Đánh giá hiệu quả sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước VN và giải pháp

Lời nói đầu ---------- Những năm gần đây nền kinh tế nươc ta chuyển mạnh từ kế hoạch hoá sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Sự đổi mới kinh tế đòi hỏi phải nhanh chóng tiếp cận những lý luận và thực tiễn quản lý kinh tế của các nước tiên tiến trên thế giới. Hiện nay với nền kinh tế thị trường đang phát triển thì công cụ thị trường mở được coi là một công cụ linh hoạt và hiệu quả nhất trong việc đièu hành chính sách tiền tệ . Sự phát triển của thị trường tài chính nói chun

doc19 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1441 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá hiệu quả sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước VN và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g và hệ thống ngân hàng nói riêng đã tạo điều kiện cho ngân hàng trung ương các nước có thể điều hành chính sách tiền tệ của mình một cách chủ động hơn, đáp ứng sự vận động ngày càng nhanh chóng của luồng vốn lưu chuyển trong nền kinh tế . Nghiệp vụ thị trường mở có thể điều tiết các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ : nó là nhân tố đầu tiên có thể làm thay đổi lãi suất hoặc cơ sở tiền tệ . Nguồn gốc chính làm thay đổi việc cung ứng tiền của ngân hàng trung ương thông qua viêc mua bán các giấy tờ có giá trên thị trường mở ( hành động làm tăng cơ số tiền tệ ) và vì thế làm tăng cung ứng tiền , giảm lãi suất ngắn hạn. Ngược lại , việc bán giấy tờ có giá trên thị trường mở làm giảm cơ số tiền tệ , giảm cung ứng tiền và làm tăng lãi suất ngắn hạn . Xuất phát từ đó em xin chọn đề tài "Đánh giá hiệu quả sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng nhà nước Việt Nam và giải pháp". Vì điều kiện thời gian và kiến thức còn hạn chế không tránh được sai sót trong nghiên cứu , kính mong các thày cô giúp đỡ em để em có được một bài viết hoàn chỉnh . Em xin trân thành cảm ơn . Chương I: Cơ sở lý luận về nghiệp vụ thị trường mở 1. Khái niệm . Nghiệp vụ thị trường mở là một trong các công cụ để thực thi chính sách tiền tệ , mang lại hiệu quả cao và hiện đang được các nước trên thế giới sử dụng đẻ điều hành chính sách tiền tệ . Khi ngân hàng Trung ương thực hiện nghiêp vụ thị trường mở sẽ tác động vào các mục tiêu của chính sách tiền tệ cả về mặt giá trị và mặt lượng. Về mặt lương : Là ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở vào dữ liệu của ngân hàng thương mại. Khi ngân hàng Trung ương thực hiện việc mua chứng từ có giá trị trên thị trường mở , kết quả lam dự trữ của ngân hàng thương mại tăng lên . Khi ngân hàng Trung ương thực hiện bán trứng từ có giá trị trên thị trường mở và kết quả làm dự trữ của ngân hàng thương mại giảm đi . Như vậy khi ngân hàng Trung ương thực hiện nhiệm vụ thị trương mở nó sẽ tác động vào dự trữ của ngân hàng thương mại , làm ảnh hưởng đến khối lượng tín dụng từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng. Về mặt giá: Khi ngân hàng Trung ương mua chưng từ có giá sẽ làm tăng dự trữ của ngân hàng thương mại , cung vôn tín dụng cũng vì thế sẽ tăng lên .Cung vốn tin dung tăng ắt sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn , làm lãi suất ngằn hạn có xu hướng giảm xuống và tác động vào lãi suất có kỳ hạn giảm .Bên cạnh đó khi ngân hàng Trung ương thực hiện mua chứng từ có giá trị trên thị trưởng mở sẽ ảnh hưởng đén tỷ suất sinh lời của các chứng từ có giá trị dẫn đến có sự chuyển dịch vốn đầu tư, làm ảnh hưởng đến lãi suất thị trường , tác động vào cung cầu vốn trong nền kinh tế , ảnh hương đến lượng tiền cung ứng. Khi ngân hàng Trung ương thực hiện việc mua bán các chứng từ có giá trị trên thị trường mở sẽ tác động vào giá cả của chứng từ có giá và khi ngân hàng Trung ương thực hiện việc can thiệp vao giá cả của các chứng từ với khối lượng chiếm tỷ trọng lớn thì vai trò can thiệp của ngân hàng Trung ương càng có ý nghĩa quan trọng tác động vào lượng tiền cung ứng. 