúa, tỷ trọng đất trồng lúa cao nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Khí hậu nước ta thuận lợi cho việc tăng vụ nhưng do điều kiện thuỷ lợi nên hệ số tăng vụ còn thấp: đất 1 vụ chiếm 51,23%; đất 2 vụ chiếm khoảng 44,22%; đất 3 vụ 2,46%. Như vậy có hơn 1/2 diện tích đất lúa chỉ trồng một vụ (tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long). Hệ số sử dụng đất lúa bình quân cả nước là 1,49, cao nhất là ở đồng bằng Bắc Bộ và khu bốn cũ xấp xỉ 2,0. Đất lúa đã ít lại bị giảm liên tục, từ năm 1980 – 1985 giảm 7,81% mỗi năm giảm 74 nghìn ha. Trong 5 năm đất trồng cây giảm đi 351.100 ha gần bằng diện tích đất trồng cây hàng năm của 5 tỉnh Hải Hưng, Thái Bình, Hoà Bình và Hà Tây cũ. Về chất lượng đất, theo kết quả phân hạng đất lúa của Tổng cục quản lý ruộng đất, có thể chia ra 6 hạng. Bảng trên cho thấy có tới 50% diện tích đất lúa có chất lượng kém do những hạn chế về thuỷ lợi, mặn hoặc phèn. Bảng 2.3: Diện tích các hạng đất lúa Việt Nam Phân loại Diện tích (ha ) tỷ lệ (%) Hạng 1 Hạng 2 Hạng 3 Hạng 4 Hạng 5 Hạng 6 270.000 426.000 548.000 815.000 1.084.000 1.004.000 6,5 10,2 13.2 19,6 26,1 24,4 Là một nước có đa phần dân số làm nghề nông thì bình quân diện tích đất canh tác trên đầu người nông dân rất thấp là một trở ngại to lớn. Để vượt qua, phát triển một nền nông nghiệp đủ sức cung cấp lương thực thực phẩm cho toàn dân và có một phần xuất khẩu cần biết cách khai thác hợp lý đất đai, cần triệt để tiết kiệm đất, sử dụng đất có hiệu quả cao trên cơ sở phát triển một nền nông nghiệp bền vững. 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đất sản xuất nông nghiệp, các loại hình sử dụng đất, các kiểu sử dụng đất chính trong nông nghiệp trên địa bàn huyện Nghĩa Hưng. 3.2. Nội dung nghiên cứu. 3.2.1. Điều tra, đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội liên quan đến sử dụng đất sản xuất nông nghiệp - Điều tra, đánh giá điều kiện tự nhiên: Vị trí địa lý, thổ nhưỡng, khí hậu, thuỷ văn, địa hình… - Điều tra, đánh giá điều kiện kinh tế - xã hội: Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của huyện, tình hình dân số, lao động … - Từ việc đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội rút ra những thuận lợi và khó khăn trong sử dụng đất sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững. 3.2.2. Thực trạng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp của huyện Nghĩa Hưng. - Hiện trạng sử dụng đất của huyện Nghĩa Hưng. - Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp của huyện, diện tích, sự phân bố đất đai của các loại hình sử dụng đất và các kiểu sử dụng đất trong huyện. Đánh giá các loại hình sử dụng đất, các kiểu sử dụng đất hiện trạng của huyện và sự phân bố các kiểu sử dụng đất trong huyện. 3.2.3. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp của huyện theo hướng sinh thái và phát triển bền vững. a. Đánh giá hiệu quả kinh tế các kiểu sử dụng đất: Thông qua các chỉ tiêu sau: + Giá trị gia tăng (VA). + Thu nhập hỗn hợp (MI). b. Đánh giá hiệu quả xã hội: Thông qua các chỉ tiêu sau: + Mức thu hút lao động của từng LUT cây trồng. + Mức đầu tư lao động cho từng LUT cây trồng. + Thu nhập trên ngày công lao động của từng LUT cây trồng. c. Đánh giá hiệu quả môi trường: Thông qua các chỉ tiêu sau: + Môi trường nước: - EC - Tổng số muối tan - Cl-, SO42-, NO3-, NH4+ + Môi trường đất: - Độ chua của đất pH - Độ mặn: EC, tổng số muối tan, Cl- , SO42-. - OC, N, PTs - P, K dễ tiêu 3.2.4. Đề xuất hướng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp cho huyện theo hướng sử dụng đất bền vững. - Đề xuất phương hướng và bố trí các kiểu sử dụng đất trên địa bàn huyện nhằm đạt được hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp cao nhất theo hướng sinh thái và bền vững. - Đề xuất các giải pháp thực hiện. 3.3. Phương pháp nghiên cứu. 3.3.1.Phương pháp thu thập số liệu: + Thu thập các số liệu sơ cấp: Phỏng vấn nông hộ thông qua phiếu điều tra theo phương pháp chọn mẫu có hệ thống, thứ tự mẫu là ngẫu nhiên. Nội dung điều tra chủ yếu là: Loại hình sử dụng đất, diện tích, năng suất, sản lượng, giá trị sản lượng, chi phí, lao động, mức độ thích hợp của các cây trồng. + Thu thập các số liệu thứ cấp: Thu thập tài liệu có sẵn, các tài liệu tại các phòng ban chuyên môn của các xã và huyện Nghĩa Hưng như: Phòng Tài nguyên và Môi trường, Phòng nông nghiệp, phòng thống kê. Điều tra ngoài thực địa để bổ sung điều chỉnh cho phù hợp với thực tế và chuẩn hoá số liệu 3.3.2.Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực đánh giá hiệu quả sử dụng đất. 3.3.3. Phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng đất Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế, hiệu quả môi trường, hiệu quả xã hội của các LUT dựa trên cơ sở các chỉ tiêu sau: * Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất. a. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế. - Giá trị gia tăng ( VA) VA = GO – IC Trong đó: + GO là giá trị sản xuất + IC là chi phí trung gian VA thường được tính toán trên 3 góc độ hiệu quả. + VA/1ha đất nông nghiệp. + VA/1 đơn vị chi phí. + VA/1 công lao động. - Thu nhập hỗn hợp MI MI = VA - T – A – L Trong đó: + T: thuế. + A: giá trị khấu hao. + L: chi phí công lao động. MI thường được tính trên 3 góc độ hiệu quả. + MI/1ha đất nông nghiệp. + MI/1 đơn vị chi phí. + MI/1 công lao động. b. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội. - Mức thu hút lao động, mức độ sử dụng lao động, tạo việc làm, tăng thu nhập của mỗi loại hình sử dụng đất trên địa bàn huyện. - Trình độ dân trí, trình độ hiểu biết khoa học. c. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả môi trường. - Sự thay đổi độ phì nhiêu của đất dưới các LUT sử dụng đất khác nhau. - Đánh giá tính bền vững đối với việc duy trì độ phì của đất và bền vững về môi trường. 3.3.4. Các phương pháp khác - Phương pháp kế thừa có chọn lọc các tài liệu đã có: Kế thừa các kết quả nghiên cứu trong vùng, các tài liệu khác có liên quan đến đề tài nghiên cứu. - Phương pháp xử lý số liệu: xử lý số liệu bằng phần mềm Excel. 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, huyện Ngh._.ó hiệu quả kinh tế cao của huyện, Như trên đã đánh giá hiệu quả thì vùng có hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tương đối cao và đồng đều, Trong vùng trồng được rất nhiều loại cây trồng khác nhau với các sản phẩm như: lúa, ngô, rau, lạc, vừng, cói, tôm, cá,,, nên sản phẩm nông nghiệp của vùng rất phong phú đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng cho người dân trong địa bàn huyện và cung cấp nông sản hàng hoá như cói, tôm cho thị trường các tỉnh, huyện lân cận khác và vươn đến xuất khẩu nhiều hơn, Hướng sử dụng đất của tiểu vùng này trong thời gian tới là: - Mở rộng diện tích các LUT cói, LUT tôm, LUT lúa – cá, LUT chuyên lúa – màu, đây là những sản phẩm hàng hoá chủ lực phù hợp với tiểu vùng và toàn huyện cho hiệu qủa kinh tế rất cao, đang được thị trường ưa chuộng, thu hút được nhiều nhân công giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động vào thời điểm nông nhàn, Tuy nhiên, để phát triển các loại hình này cần phải nhân giống tôm tại vùng cho phù hợp với môi trường sống, phải nhập các giống có năng suất cao, chất lượng tốt, khoẻ mạnh, không dịch bệnh để chánh những rủi ro trong quá trình nuôi tôm. - Ổn định diện tích LUT chuyên lúa nhằm đảm bảo an ninh lương thực trong huyện và góp phần cung ứng gạo cho thị trường trong tỉnh và các tỉnh lân cận, Đẩy mạnh phát triển trồng giống lúa lai trong sản xuất lúa. - Hoàn thiện hệ thống tưới tiêu hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho một số nơi thường xuyên bị ngập úng vào mùa mưa, ổn định nguồn nước ra vào cho vùng chuyên tôm, chuyển một phần diện tích đất 2 vụ lên sản xuất được 3 vụ nâng cao hiệu quả sử dụng đất. - Mở rộng phát triển các cây trồng vụ đông như ngô đông, rau đông, đậu tương đông, đậu các loại,,,góp phần làm tăng hệ số sử dụng đất, tăng hiệu quả kinh tế, tận dụng được nguồn lao động dư thừa vào thời điểm nông nhàn, đồng thời vẫn cải tạo được độ phì cho đất. - Có kế hoạch cải tạo các vùng đất bị bạc màu, nhiễm mặn và cải tạo nguồn nước bị hiễm độc do sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không đúng mức để tái sản xuất nông nghiệp, Khai thác quỹ đất chưa sử dụng hiện có ở vùng ngập mặn để đưa vào sản xuất nông nghiệp theo phương châm ưu tiên cho nuôi trồng thuỷ sản và trồng cói. - Cần đặc biệt chú trọng áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, các công nghệ sản xuất mới, các biện pháp bón phân cân đối và hợp lý, phòng trừ dịch hại tổng hợp, sử dụng cơ cấu giống có năng suất và chất lượng cao nhằm mục đích nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng đất. Cụ thể quy mô diện tích các công thức luân canh dự kiến được đề xuất đến năm 2010 của tiểu vùng được thể hiện ở bảng 4.18 Bảng 4.18: Hiện trạng và định hướng sử dụng đất vùng 1 Hiện trạng Dự kiến Loại