Mục lục
Lời mở đầu 1
Nội dung
Chương I: Hoạt động của Nghiệp vụ thị trường mở tại Việt nam 2
Khái quát chung về nghiệp vụ thị trường mở 2
.Khái niệm 3
. Nguyên lý thực hiện nghiệp vụ thị trường mở 3
Nghiệp vụ thị trường mở trong việc điều hành chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Nhà nước Việt nam 7
3. Kinh nghiệm của một số nước trên Thế giới khi áp dụng nghiệp vụ thị 10 trường mở
Chương II: Thực trạng hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở và giải pháp 13
Thực trạng hoạt động
27 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1488 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đánh giá hiệu quả sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của Nghiệp vụ thị trường mở tại Việt nam trong thời gian qua 13
1.1. Đánh giá tình hình hoạt động của NVTTM 13 1.2. Những kết quả đạt được sau 3 năm triển khai áp dụng NVTTM tại
Việt Nam 15
Những tồn tại và hạn chế trong việc thực hiện NVTTM hiện nay tại
Việt Nam. 17
3. Giải pháp và nâng cao hiệu quả hoạt động NVTTM ở nước ta 20
3.1. Làm thế nào để khắc phục tồn tại... 20
3.2. Những giải pháp cụ thể 22 Kết luận 25
Tài liệu tham khảo 26
Lời mở đầu
Xây dựng và đổi mới chính sách tiền tệ là một đòi hỏi bức xúc để phù hợp với quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhằm thực hiện tốt vai trò quản lý Nhà nước về tiền tệ của NHNN, phù hợp với đường lối phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước, đồng thời phù hợp với xu thế hội nhập với khu vực và Thế giới.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: Thực thi chính sách tiền tệ bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng, kích thích đầu tư phát triển. Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở theo các nguyên tắc thị trường. Nâng dần và tiến tới thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của đồng tiền Việt nam. Để thực hiện vai trò trách nhiệm đã được Luật Ngân hàng Nhà nước quy định, NHNN đã sử dụng các công cụ tái cấp vốn, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các quy trình cần thiết khác do Thống đốc NHNN quyết định. Trong đó, nghiệp vụ thị trường mở được coi là một công cụ tái cấp vốn có hiệu quả nhất của chính sách tiền tệ.
Kể từ khi thành lập (ngày 12/7/2000) cho tới nay, qua hơn ba năm triển khai thực hiện, nghiệp vụ thị trường mở đã hoạt động ổn định có thể khẳng định NHNN đã thu được thành công bước đầu trong việc đưa một công cụ mới vào điều hành chính sách tiền tệ. Và bản thân công cụ này cũng phát huy tốt vai trò của mình đối với các mục tiêu của chính sách tiền tệ như tác động tới vốn khả dụng của các Tổ chức tín dụng, đa dạng hoá kênh huy động và luân chuyển vốn... và trở thành một công cụ quan trọng của NHNN.
Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này nên em đã chọn đề tài: ''Đánh giá hiệu quả sử dụng công cụ Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt nam '' làm tiểu luận nghiên cứu của môn học.
CHƯƠNG I: Hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở tại Việt nam
Khái quát về nghiệp vụ thị trường mở:
Nghiệp vụ thị trường mở được Ngân hàng Anh áp dụng đầu tiên từ trước năm 1914 với mục đích là Ngân hàng Anh muốn tìm kiếm công cụ có hiệu quả hơn để điều chỉnh lãi suất thị trường theo hướng mong muốn.
Còn tại Mỹ nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) được thành lập vào năm 1913, ban đầu Ngân hàng dự trữ Liên bang Mỹ cũng sử dụng NVTTM như một công cụ bổ sung cho chính sách tái chiết khấu. Nhưng sau cuộc suy thoái kinh tế năm 1920-1921, Cục dự trữ Liên bang Mỹ- Ngân hàng Trung ương (viết tắt là FED) thiếu vốn nghiêm trọng, nguồn thu nhập trược đó của FED chủ yếu từ nghiệp vụ chiết khấu nhưng nay do cuộc khủng hoảng kinh tế đã làm khối lượng vay chiết khấu giảm sút, dẫn tới giảm nguồn thu. FED “bí tiền” đành nghĩ cách buôn bán chứng khoán kiếm lãi để tiếp tục hoạt động của mình. Trong khi thực hiện mua bán chứng khoán, bỗng nhiên các nhà điều hành chính sách tiền tệ phát hiện thấy dự trữ trong hệ thống Ngân hàng tăng lên và các khoản tiền gửi, khoản cho vay tăng lên gấp bội. Kết quả này được FED rút ra một bài học bổ ích từ thực tế vô tình là việc mua bán chứng khoán sinh lãi có thể làm thay đổi cơ số tiền tệ nhạy bén nhất. Kể từ đó, vào cuối năm 1920 giải pháp gọi là NVTTM đi vào cuộc sống của chúng ta; hiệu quả và tầm quan trọng NVTTM ngày càng tăng lên và nó trở thành công cụ chính sách tiền tệ được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả ở khắp các nước trên Thế giới.