2.Thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở . Có ba điều kiện để xem xét phạm vi thành viên: -Thứ nhất : ngân hàng Trung ương muốn can thiệp trực tiếp vào lượng tiền cung ứng bao gồm cả tiền mặt và tiền gửi , về lý thuyết , thành viên tham gia mua bán trong trường hợp này được mở rộng không ngừng chỉ gồm các Tổ chức tín dụng mà còn cả các tổ chức khác , thậm chí có cả các cá nhân , miễn là họ có tiền mặt và tiền gửi. Thứ hai: Nếu cơ sở pháp lý cho phép các tổ chức tín dụng hoạt động theo hướng đa năng như hệ thống tổ chức tín dụng của Việt nam hiện nay, thì phạm vi thành viên tham gia mở rộng đến tổ chức tín dụng là đủ. -Thứ ba: Khả năng chuyển tải của hệ thống thanh toán .Nếu cá nhân không co séc hoăc tiền trên tài khoản gửi tại ngân hàng Trung ương thì không thể tham gia mua bán trên nghiệp vụ thị trường mở , nếu tổ chức tín dụng không có mạng kêt nối với ngân hàng Trung ương trong điều kiện giao dịch trên mạng thì cũng không thể trở thành thành viên. 3.Hàng hoá được bán trên thị trường mở. Thông thường, Ngân hàng Trung ương các nước sử dụng nhiều loại giấy tờ có giá khác nhau đế giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở. Đó là: trái phiếu, tín phiếu kho bạc (gọi chung là chứng khoán kho bạc ), tín phiếu Ngân hàng Trung ương, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu thời hạn ngắn, chấp nhận (hối phiếu ) của các ngân hàng; repos (hợp đồng mua lại ). Tại Cộng Hoà Liên Bang Đức, Ngân hàng Trung ương còn sử các chứng khoán để niêm yết trên thị trường chứng khoán được giao dịch trên thị trường mở. Tuy nhiên, hầu hết các Ngân hàng Trung ương thường thực hiện các nghiệp vụ thị trường mở bằng chứng khoán kho bạc, bởi vì chứng khoán kho bạc có tính thanh khoản cao, dễ chuyển đổi trên thị trường và do đó dễ được các bên chấp nhận trong giao dịch. Cũng có nhiều nước Ngân hàng Trung ương cho phép sử dụng cả trái phiếu (thời hạn còn lại dưới 1 năm ) được giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở, nhưng chỉ với mục tiêu điều chỉnh vốn khả dụng của các ngân hàng và kiểm soát lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền tệ. 4. Phương thức giao dịch trên thị trường mở, - Giao dịch song phương: Ngân hàng Trung ương giao dịch trực tiếp với người mua, bán thực hiện mua hoặc bán hẳn chứng từ có giá. - Giao dịch qua thị trường chứng khoán: Thông qua thị trường chứng khoán, qua các đại lý chứng khoán mà Ngân hàng Trung ương tiếp cận với người mua hoặc người bán để tiến hành mua hoặc bán. - Giao dịch qua đấu thầu: Đấu thầu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất. + Đấu thầu khối lượng: Ngân hàng Trung ương công bố khối lượng tiền cần mua hoặc cần bán bằng phương thức đấu thầu và ấn định mức lãi suất thực hiện, Ngân hàng Trung ương công bố điều kiện đặt thầu để tổ chức mua bán phải chấp hành, các Tổ chức Tín dụng cần mua hoặc bán tiến hành nộp thầu theo qui định. Sau khi mở thầu Ngân hàng Trung ương sẽ xác định tỷ lệ giá trị đạt thầu và phân bổ cho từng tổ chức tham gia đặt thầu. Sau khi trúng thầu các ngân hàng thực hiện nhận tín phiếu kho bạc và thạn toán tiền theo qui định, + Đấu thầu lãi suất: Theo cách đấu thầu lãi suất thì các đơn vị đặt thầu đăng ký lãi suất đặt thầu và đi kèm là lượng tiền mua theo lãi suất đăng ký. Ngân hàng Trung ương sẽ quan tâm tới lãi suất đặt thầu và sẽ lấy từ lãi suất cao tới lãi suất thấp cho đến khi nào đạt được lượng tiền mà Ngân hàng Trung ương cần cung ứng vào lưu thông. Nguyên tắc khi xét thầu theo lãi suất nếu Ngân hàng Trung ương bán thì sẽ xét đạt thầu từ lãi suất thấp đến lãi suất đảm bảo đủ lượng tiền cần bán. Ngược lại, khi Ngân hàng Trung ương mua thì xét đạt thầu từ lãi suất cao đến lãi suất đảm bảo đủ lượng tiền cần mua. Phương thức giao dịch thể hiện tính linh hoạt của công cụ nghiệp vụ thị trường mở cho phép mua hoặc bán với số lượng, thời gian giao dịch và một phương pháp giao dịch tuỳ ý, phù hợp với chính sách tiền tệ. 5. Mối quan hệ giữa nghiệp vụ thị trường mở với các công cụ khác của chính sách