hình sử dụng đất Kiểu sử dụng đất Diện tích (ha) Loại hình sử dụng đất Kiểu sử dụng đất Diện tích (ha) 1. Chuyên lúa 1. Lúa xuân 368,59 1. Chuyên lúa 1. Lúa xuân 268,59 2. Lúa xuân - lúa mùa 1690,47 2. Lúa xuân - lúa mùa 1390,47 2. Lúa - màu 3. Lúa xuân - lúa mùa - khoai tây 215,51 2. Lúa - màu 3. Lúa xuân - lúa mùa - khoai tây 165,51 4. Lúa xuân - lúa mùa - đậu tương 852,77 4. Lúa xuân - lúa mùa - đậu tương 852,77 5. Lúa xuân - lúa mùa - rau các loại 175,49 5. Lúa xuân - lúa mùa - rau các loại 275,49 6. Lúa xuân - lúa mùa - ngô đông 380,31 6. Lúa xuân - lúa mùa - ngô đông 105,31 3. Chuyên màu 7. Ngô xuân - ngô đông 3.Chuyên màu 7. Ngô xuân - ngô đông 25,4 8. Vừng - đậu tương - rau đông 13,5 8. Vừng - đậu tương - rau đông 63,5 9. Lạc xuân - đậu tương - ngô đông 52,89 9. Lạc xuân - đậu tương - ngô đông 112,89 4. Lúa - cá 10. Lúa - cá 854,35 4. Lúa - cá 10. Lúa - cá 1154,35 5.Cây CNHN 11. Cói 108,5 5. Cây CNHN 11. Cói 108,5 6. NTTS 12. Tôm 905 6. NTTS 12. Tôm 1200 * Định hướng sử dụng đất cho vùng 2. Hiện nay, đây là tiểu vùng có hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp còn thấp, Nguyên nhân do vùng có độ phì của đất thấp chủ yếu là đất cát và đất pha cát, thuỷ lợi chưa đảm bảo, trình độ thâm canh và khả năng đầu tư chưa cao nên hiệu quả mang lại còn thấp, Hướng sử dụng đất của vùng này trong thời gian tới là: - Cần thay đổi cơ cấu giống cây trồng thích hợp với điều kiện thâm canh tăng vụ và sản xuất nông nghiệp hàng hoá, Đối với điều kiện của vùng biển, lúa không phải là sản phẩm hàng hoá có giá trị kinh tế cao, mà phải ưu tiên trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày như lạc, đậu tương, vừng, Giảm dần diện tích các công thức luân canh trồng lúa chỉ trồng được 2 vụ cần nhiều nước, thay vào đó là tăng diện tích trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày như đã trình bày, Đây là những cây trồng không chỉ cần ít nước mà còn cho hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường rất cao, dễ tiêu thụ trên thị trường. - Đối với những vùng đất trước đây chỉ trồng ngô, khoai tây, có hiệu quả kinh tế thấp và không phù hợp nên tập chung chuyển sang phát triển cây công nghiệp ngắn ngày cho hiệu quả kinh tế cao hơn và có tác dụng cải tạo đất tốt, khắc phục được khâu tưới nước cho vùng đất này. - Nên phát triển các giống ngô, lạc, đậu tương có năng suất cao, chất lượng tốt đang được thị trường ưa chuộng không những đem lại hiệu quả kinh tế mà còn có tác dụng bảo vệ môi trường sinh thái cho vùng. - Hoàn thiện hệ thống kênh mương phục vụ nước tưới cho cây trồng phát triển. - Cần thực hiện các biện pháp cải tạo đất bạc màu ở vùng này bằng cách tăng cường bón phân hữu cơ hạn chế bón phân hoá học, kết hợp bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý để cải tạo môi trường đất trong vùng. Bảng 4.19. Hiện trạng và định hướng sử dụng đất vùng 2 Loại hình sử dụng đất Kiểu sử dụng đất Diện tích (ha) Loại hình sử dụng đất Kiểu sử dụng đất Diện tích (ha) 1. Chuyên lúa 1. Lúa xuân 577,95 1. Chuyên lúa 1. Lúa xuân 377,95 2. Lúa xuân - lúa mùa 2995,34 2. Lúa xuân - lúa mùa 2495,34 2. Lúa - màu 3. Lúa xuân - lúa mùa - khoai tây 354,74 2. Lúa - màu 3. Lúa xuân - lúa mùa - khoai tây 254,74 5. Lúa xuân - lúa mùa - rau các loại 277,97 5. Lúa xuân - lúa mùa - rau các loại 377,97 6. Lúa xuân - lúa mùa - ngô đông 521,06 6. Lúa xuân - lúa mùa - ngô đông 450,06 3. Chuyên màu 8. Vừng - đậu tương - rau đông 29,68 3. Chuyên màu 7. Vừng - đậu tương - rau đông 126,05 7. Ngô xuân - ngô đông 75,12 8. Ngô xuân - ngô đông 175,12 9. Lạc xuân - đậu tương - ngô đông 0 9. Lạc xuân - đậu tương - ngô đông 103,01 4. Lúa - cá 0 4. Lúa - cá 10. Lúa - cá 600 4.4.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Sử dụng đất như thế nào để đem lại hiệu quả cao là một vấn đề hiện nay được nhiều người quan tâm, nó hết sức phức tạp và có liên quan đến nhiều lĩnh vực, Để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp cho huyện Nghĩa Hưng, xuất phát từ tình hình thực tế của huyện và qua bước đầu nghiên cứu tìm hiểu, chúng tôi đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất cho huyện như sau: * Giải pháp về thị trường. Thị trường có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, Do đó, trong những năm tới Nghĩa Hưng cần xây dựng hệ thống hạ tầng thương mại - dịch vụ nông thôn như các hệ thống quầy hàng bán lẻ ở các khu tập trung dân cư đông, xây dựng hệ thống chợ bao gồm các chợ trung tâm, chợ đầu