Tài liệu Đánh giá hiện trạng hoạt động của các trang trại và đề xuất mô hình ttrang trại sinh thái tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai: ... Ebook Đánh giá hiện trạng hoạt động của các trang trại và đề xuất mô hình ttrang trại sinh thái tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2089 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Đánh giá hiện trạng hoạt động của các trang trại và đề xuất mô hình ttrang trại sinh thái tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
Đặt vấn đề
Từ xa xưa, con người đã biết làm nông nghiệp để phục vụ cho đời sống sinh hoạt của gia đình. Xã hội ngày càng phát triển, làm nông nghiệp không chỉ phục vụ cho lợi ích cá nhân, mà sản phẩm nông nghiệp còn trở thành một hàng hoá trao đổi trong đời sống. Quy mô sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển, nó không ngừng ở quy mô hộ gia đình mà còn phát triển thành một quy mô lớn hơn đó là hình thức sản xuất kinh tế trang trại, cung cấp một lượng lớn hàng hoá cho xã hội.
Trang trại ngày càng phát triển, những vấn đề phát sinh càng lớn như: Chất thải trong chăn nuôi (chất thải rắn, mùi hôi hôi phát sinh…) đây là một trong những nguyên nhân lớn gây ô nhiễm môi trường, việc lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, thuốc trừ sâu nhằm tăng năng suất cây trồng, nhưng ngược lại gây ảnh hưởng không nhỏ đến sức khoẻ con người về việc nông sản bị nhiễm độc từ việc sử dụng quá mức các thành phần trên, và làm ô nhiễm môi sinh.
Nông nghiệp ngày càng phát triển cùng với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật như là tạo ra những ưu thế lai, những nguồn gen tốt. Do đó, đứng trước những vấn đề nan giải trên đòi hỏi phải có một nền nông nghiệp phát triển bền vững tạo ra các sản phẩm nông sản sạch đem lại hiệu quả kinh tế, mà còn đảm bảo về mặt môi trường và sức khoẻ con người.
Dựa vào những yếu tố trên, tôi đã chọn tên đề tài đồ án tốt nghiệp là: “Đánh giá hiện trạng hoạt động của các trang trại và đề xuất mô hình trang trại sinh thái tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai” nhằm vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế và góp phần cải thiện chất lượng môi trường cho các trang trại ở Việt Nam trong quá trình cạnh tranh với các sản phẩm ngoại nhập và tăng cường tính cạnh tranh trong xuất khẩu.
Tính cấp thiết của đề tài
- Theo Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP của Chính phủ ngày 2 tháng 2 năm 2000: “Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thủy sản”
- Quyết định số 53/2003/QĐ – BNN về việc ban hành các danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng ở Việt Nam. Tuy có những lọai thuốc bảo vệ thực vật bị cấm sử dụng, nhưng vì những lợi ích cá nhân, người ta vẫn sử dụng và làm nguy hại đến sức khỏe con người. Do đó, cần phải có những biện pháp ngăn chặn tích cực để tạo ra những sản phẩm tốt.
- Những vấn đề về an toàn thực phẩm đang được chú trọng, mức sống người dân ngày càng cao, họ càng quan tâm đến sức khoẻ của mình. Những vấn đề về nông sản bị nhiễm độc đang là mối lo lắng cho người tiêu dùng, đòi hỏi phải có một nguồn nông sản sạch cung cấp cho người dân.
- Vấn đề về môi trường càng được chú trọng, người dân hiện nay có xu hướng mua hàng hoá có nhãn sinh thái thân thiện với môi trường.
- Mô hình trang trại hiện nay không chỉ hướng đến lợi ích kinh tế, mà còn phải đảm bảo về mặt cân bằng sinh thái và bảo vệ môi trường. Nhiệm vụ của đồ án tốt nghiệp này là xây dựng một mô hình trang trại sinh thái, đã thoả mãn được nhu cầu thành lập trang trại hiện nay không chỉ hường đến lợi ích kinh tế mà còn thân thiện với môi trường.
Mục tiêu và đối tượng nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu
- Nhằm đánh giá hiện trạng môi trường phát sinh ra trong quá trình sản xuất ở các trang trại của Huyện.