tiền tệ. Để thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ, Ngân hàng Trung ương sử dụng nhiều công cụ đa dạng. Chẳng hạn, tuỳ theo yêu cầu mở rộng hoặc thu hẹp tín dụng, Ngân hàng Trung ương có thể tăng hoặc hạ lãi suất tái chiết khấu, hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hay mua hoặc bán các chứng khoán có giá. Trong các công cụ đó thì nghịêp vụ thị trường mở có thể sử dụng rất linh hoạt trong bất kỳ loại chính sách tiền tệ nào. Nó là công cụ điều tiết vĩ mô. Nghiệp vụ thị trường mở có tác động thông qua ''hiệu ứng thông báo'' ít hơn chính sách lãi suất chiết khấu và chính sách dự trữ bắt buộc. Nó tạo ra cuộc cạnh tranh giữa các thành phần ngân hàng và thành phần không phải là ngân hàng, có khả năng thanh toán, nhất là về khối lượng, có thể đạt được mục tiêu một cách vừa hữu hiệu, vừa phù hợp với thị trường cả về xu hướng tăng hoặc giảm. 6. Vai trò của Ngân hàng Trung ương. ở các nước đang phát triển và các nước đang trong giai đoạn quá độ chuyển từ nền kinh tế mệnh lệnh trước đây sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, chỉ có một số rất ít nước có được thị trường lý tưởng - là điều kiện cho thị trường mở hoạt động một cách linh hoạt. Tuy nhiên, hoạt động thị trường mở ở cách này hay cách khác có thể và nên được tiến hành trong các thị trường không lý tưởng hoàn toàn nhưng có các giai đoạn phát triển theo hướng có sự phát triển và cạnh tranh. Trong những trường hợp như vậy thì hoạt động thị trường mở cần phải có giới hạn theo từng giai đoạn. Sự tham gia của Ngân hàng Trung ương sẽ thúc đẩy sự phát triển của thị trường, dù vậy Ngân hàng Trung ương cần chú ý rằng viếc tham gia vào thị trường sẽ không được phép có ảnh hưởng hoặc làm tăng thêm rủi ro trong bảng tổng kết tài sản của Ngân hàng Trung ương. Một Ngân hàng Trung ương sẽ có khả năng hoạt động có hiệu quả hơn nếu bảng danh mục tài sản của nó có tính lỏng cao và không có rủi ro. 7. Ưu nhược điểm của thị trường mở. - Ưu điểm: Khi sử dụng công cụ này Ngân hàng Trung ương chủ động can thiệp về khối lượng nhiều hay ít tuỳ ý, thời gian tuỳ thuộc vào thời gian mà Ngân hàng Trung ương muốn điều chỉnh lượng tiền cung ứng, Ngân hàng Trung ương có thể quyết định mua, bán chủng loại giấy tờ có giá để nhằm đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ. Công cụ này có tính linh hoạt cao, bất kỳ lúc nào sự can thiệp của Ngân hàng Trung ương đều tác động đến tiền trung ương sau đó ảnh hưởng đến lãi suất. Ngân hàng Trung ương có thể điều chỉnh được lượng mua và bán tuỳ ý, thông qua giá mua và giá bán mà Ngân hàng Trung ương có thể mở rộng hay thu hẹp lượng tiền trung ương, và có khả năng điều chỉnh sai lầm nếu đã bán không phù hợp hoặc đã mua không phù hợp. - Nhược điểm: Hạn chế lớn nhất của nghiệp vụ này là để công cụ này phát huy hiệu quả thì quốc gia đó phải có thị trường tài chính phát triển, hàng hoá của thị trường là các giấy tờ có giá ngắn hạn phải phong phú và đa dạng. Ngân hàng Trung ương phải có khả năng dự báo được vốn khả dụng của toàn hệ thống để can thiệp mua, bán, có như vậy việc can thiệp mới có ý nghĩa lớn trong việc tác động vào lượng tiền cung ứng. Khi Ngân hàng Trung ương mua, bán làm tác động đến lượng tiền trung ương, từ đó sẽ ảnh hưởng tới lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, vì vậy để tránh ảnh hưởng này thì Ngân hàng Trung ương phải có các giải pháp xử lý phù hợp. Chưong II: Sự cần thiết sử dụng nghiệp vụ thị trường mở ở Vịêt Nam 1. Tạo điều kiện phát triển và hoàn thiện thị trường tiền tệ trong thời gian tới. Xét về nhiều khía cạnh, sự phát triển của thị trường tiền tệ của Việt Nam trong thời gian qua là chậm so với nhu cầu phát triển. Cho đến nay, thị trường tiền tệ Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ chức năng của một thị trường tiền tệ chuẩn mực, gây cản trở cho việc đổi mới điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. - Các công cụ thị trường tiền tệ nghèo nàn và tính thị trường thấp. Công cụ chủ yếu hiện nay là