ở Việt nam, sau khi chuyển đổi cơ chế sang Ngân hàng hai cấp, kể từ năm 1989 đến nay Ngân hàng Trung ương đã và đang áp dụng một số giải pháp thường gọi là công cụ của chính sách tiền tệ như: tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, mức lãi suất trần, điều hành tỷ giá, đấu thầu tín phiếu kho bạc. Và năm 2000 là năm cuối cùng của thế kỷ 20 đã đánh dấu nhiều chuyển biến tích cực trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai thị trường đặc thù trong tổng thể thị trường tài chính là thị trường mở và thị trường chứng khoán đã chính thức hoạt động. NVTTM bắt đầu vận hành vào ngày 12/7/2000, ghi nhận việc điều hành chính sách tiền tệ từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp của NHNN Việt nam. NVTTM đã có tác động nhất định tới vốn khả dụng của các Tổ chức tín dụng tham gia thị trường, đa dạng hoá kênh huy động và luân chuyển vốn, tạo ra khả năng phối hợp giũa thị trường liên Ngân hàng- thị trường mở- thị trường chứng khoán trong các thị trường tài chính ở Việt Nam hiện nay. Có thể nói NVTTM của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là hoạt động hoàn toàn mới cả về lý luận và nội dung hoạt động đối với Việt Nam.
1.1 Vậy nghiệp vụ thị trường mở là gì?
Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ của chính sách tiền tệ Ngân hàng Trung ương, là nơi diễn ra việc mua bán các loại chứng khoán ngắn hạn (là chủ yếu) giữa một bên là Ngân hàng Trung ương với một bên là khách hàng bao gồm: các Ngân hàng, các tổ chức phi Ngân hàng và tư nhân. Hay nói cách khác NVTTM chỉ các hoạt động giao dịch chứng khoán của Ngân hàng Trung ương với các đối tác được lựa chọn. Mà các giao dịch mua bán này giúp Ngân hàng Trung ương có thể thay đổi khối lượng tiền dự trữ theo mong muốn: muốn tăng dự trữ thực hiện nghiệp vụ mua, muốn giảm dự trữ thực hiện nghiệp vụ bán.
Về mục đích, thị trường mở thoả mãn xuất phát điểm tiếp cận: thay đổi khối lượng tiền tệ dẫn tới thay đổi cầu tiền tệ cuối cùng thay đổi lãi suất. Diễn biến cụ thể là: Khi tăng trưởng tiền tệ và tín dụng đạt mức thấp hơn mong muốn, NHTƯ có thể tăng thêm dự trữ thúc đẩy tăng trưởng bằng cách mua chứng khoán trên thị trường mở. Việc tăng cường dự trữ theo cách này làm giảm bớt nhu cầu vay của các Ngân hàng trên cửa sổ chiết khấu, kết quả dẫn tới là lãi suất trên thị trường tín dụng nói riêng và trên thị trường vốn ngắn hạn nói chung được hạ xuống. Khi cần thiết phải xiết chặt tiền tệ, NHTƯ có thể giảm dự trữ bằng cách bán chứng khoán trên thị trường mở, hoặc tăng dự trữ chậm hơn so với cách làm khác, hành động này sẽ làm tăng nhu cầu vay trên cửa sổ chiết khấu, dẫn tới nhu cầu vay trên thị trường tín dụng và cuối cùng làm tăng lãi suất vốn ngắn hạn nói chung.
Hiện nay, NVTTM được sử dụng như một công cụ chính sách tiền tệ có hiệu quả nhất ở hầu hết Ngân hàng Trung ương các nước, từ những nước phát triển cho đến những nước đang phát triển ở Châu á, Mỹ la tinh và các nước Đông âu.
Nguyên lý thực hiện nghiệp vụ thị trường mở:
Khi NHTW mua chứng khoán từ khách hàng (người bán) bằng séc, khách hàng gửi tờ séc đến NHTW để nhận trả tiền, NHTW chấp nhận thanh toán các séc chuyển đến đúng hạn, bằng cách ghi có tài khoản tiền gửi của ngân hàng người bán, làm tài khoản của ngân hàng này tăng lên. Do không phải khấu trừ cho một khoản giảm dự trữ nào cả nên tổng khối lượng tiền gửi tăng lên. Ngược lại, khi NHTW bán chứng khoán, kết quả của việc thanh toán làm giảm tiền gửi của ngân hàng phục vụ người mua tại NHTW. Cũng tương đương không có khoản bù đắp dự trữ tăng nào cả, nên tổng lượng tiền gửi giảm đi. Đặc tính thay đổi tiền tệ một phía với việc mua bán chứng khoán của NHTW đã làm nghiệp vụ thị trường mở trở thành một công cụ có sức mạnh, nhạy bén, chính xác hơn bất kỳ một công cụ nào khác của chính sách tiền tệ.