mối và các chợ xã, cụm xã để phục vụ cho việc trao đổi nông sản được thuận lợi. Cần phải cập nhật và cung cấp các thông tin thị trường về các loại nông sản và hàng hoá khác một cách nhanh nhất cho người nông dân trên địa bàn huyện để có thể chủ động trong các hoạt động sản xuất. Huyện cũng cần thực hiện tăng cường các hoạt động tổ chức thị trường như việc thúc đẩy tổ chức tiêu thụ sản phẩm nông sản theo hợp đồng, trước hết là tâp trung vào các nông sản có quy mô lớn, sản xuất tập trung, chất lượng tốt; xây dựng và đăng ký thương hiệu hàng nông sản, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng và tăng cường mạng lưới kênh tiêu thụ nông sản và các hàng hoá khác của kinh tế nông thôn. Ngoài việc phát triển, mở rộng thị trường trong huyện cũng cần phải hướng tới các thị trường vùng lân cận. Xây dựng và thực hiện đồng bộ các chính sách khuyến khích sản xuất hàng hoá như thực hiện các ưu đãi đối với việc sản xuất và tiêu thụ nông sản theo hợp đồng, * Giải pháp về vốn. Để phục vụ phát triển sản xuất tốt thì vốn cũng là một yếu tố hết sức quan trọng, Hiện nay người nông dân luôn trong tình trạng thiếu vốn và cần được hỗ trợ, Như ta đã biết sản xuất nông nghiệp luôn mang tính thời vụ, cây trồng nếu được đầu tư đúng mức và kịp thời thì sẽ mang lại hiệu quả cao, Nhất là trong việc nuôi tôm, đây là một loại hình sử dụng đất mang lại hiệu quả kinh tế cao, tuy nhiên nó cũng đòi hỏi phải có vốn lớn do đó người dân rất cần vay vốn để sản xuất. Hiện nay, việc cho nông hộ vay vốn để sản xuất nông nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn như nhiều hộ nông dân nghèo không có tài sản thế chấp để vay vốn, thủ tục vay vốn còn gặp nhiều phiền hà, Vì vậy, để giải quyết vấn đề này chúng tôi đưa ra một số giải pháp sau: - Đa dạng hoá các hình thức cho vay, huy động vốn nhàn rỗi trong dân, ưu tiên người vay vốn sản xuất nông nghiệp với các loại hình sử dụng đất có hiệu quả cao. - Cải tiến các thủ tục cho vay một cách hợp lý, giảm lãi suất cho vay đối với các hộ nông dân, sử dụng nhiều hình thức bảo đảm tiền vay đối với với tín dụng dạng nhỏ, mở rộng khả năng cho vay đối với tín dụng không đòi thế chấp. - Các trung tâm hỗ trợ sản xuất nông nghiệp có thể cho ứng trước vốn, kỹ thuật cho nông dân thông qua việc cung ứng vật tư, giống, tạo điều kiện cho nông dân gieo trồng và chăm sóc đúng thời vụ. - Nhà nước cần có sự hỗ trợ về đầu tư tín dụng, nhất là việc đầu tư vào việc thu mua nông sản vào mùa thu hoạch, đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến nông sản, đầu tư xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản, * Giải pháp về nguồn nhân lực. Nâng cao trình độ hiểu biết khoa học - kỹ thuật và sự nhạy bén về thị trường cho người dân trong những năm tới là rất cần thiết để tiếp thu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm đạt hiệu quả cao hơn. Cán bộ lãnh đạo và cán bộ khuyến nông cần tổ chức các buổi hội thảo, các lớp tập huấn cũng như các buổi tập huấn hay tham quan vùng sản xuất điển hình nhằm giúp người dân nâng cao trình độ sản xuất hoặc có những biện pháp khuyến khích nông dân tham gia các lớp tập huấn ngắn hạn về kỹ thuật và chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp, công nghệ kỹ thuật mới, đặc biệt là các loại giống và cây trồng mới… * Giải pháp về môi trường. Là một huyện nằm sát biển nên vấn đề độ mặn của đất luôn là vấn đề được quan tâm, Hiện tượng đất bị nhiễm mặn có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau tác động đến, Sau đây chúng tôi đưa ra một vài phương pháp làm giảm thiểu độ mặn của đất nhằm giảm tổng số muối tan tới mức trung bình, tăng cường hàm lượng dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng, từng bước cải thiện tính chất vật lý của đất. - Cần tiến hành xây dựng các hệ thống kênh, mương tưới để rửa mặn và hệ thống mương tiêu để tiêu mặn trên mặt và nước ngầm. - Biện pháp bón phân: Phân hữu cơ có tác dụng rất tốt đối với đất mặn ngoài giá trị cung cấp dinh dưỡng, phân hữu cơ dần dần cải thiện kết cấu đất, Một số cây phân xanh phát triển trên đất mặn như: bèo hoa dâu, điền thanh hạt tròn,… cũng giảm thiểu được mặn cho đất, nên phát triển những cây này trên đất mặn. - Biện pháp canh tác: Độ mặn của đất chuyên màu có xu hướng cao hơn so với đất hai lúa do đó cần phải chú ý luôn giữ ẩm cho đất để giảm khả năng bốc hơi bề mặt làm mặn hoá tầng đất trên bề mặt, đặc biệt vào mùa khô, * Các giải pháp khác. Ngoài các chính sách trên cần hoàn thiện các chính sách đất đai, thúc đẩy sự tập trung hoá đất đai, hoàn thiện các chính sách giá cả, bảo hộ, đầu tư phát triển nông nghiệp. Bên cạnh đó, huyện cũng cần phải nâng cấp, cải tạo cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là hệ thống giao thông và thuỷ lợi nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển nông sản hàng hoá, vật tư nông nghiệp và đáp ứng nhu cầu về tưới tiêu cho sản xuất. 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1. Kết luận 1, Nghĩa Hưng là một huyện thuần nông với diện tích đất tự nhiên là 25444,06ha, Năm 2007, toàn huyện có 17479,09ha đất sản xuất nông nghiệp với 6 loại hình sử dụng đất và 13 kiểu sử dụng đất chính. 2, Hiệu quả sử dụng đất trên địa bàn huyện thay đổi theo từng loại hình và kiểu sử dụng đất. - Hiệu quả kinh tế: Xét hiệu quả tính trên một đơn vị diện tích và hiệu quả tính trên 1 công lao động thì vùng 1 cho hiệu quả cao nhất, Trung bình GTSX đạt 54667,3 nghìn đồng/ha; GTGT đạt 34460,40 nghìn đồng/ha; giá trị ngày công lao động là 36,07 nghìn đồng/1 công lao động, gấp 1,13 lần vùng 2, GTSX đạt 48615,90 nghìn đồng/ha; GTGT đạt 33722,0 nghìn đồng/ha; giá trị ngày công lao động đạt 33,6 nghìn đồng/ 1 ngày công. - Các LUT cho hiệu quả kinh tế cao thu hút nhiều công lao động là LUT lúa – cá, LUT chuyên rau màu với kiểu sử dụng đất điển hình là lạc xuân - đỗ tương – ngô đông, vừng - đậu tương – rau đông, LUT chuyên lúa, LUT lúa màu và LUT NTTS, Xu hướng phát triển là mở rộng loại hình sử dụng đất chuyên màu, lúa – cá, lúa – màu, LUT NTTS. - Hiệu quả môi trường. Ở loại hình sử dụng đất chuyên lúa, chuyên màu và chuyên cói có hàm lượng kali nghèo. Hàm lượng lân trong đất của các LUT ở mức độ giàu, hàm lượng đạm trong các LUT ở mức trung bình. Loại hình sử dụng đất chuyên màu và chuyên lúa đều bị nhiễm mặn ít, 3, Căn cứ vào kết quả về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của huyện, trong tương lai chúng tôi đề xuất hướng phát triển các kiểu sử dụng đất cho hiệu quả cao điển hình như: Lúa – cá, lúa xuân - lúa mùa - rau các loại, lạc xuân - đỗ tương - ngô đông, vừng - đậu tương - rau đông, nuôi tôm. 5.2. Kiến nghị Huyện cần triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm mở rộng thị trường và hỗ trợ nguồn vốn giúp người nông dân phát triển nông nghiệp bền vững trên cơ sở tận dụng tiềm năng đất đai và các điều kiện kinh tế - xã hội của huyện. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phùng Tuấn Anh (2003), Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông - lâm nghiệp sau 5 năm thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất huyện Tân Yên- tỉnh Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. 2. Lê Thái Bạt (2002), Môi trường đất Việt Nam năm 2000, Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam năm 2000 của Bộ Khoa học – công nghệ và môi trường, Hà Nội, năm 2000. 3. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2000), Chiến lược phát triển nông nghiệp - nông thôn đến năm 2010, Hà Nội. 4. Nguyễn Đình Bồng (2002), "Quỹ đất quốc gia- Hiện trạng và dự báo sử dụng đất", Tạp Chí khoa học đất, 16/2002. 5. Cục thống kê tỉnh Nam Định (2005), Niên giám thống kê tỉnh Nam Định, NXB Văn hóa - Thông tin tỉnh Nam Định. 6. Đường Hồng Dật và các cộng sự (1994), Lịch sử nông nghiệp Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 7. Phạm Vân Đình, Đỗ Kim Chung và các cộng sự (1997), Kinh tế nông nghiệp, Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà nội. 8, Hội khoa học đất Việt Nam, (2000), Đất Việt Nam, nhà xuất bản nông nghệp, Hà Nội năm 2000. 9. Đỗ Nguyên Hải (2000), Đánh giá đất và định hướng sử dụng đất bền vững trong sản xuất nông nghiệp của huyện Tiên Sơn - Bắc Ninh, Luận án tiến sĩ Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. 10. Nguyễn Quang Học (2001), Đánh giá và định hướng sử dụng tài nguyên đất, nước phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững huyện Đông Anh - Hà Nội, Luận án tiến sĩ nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. 11. Phạm Quang Khánh, Vũ Cao Thái (1994), Các loại hình sử dụng đất và hiệu quả các hệ thống sử dụng đất trong nông nghiệp vùng Đông Nam Bộ, Tạp chí khoa học đất. 12. Nguyễn Khang (1993), "Đánh giá hiện trạng sử dụng đất bền vững", Tạp chí khoa học đất, (số 2), 1993. 13. Nguyễn Khang và Phạm Dương Ưng (1995), " Kết quả bước đầu đánh giá tài nguyên đất Việt Nam", Hội thảo quốc gia về đánh giá và quy hoạch sử dụng đất trên quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, trang 1-5. 