- Hướng tới một nền nông ngiệp bền vững thân thiện với môi sinh là xây dựng nên mô hình trang trại sinh thái.
Đối tượng
Các trang trại đang hoạt động ở điạ bàn Huyện. Từ đây nếu có khả quan, sẽ nhân rộng mô hình ở các tỉnh thành khác trong cả nước.
Tình hình nghiên cứu trong nước và thế giới
Trong nước
Việt Nam từ lâu đã biết đến mô hình “nuôi trồng sinh thái” mà ta quen gọi là “mô hình VAC” (Vườn – Ao –Chuồng). Mô hình này là mô hình tiền thân của trang trại sinh thái.
- Về cơ bản, mô hình VAC và mô hình trang trại sinh thái đều có các tiêu chí như không dùng phân tổng hợp, hoá chất/thuốc, và dựa trên các nền vật chất hữu cơ như phân gia súc, phụ phẩm nông nghiệp luân canh, kết hợp nuôi bằng thức ăn tự nhiên…
- Vào cuối năm 1995, một nhà khoa học người Anh – tiến sĩ Thomas R. Preston đã dưa ra sáng kiến thành lập trang trại sinh thái nhiệt đới ở Việt Nam. Nội dụng của sáng kiến này là thành lập một trang trại mà nơi đó mọi chất thải đều đựơc tái sử dụng, các chu trình sản xuất khép kín, giảm thiểu đầu ra ô nhiễm một cách tối đa, giải quyết được các vấn đề về môi trường như phân gia súc, nước thải trong chăn nuôi., tiết kiệm chi phí: thực ăn, phân bón cho đầu vào ở trang trại. Sáng kiến này giúp cho nguời chủ trang trại không những về lợi ích kinh tế mà còn cả về mặt môi trường.
- Vào cuối năm 1996, ý tưởng bắt đầu đi vào xây dựng và được gọi là “Trang Trại Sinh Thái – ECOFARM”. Nhưng sau đó, kế hoạch dời địa đểm sang Campuchia vào tháng 7 năm 1999.
- Và hiện nay, ở Việt Nam có rất ít mộ hình trang trại sinh thái đúng chuẩn mực.
Thế giới
- Từ những năm 1980, mô hình trang trại sinh thái đã được áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới như Hà Lan, Mỹ, Costa Rica, Pháp, Đức..
- Từ sau những khủng hoảng về bệnh bò điên, chất độc đioxin, bệnh lỡ mồm long móng và bệnh của lợn do virus gây ra cũng như mối quan tâm về cây trồng biến đổi gen (GMO), Châu Âu đã chú trọng hơn trong việc nuôi trồng sinh thái từ hơn một thập kỉ nay.
- Trên thế giới hiện nay đang có một xu huớng chung là dùng các sản phẩm thân thiện với môi trường, có dán nhãn sinh thái. Do vậy, việc xây dựng một trang trại theo hướng sinh thái là một nhu cầu tất yếu hiện nay trên thế giới không chỉ riêng Việt Nam.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Đây là cơ sở giúp cho địa phương thực thi các giải pháp về môi trường cho các trang trại.
- Góp phần thúc đầy một nền nông nghiệp phát triển bền vững, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
- Giải quyết các vấn đề nóng bỏng trong sản xuất nông ngiệp như tác hại của phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật đến sức khoẻ của người tiêu dùng
Phương pháp luận
Đất nước chúng ta hiện nay phát triển vẫn dựa vào nông nghiệp là chính, đây là nền kinh tế truyền thống của nước ta ngoài trồng lúa nước, hoa màu, ngũ cốc, còn chăn nuôi gia súc, gia cầm…Quá trình nuôi trồng và sau khi thu họach phát sinh ra một lượng chất thải khá lớn (phân gia súc, gia cầm, thân cây, lá cây), trong đó chứa một hàm lượng chất hữu cơ cao, có thể dùng làm chất đốt, phân bón cho cây trồng để tiết kiệm một phần chi phí cho sản xuất.