Để hiểu rõ những đặc tính ưu việt của thị trường mở thì ta nghiên cứu tác động của công cụ này lên cơ số tiền tệ như sau: Như đã biết, cơ số tiền tệ được đo bằng khối lượng tiền đang lưu thông bao gồm tiền ngân hàng, tiền kho bạc trong xã hội và khối lượng tiền dự trữ của hệ thống ngân hàng bao gồm tiền trong két và tiền gửi của các ngân hàng tại NHTW. Khối lượng tiền đang lưu thông và tiền dự trữ này là một bộ phận của tài sản Nợ trong bảng tổng kết tài sản của NHTW. Nhờ tính ưu việt của cấu trúc bảng tổng kết tài sản mà cơ số tiền tệ được xác định một cách dễ dàng bằng cách lấy tổng tài sản Có trừ đi các yếu tố tài sản Nợ còn lại. Các nhà hoạch định chính sách quan tâm nghiên cứu cơ số tiền tệ, bởi cơ số tiền tệ có quan hệ với lượng tiền cung ứng mà NHTW đang dày công tìm cách kiểm soát như một chỉ tiêu quan trọng của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, NHTW không hứa hẹn chắc chắn có thể kiểm soát được toàn bộ khối lượng tiền tệ dự trữ thông qua tất cả các tác nhân làm tăng hoặc giảm cơ số tiền tệ trong bảng tổng kết tài sản, mà chỉ có thể kiểm soát chặt chẽ phần thay đổi cơ số tiền tệ nhờ thay đổi khoản mục chứng khoán được mua bán trên thị trường mở tạo nên. Khối lượng dự trữ này gọi là dự trữ không vay. Với ý nghĩa này nghiệp vụ thị trường mở được chọn làm công cụ để kiểm soát cơ số tiền tệ thông qua việc NHTW thực hiện mua bán chứng khoán sau đây:
Mua chứng khoán của một ngân hàng trên thị trường mở: Khi mua chứng khoán của một ngân hàng với giả định là 100 tỷ đồng, NHTW phát hành một séc thanh toán 100 tỷ đồng, séc được ngân hàng – người bán để nhận lại tiền tại NHTW. Đến lượt mình, NHTW nhận thanh toán séc bằng cách hoặc ghi có tiền gửi của khách hàng hoặc trả bằng tiền mặt, tuy nhiên dù nhận loại tiền nào chăng nữa thì tài sản có của ngân hàng –người bán đó cũng tăng lên 100 tỷ đồng ở khoản mục dự trữ và giảm đi 100 tỷ đồng chứng khoán đã bán, tài khoản chữ T được ghi như sau:
Ngân hàng bán chứng khoán____
Chứng khoán -100
Tiền dự trữ +100
Tại NHTW, tài sản Nợ tăng thêm100 tỷ đồng( tiền gửi khách hàng), đồng thời tài sản có cũng tăng thêm 100 tỷ đồng cho khoản chứng khoán vừa mua được, tài khoản chữ T là:
Ngân hàng Trung ương_____
Chứng khoán + 100 Tiền dự trữ +100
Đến thời điểm này, tiền lưu hành không thay đổi nhưng cơ số tiền tệ tăng lên 100 tỷ đồng.
Mua chứng khoán từ nguồn phi ngân hàng trên thị trường mở: Giả sử một pháp nhân hay một cá nhân bán cho NHTW 100 tỷ đồng chứng khoán lĩnh bằng séc, tờ séc đó được gửi đến một ngân hàng phục vụ, tài khoản chữ T của khách hàng sẽ là:
____ __ Khách hàng______________
Chứng khoán - 100
TG không kỳ hạn + 100
Ngân hàng phục vụ khách hàng nhân séc của khách hàng và ghi có tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng 100 tỷ đồng, sau đó gửi tờ séc đến NHTW. Tài khoản chữ T của ngân hàng phục vụ được ghi
__ Ngân hàng phục vụ____________
Tiền dự trữ + 100 TG không kỳ hạn + 100
Tại NHTW bảng tổng kết tài sản tăng thêm 100 tỷ đồng tiền dự trữ do ngân hàng phục vụ gửi tiền, đồng thời cũng tăng thêm 100 tỷ đồng giá trị chứng khoán mua được của khách hàng. Tài khoản chữ T của NHTW sẽ là:
Ngân hàng Trung ương_______
Chứng khoán + 100 Tiền dự trữ +100
Như vậy, mua chứng khoán trên thị trường mở từ một khách hàng là ngân hàng hoặc phi ngân hàng đều cho một kết quả, tiền dự trữ của NHTW tăng lên 100 tỷ đồng.