14. Luật đất đai 2003, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội , năm 2004, 15. Phan Sỹ Mẫn, Nguyễn Việt Anh (2001), Định hướng và tổ chức phát triển nền nông nghiệp hàng hóa, tạp chí nghiên cứu kinh tế, (272) trang 42- 49. 16. Nguyễn Văn Nhân (1996), Đặc điểm đất và đánh giá khả năng sử dụng đất trong sản xuất nông nghiệp của đồng bằng Sông Hồng, Luận án phó tiến sĩ nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. 17. Đoàn Công Quỳ (2001), Đánh giá đất đai phục vụ quy hoạch sử dụng đất nông - lâm nghiệp huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên, Luận án tiến sĩ nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. 18. Đỗ Thị Tám (2001), Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá huyện Văn Giang - tỉnh Hưng Yên, Luận văn thạc sĩ khoa học Nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội. 19. Phạm Chí Thành (1998),"Về phương pháp luận trong xây dựng hệ thống canh tác ở miền Bắc Việt Nam”, Tạp chí hoạt động khoa học, số 3. 20. Tổng Cục thống kê (2004), Niên giám thống kê 2004, NXB Thống kê, Hà Nội. 21. Bùi Quang Toản và cộng sự (1995), Nghiên cứu đánh giá đất và quy hoạch sử dụng đất hoang ở Việt Nam, Báo cáo đề tài 02 -15-02-01, Tập nghiên cứu khoa học kỹ thuật (1981-1985), Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, Hà Nội Tr 24- 29. 22. Nguyễn Từ (2004), Nông nghiệp Việt Nam trong phát triển bền vững, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2004. 23. Vũ Thị Phương Thuỵ (2000), Thực trạng và giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng đất canh tác ở ngoại thành Hà Nội, Luận án Tiến sĩ kinh tế nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội, 24. Nguyễn Duy Tính (1995), Nghiên cứu hệ thống cây trồng vùng đồng bằng Sông Hồng và Bắc Trung Bộ, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 25. Vũ Thị Thương (2007), Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, Luận văn thạc sĩ nông nghiệp, Trường đại học Nông nghiệp I Hà Nội 26. Trung tâm từ điển ngôn ngữ (1992), Từ điển Tiếng Việt, Hà Nội, 27. Phòng thống kê huyện Nghĩa Hưng (2008), Niên giám thống kê huyện Nghĩa Hưng, 28. Vũ Cao Thái, Phạm Quang Khánh (1994), " Các loại hình sử dụng đất và hiệu quả sản xuất của các hệ thống sử dụng đất trong nông nghiệp vùng Đông Nam Bộ", Tạp chí khoa học đất, (4), trang 32-41. 29. Nguyễn Thị Vòng và các cộng sự (2001), Nghiên cứu và xây dựng quy trình công nghệ đánh giá hiệu quả sử dụng đất thông qua chuyển đổi cơ cấu cây trồng, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành, Hà Nội. 30. Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp (1995), Đánh giá hiện trạng đất theo quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền, Nhà xuất bản nông nghiệp , Hà Nội. 31. Ủy Ban Nhân Dân huyện Nghĩa Hưng (2000), Báo cáo quy hoạch phát triển nông nghiệp nông thôn huyện Nghĩa Hưng - Tỉnh Nam Định thời kỳ 2006-2010. 32. Lê Trọng Yên (2004) , Đánh giá hiệu quả và đề xuất hướng sử dụng đất nông - lâm nghiệp hợp lý trên điạ bàn huyên Krông Pak- tỉnh Daklak, Luận văn thạc sĩ nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. 33. FAO, 1985, Land Evaluation for Rainfed Agriculture, FAO – Rome, 34. De Kimpe E,R & Warkentin B,P (1998), "Soil Functions and Future of Natural Resources" Towards Sustainable Land use, USRIC, Vol, pp 3 – 11. 35. FAO (1976), A Framework for Land Evaluation, FAO - Rome,pp 13-35 36. Smyth A,J & Julian Dumaski (1993), "FESLM an International Framework f for Evaluating Sustainable Land Management", World soil Report (73), FAO - RRome, pp – 74. 37. W,B (1992), World Development Report Development and the Enviroment, 1992. 38. Young A (1973), "Soil survey procedures in the land development planning", Georg,J, 139, London. 