Đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu đô thị mới Đồng Văn tỉnh Hà Nam

A.LỜI NÓI ĐẦU. Trong xu thế của thế giới hiện nay, quá trình đô thị hoá đang diễn ra một cách nhanh chóng và mạnh mẽ. Các đô thị trên thế giới xuất hiện ngày càng nhiều với qui mô và chất lượng ngày càng tốt hơn. Hiện tại ở Việt Nam các khu đô thị mới cũng lần lượt mọc lên như nấm, tạo tiền đề cho việc phát triển kinh tế - xã hội đang có rất nhiều biến đổi phù hợp với xu thế của thế giới của nước ta. Thực hiện kế hoạch phát triển của tỉnh Hà Nam đến năm 2020, trong những năm qua tỉnh rất quan t

doc66 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1571 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu đô thị mới Đồng Văn tỉnh Hà Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
âm đến việc quy hoạch cải tạo, xây dựng tỉnh và đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên ở khu vực thị trấn Đồng Văn - huyện Duy Tiên có diện tích rộng và địa chất khá thuận lợi cho xây dựng công nghiệp và đô thị song hiện nay kinh tế chưa phát triển, dân số ít, mật độ dân số thấp, văn hoá xã hội còn ở trình độ thấp. Chính vì vậy tỉnh Hà Nam đã phê duyệt dự án cho xây dựng khu đô thị mới Đồng Văn ở đây để từng bước giải quyết các vấn đề đã nêu trên. Và để khu đô thị mới này có thể hoạt động một cách hiệu quả nhằm tránh lãng phí nguồn lực một cách vô ích thì công tác đánh giá hiệu quả xây dựng cơ sở hạ tầng là rất cần thiết. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác này trong đề tài “Đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu đô thị mới Đồng Văn tỉnh Hà Nam.” em xin đưa ra một số đánh giá về hiệu quả tài chính và kinh tế - xã hội của dự án. Đồng thời em cũng xin phân tích một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác đánh giá dự án và nâng cao hiệu quả đầu tư đối với dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu đô thị mới Đồng Văn nói riêng và các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu đô thị mới nói chung. B.NỘI DUNG. CHƯƠNG I: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG KHU ĐÔ THỊ MỚI. I. Một số vấn đề về khu đô thị mới và cơ sở hạ tầng khu đô thị mới. 1. Khái niệm khu đô thị mới và sự cần thiết ra đời khu đô thị mới. Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu về ăn ở, sinh hoạt và lao động của người dân càng cao, trong khi đó, hệ thống đô thị cũ của nước ta ngày càng xuống cấp, không còn đáp ứng được những nhu cầu đó một cách tốt nhất nữa. Như một tất yếu khách quan, các khu đô thị mới đã lần lượt được ra đời trong sự quản lý và quy hoạch của Nhà nước. Khu đô thị mới là khu đô thị có diện tích tương đối lớn được phát triển tập trung theo dự án đầu tư xây dựng hoàn chỉnh, đồng bộ các công trình cơ sở hạ tầng, các công trình sản xuất, công trình phúc lợi nhà ở. Trong khu đô thị mới thường có 3 thành phần chính: Cơ sở hạ tầng, công trình sản xuất, công trình phúc lợi và nhà ở. Quy mô của một khu đô thị mới có thể từ 5-10 ha trở lên được sử dụng vào mục đích kinh doanh hoăc không kinh doanh. Các khu đô thị mới thường được gắn với một đô thị hiện có hoặc với một đô thị mới đang hình thành. Trên phương diện pháp luật, khu đô thị mới phải có ranh giới và chức năng xác định, phù hợp với quy hoạch xây dựng đô thị được cơ quan nhà nước có thâm quyền phê duyệt. Chúng ta có thể khẳng định việc hình thành các khu đô thị mới là sự cần thiết khách quan bởi 3 lí do sau: Thứ nhất: Xây dựng các khu đô thị mới là quá trình “Từng bước xây dựng hoàn chỉnh hệ thống đô thị cả nước, có cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và kỹ thuật hiện đại, môi trường đô thị trong sạch, được phân bố và phát triển hợp lí trên địa bàn cả nước, đảm bảo cho mỗi đô thị, theo vị trí và chức năng của mình, phát huy đầy đủ thế mạnh, góp phần thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng xã hội chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc” (Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 10/1988/QĐ-Ttg). Thứ hai: Xây dựng các khu đô thị mới là kết quả của việc thực hiện chương trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá đất nước. Biểu hiện cụ thể của đô thị hoá là sự mở rộng đô thị hiện có và xây dựng các đô thị mới. Việc xây dựng các đô thị mới chỉ có thể thực hiện trong điều kiện kinh tế cho phép và đặc biệt với nguồn vốn đầu tư của nước ngoài. Thứ ba: Xuất phát từ yêu cầu thực tế cải tạo, chỉnh trang những thành phố quá chật chội, quá tải về dân số, được xây dựng thiếu quy hoạch trong những năm trước đây. 2. Các nguyên tắc quy hoạch khu đô thị mới. Trái với ý tưởng ban đầu của các khu đô thị mới ở Anh quan niệm chỉ là chỗ ngủ khi đi làm về. Ngày nay ý tưởng về sự cân bằng, sự phát triển song song nhà ở việc làm và công trình công cộng càng trở nên quan trọng do đó việc qui hoach khu đô thị mới ngày nay có một số nguyên tắc sau: Giảm thiểu những cuộc di dân luân phiên xen kẽ (hướng tâm, li tâm) và tạo thuân lợi cho việc giải quyết các vấn đề về giao thông vận tải tại các vùng đô thị liên quan. Khu đô thị mới có tầm quan trọng dành cho trung tâm đô thị. Không có đô thị mới nào không có trung tâm để tạo nên hạt nhân đô thị vì lợi ích của khu đô thị mới, Những khu đô thị mới nào có rất sớm một trung tâm đô thị lại càng nhanh chóng tạo được uy tín và hình ảnh tốt đẹp cho riêng minh. Khu giải trí ngoài trời ngày càng chiếm được vị trí quan trọng trong khu đô thị mới. Khu đô thị mới không thể bị chia cắt với thành phố hiện hữư và lân cận vì nếu không sẽ phải xây dựng xa lộ nối liền với thành phố chính. Việc lựa chọn khu đô thị mới khá gần với thành phố chính ngày nay được đánh giá là đúng đắn vì các thành phố khá xa thành phố chính đều kém năng động. Khi qui hoạch khu đô thị mới cần quan tâm đến sự phát triển tương lai do vậy phải có được tối đa tính linh hoạt. Theo quan điểm hiện đại việc qui hoạch xây dựng các khu đô thị mới xoay quanh các yếu tố như trong sơ đồ sau: Công Nghệ Nhân văn Môi trường Trung tâm * Các định chế giáo dục * Các cơ sở viễn thông * Các cơ sở tiếp cận thông tin * Cơ sở kinh tế dân cư, thưong mai, giải trí * Các cơ sở giao thông Quản lý môi trường (MT) * Bền vững về MT * Xử lý và quản lý chất thải * Giám sát môi trưòng Cộng đồng * Cơ sở giải trí * Cơ sở thể thao * Y tế * Du lịch và trao đổi văn hoá * Các công việc môi trường Thành phố công nghệ * Giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực * Các dịch vụ ytế tiên tiến * Truyền thông và giải trí * Phần mềm và hệ thống vi tính 3. Khái niệm cơ sở hạ tầng khu đô thị mới. Cơ sở hạ tầng đô thị nói chung hay cơ sở hạ tầng khu đô thị mới nói riêng là một loại hàng hoá công cộng có tầm quan trọng về kinh tế- xã hội và giữ vai trò không thể thiếu trong mỗi đô thị. Có rất nhiều khái niệm về cơ sở hạ tầng đô thị theo các quan điểm khác nhau. Sau đây là một số khái niệm được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Toàn bộ các công trình giao thông vận tải, bưu điện thông tin liên lac, dịch vụ xã hội như: đường sá, kênh mương, dẫn nước, cấp thoát nước, sân bay, nhà ga xe lửa, ô tô, cảng sông, cảng biển, cơ sở năng lượng, hệ thống mạng điện, đường ống dẫn xăng, dẫn khí ga, hơi đốt, kho tàng, giao thông vận tải, giáo dục phổ thông và chuyên nghiệp, y tế, dịch vụ ăn uống công cộng, nghỉ ngơi du lịch, vui chơi giải trí, rác thải môi trường đô thị… được gọi là cơ sở hạ tầng đô thị. Tóm lại, cơ sở hạ tầng đô thị là những tài sản vật chất và các hoạt động hạ tầng có liên quan dùng để phục vụ các nhu cầu kinh tế- xã hội của cộng đồng dân cư đô thị và được thể hiện trên bốn bình diện sau: 1/Tiện ích công cộng: năng lượng, viễn thông, nước sạch, khí đốt, hệ thống thu gom sử lý rác thải trong đô thị… 2/Công chánh: đường sá, các công trình xây dựng, kênh phục vụ tưới tiêu… 3/Giao thông: Các trục và tuyến