Bán chứng khoán của NHTW trên thị trường mở: Khi NHTW bán ra 100 tỷ đồng chứng khoán cho các ngân hàng hoặc cho công chúng thì cơ số tiền tệ lập tức giảm đi 100 tỷ đồng tương ứng. Ví dụ như NHTW bán cho một cá nhân 100 tỷ đồng chứng khoán thanh toán bằng tiền mặt. Tài khoản chữ T của khách hàng như sau:
Khách hàng________
Chứng khoán + 100
Tiền mặt - 100
Tại NHTW giảm đi 100 tỷ đồng chứng khoán đã bán cho khách hàng, đồng thời cũng giảm đi 100 tỷ đồng tài sản do khách hàng rút tiền mặt để thanh toán chứng khoán của NHTW Tài khoản chữ T là:
___ Ngân hàng trung ương__________
Chứng khoán – 100 Tiền mặt lưu hành - 100
Tóm lại việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua hoạt động NHTW mua vào bán ra các loại chứng khoán( tín phiếu, trái phiếu kho bạc) có tác động mạnh tới thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) từ đó gây nên tác động dây chuyền tới một loạt biến số kinh tế như lãi suất, đầu tư, tỷ lệ thất nghiệp, GNP... Các số liệu về dự trữ tự do trong các ngân hàng có thể là dấu hiệu khá chính xác về tình hình trên thị trường tiền tệ (dự trữ tự do là phần chênh lệch giữa dự trữ vượt mức của các NHTM với các khoản vay chiết khấu mà các NHTM vay từ NHTW). Dự trữ tự do phản ánh tính sẵn có của các khoản vốn trên thị trường tiền tệ, phản ánh mức độ rộng rãi hoặc hạn chế của việc cung cấp vốn cho nền kinh tế của các NHTM. Do vậy dự trữ tự do có thể được sử dụng như là một mục tiêu hoạt động của NHTW. Theo đó, chiến lược thực hiện nghiệp vụ thị trường mở sẽ bao gồm các bước sau:
Hàng tuần thực hiện
Nghiệp vụ TTM à Tình hình
thị trường tiền tệ à Dự trữ tự do à
Hàng tháng Hàng tháng Hàng quý
Tổng dự trữ
Của các NHTM à Lượng tiền cung ứng à GNP
Vậy chính nhờ phát hiện ra nghiệp vụ thị trường mở với tính năng tác dụng của nó mà NHTW chọn cơ số tiền tệ làm chỉ tiêu kiểm soát lượng tiền cung ứng.
2. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở đối với việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt nam:
Với vai trò quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, NHNN tổ chức các hoạt động của mình nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các Tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trách nhiệm của NHNN trong việc thực hiện chính sách tiền tệ là xây dựng dự án chính sách tiền tệ Quốc gia, xây dựng và điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, điều hành kế hoạch cung ứng lượng tiền cho lưu thông theo tín hiệu thị trường trong phạm vi lượng tiền cung ứng được phê duyệt. Khi thực hiện chính sách tiền tệ, NHNN thường phải đứng trước các mục tiêu tổng thể chung là: mức công ăn việc làm cao (thường tương ứng với một mức tăng trưởng kinh tế), ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định hệ thống tài chính, ổn định thị trường ngoại hối... Một số giải pháp được được sáng tạo, hoàn thiện dần trong quá trình phát triển của hệ thống NHTW và được thừa nhận như những công cụ điều hành sắc bén hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên khối lượng tiền tệ, phạm vi tín dụng và mặt bằng lãi suất. Xuất phát điểm để tiếp cận khi áp dụng các giải pháp này là: làm thế nào để đạt được một khối lượng tiền tệ nhất định cho phép thay đổi cầu tiền tệ hiệu ứng dẫn tới thay đổi lãi suất; hoặc đạt được một mức lãi suất bằng cách cung tiền tệ hiệu ứng dẫn tới thay đổi cầu tiền tệ:
Cầu
tiền tệ
Lãi suất
Khối lượng
tiền tệ
Cung
tiền tệ
Lãi suất
Cầu
tiền tệ
Với cách tiếp cận trên, đòi hỏi nhà hoạch định chính sách phải cân nhắc giải pháp thích hợp khi áp dụng. Mặc dù vậy, hầu hết các NHTW đều lần lượt trải qua nhiều giải pháp, rồi quy tựu về một vài giải pháp chủ yếu như NVTTM; chính sách chiết khấu; mức dự trữ bắt buộc...Trong quá trình áp dụng các công cụ nói trên (trừ NVTTM ), NHNN đã từng bước xây dựng và hoàn thiện chúng. Sau một quá trình chuẩn bị, ngày 12 tháng 7 năm 2000 NHNN đã chính thức khai trương NVTTM. Đây là một bược tiến trong quá trình đổi mới điều hành chính sách tiền tệ theo hướng từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ điều hành gián tiếp. Cho đến nay, NVTTM đã được thực hiện an toàn, đúng qui định theo định kỳ một tuần một lần vào một ngày cố định trong tuần. Tuy tác động của NVTTM đến những điều kiện của thị trường tiền tệ chưa đáng kể nhưng việc điều hành NVTTM của NHNN đã phù họp với mục tiêu chính sách tiền tệ, bám sát diễn biến của nền kinh tế thị trường và phần nào điều chỉnh vốn khả dụng của các Tổ chức tín dụng, thu hút khi thừa vốn và bơm thêm khi thiếu vốn. Cùng với các công cụ chính sách tiền tệ khác như dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, thời gian qua công cụ NVTTM đã được sử dụng tương đối linh hoạt, đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của công cụ NVTTM đối với việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia của NHNN.