39. FAO (1986), Land Evaluation irrgated Agricultrure, FAO – Rome. PHỤ LỤC Ảnh 1: Quang cảnh đồng cói Ảnh 2: Mô hình trồng lúa – cá kết hợp Ảnh 3: Mô hình trồng xen ngô – lạc Ảnh 4: Cánh đồng chuyên lúa mùa thu hoạch Ảnh 5: Quang cảnh cánh đồng màu Phụ lục 1: Kết quả phân tích đất nông nghiệp huyện Nghĩa Hưng stt pHH2O pHKCl EC (µm/cm) TSMT (%) Cl- (mg/l) SO42- (%) HCO32- (medm-3) Ca2+ Ht Ca2+ Td Mg2+Ht Mg2+Td Na+ Td Na+ Ht K+Td K+Ht Sar (mmol/l)1/2 mg/100g đất  1 6,10 5,50 620,00 0,45 4,00 0,14 3,60 1,99 5,19 0,34 1,62 1,32 1,71 0,20 0,11 11,35 2 7,70 7,50 1040,00 0,75 4,90 0,26 4,10 4,65 5,97 0,12 1,50 2,08 2,37 0,19 0,13 17,08 3 7,90 7,60 930,00 0,68 6,70 0,10 3,60 2,96 5,19 0,03 1,35 1,53 2,61 0,22 0,17 13,42 4 7,10 6,50 670,00 0,49 4,10 0,13 5,30 3,54 6,33 0,03 1,52 1,68 1,83 0,18 0,12 13,50 5 7,30 7,00 1320,00 1,05 6,50 0,44 4,55 0,57 3,36 0,10 3,09 1,75 3,33 0,26 0,15 15,09 6 7,60 7,40 740,00 0,59 5,20 0,09 5,45 6,48 4,80 0,08 1,19 1,17 2,29 0,18 0,14 10,73 7 6,70 5,40 350,00 0,28 2,30 0,06 1,60 0,40 3,44 0,09 1,30 0,53 1,12 0,15 0,05 5,46 8 7,30 6,70 550,00 0,44 3,80 0,07 3,45 1,65 3,49 0,21 1,18 1,97 2,41 0,17 0,07 20,42 9 7,70 7,20 800,00 0,64 6,50 0,04 3,45 1,77 3,10 0,17 1,04 1,65 2,82 0,18 0,13 18,10 10 7,00 6,60 500,00 0,40 2,40 0,09 3,05 0,36 2,58 0,04 1,69 1,08 1,59 0,17 0,07 11,55 11 7,30 7,10 810,00 0,64 3,80 0,23 2,75 4,07 7,27 0,15 1,83 1,46 2,14 0,18 0,10 10,87 12 7,80 7,50 770,00 0,61 4,60 0,18 3,40 4,13 6,57 0,09 1,45 1,65 1,99 0,17 0,12 13,11 13 7,20 6,40 320,00 0,25 4,40 0,04 4,40 0,33 2,58 0,04 1,55 0,94 1,33 0,20 0,04 10,27 14 7,70 7,40 740,00 0,59 2,50 0,05 3,85 2,91 5,50 0,07 1,58 1,34 1,15 0,19 0,05 11,29 15 7,90 7,60 940,00 0,75 3,50 0,21 3,25 3,14 5,21 0,21 1,17 1,80 2,03 0,20 0,14 16,07 16 6,50 5,70 410,00 0,33 2,10 0,11 2,60 0,35 1,93 0,02 1,48 0,91 1,33 0,11 0,04 10,84 17 7,10 6,80 580,00 0,46 3,40 0,06 5,45 1,84 4,72 0,04 1,95 1,36 1,91 0,12 0,05 11,70 18 7,60 7,20 1240,00 0,99 9,30 0,12 3,70 1,27 5,79 0,19 1,50 2,04 1,92 0,16 0,10 17,00 19 6,90 5,40 160,00 0,13 0,80 0,05 3,45 2,05 3,62 0,05 1,04 0,24 3,54 0,05 0,01 2,51 20 7,00 6,30 100,00 0,08 1,00 0,02 3,70 1,42 3,47 0,25 1,34 0,52 0,27 0,08 0,01 5,25 21 6,80 5,50 730,00 0,58 2,50 0,20 3,25 1,20 2,90 0,02 1,94 0,69 0,49 0,20 0,12 6,90 22 6,80 5,90 120,00 0,10 0,50 0,04 3,60 1,14 3,86 0,04 1,38 0,28 1,33 0,09 0,03 2,69 23 7,00 6,50 1100,00 0,88 4,10 0,25 2,95 1,37 2,61 0,09 1,54 0,62 0,80 0,05 0,00 6,72 24 6,80 6,50 150,00 0,12 2,60 0,04 7,50 0,33 2,43 0,03 2,00 1,51 2,51 0,24 0,13 15,77 25 6,20 4,80 170,00 0,14 1,00 0,04 2,30 0,59 2,95 0,01 0,72 0,10 0,27 0,13 0,03 1,22 26 6,40 6,30 300,00 0,24 1,30 0,07 2,35 1,47 2,24 0,04 1,47 0,36 0,43 0,06 0,00 4,14 stt pHH2O pHKCl EC (µm/cm) TSMT (%) Cl- (mg/l) SO42- (%) HCO32- (medm-3) Ca2+ Ht Ca2+ Td Mg2+Ht Mg2+Td Na+ Td Na+ Ht K+Td K+Ht Sar (mmol/l)1/2 mg/100g đất  27 6,50 6,30 160,00 0,13 0,90 0,05 2,95 0,47 1,80 0,03 1,76 0,46 0,65 0,12 0,03 5,38 28 7,10 5,30 180,00 0,14 1,20 0,02 3,10 0,35 2,97 0,05 1,07 0,26 0,69 0,11 0,02 2,87 29 7,10 6,90 150,00 0,12 0,40 0,04 2,80 1,75 3,49 0,09 1,40 0,46 0,71 0,07 0,01 4,68 30 6,50 6,40 320,00 0,25 1,10 0,07 4,20 0,00 3,05 0,11 2,02 0,70 0,39 0,15 0,01 6,90 31 5,90 4,90 500,00 0,40 1,00 0,06 4,15 1,18 2,92 0,03 1,19 0,36 0,60 0,17 0,07 4,35 32 6,10 6,30 320,00 0,25 2,40 0,06 2,85 0,87 2,79 0,03 1,29 0,86 1,33 0,14 0,06 10,43 33 6,60 5,00 520,00 0,41 2,20 0,05 3,75 1,33 4,56 0,04 1,18 0,72 0,11 0,13 0,03 7,21 34 6,40 5,40 160,00 0,13 2,80 0,03 2,25 0,73 2,01 0,04 1,05 0,60 1,03 0,13 0,03 8,49 35 6,10 5,50 240,00 0,19 3,00 0,01 2,60 0,47 3,29 0,02 1,18 0,34 0,70 0,06 0,21 3,95 36 6,50 5,20 190,00 0,15 0,80 0,02 3,00 0,81 3,05 0,06 1,12 0,24 0,30 0,08 0,01 2,87 37 6,20 5,00 90,00 0,07 1,00 0,03 3,55 0,73 3,44 0,04 1,10 0,40 0,29 0,06 0,00 4,48 38 6,20 5,20 300,00 0,24 0,60 0,01 3,15 0,49 2,77 0,10 1,11 0,45 0,32 0,08 0,02 5,53 39 5,50 4,70 150,00 0,12 1,80 0,01 4,20 1,60 3,34 0,02 1,08 0,55 0,73 0,09 0,03 6,32 40 6,10 4,80 920,00 0,73 1,00 0,01 3,00 0,52 2,92 0,03 0,87 0,53 0,20 0,18 0,05 6,59 41 7,60 7,20 460,00 0,37 4,60 0,06 3,00 0,78 8,13 0,06 1,81 2,02 1,33 0,32 0,17 15,29 42 6,80 6,10 190,00 0,15 2,20 0,03 2,70 0,42 1,57 0,09 1,14 0,88 2,56 0,21 0,06 13,38 43 6,00 5,00 60,00 0,05 0,80 0,01 2,40 0,47 3,26 0,02 1,43 0,14 1,18 0,06 0,01 1,56 44 6,00 5,50 510,00 0,41 2,80 0,04 3,41 1,18 3,13 0,04 0,96 1,03 1,39 0,14 0,04 12,27 45 5,60 5,10 560,00 0,45 2,60 0,07 7,85 1,99 2,58 0,05 1,58 0,69 1,62 0,22 0,07 8,39 46 6,10 5,20 190,00 0,15 2,20 0,02 7,20 0,24 2,82 0,02 1,40 0,29 0,35 0,11 0,01 3,51 47 5,40 5,10 100,00 0,08 0,80 0,01 3,20 0,52 2,27 0,02 0,68 0,52 0,42 0,18 0,03 7,23 48 5,80 5,40 150,00 0,12 2,00 0,04 4,05 1,33 3,29 0,04 1,02 0,91 1,03 0,09 0,06 10,57 49 6,70 6,60 210,00 0,17 1,80 0,04 2,60 0,33 4,33 0,06 2,21 0,84 0,77 0,07 0,02 8,11 50 6,20 4,40 310,00 0,25 0,60 0,01 3,55 0,54 2,58 0,05 1,31 0,16 0,17 0,03 0,02 1,94 Phụ lục 2: Giá một số sản phẩm nông nghiệp huyện Nghĩa hưng năm 2008 TT Cây trồng Giá bán (đồng) 1 Lúa xuân 4100,00 2 Lúa mùa 4100,00 3 Ngô