đường bộ, đường sắt, cảng và máy bay, đường thuỷ… 4/ Hạ tầng xã hội: trường học, bệnh viện, chợ búa… 4. Vai trò, ý nghĩa của cơ sở hạ tầng khu đô thị mới. Chúng ta có thể thấy rằng đô thị là nơi có mật độ dân cư đông đúc, mặt khác phần lớn dân cư đều làm việc trong các lĩnh vực phi nông nghiệp, các nhu cầu ăn ở, sinh hoạt cũng khác với dân cư làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, đòi hỏi cơ sở hạ tầng đô thị phải phù hợp, bởi vậy cơ sở hạ tầng đô thị có một vai trò rất quan trọng đối với mỗi đô thị. Sự phát triển các ngành của cơ sở hạ tầng đô thị có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nền sản xuất xã hội, dịch vụ xã hội và việc nâng cao hiệu quả của nó. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, vai trò của cơ sở hạ tầng không ngừng được tăng lên. Các hình thức mới về giao thông vận tải và thông tin liên lạc xuất hiện và phát triển không những trong khuôn khổ từng nước, mà còn trên phạm vi quốc tế theo xu hướng toàn cầu hoá. Do đó, hình thành cơ sở hạ tầng vật chất của sự hợp tác quốc tế mới, đó là toàn bộ các bộ phận của các hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc trong nước và nước ngoài, nhằm phục vụ cho hoạt động kinh tế đối ngoại, cũng như các công trình và đối tượng phối hợp với nhau, đảm bảo cho việc bảo vệ mội trường xung quanh, sử dụng hợp lý các nguồn nước và các nguồn tài nguyên khác, đảm bảo trông tin liên lạc của các cơ quan khí tượng thuỷ văn, quản lý Nhà nước, các cơ quan phục vụ xã hội và an ninh quốc phòng… nhằm mục đích phát triển dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Việc quản lý và phát triển cơ sở hạ tầng đô thị một cách khoa học và hợp lý có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì cơ sở hạ tầng là cơ sở nền tảng đảm bảo cho sự phát triển bền vững của cả một hệ thống đô thị quốc gia nói riêng và sự phát triển bền vững của cả một quốc gia nói chung. Một quốc gia giàu mạnh, hiện đại và văn minh phải có một cơ sở hạ tầng đô thị vững mạnh, tiện lợi, hiện đại và đầy đủ. II. Đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu đô thị mới. 1.Dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. 1.1. Khái niệm dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Theo NĐ 42 CP, ngày 16/7/1996 của Chính Phủ thì: “ Dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đặt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định”. Dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là một bộ phận trong dự án đầu tư xây dựng cơ bản . Đối với dự án đầu tư xây dựng cơ bản có thể được xem xét trên nhiều góc độ. Về mặt hình thức: Dự án đầu tư xây dựng cơ bản là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện những muc tiêu nhất định trong tương lai. Về mặt kế hoạch: Dự án đầu tư xây dựng cơ bản là công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư xây dựng cơ bản, làm tiền đề để chi ra các quyết định đầu tư và tài trợ. Về mặt quản lý: Dự án đầu tư xây dựng cơ bản là một công cụ quản lý việc sử dụng các nguồn lực để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế xã hội trong một thời gian dài. Theo Quy chế quản lý đầu tư xây dựng ngày 08/07/1999 của Chính Phủ: Dự án đầu tư xây dựng cơ bản là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm dịch vụ trong khoảng thời gian xác định. Như vậy nói tới dự án đầu tư có xây dựng là nói tới: Tập hợp những đề xuất kinh tế - kỹ thuật liên quan tới việc bỏ vốn đầu tư. Tập hợp đề xuất đó phải hướng tới làm tăng về số lượng, chất lượng sản phẩm dịch vụ và thu lợi cao. Tập hợp đề xuất đó được thực hiện trong khoảng thời gian xác định. Trong khuôn khổ bài viết này em xin sử dụng khái niệm về dự án xây dựng cơ sở hạ tầng theo quy chế quản lý đầu tư xây dựng ngày 08/07/1999 của Chính Phủ vì đây là khái niệm đang được sử dụng hợp pháp trong các dự án. 1.2. Đặc điểm của dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Mỗi dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đều có qui mô vốn, tính chất, thời gian thực hiện,.. là khác nhau. Tuy nhiên hầu hết chúng đều có 6 đặc điểm chung sau đây: Thứ nhất: Dự án có tính duy nhất. Mỗi dự án đều có đặc trưng riêng biệt lại được thực hiện trong những điều kiện khác biệt nhau cả về địa điểm, không gian thời gian, môi trường luôn thay đổi đã tạo nên tính duy nhất. Thứ hai: Dự án bị hạn chế về thơi gian và qui mô. Mỗi dự án đều phải có điểm khởi đầu và điểm kết thúc rõ ràng và thường có một số kỳ hạn liên quan. Có thể ngày hoàn thành được ấn định một cách tuỳ ý, nhưng dù sao đi nữa nó cũng trở thành điểm trọng tâm của dự án. Sự thành công của dự án được đánh giá bằng khả năng có đạt được đúng thời điểm kết thúc đã được định trước hay không. Thứ ba: Dự án có liên quan đến nhiều nguồn lực khác nhau. Để thực hiện một dự án phải sử dụng rất nhiều nguồn lực như nguồn lực về tài chính, máy móc kỹ thuật, con người, tài nguyên, đất đai,… Các nguồn lực có thể không phải xuất phát từ một chủ thể cung cấp mà được huy động từ nhiều chủ thể khác nhau. Thứ tư: Sản phẩm của dự án mang tính đơn chiếc, độc đáo mới lạ. Khác với quá trình sản xuất liên tục và gián đoạn, kết quả của dự án không phải là sản phẩm hàng loạt mà có tính khác biệt cao. Sản phẩm và dịch vụ mà dự án đem lại là duy nhất. Lao động đòi hỏi kĩ năng chuyên môn cao, nhiệm vụ không lặp lại. Thứ năm: Môi trường hoạt động “va chạm”. Quan hệ giữa các dự án là quan hệ chia nhau cùng một nguồn lực khan hiếm của một tổ chưc. Dự án cạnh tranh lẫn nhau và với các bộ phận chức năng khác cùng một nguồn lực khan hiếm của một tổ chức như tiền vốn, nhân lực, thiết bị… Một số trường hợp, các thành viên quản lý dự án thường có “hai thủ trưởng” trong cùng một thời gian nên gặp khó khăn không biết thực hiện theo quyết định nào của cấp trên khi hai bên mâu thuẫn. Thứ sáu: Tính bất định và rủi ro cao. Hầu hết các dự án đòi hỏi lượng tiền vốn, vật tư và lao động rất lớn để thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Mặt khác, thời gian đầu tư và vận hành kéo dài nên các dự án đầu tư phát triển thường có độ rủi ro cao. 1.3. Các hình thức tổ chức quản lý thực hiện dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Theo từng điều kiện cụ thể của dự án các chủ đầu tư có thể lựa chọn các hình thức quản lý dự án sau: Chủ đầu tư trực tiếp thực hiện dự án: Chủ đầu tư tổ chức tuyển chọn và trực tiếp kí hợp đồng với một hoặc nhiều tổ chức tư vấn thực hiện công tác khảo sát, thiết kế công trình, soạn thảo hồ sơ mời thầu, tổ chức đấu thầu hoặc chỉ định thầu. Sau khi chủ đầu tư ký hợp đồng với nhà thầu xây lắp, nhiệm vụ giám sát, quản lý thi công bảo đảm tiến độ và chất lượng công trình vẫn do tổ chức tư vấn đã lựa chọn đảm nhận. Chủ nhiệm điều hành dự án: Chủ đầu tư tổ chức tuyển chọn và trình cấp thẩm quyền quyết định tổ chức tư vấn thay mình làm chủ nhiệm điều hành dự án chịu trách nhiệm giao dịch, ký kết hợp đồng với các tổ chức khảo sát thiết kế, cung ứng vật tư, thiết bị xây lắp để thực hiện các nhiệm vụ của quá trình thực hiện dự án đồng thời chịu trách nhiệm giám sát quản lý toàn bộ quá trình thực hiện dự án. Hình thức chủ nhiệm điều hành dự án chỉ được áp dụng đối với các dự án có qui mô lớn, kỹ thuật phức tạp và thời hạn xây dựng dài. Chìa khoá trao tay: Chủ đầu tư tổ chức thực hiện đấu thầu dự án để chọn một nhà thầu (tổng thầu xây dựng) thực hiện toàn bộ khâu: thiết kế, mua vật tư thiết bị, xây lắp… Chủ đầu tư chỉ trình duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, nghiệm thu và bàn giao khu dự án hoàn thành đưa vào sử dụng. Tổng thầu xây dựng có thể giao thầu lại việc giám sát, thiết kế , mua sắm máy móc hoặc một phần khối lượng công tác xây lắp cho nhà thầu phụ. Hình thức này áp dụng trong việc xây dựng các công trình nhà ở, công trình dân dụng và công trình sản xuất- kinh doanh có qui mô nhỏ, kỹ thuật đơn giản. Tự làm: Chủ đầu tư sử dụng lực lượng được phép hành nghề xây dựng của mình để thực hiện khối lượng xây lắp tự làm. Hình thức này chỉ áp dụng với những công trình sửa chữa, cải tạo qui mô nhỏ, công trình chuyên ngành đặc biệt (xây dựng nông, lâm nghiệp và các công trình tự đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của các doanh nghiệp xây dựng). 2. Hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. 2.1. Hiệu quả tài chính. 2.1.1. Khái niệm. Hiệu quả tài chính (Etc) của hoạt động đầu tư là mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời sống của người lao động trong cơ sở các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ trên số vốn đầu tư mà cơ sở đã sử dụng so với các kỳ khác, các cơ sở khác hoặc so với định mức chung. Chúng ra có thể biểu diễn khái niệm này qua công thức sau đây: Etc được coi là có hiệu quả khi Etc > Etc0 Trong đó: Etc0 là chỉ tiêu hiệu quả tài chính định mức, hoặc của kỳ khác mà cơ sở đã đạt được được chọn làm kết quả so sánh, hoặc của đơn vị khác đạt tiêu chuẩn hiệu quả. Do đó, để phản ánh hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư người ta phải sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh của hiệu quả và được sử dụng trong điều kiện nhất định. Trong đó, chỉ tiêu biểu hiện bằng tiền được sử dụng rộng rãi nhất. 2.1.2. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư. Thời gian thu hồi vốn đầu tư (ký hiệu T): là số thời gian cần thiết để dự án hoạt động thu hồi đủ số vốn đầu tư đã bỏ ra. Nó chính là khoảng thời gian để hoàn trả vốn đầu tư ban đầu bằng các khoản lợi nhuận hoặc tổng lợi nhuận thuần khấu hao thu hồi hàng năm. Trong khi xây dựng dự án, người ta thường sử dụng hai khái niệm thời gian thu hồi vốn, đó là thời gian thu hồi vốn đơn và thời gian thu hồi vốn động. Thời gian thu hồi vốn đơn là thời gian thu hồi vốn không tính đến giá trị của tiền theo thời gian. Còn thời gian thu hồi vốn động co tính đến yếu tố này, vì thế phải chuyển các dòng lợi nhuận , khấu hao và vốn đầu tư về cùng một thời điểm nào đó, sau đó lấy vốn đầu tư trừ dần cho lợi nhuận và khấu hao. Trừ đến khi nào hết vốn đầu tư thì khi đó chính là thời gian thu hồi vốn động. Chỉ tiêu này giúp chúng ta nhìn rõ thời gian thu hồi vốn của một dự án, từ đó có giải pháp rút ngắn thời gian đó. Nhưng nó cũng có nhược điểm là phụ thuộc nhiều vào lãi suất tính toán và dễ gây ngộ nhận phải chọn phương án có T nhỏ nhất, bỏ qua phương án có NPV cao. Giá trị hiện tại ròng (kí hiệu NPV): là thu nhập thuần của dự án sau khi đã trừ đi các khoản chi phí của cả đời dự án được tính về mặt bằng hiện tại. Nó cho biết quy mô tiền lãi thu được của cả đời dự án, nhưng nó cũng phụ thuộc nhiều vào tỷ lệ chiết khấu dùng để tính toán trong khi việc xác định tỷ lệ chiết khấu là rất khó khăn trong thị trường vốn đầy biến động. Sử dụng chỉ tiêu này đòi hỏi xác định rõ ràng dòng thu và dòng chi của cả đời dự án, đây là công việc khó khăn, không phải lúc nào cũng dự kiến đúng được. Hơn nữa, chỉ tiêu này chưa nói lên hiệu quả sử dụng một đồng vốn. Suất thu hồi vốn nội bộ (Kí hiệu IRR): là mức lãi suất nếu dùng nó làm hệ số chiết khấu để tính chuyển các khoản thu, chi của dự án về mặt bằng hiện tại thì tổng thu sẽ cân bằng với tổng chi. IRR cho biết tỉ lệ lãi vay tối đa mà dự án có thể chịu đựng được, nếu vay với lãi suất lớn hơn IRR thì dự án sẽ bị thua lỗ. Khác với các chỉ tiêu khác, chỉ tiêu IRR không có một công thức toán học nào cho phép tính toán trực tiếp, trong thực tế IRR được tính theo phương pháp nội suy, tức là xác định một phương án gần đúng. Nó có nhược điểm lớn là tốn nhiều thời gian và nếu dự án có vốn đầu tư bổ sung lớn, NPV đổi dấu nhiều lần thì sẽ khó xác định được IRR. Chỉ tiêu tỷ số lợi ích – chi phí (kí hiệu B/C): được xác định bằng tỷ số giữa lợi ích và chi phí. Chỉ tiêu này có thể được tính về thời điểm hiện tại hoặc tương lai. Việc