Việc mua bán giấy tờ có giá giữa NHNN với các chủ thể có liên quan tại NVTTM nhằm tác động trực tiếp tới lượng tiền cung ứng và gián tiếp tới lãi suất thị trường vốn ngắn hạn. Để thực sự phát huy hiệu quả của NVTTM thì thị trường tiền tệ cần phải có những yếu tố kỹ thuật cần thiết như : số lượng và chất lượng giấy tờ có giá, các thành viên tham gia thị trường phải có đủ điều kiện và cơ sở vật chất kỹ thuật lẫn trình độ quản lý vốn khả dụng, am hiểu kỹ thuật thị trường mở; cơ chế và kỹ thuật giao dịch; sự phối hợp giữa công cụ của chính sách tiền tệ, giữa các thị trường và tổ chức có liên quan.
Trong thời gian qua đã có sự phối kết hợp giữa các công cụ, các thị trường đã tạo điều kiện tốt cho việc triển khai và thực hiện NVTTM. Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc phát hành qua NHNN là nơi tạo ra hơn 80% khối lượng giấy tờ có giá được giao dịch tại NHNN. Thị trường này đã được NHNN triển khai từ năm 1995 nên cho đến nay hoạt động đã thường xuyên đều đặn. Thị trường nội tệ liên Ngân hàng được NHNN tổ chức từ năm 1994 đến nay đã qua nhiều giai đoạn điều chỉnh từ giao dịch trực tiếp tại NHNN và đến nay là hoạt động tự do của các ngân hàng. Tuy nhiên, thông qua các công cụ khác, NHNN đã giám sát và khích lệ hoạt động của NVTTM. Và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cũng được triển khai từ năm 1996 và duy trì hoạt động cho đến nay với hình thức giao dịch trực tiếp với NHNN. Tuy nhiên, phương thức giao dịch đã được thay đổi cho phù hợp với yêu cầu, điều kiện Việt nam.
Ngoài ra, NHNN tiếp cận NVTTM bằng một trong hai hướng:
Thứ nhất là: Dự báo cho thấy cung tiền tệ cần được tiếp tục điều chỉnh thì NHNN ngay lập tức mua hoặc bán chứng khoán theo hình thức mua đứt bán đoạn( mua bán hẳn).
Thứ hai là: nếu dấu hiệu yêu cầu chỉ cần tạm thời thay đổi dự trữ tiền tệ, hoặc các yếu tố kỹ thuật ảnh hưởng lên dự trữ dự báo cần thiết phải rút bớt, hay bù đắp trạng thái dự trữ, hoặc tổng quan về dự trữ trong thời gian tới là thiếu ổn định, thì NHNN trực tiếp thực hiện các giao dịch tác động lên cung tiền tệ bằng các hợp đồng mua lại đối với các trường hợp muốn tăng dự trữ tạm thời, và bằng các giao dịch bán- mua đảo ngược- muốn giảm dự trữ tạm thời.
Có thể khẳng định rằng, hầu hết các NHTW các nước nói chung, NHNN Việt nam nói riêng đều đề cao NVTTM như một công cụ đầu bảng trong hệ thống các công cụ điều hành chính sách tiền tệ.
3. Kinh nghiêm của một số nước trên Thế giới khi áp dụng công cụ NVTTM:
ở Hàn Quốc:
Việc sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ của Hàn Quốc: Vào những năm 1980, nghiệp vụ thị trường mở ở nước này chưa được coi là công cụ của chính sách tiền tệ. Sự kém phát triển đó là do NHTW thiếu các công cụ tài chính để giao dịch trên thị trường. Lúc đầu, thị trường chỉ giao dịch với 3 công cụ gồm: chứng khoán chính phủ, chứng khoán được chính phủ bảo đảm và chứng khoán có thể chuyển nhượng do NHTW phát hành gọi là trái phiếu ổn định tiền tệ (MSBs). Càng về sau, trong điều kiện Chính phủ phụ thuộc vào các khoản vay của NHTW để trang trải cho thâm hụt ngân sách hơn là phát hành chứng khoán Chính phủ, NHTW không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc mua bán trên thị trường mở trái phiếu ổn định tiền tệ do chính mình phát hành để bù đắp thâm hụt ngân sách. Đây là giao dịch bất đắc dĩ, cuối cùng các tín hiệu thị trường mở bị bóp méo trở thành “ thị trường đóng”. Gần đây NHTW và Chính phủ Hàn Quốc đã cố gắng tạo ra một môi trường thuận lợi cho thị trường mở hoạt động theo đúng nghĩa thông thường của nó. Thâm hụt ngân sách được bù đắp thông qua phát hành công trái Chính phủ thay vì sự vay NHTW trước đây. Việc thay đổi này đã làm tăng khối lượng phương tiện thanh toán, góp phần đưa thị trường mở đi vào hoạt động có hiệu quả.