đông 3400,00 4 Ngô xuân 3400,00 5 Khoai tây 1800,00 6 Rau các loại 1800,00 7 Lạc 14000,00 8 Vừng 15000,00 9 Đậu tương 11000,00 10 Cói 3100,00 11 Cá 11000,00 12 Tôm sú 100000,00 Phụ lục 3: Năng suất trung bình một số loại cây trồng chính của huyện năm2008 TT Cây trồng năng suất (tạ/ha) 1 Lúa xuân 60,20 2 Lúa mùa 46,52 3 Ngô đông 48,60 4 Ngô xuân 43,80 5 Khoai tây 80,00 6 Rau các loại 142,00 7 Lạc 18,20 8 Vừng 7,30 9 Đậu tương 16,80 10 Cói 70,10 11 Cá 23,00 12 Tôm sú 3,70 Phụ lục 4: Đơn giá một số vật tư nông nghiệp trên địa bàn huyện năm 2008 STT Vật tư ĐVT Giá (đồng) 1 Công lao động công  40,000 2 Lúa giống đ/kg 50000 3 Đạm đ/kg 8000 4 Lân đ/kg 2500 5 NPK đ/kg 9000 6 Kaly đ/kg 10000 7 Vôi bột đ/kg 1000 8 Phân chuồng đ/kg 200 9 Đậu tương đ/kg 12000 10 Vừng đ/kg 18000 11 Lạc đ/kg 13000 12 Khoai tây đ/kg 7000 13 Cá con 500 bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o tr­êng ®¹I häc n«ng nghiÖp hµ néi NguyÔn thÞ v©n §¸nh gi¸ hiÖu qu¶ sö dông ®Êt s¶n xuÊt n«ng nghiÖp huyÖn NghÜa H­ng, tØnh Nam §Þnh luËn v¨n th¹c sÜ n«ng nghiÖp Chuyªn ngµnh: Qu¶N lý ®Êt ®ai M· sè: 60.62.16 Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: pgs,ts, nguyÔn h÷u thµnh Hµ Néi - 2009 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Vân LỜI CẢM ƠN Để có được kết quả nghiên cứu này, ngoài sự nỗ lực và cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ các đơn vị và cá nhân, Tôi xin ghi nhận và bày tỏ lòng biết ơn tới những tập thể, cá nhân đã dành cho tôi sự giúp đỡ quý báu đó. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và kính trọng sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo PGS,TS, Nguyễn Hữu Thành, người đã trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện đề tài này. Tôi xin chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy, cô giáo trong khoa Tài nguyên và Môi trường, các thầy, cô giáo trong khoa Sau Đại học. Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo UBND huyện Nghĩa Hưng, các đồng chí lãnh đạo, chuyên viên phòng Tài nguyên và Môi trường, phòng NN-PTNT, phòng thống kê và UBND các xã đã tạo điều kiện về thời gian và cung cấp số liệu giúp tôi thực hiện đề tài này. Cảm ơn sự cổ vũ, động viên và giúp đỡ của gia đình, các anh, chị đồng nghiệp, bạn bè trong quá trình học tập và thực hiện luận văn. Hà Nội, ngày …, Tháng …,năm Tác giả luận văn Nguyễn Thị Vân MỤC LỤC Lời cam đoan i Lời cảm ơn ii Mục lục iii Danh mục các chữ viết tắt v Danh mục bảng vi DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TT Chữ viết tắt Chữ đầy đủ FAO Tổ chức nông – lương cục Liên hợp Quốc UBND Uỷ ban nhân dân GTGT Giá trị gia tăng GTSX Giá trị sản xuất CPTG Chi phí trung gian ĐX Đông xuân ĐVT Đơn vị tính LĐ Lao động DT Diện tích LUT Loại hình sử dụng đất HTX Hợp tác xã NTTS Nuôi trồng thuỷ sản HN Hàng năm GIS Hệ thống thông tin địa lý GDP Tổng sản phẩm quốc nội BQ Bình quân USD Đô la Mỹ LN Lâu năm LMU Đơn vị bản đồ đất đai GHCP Giới hạn cho phép DANH MỤC BẢNG STT Tên bảng Trang 2.1 Biến động về diện tích đất nông nghiệp và diện tích đất canh tác hàng năm ở Việt Nam (1993-2003) 29 2.2: Diện tích các nhóm đất Việt Nam 30 2.3: Diện tích các hạng đất lúa Việt Nam 32 4.1. Diện tích các loại đất huyện Nghĩa Hưng 40 4.2. Giá trị sản xuất và tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp 43 4.3. Giá trị sản xuất và cơ cấu các ngành nông nghiệp 44 4.4. Số lượng lao động phân theo ngành kinh tế 46 4.5. Hiện trạng sử dụng đất huyện Nghĩa Hưng năm 2007 51 4.6. Một số loại hình sử dụng đất chính của huyện Nghĩa Hưng 54 4.7. Hiệu quả kinh tế các cây trồng chính vùng 1 56 4.8. Hiệu quả kinh tế các cây trồng chính vùng 2 58 4.9. Hiệu quả kinh tế các kiểu sử dụng đất vùng 1 61 4.10. Hiệu quả kinh tế các kiểu sử dụng đất vùng 2 63 4.11. Mức đầu tư lao động và thu nhập/ngày công lao động của vùng 1 65 4.12. Mức đầu tư lao động và thu nhập/ngày công lao động của vùng 2 66 4.13. Hàm lượng một số chất dinh dưỡng trong đất trên một số loại hình sử dụng đất khác nhau 68 4.14. Thang đánh giá một số chỉ tiêu dinh dưỡng trong đất 69 4.15. Độ mặn của đất dưới một số loại hình sử dụng đất khác nhau 71 4.16. Hàm lượng một số chất dinh dưỡng trong nước 73 4.17. Đặc trưng độ mặn của nước mặt dưới các loại hình sử dụng đất khác nhau 74 4.18: Hiện trạng và định hướng sử dụng đất vùng 1 79 4.19. Hiện trạng và định hướng sử dụng đất vùng 2 81 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCHQL09037.doc
Tài liệu liên quan