quy về thời điểm tương lai để tính chỉ tiêu này ít được sử dụng. Chỉ tiêu này ít được sử dụng hơn chỉ tiêu NPV, thường được sử dụng để phân tích trong các dự án công cộng. Chỉ tiêu này có ưu điểm nổi bật là xác định được hiệu quả của một đồng vốn bỏ ra, nhưng nó cũng phụ thuộc vào tỷ lệ chiết khấu lựa chọn để tính toán. Trên đây là một số chỉ tiêu quan trọng nhất được dùng để đánh giá một dự án, mỗi chỉ tiêu đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng, vì vậy khi đánh giá chúng ta phải kết hợp tất cả các chỉ tiêu để có thể đánh giá một cách chính xác nhất. Bảng 1: Các chỉ tiêu phân tích tài chính của dự án đầu tư. Tên chỉ tiêu Công thức tính Giải thích kí hiệu Nguyên tắc chọn Thời hạn thu hồi vốn đầu tư Tth = V/(P+KHCB) Rt: suất thu hồi ròng tại năm t. Ct: vốn đầu tư tại năm t. i: lãi suất chiết khấu. t: năm thứ t. T: thời gian hoàn vốn nội bộ. Thời gian thu hồi vốn nhỏ nhất Giá trị hiện tại ròng NPV NPV = (Bt – Ct)/(1+i)t Bt: doanh thu năm t. Ct: chi phí bỏ ra ở năm t. i: lãi suất chiết khấu. t: năm thứ t. n: tuổi thọ dự án. - NPV>0: dự án có lời, có thể đầu tư. - NPV=0: dự án chỉ hoà vốn. - NPV<0: dự án bị lỗ. Suất thu hồi vốn nội bộ IRR IRR là lãi suất chiết khấu mà ứng với nó giá trị hiện tại ròng NPV = 0 NPV = (Bt – Ct)/(1+IRR)t = 0 r: suất thu lợi nhuận tối thiểu Một phương án được coi là có hiệu quả khi IRR ≥ r Tỷ số lợi ích trên chi phí (B/C) B/C>1: thu nhập lớn hơn chi phí. B/C=1: thu nhập vừa đủ bù chi phí. B/c<1: dự án bị lỗ (Nguồn: T.s Từ Quang Phương, 2001,NXB Giáo dục, Quản lý dự án). 2.2. Hiệu quả kinh tế xã hội. 2.2.1. Khái niệm. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có hoạt động đầu tư phải đựơc xem xét từ hai góc độ, người đầu tư và nhà kinh tế. Trên góc độ người đầu tư là các doanh nghiệp, mục đích cụ thể có nhiều, nhưng quy tụ lại là lợi nhuận. Khả năng sinh lợi của dự án là thước đo chủ yếu quyết định sự chấp nhận một việc làm mạo hiểm của nhà đầu tư. Khả năng sinh lời càng cao thì càng hấp dẫn nhà đầu tư. Tuy nhiên không phải mọi hoạt động đầu tư có khả năng sinh lời đều tạo ra những ảnh hưởng tốt đẹp đối với nền kinh tế và xã hội. Do đó, trên góc độ quản lý vĩ mô phải xem xét mặt kinh tế - xã hội của đầu tư, xem xét những lợi ích kinh tế- xã hội do thực hiện đầu tư đem lai. Điều này giữ vai trò quyết định để được các cấp có thẩm quyền chấp nhận cho phép đầu tư, các định chế tài chính quốc tế, các cơ quan viện trợ song phương và đa phương tài trợ cho hoạt động đầu tư. Vậy hiệu quả kinh tế- xã hội của đầu tư là chênh lệch giữa các lợi ích mà nền kinh tế- xã hội thu được so với các đóng góp mà nền kinh tế và xã hội phải bỏ ra để thực hiện đầu tư. Những lợi ích mà xã hội thu được là sự đáp ứng của đầu tư với việc thực hiện các mục tiêu chung của xã hội, của nền kinh tế. Những sự đáp ứng này có thể được xem xét mang tính chất định tính như đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế, phục vụ việc thực hiện các chủ trương chính sách của nhà nước, góp phần chống ô nhiễm môi trường, cải tạo môi sinh…, hoặc đo lường bằng các tính toán định lượng như mức tăng thu cho ngân sách, mức tăng số người có việc làm… Chi phí của xã hội phải gánh chịu khi một công cuộc đầu tư được thực hiện bao gồm toàn bộ các tài nguyên thiên nhiên, của cải vật chất, sức lao động mà xã hội dành cho đầu tư thay vì sử dụng vào công việc khác trong tương lai không xa. 2.2.2. Sự cần thiết phải đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội. Trước hết, chúng ta cần phải thấy rõ rằng mục đích chính của mọi dự án nói chung và dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nói riêng đều nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người. Con người là trung tâm của sự phát triển và phát triển là cho tất cả mọi người. Đảm bảo sự bình đẳng về cơ hội tham gia và hưởng thụ lợi ích của tất cả các dự án là điều kiện cần thiết để đảm bảo sự hài