ở Mỹ:
Một số nước khác có thị trường tài chính phát triển, thị trường đối với chứng khoán Chính phủ thoả mãn các điều kiện đòi hỏi của NVTTM. NHTW các nước này thực hiện phần lớn các NVTTM thông qua thị trường này. Chẳng hạn như ở Mỹ, thị trường chứng khoán Chính phủ có doanh số giao dịch bình quân tới 100 tỷ đô la/ ngày, đây là khả năng giao dịch ở mức độ rộng và mạnh nhất thị trường tài chính nước Mỹ, có thể đảm đương một khối lượng đăng ký giao dịch rất lớn với tất cả các ngân hàng, các tổ chức phi ngân hàng, các doanh nghiệp, các cá nhân và các nhà môi giới ... bằng điện thoại và các dịch vụ mạng cáp kết nối giữa các giao dịch viên và các khách hàng trên toàn nước Mỹ.
Dưới đây, số liệu của Cục dự trữ liên bang Mỹ sẽ cho ta thấy chứng khoán loại nào được mua bán trên thị trường mở ? Đó là tín phiếu kho bạc có thời hạn thanh toán dưới 1 năm, thời hạn bình quân theo danh mục của liên bang là 3 năm đối với các trái phiếu kho bạc và 5 năm đối với tất cả các chứng khoán kho bạc khác đang được sử dụng để buôn bán. Các chứng khoán kho bạc trên 10 năm cũng được sử dụng để giao dịch vì các chứng khoán này có tính thanh khoản cao trên thị trường vốn, được lưu giữ ở dự trữ liên bang, ở các ngân hàng, trong các hộ gia đình và ở nước ngoài, nói cách khác chúng đáp ứng được các điều kiện đòi hỏi của thị trường mở.
Số dư tài khoản chứng khoán trên thị trường mở
(Đơn vị: tỷ USD)
Thời hạn
Chứng khoán kho bạc
CK các cơ quan liên bang
Tổng số
Dưới 1 năm`
209,5
1,8
211,3
Từ 1- 5 năm
83,7
1,8
85,5
Từ 5- 10 năm
25,3
0,6
25,9
Hơn 10 năm
33,1
0,0
33,1
Tổng cộng
351,6
4,2
355,8
Giá trị giao dịch trên thị trường mở Cục dự trữ liên bang Mỹ
(Đơn vị: tỷ USD)
Hình thức giao dịch
1990
1991
1992
1993
Mua hẳn
25,2
31,4
34,1
36,9
Bán hẳn
7,6
1
1,6
0
Hợp đồng mua lại
189,9
508,7
533,3
627,6
Bán- mua đảo ngược
48,3
75,3
28,6
10,9
Chương II. Thực trạng hoạt động của thị trường mở và những giải pháp
1.Thực trạng hoạt động của NVTTM tại Việt nam trong thời gian qua:
Đánh giá tình hình hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở :
Sau một thời gian nghiên cứu kinh nghiệm Quốc tế, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết, cách đây hơn ba năm, ngày 12/7/2000, Ngân hàng Nhà nước Việt nam đã chính thức đưa công cụ nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động. Việc thực hiện nghiệp vụ này đánh dấu một sự chuyển biến quan trọng trong việc điều hành chính tiền tệ của NHNN, từ sử dụng công cụ trực tiếp sang sử dụng các công cụ gián tiếp, phù hợp với thông lệ Quốc tế.
Trong năm 2000, NHNN chủ yếu áp dụng phương thức đấu thầu lãi suất, chỉ duy nhất có 4 phiên giao dịch đầu tiên là áp dụng phương thức đấu thầu khối lượng. Trong thời gian này, lãi suất đăng ký giao động thấp nhất ở mức 4,00%/ năm đến mức cao nhất 5,58%/ năm. Nhìn chung lãi suất này đã phản ánh được diễn biến tình hình lãi suất của thị trường trong thời gian đó. NHNN đã tiến hành bán tín phiếu NHNN để hút vốn khả dụng dư thừa, đồng thời từ đó có thể tạo thêm hàng hoá cho hoạt động của NVTTM và cũng giúp các Ngân hàng có điều kiện để tập dượt tham gia đầy đủ các hình thức giao dịch của NVTTM ( cụ thể tháng 8/2000 trong 3 phiên giao dịch, NHNN đã bán được hẳn 550 tỷ đồng, đạt kết quả 100% cuối tháng 2 và đầu tháng 3 năm 2001 tiến hành liên tục 4 phiên giao dịch với hình thức bán hẳn với tổng khối lượng là 470 tỷ đồng).