các tín phiếu kho bạc, các loại trái phiếu và kỳ phiếu ngân hàng ngắn hạn. Hiện nay, chúng ta cũng chỉ có thị trường sơ cấp cho các công cụ này trong khi thị trường sơ cấp chưa được hình thành. Đây là một trở ngại lớn cho sự phát triển của thị trường tiền tệ của Việt Nam, do tâm lý người sử dụng công cụ này chưa quen với việc mua bán lại chúng, công cụ giao dịch còn quá ít ỏi. - Sự gắn kết giữa thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường nội tệ liên ngân hàng, với thị trường mở là rất chặt chẽ. Việc thiết lập một thị trường mở với các nghiệp vụ đặc thù của nó phải được thực hiện trước hết và chủ yếu ở thị trường liên ngân hàng. Ngược lại, thị trường mở tác động trở lại đối với sự hoàn thiện của thị trường liên ngân hàng thông qua các tín hiệu mà Ngân hàng Trung ương phát ra, cập nhật thông tin trên thị trường về cung - cầu dự trữ ngân hàng, vốn, khả năng thanh toán. Do đó, hoàn thiện thị trường tiền tệ liên ngân hàng là một mục đích của Việt Nam trong tiến trình cải cách hệ thống ngân hàng. 2. Xuất phát từ nhu cầu hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới. Việt Nam đang thực hiện quá trình đổi mới nền kinh tế, chuẩn bị các điều kiện hội nhập quốc tế về thương mại, dịch vụ. ngân hàng. Hội nhập ngân hàng là xu thế của thời đại xuất phát từ quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế nói chung và hoạt động của ngân hàng nói riêng. Việt Nam đang đồng thời tiến hành đàm phán theo yêu cầu của hiệp định GATS (hiệp định thương mại dịch vụ ) của Tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO) và hiệp định AFTA của hiệp hội ASEAN.Các cam kết, yêu cầu mà các tổ chức này đòi hỏi là rất cao mà Việt nam phải phấn đấu thực hiện theo đúng tiến độ. Mặt khác, các nước trong các tổ chức này, dù ít dù nhiều, đều thực hiện các nghiệp vụ thị trường mở với nhiều mức độ khác nhau. Ngay cả các nước thành viên của ASEAN và các nước Châu á như Malayxia, Philippin, Thailand, India, Indonesia, Japan,....đều sử dụng nghiệp vụ thị trường mở để đạt được các mục đích vĩ mô của mình. Trong bối cảnh như vậy, Việt Nam phải tăng cường sức mạnh của hệ thống ngân hàng trng nước, đẩy mạnh hoạt động theo cơ chế thị trường an toàn và có lẽ để có thể gia nhập vào cộng đồng quốc tế.Thị trường mở ở Việt nam vì vậy càng trở nên cần thiết và nên sớm trở thành hiện thực. 3.Thị trường mở giúp chính phủ thực thi chính sách tài chính quốc gia có hiệu quả. Các quyết định của Chính phủ về quản lý nợ và cân đối tiền gửi co ảnh hưởng quan trọng tới nghiệp vụ thị trường mở. Kho bạc nhà nước thường đưa ra quyết định cuối cùng về quản lý nợ, còn Ngân hàng Trung ương lại liên quan đến dự trữ ngân hàng.Giữa hai Bộ này thường có quan hệ với nhau tuỳ theo đặc điểm và hoạt động tài chính của mỗi nước. Khi Ngân sánh nhà nước bội chi, Bộ tài chính có thể phát hành trái phiếu Chính phủ (sử dụng việc vay nợ công chúng) để bù đắp phần bội chi. Để duy chì sự tách bạch giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính, các khoản nợ này tốt nhất là được Kho bạc bán ra dưới hình thức đấu giá, từ đó giúp cho thị trương cạnh tranh có hiệu quả . 4. Đối với các tổ chức tín dụng. Nghiệp vụ thị trường mở sẽ làm tăng tính thanh khoản của tải sản có của các ngân hàng khi tạo nên thị trường thứ cấp cho các tài sản tài chính mà nó nắm giữ. Điều này sẽ làm giảm dự trữ tiền mặt và tăng khả năng sinh lời của vốn ngân hàng, góp phần cải thiện tình hình tài chính cho các ngân hàng. Mặt khác, yêu cầu về chủng lợi và chất lượng các giấy tờ có giá được giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở sẽ gián tiếp làm thay đổi danh mục đầu tư vào các giấy tờ có giá của các ngân hàng, từ đó mà cải thệin theo hướng tích cực cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng, giảm dự trữ không sinh lời và cải tạo bảng tổng kết tài sản. Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay, việc áp dụng nghiệp vụ thị trường mở có ý nghĩa vô cùng quan trọng, có tính cấp thiết cao nhằm tạo ra sự chuyển biến mới trong điều hành CSTT của NHNN dựa trên các quan hệ thị trường, là một trong những nhân tố thúc đẩy sự phát triển của thị trường tiền tệ, hoàn thiện các công cụ CSTT hiện đang còn nhiều hạn chế, qua đó mà đảm bảo sự phân bổ nguồn vốn hợp lý góp phần thực hiện đang còn nhiều hạn chế, qua đó mà đảm bảo sự phân bổ nguồn vốn hợp lý góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế của Đảng và Chính phủ, thực hiện thành công cải cách hệ thống ngân hàng ngày càng vững mạnh. Chương III: Thực trạng và một số giải pháp vận dụng nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam I. Lý thuyết và thực tế áp dụng. 1. Vài nét về OMT tại Việt Nam. Điều kiện thị trường tài chính : Thị trường tài chính ở nước ta vẫn còn nhỏ bé về quy mô, đơn sơ về chủng loại hàng hoá và lạc hậu về cơ sở vật chất kỹ thuật. - Thị trường trái phiếu Chính phủ : Năm 1991, trái phiếu Chính phủ ra đời để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ ( không thông qua kênh NHTW phát hành tiền nữa ); đến năm 1994 khi Trái phiếu kho bạc, tín phiếu kho bạc và trái phiếu công trình được phép phát hành rộng rãi thì thị trường trái phiếu chính phủ mới tương đối được mở rộng. Trước năm 1995, Trái phiếu Chính phủ phát hành trực tiếp đến công chúng tại các chi nhánh kho bạc nên khối lượng trái phiếu nhỏ ( 17 tỷ đồng ) trong cả giai đoạn từ 1991 - 1995 )từ tháng 6 năm 1995 bắt đầu phát hành qua NHNN, lượng trái phiếu đã dồi dào hơn. Tuy nhiên do lãi suất chỉ đạo không sát với thực tế đồng thời cũng không có thị trường thứ cấp cho công cụ này nên số lượng trái phiếu hiện đang lưu hành có giá trị không lớn như số lượng dự kiến phát hành. Theo quy chế phát hành trái phiếu chính phủ được ban hành kèm theo Nghị định 01/2000/NĐ-CP ngày 13/01/2000 của chính phủ thì trái phiếu chính phủ được phát hành qua các kênh như : đấu thầu qua NHNN ( đối với tín phiếu kho bạc ) ; phát hành thông qua thị trường Chứng khoán, bán lẻ qua hệ thống kho bạc nhà nước, đại lý phát hành và bảo lãnh phát hành đối với trái phiếu kho bạc và tín phiếu đầu tư). Trái phiếu Chính phủ được nắm giữa chủ yếu bởi các NHTM quốc doanh và một số ít NHTM cổ phần, chủ yếu là để giải quyết lượng vốn tồn đọng. Do đó khả năng phát triển thị trường thứ cấp là rất yếu. Hiện nay, khối lượng trái phiếu Chính phủ đang còn giá trị lưu hành chỉ đạt khoảng 4.000 tỷ đồng. - Thị trường liên ngân hàng : tuy đã có sự sôi động nhất định nhưng chưa thực sự phát triển, chỉ dừng ở mức giao dịch diễn ra đối với từng nhóm nhỏ trên cơ sở vay mượn thường xuyên và hiểu biết lẫn nhau. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tương đối tích cực tham gia thị trường này ( do hạn chế huy động VND). So với doanh số giao dịch trên thị trường mở, thì doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng lớn hơn nhiều ( có ngày cao điểm lên tới 1.000 tỷ đồng. Khối lượng giao dịch trên thị trường liên ngân hàng của toàn hệ thống vào cuối năm 2000 đạt khoảng 12% lượng vốn huy động và gấp gần 3 lần lượng vốn vay từ NHNN. Bên cạnh đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở phạm vi thị trường sơ cấp, thị trường cổ phiếu hoạt động còn mang tính thử nghiệm, mới có 6 doanh nghiệp chính thức niêm yết cổ phiếu của mình trên thị trường chứng khoán và khối lượng giao dịch còn rất thấp so với giá trị niêm yết ( nhỏ hơn khoảng hơn 4 lần ) trái phiếu Chính phủ hầu như không thể giao dịch được trên thị trường này. Khuôn khổ pháp lý. Hàng loạt các văn bản về các vấn đề liên quan tới OMO đã được ban hành trong năm 2000 như Quy chế nghiệp vụ thị trường mở. Quy trình OMO, quy định đăng ký giấy tờ có giá, Quy chế quản lý vốn khả dụng, quy trình nghiệp vụ đấu thầu tín phiếu NHNN. Về mặt kỹ thuật nghiệp vụ. - Thành viên tham gia vào OMO phải là các TCTD đảm bảo đầy đủ một số điều kiện như phải có tài khoản tiền gửi tại NHNN, phải có đầy đủ phương tiện cho hoạt động OMO như mạng máy tính, fax, điện thoại … phải đang ký với NHNN để được hoạt động OMO. - Hàng hoá trên thị