hòa xã hội, ổn định chính trị cũng như thu hút tất cả các thành viên trong xã hội tham gia đóng góp sức lực cho sự phát triển đó. Ngoài ra, những gì thu được từ việc đầu tư cho người nghèo và phụ nữ thường tương đương, thậm chí vựot xa những gì thu được từ việc đầu tư các cơ sở vật chất hữu hình. Hiện nay hầu hết các nhà kinh tế đều nhất trí cho rằng đầu tư phát triển nguồn vốn con người có tỷ số lợi tức rất cao. Con người được đào tạo tốt, có kỹ năng và có động cơ tích cực là nguồn tài sản vô giá của mỗi quốc gia, và là yếu tố quan trọng nhất đảm bảo sự bền vững của mọi quá trình phát triển. 2.2.3. Các tiêu chuẩn đánh giá. Đối với mọi quốc gia, mục tiêu chủ yếu của nền sản xuất xã hội là tối đa hoá phúc lợi. Mục tiêu này thường được thể hiện qua các chủ trương chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của mỗi nước. Các kế hoạch dài hạn để ra phương hướng chỉ đạo, mục tiêu chiến lược trong thời gian dài (từ 10 năm trở lên). Các kế hoạch trung hạn nêu lên các bước đi tương đối cụ thể trong thời gian từ 5 đến 10 năm. Các kế hoạch hay chương trình kinh tế ngắn hạn được đưa ra nhằm điều chỉnh kịp thời các sai lệch cũng như bổ sung các khiếm khuyết phát hiện trong quá trình thực hiện kế hoạch. Ở các nước đang phát triển, các mục tiêu chủ yếu được đề cập trong kế hoạch phát triển dài hạn được đo lường bằng các tiêu chuẩn sau: Gia tăng số lao động có việc làm: Đây là một trong những mục tiêu chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của các nước thừa lao động, thiếu việc làm. Nâng cao mức sống dân cư: Được thể hiện gián tiếp thông qua các số liệu cụ thể về mức gia tăng sản phẩm quốc gia, mức gia tăng thu nhập, tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Phân phối thu nhập và công bằng xã hội: Thể hiện qua sự đóng góp của công cuộc đầu tư vào việc phát triển các vùng kinh tế kém phát triển và đẩy mạnh công bằng xã hôi. Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ: Những nước đang phát triển không chỉ nghèo mà còn là nước nhập siêu. Do đó đẩy mạnh suất khẩu, hạn chế nhập khẩu là những mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế tại các quốc gia này. Các mục tiêu kế hoạch kinh tế quốc dân khác bao gồm: Tận dụng hay khai thác tài nguyên chưa được quan tâm hay mới phát hiện được. Nâng cao năng suất lao động, đào tạo lao động có trình độ tay nghề cao, tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật để hoàn thiện cơ cấu sản xuất của nền kinh tế. Phát triển các nghành công nghiệp chủ đạo có tác dụng gây phản ứng dây chuyền thúc đẩy phát triển các nghành nghề khác. Phát triển kinh tế- xã hội ở các địa phương nghèo, các vùng xa xôi, dân cư thưa thớt nhưng có nhiều triển vọng về tài nguyên để phát triển kinh tế. CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG KHU ĐÔ THỊ MỚI ĐỒNG VĂN TỈNH HÀ NAM. I. Tổng quan về công ty cổ phần hỗ trợ phát triển công nghệ DETECH và dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu đô thị mới Đồng Văn tỉnh Hà Nam. 1. Giới thiệu công ty. 1.1. Một số thông tin chung về công ty. Tên công ty: Công ty cổ phần Hỗ trợ và Phát triển công nghệ - DETECH Tên giao dịch: TECHNOLOGY DEVELOPMENT SUPPORTING JOINT STOCK COMPANY Tên viết tắt: DETECH JSC Trụ sở chính của công ty: 47 Hòa Mã, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội Số điện thoại: 04. 