Từ tháng 7/2000 đến tháng 12/2001, NHNN đã tổ chức được 64 phiên đấu thầu NVTTM, với tổng doanh số giao dịch là 5.636 tỷ đồng; trong đó có 24 phiên trực hiện đấu thầu lãi suất, 40 phiên thực hiện đấu thầu khối lượng. Nếu tính riêng năm 2001, NHNN đã tổ chức được 48 phiên giao dịch thị trường mở, với tổng khối lượng vốn chính thức giao dịch mua bán là 3.833,81 tỷ đồng, bán hẳn 470,0 tỷ đồng, bán có kỳ hạn 150 tỷ đồng và mua hẳn 60 tỷ đồng.
Trong năm 2002, bàng cách tiếp tục duy trì 2 phương thức giao dịch là mua có kỳ hạn và bán hẳn, NHNN đã tổ chức được 85 phiên thị trường mở, với tổng khối lương giao dịch 9.145,53 tỷ đồng, bằng 232,48% so với năm 2001. Thông qua đó NHNN cung ứng thêm vốn cho nền kinh tế, hoặc rút bớt tiền từ lưu thông về, tạo điều kiện cho các NHTM tham gia có hiệu quả thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc. Cụ thể thông qua 57 phiên giao dịch theo phương thức mua có kỳ hạn, NHNN đã cung ứng 7.245,53 tỷ đồng vốn cho NHTM. Thông qua 28 phiên giao dịch theo phương htức bán hẳn, NHNN đã thu hút về 1.900 tỷ đồng vốn. Lãi suất trúng thầu trên thị trường mở bình quân khi mua vào là 4,9%/năm và lãi suất trúng thầu bán ra là 4,7%/ năm. Tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay của các NHTM đối với các doanh nghiệp và khách hàng.
Trong năm 2003, bằng cách tiếp tục duy trì 2 phương thức giao dịch là mua có kỳ hạn và bán hẳn, tính đến ngày 16-12-2003, NHNN đã tổ chức được 102 phiên giao dịch thị trường mở, với tổng khối lượng trúng thầu ước tính là 16.740 tỷ đồng, trong đó khối lượng giấy tờ có giá NHNN mua hẳn ước tính là 9.500 tỷ đồng, bán hẳn là 7.240 tỷ đồng. Tức là thông qua thị trường này trong năm 2003, NHNN đã cung ứng gần 8.000 tỷ đồng cho các NHTM; tăng đáng kể so với năm 2002 và năm 2001,... Xu hướng đó một mặt NVTTM thực sự có hiệu quả trong việc tác động vào vốn khả dụng của NHNN, chủ động thu hút tiền về hoặc bơm tiền ra lưu thông trên cơ sở cung cầu vốn của thị trường; mặt khác cũng chứng tỏ thị trường mở hấp dẫn đối với các NHTM. Tác động tích cực làm giảm nhiệt trên thị trường tiền tệ.
Lãi suất trên thị trường mở trong thời gian qua giảm dần phản ánh diễn biến lãi suất trên thị trường tiền tệ và lãi suất ngắn hạn trong nền kinh tế. Lãi suất trên thị trường mở cũng giảm dần phản ánh diễn biến lãi suất trên thị trường tiền tệ trong suốt cả năm 2003, phản ánh sát lãi suất trong nền kinh tế. Thông qua phương thức xét thầu riêng lẻ, trong phiên giao dịch tháng 1/ 2003 lãi suất trúng thầu xoay quanh mức 4,8%- 5%/ năm, tháng 2/2003 xoay quanh mức 4,6%- 4,8%/ năm thì các phiên giao dịch trong tháng 11/2003 lãi suất trúng thầu của thị trường mở giảm xuống chỉ còn 2,3%- 2,7%/ năm. Trong nửa đầu tháng 12/2003 thì tăng lên, đạt mức 3,5%-3,8%/ năm trong phiên giao dịch thứ 102 ngày 16/12/2003. Điều đó chứng tỏ các NHTM đang linh hoạt sử dụng vốn khả dụng của mình. Đây cũng là cơ sở để cho lãi suất huy động vốn có kỳ hạn ngắn giảm xuống mức thấp. Đồng thời thực tế vận hành nghiêp vụ thị trường mở trong năm 2003 tiếp tục khẳng định, từ tháng 6/2002 khi chuyển sang thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận Đồng Việt nam, thì cùng với lãi suất đấu thầu tín phiếu Kho bạc Nhà nước, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ Swap giữa NHNN và TCTD, điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất NVTTM đã có tác động tích cực vào lãi suất của các TCTD giao dịch với khách hàng.