trường hiện nay quá thiếu thốn cả về chủng loại lẫn khối lượng. Theo quy định, chỉ có tín phiếu NHNN, tín phiếu kho bạc và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác ( thống đốc sẽ quyết định trong từng thời kỳ). Tuy nhiên, trên trực tế chỉ có hai loại hàng hoá là tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN. Hàng hoá cần phải đảm bảo những tiêu chuẩn sau : có thể giao dịch được, phải là các giấy tờ có giá ngắn hạn, phát hành bằng đồng Việt Nam, phải được đăng ký tại NHNN. Nếu hình thức giao dịch là mua bán hẳng thì thời hạn còn lại của GTCG phải nhỏ hơn 90 ngày. - Đấu thầu bao gồm đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng. Đấu thầu khối lượng : NHNN sẽ thông báo cho các thành viên tham gia về mức lãi suất và khối lượng cần giao dịch .. Đấu thầu lãi suất : NHNN thông báo khối lượng cần giao dịch, phương pháp chọn lãi suất trúng thầu … Việc xác định lãi suất của NHNN trong OMO thường căn cứ vào các mức lãi suất hiện hành là lãi suất tái cấp vốn của NHNN cho các TCTD ( thường dưới hình thức là lãi suất phạt ) lãi suất tái chiết khấu các GTCG, lãi suất của OM O thường nằm trong 2 mức lãi suất này. Tuy nhiên trong giai đoạn đầu để hỗ trợ hoạt động của thị trường mở, mức lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu được xác định ở mức tương đối cao hơn hẳn lãi suất trên thị trường mở. NHNN cũng có thể lấy lãi suất trái phiếu kho bạc và lãi suất trên thị trường liên ngân hàng làm lãi suất tham chiếu. Tuy vậy, lãi suất TPKB chỉ mang tính tham chiếu, không ảnh hưởng đến quyết định về mức lãi suất trên thị trường mở nên TPKB vẫn là lãi suất chỉ đạo ít mang tính thị trường. còn lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng thực chất rất khó đưa vào làm lãi suất tham chiếu vì số ngân hàng tham gia thị trường này không nhiều và khả năng tiếp cận các nguồn vốn khác của một số TCTD là khó khăn nên lãi suất vay nóng trên thị trường này khá cao. NHNN Việt Nam mới thực hiện việc tung dự trữ ngoại hối ra để điều chỉnh tỷ giá hay để giảm cung đồng tiền. tăng dự trữ ngoại hối để giảm lượng ngoại tệ trong lưu thông. Đây là hoạt động quản lý ngoại hối chứ không phải hoạt động OMO. 2. Thực tế hoạt động trong thời gian vừa qua. Số lượng thành viên tham gia thị trường còn quá ít, trong số 20 thành viên tham gia thị trường thì chủ yếu là 4 NHTM quốc doanh và trên thực tế , các NHTM quốc doanh nắm giữ tới hơn 70% lượng tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN ( hai hàng hoá chính thức được giao dịch trên thị trường mở hiện nay ). Lượng hàng hoá quá ít ỏi : Hiện nay lượng hàng hoá trên thị trường chỉ có khoảng 4000 tỷ đồng giá trị trái phiếu Chính phủ và 400 tỷ đồng giá trị tín phiếu NHNN. Từ khi bắt đầu giao dịch đến 31/12/2000, cứ 10 ngày NHNN tiến hành một phiên giao dịch trên thị trường mở. Trong tháng 8/2000, do lượng vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng là dư thừa nên NHNN bán ra một lượng tín phiếu là 550 tỷ đồng. Từ tháng 9 đến cuối tháng 12/2000 do có sự hạn chế của NHNN ở cửa sổ chiết khấu và nhu cầu tín dụng VND tăng nhanh trong khi huy động tiền gửi tăng cậm dẫn đến khan hiếm vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng, NHNN đã mua vào GTCG trong 14 phiên liên tục với doanh số 1353,5 tỷ. Từ 1/1/2001, NHNN thực hiện giao dịch định kỳ 7 ngày/lần. Từ đầu năm 2001 đến 15/2 lượng vốn khả dụng tiếp tục thiếu hụt do nhu cầu tiền mặt tăng, NHNN tiếp tục mua vào GTCG chủ yếu là mua kỳ hạn do tính đến yếu tố lượng vốn khả dụng có thể tăng lên sau dịp tết nguyên đán. Từ 21/2 đến 14/3, lượng vốn khả dụng có biểu hiện dư thừa : để rút bớt phương tiện thanh toán khỏi hệ thống ngân hàng, NHNN thực hiện bán hẳng lượng giấy tờ có giá với giá trị là 470 tỷ VND. Từ 21/3 đến cuối tháng 4, do nhu cầu vốn khả dụng tăng, NHNN tổ chức các phiên giao dịch trên thị trường mở với mục tiêu cung ứng thêm phương tiện thanh toán cho hệ thống. Như vậy có thể thấy, NHNN đã cố gắng thực hiện việc điều hành CSTT bằng công cụ gián tiếp. OMO đã được thực hiện tương đối linh hoạt đáp ứng được phần nào đó nhu cầu về vốn khả dụng cũng như giải quyết được một phần lượng vốn khả dụng dư thừa trong một số thời kỳ. Các công cụ và hình thức thực hiện cũng đã được áp dụng tương đối thành công như đấu thầu lãi suất, đấu thầu khối lượng, xét khối lượng thầu theo phương pháp tính lãi suất riêng lẻ … tuy nhiên, do còn hạn chế cả về cơ sở vật chất, trình độ cán bộ, sự đơn sơ của thị trường tài chính sự bất cập trong vấn đề lượng thành viên tham gia thị trường cũng như khối lượng GTCG do các thành viên nắm giữ … nên tác động can thiệp của NHNN thông qua OMO vẫn còn rất hạn chế. Để OMO thực sự phát huy được tác dụng, trước mắt, NHNN cần phải hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường liên ngân hàng, cho phép mua bán cả những trái phiếu Chính phủ dài hạn trên thị trường mở, trái phiếu do NHTM phát hành … hoàn thiện hệ thống thanh toán liên ngân hàng , còn về lâu dài, thì thực tế phải là nhiệm vụ của cả hệ thống ngân hàng tài chính, đó là phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ, thị trường tiền tệ, các thị trường tài chính khác, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của các thị trường, thành lập các tổ chức xếp hạng tín dụng có uy tín để tăng việc sử dụng các công cụ nợ, tăng số thành viên tham gia thị trường… Vì đây là một thị trường nên càng có sự cạnh tranh thì tính hiệu quả của nó càng cao. Đi đôi với tất cả những việc làm trên, thì việc cải cách thành công hệ thống ngân hàng là một nhân tố không thể thiếu để có thể điều chính sách tiền tệ một cách linh hoạt với các công cụ gián tiếp, đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở. II. Giải pháp. 1. Hoàn thiện cơ chế hoạt động và điều kiện công nghệ. Hàng hoá của thị trường mở : Việc lựa chọn công cụ thích hợp cho giao dịch trên thị trường mở có ý nghĩa rất quan trọng. Ngoài tín phiếu NHNN và tín phiếu kho bạc được sử dụng thì cần chú ý tới chứng chỉ tiền gửi do các NHTM phát hành và thương phiếu của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, NHNN có thể cho phép sử dụng các GTCG trung và dài hạn trong nghiệp vụ thị trường mở với điều kiện đảm bảo tính thanh khoản cao trên cơ sở một số điều kiện như có tính thị trường cao, được phát hành bằng VND hoặc USD đăng ký tại NHNN Việt Nam, thời hạn tối đa còn lại là 90 ngày. Thành viên : Ngân hàng Nhà nước có thể nghiên cứu và bổ xung quy chế cho phép mở rộng phạm vi đối tượng tham gia thị trường mở bao gồm : các TCTC phi ngân hàng, các doanh nghiệp lớn. NHNN cần tổ chức mạng lưới các nhà giao dịch chuyên nghiệp trong nghiệp vụ thị trường mở thay vì quan hệ trực tiếp với các thành viên. Điều này đảm bảo sự nhanh chóng và giảm hiệu ứng thông báo do kéo dài thời gian thông báo trong quy trình nghiệp vụ thị trường mở. Phương thức giao dịch : Các hoạt động nghiệp vụ thị trường mở nên được tiến hành ở sở giao dịch NHNN để NHNN tiện quản lý và đúc rút kinh nghiệm sau đó sẽ được chuyển cho các chi nhánh NHNN tỉnh hay khu vực thực hiện. Do tính chất phức tạp của công việc dự báo vốn khả dụng, kỳ hạn thực hiện nghiệp vụ thị trường mở có thể cách nhau 10-15 ngày như quy chế nghiệp vụ thị trường mở đã quy định. Toàn bộ quy trình đấu thầu khối lượng hay đấu thầu lãi suất sẽ được áp dụng theo quy chế đã ban hành vào ngày 9/3/2000. Theo dõi, tính toán dự đoán vốn khả dụng của các ngân hàng. Các thông tin này giúp ban thị trường mở cần phải thay đổi vốn khả dụng ở các NHTM ở mức độ cần thiết để đạt được yêu cầu cung ứng tiền tệ. Theo dõi diễn biến xu hướng vận động của tình hình lạm phát, lãi suất đầu tư, tính toán đề xuất phương án mua hoặc bán trình thống đốc quyết định. Phát triển công nghệ ngân hàng bao gồm con người và trang thiết bị kỹ thuật hiện đại. Các thành viên tham gia trên TTM có thể nối mạng máy tính nhanh chóng nắm bắt thông tin, quyết định mua bán kịp thời. 2 Xây dựng thị trường tiền tệ và phát triển thị trường chứng khoán. Môi trường để NHTW phát huy nghiệp