9781922 - 04.9761731 Số fax: 04.8212721 – 04.9781924 Mạng lưới kinh doanh hay ngành nghề kinh doanh của xí nghiệp: + Thiết kế sản xuất phụ tùng, lắp ráp và kinh doanh ô tô và xe gắn máy. + Đại diện sở hữu trí tuệ. + Xuất nhập khẩu vật tư máy móc, thiết bị, phụ tùng, phương tiện giao thông vận tải và các mặt hàng tiêu dùng, nhu cầu yếu phẩm phục vụ đời sống nhân dân. + Tiến hành các hoạt động khoa học công nghệ: xử lý nước và môi trường, thiết kế chế tạo phương tiện thủy trong đó có tầu thủy cao tốc và các dịch vụ khoa học công nghệ khác. + Sản xuất và kinh doanh các thiết bị điện, điện dân dụng , điện lạnh, điện tử, máy phát thanh truyền hình và máy tính điện tử. + Gia công, chế tác và kinh doanh vàng bạc đá quý. + Thiết kế tổng mặt bằng, kiến trúc nội, ngoại thất: đối với công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp; thiết kế quy hoạch đô thị, khu công nghiệp. + Xây dựng các công trình dân dụng, công nghiệp và đầu tư xây dựng khu công nghiệp, công nghệ cao. + Kinh doanh nhà và bất động sản. + Đào tạo ( tiếng và nghề) cho người lao động đi lao động nước ngoài. + Thực hiện các dịch vụ cho thuê nhà, xưởng, kho tàng. + Kinh doanh, lắp đặt, sửa chữa, bảo trì các hệ thống tự điều chỉnh cơ khí, điện, điện tử; thiết bị nâng vận chuyển; phòng chống cháy nổ. + Đại lý kinh doanh thiết bị và các dịch vụ bưu chính viễn thông; công nghệ thông tin cho các công trình dân dụng và công nghiệp. + Xây lắp đường dây và trạm biến áp đến 35KV Ngoài trụ sở chính công ty còn có các chi nhánh và các trung tâm và văn phòng đặt ở nhiều nơi: + Chi nhánh công ty DETECH tại TP Hồ Chí Minh + Chi nhánh công ty DETECH tại tỉnh Cao Bằng + Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên – Nhà máy chế tạo phụ tùng ôtô, xe máy – DETECH + Trung tâm đầu tư và triển khai dự án + Văn phòng sở hữu trí tuệ + Trung tâm tự động hoá và kỹ thuật tin học + Khu nhà xưởng Mỹ Đình 1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty cổ phần hỗ trợ và phát triển công nghệ DETECH. Công ty cổ phần hỗ trợ và phát triển Công nghệ DETECH trước mang tên là Công ty hỗ trợ và phát triển công nghệ DETECH, được thành lập theo quyết định số 86/ VKH- QD ngày 11/02/1991 của Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam nay là Viện Khoa học và công nghệ Việt Nam. Sau hơn 10 năm hoạt động và phát triển Công ty đã đạt được thành tựu nhất định. Đến giai đoạn từ năm 2002 trở lại đây: Căn cứ vào Nghị định số 24/CP ngày 22/05/1993 của Chính phủ về việc thành lập Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ Quốc gia. Căn cứ Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29/06/1998 của Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần và các văn bản hướng dẫn thực hiện. Căn cứ quyết định số 880/QĐ- KHCNQG ngày 4/7/2002 của Trung tâm Khoa học tự nhiên về việc phê duyệt phương án chuyển Công ty Hỗ trợ và Phát triển công nghệ DETECH thành Công ty cổ phần Hỗ trợ và phát trỉển công nghệ DETECH. Xét đề nghị của giám đốc Công ty Hỗ trợ và Phát triển công nghệ DETECH( công văn số 422/CV ngày 10/10/2002), Trưởng ban kế hoạch- tài chính, Trưởng ban tổ chức- cán bộ. Ngày 22/10/2002 Công ty đã được giám đốc Trung tâm Khoa học tự nhiên quốc gia ra quyết định số 1459/2002/ QĐ- KHCNQG phê duyệt phương án cổ phần hóa Công ty Hỗ trợ và Phát triển công nghệ DETECH với số vốn là 10 tỷ đồng và gia quyết định thành lập. Từ ngày 22/10/2002 công ty mang tên là Công ty cổ phần Hỗ trợ và Phát triển công nghệ DETECH, công ty hoạt động theo Luật Doanh Nghiệp và các quy định khác của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1.3. Chức năng và nhiệm vụ của công ty. 1.3.1. Chức năng. Chức năng chính của công ty là kinh doanh. Công ty kinh doanh trên nhiều lĩnh vực như: thiết kế sản xuất, tư vấn pháp lý, các hoạt động khoa học công nghệ… Chủ động trong sản xuất kinh doanh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng lên của người dân. Nâng cao khả năng thoả mãn nhu cầu của khách hàng, chủ động tìm kiếm thị trường và khách hàng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng thị phần và phát triển công ty. Giải quyết tốt các mối quan hệ trong nội bộ công ty, quan hệ giữa các phòng ban, các đơn vị,chi nhánh của công ty, cả quan hệ với các doanh nghiệp khác bên ngoài để công ty ngày một phát triển hơn. 1.3.2. Nhiệm vụ. Hoạt động kinh doanh đúng ngành nghề đã đăng ký Đảm bảo chất lượng sản phẩm hàn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36656.doc