Các loại giấy tờ có giá được giao dịch trên thị trường mở trong năm 2003 đều có thời hạn ngắn. Giao dịch trong quý I thời hạn còn lại của giấy tờ có giá là từ 15 ngày đến 60 ngày, quý II là từ 15 ngày đến 91 ngày, từ cuối tháng 5 đến giữa tháng 7 phần lớn là 91 ngày, từ cuối tháng 7 đến tháng 12/2003 là 30 ngày đến 60 ngày.
Luật NHNN Việt nam sửa đổi được kỳ họp Quốc hội thông qua ngày 16-6-2003 vừa qua, đã cho phép các loại giấy tờ có giá dài hạn còn thời hạn ngắn được giao dịch trên thị trường tiền tệ. Theo quy định của nội dung sửa đổi, bổ sung Luật NHNN vừa được công bố thì thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mua, bán ngắn hạn các giấy tờ có giá, bao gồm tín phiếu Kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu NHNN và các loại giấy tờ có giá khác trên thị trường tiền tệ để thực hiện chính sách tiền tệ Quốc gia.
Ngoài ra việc mua bán ngắn hạn là việc mua bán có kỳ hạn không quá một năm các giấy tờ có giá; trong đó bao gồm cả các loại giấy tờ có giá có thời hạn trên một năm nhưng còn thời hạn thanh toán dưới một năm được phép giao dịch mua bán trên thị trường mở với NHNN. Đây là một dạng của thị trường tiền tệ mà thông qua đó NHNN tác động vào tình hình vốn khả dụng của các NHTM, tác động vào lãi suất trong nền kinh tế, thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Trong năm 2003, các NHTM đầu tư khối lượng vốn khá lớn, ước tính khoảng gần 7.000 tỷ đồng vào các loại giấy tờ có giá có thời hạn trên một năm, đó là trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu dầu khí, công trái giáo dục và khoảng trên 15.000 tỷ đồng tín phiếu Kho bạc có thời hạn dưới một năm. Do đó tới đây, khối lượng và tổng giá trị giấy tờ có giá ngắn hạn và còn thời hạn ngắn có điều kiện giao dịch tren thị trường mở là rất lớn.
Tóm lại là trong thời gian qua NVTTM đã thể hiện bằng hoạt động tích cực của mình đối với công việc thực hiện chính sách tiền tệ Quốc gia của Nhà nước.
1.2. Những kết quả đạt được sau 3 năm triển khai NVTTM tại Việt nam:
Qua hơn ba năm triển khai thực hiện, NVTTM đã hoạt động ổn định có thể khẳng địnhNHNN đã thu được thành công bước đầu trong việc đưa một công cụ mới vào điều hành chính sách tiền tệ, nhằm tác động tới vốn khả dụng của các Tổ chức tín dụng. Đến nay đã có 22 Tổ chức tín dụng được cấp giấy chứng nhận là thành viên nghiệp vụ thị trường mở, tăng thêm 4 thành viên so với khi mới thành lập; trong đó có 4 Ngân hàng Thương mại Nhà nước, 10 Ngân hàng Thương mại cổ phần, 1 Ngân hàng liên doanh, 5 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, 1 công ty tài chính và Quỹ tín dụng Trung ương. Quy mô doanh số hoạt động của thị trường mở ngày càng tăng thể hiện sự sự phát triển triển ổn định và bền vững của nghiệp vụ mới này, được thể hiện cụ thể ở bảng số liệu sau:
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
6 tháng cuối năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
102 phiên 2003 (đến16.12.03)
Tổng cộng
1. Doanh số hoạt động
1.903,5
3.933,8
9.145,53
16.740*
31.722,83
- NHNN mua
1.353,5
3.313,8
7.245,53
9.500*
21.412,83
- NHNN bán
550
620
1.900
7.240
10.310
2. Số phiên giao dịch
17
48
85
102
252
(* Số liệu ước tính)
Ngân hàng Nhà nước đã đưa vào sử dụng thành công một công cụ gián tiếp trong việc điều hành chính sách tiền tệ và đã dần củng cố thêm vị trí quản lý của mình trong nền kinh tế thị trường, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay và trong quan hệ quốc tế, đã đạt được những kết quả bước đầu khá khích lệ như:
- Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở đã góp phần tác động vào vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng từ đó góp phần thực hiện các nghiệp vụ mà Ngân hàng Nhà nước đặt ra, ổn định thị trường tiền tệ và hoạt động của hệ thống Ngân hàng.
- Bằng cách “ bơm tiền” ra lưu thông qua nghiệp vụ thị trường mở đã góp phần thúc đẩy sản suất, nâng cao sức mua của xã hội và thực hiện đúng mục tiêu kích cầu của Chính phủ trong điều kiện nền kinh tế có dấu hiệu giảm phát trong thời gian qua.
- Các văn bản pháp lý cho hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở phù hợp với thực tiễn của Việt nam. Việc lắp đạt các trang thiết b._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0841.doc