vụ thị trường mở là thị trường tiền tệ. Sự phát triển TTTT làm tăng tính lỏng và số lượng các loại chứng khoán được mua bán và NHTW có thể căn cứ vào đó mà chọn ra những loại chứng khoán mua bán trong TTM. Để đạt được điều này, trước hết thị trường liên ngân hàng phải được xác lập và phát triển. Trong đó, các NHTM phải thực sự năng động và môi trường vận hành phải phù hợp với cơ chế thị trường. Các công cụ của thị trường và nhu cầu giao dịch được hình thành, hệ thống thông tin liên lạc phát triển để NHTW có thể thu thập số liệu phải có độ tin cậy cao để NHTW có thể thay đổi chính sách cung ứng tiền một cách nhanh chóng. Sự phát triển của thị trường chứng khoán làm tăng tính lỏng của chứng khoán trên thị trường, kích thích đầu cơ chứng khoán của các chủ thể kinh tế, do đó để công cụ nghiệp vụ thị trường mở phát huy hiệu quả phải được sự hỗ trợ tích cực của thị trường chứng khoán. Vì vậy để thị trường chứng khoán mới ra đời ở Việt Nam phát triển cần có những giải pháp cụ thể : thúc đẩy quá trình cổ phần hoá, tăng thêm số công ty được niêm yết, ban hành luật chứng khoán, xúc tiến nhanh việc thành lập thị trường OTC, mở rộng tăng cường phí đầu tư bổ xung kiến thức cho đội ngũ chuyên viên đang làm việc trên thị trường chứng khoán … 3. Hoàn thiện hệ thống ngân hàng. Khẩn trương hoàn thiện cơ chế chính sách và hệ thống các văn bản pháp quy để có đủ các khuôn khổ pháp lý cần thiết cho việc thực hiện tốt luật NHNN và luật các TCTD, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động hiệu lực, hiệu quả, năng động, an toàn. Thực hiện chuyển đổi thành công cơ chế tự do hoá lãi suất, cơ chế quản lý ngoại tệ, tích cực hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái. Hiện đại hoá hệ thống công nghệ ngân hàng mà trọng tâm là nghiệp vụ thanh toán qua ngân hàng. Phát triển mạnh các công cụ và dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt đối với dân cư và các doanh nghiệp. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động ngân hàng. Đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo nâng cao trình độ kỹ năng của đội ngũ cán bộ, nâng cao năng lực và chất lượng quản lý tài sản của các NHTM… 4. Hiện đại hoá hệ thống thanh toán. Để nghiệp vụ thị trường mở hoạt động có hiệu quả cần trang bị hệ thống thanh toán và quản lý hiện đại có phần mềm hiện đại kết nối giữa nội bộ trong NHNN và giữa NHNN với các TCTD thành viên nhằm đảm bảo thực hiện các công đoạn giao dịch từ khi công nhận thành viên, đăng ký chữ ký điện tử, thông báo mời thầu, đăng ký GTCG, xét thầu, tạo lập và ký hợp đồng mua lại đến khâu thanh toán chuyển khoản và thông báo báo cáo. Kết luận Nền kinh tế của nước ta đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức của nhu cầu mở cửa và hội nhập, để đáp ứng đòi hỏi của thị trường mang tính toàn cầu hoá, tính cạnh tranh giữa các ngân hàng trong và ngoài nước tăng lên, NHNN cũng đang chuyển từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp với điều hành chính sách tiền tệ điển hình là công cụ nghiệp vụ TTM. Việc điều hành CSTT như trên đòi hỏi tiền đề là thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán chính phủ và thị trường hối đoái phải phát triển ở mức khá hoàn thiện, trình độ quản lý vốn khả dụng của NHTW ở mức khá cao, trang bị kỹ thuật hiện đại trong hoạt động giao dịch trên thị trường phải có cơ sở một nền tài chính và tiền tệ khá ổn định, vững chắc, hệ thống ngân hàng phát triển càng cao, mạng lưới thanh toán và bù trừ đáng tin cậy. Tất cả những điều kiện đó việt nam đều chưa có. Do đó trong những năm tới nghiệp vụ TTM chưa thể phát huy hiệu quả tối đa của nó. Vì vậy ngân hàng cần thực hiện các giải pháp cơ bản trên để công cụ nghiệp vụ TTM trở thành công cụ chủ yếu của CSTT và phát huy được hiệu quả tối đa của nó. Tài liệu tham khảo --------------- Tạp chí ngân hàng Giáo trình "nghiệp vụ ngân hàng trung ương" Luật Ngân hàng Nhà nước và luật các TC._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24580.doc
Tài liệu liên quan