Mô hình kinh tế trang trại là một hoạt động kinh tế chủ lực của huyện Trảng Bom hiện nay. Mô hình này càng được nhân rộng và phát triển, thì những vấn đề phát sinh như lương chất thải quá lớn không có biện pháp xử lý , việc sử dụng quá mức phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu sẽ là những rào cản lớn cho sản phẩm của trang trại gia nhập vào thị trường, và tiến xa hơn nữa là xuất khẩu ra nước ngoài. Cho nên việc xây dựng và quy họach trang trại hiện tại theo hướng trang trại sinh thái là rất cần thiết.
Mô hình trang trại sinh thái: cung cấp một lượng hàng hoá nông sản cho thị trường, đảm bảo một lợi nhuận vững chắc, luôn thiếp thu những giải pháp khoa học kỹ thuật mới, để giải quyết các vần đề môi trường trong chăn nuôi. Chu trình khép kín trong trang trại sinh thái tiết kiệm chi phí đầu vào (thức ăn, phân bón ) cho sản xuất.
Tuy nhiên, bên cạnh hướng quy hoạch và xây dựng trang trại hiện tại theo hướng sinh thái thì vẫn có nhiểu hướng khác, nhưng ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh tới quan điểm của đề tài này là thân thiện với thiên nhiên, chú trọng đến sức khỏe người tiêu dùng nhưng cũng không quên tới lợi ích kinh tế của nhà sản xuất.
Để thực hiện đồ án này, trước tiên phải xem xét đến hiện trạng môi trường , kinh nghiệm của các hộ dân đã thành công, kinh nghiệm của các trang trại trên thế giới. Để làm được điều này, tôi đã tiến hành điều tra thực địa và tìm kiếm các thông tin về mô hình trang trại sinh thái của châu Âu,vấn đề của trang trại đang gặp phải, để từ đó đề xuất một mô hình trang trại sinh thái thích hợp cho địa phương.
Nội dung nghiên cứu
Biên hội và tổng hợp tài liệu
Thu thập tài liệu về vị trí địa lý, tình hình kinh tế xã hội, điều kiện tự nhiên, các số liệu hiện trạng môi trường (quan trắc môi trường).
Hiện trạng hoạt động kinh tế và xã hội của huyện
Tham khảo các tài liệu, tạp chí và các đề tài nghiên cứu đã thực hiện.
Tổng hợp đánh giá tài liệu đã có, xây dựng kế hoạch nghiên cứu tiếp theo
Khảo sát, điều tra hiện trạng môi trường và công tác QLMT ở các trang trại
Xây dựng phiếu điều tra và lập kế hoạch điều tra về hiện trạng môi trường và tình hình QLMT.
Xây dựng nội dung và biểu mẫu cho phiếu điều tra và thống kê
Trong quá trình điều tra kết hợp phương pháp quan sát để đánh giá nhanh và có kết quả khách quan hơn
Thống kê số liệu và xử lý kết quả
Xử lý số liệu điều tra và đánh giá hiện trạng dựa vào điều tra
Dùng phương pháp ma trận đánh giá hiện trạng môi trường và tình hình QLMT
Lập bảng ma trận đánh giá hiện trạng môi trường nhằm phân tích tình trạng môi trường ở các trang trại.
Đề xuất xây dựng mô hình trang trại sinh thái thích hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Huyện Trảng Bom.
Đề xuất công tác đánh giá vòng đời sản phẩm LCA cho nông sản sản xuất từ trang trại sinh thái
Giới hạn của đề tài
Do thời gian hạn hẹp, nên đồ án tốt ngiệp này chỉ đưa ra mô hình xây dựng trang trại sinh thái mà chưa có thể áp dụng vào một trang trại điển hình.
Phương hướng phát triển của đề tài
- Mô hình trang trại sinh thái đuợc hình thành, ta có thể tiến xa hơn đến một loại hình khác đó là du lịch sinh thái.
- Việc thành lập trang trại sinh thái cùng với công tác đánh giá vòng đời sản phẩm LCA, đây có thể là bước đầu tiên trong quá trình đưa sản phẩm trang trại có một chỗ đứng trong thị trường đảm bảo về chất lượng sản phẩm mà không tác động đến môi trường (sản phẩm xanh – sản phẩm thân thiện với môi trường).
CHƯƠNG 2: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI HUYỆN TRẢNG BOM,
TỈNH ĐỒNG NAI
2.1 Điều kiện tự nhiên
2.1.1 Vị trí địa lý: diện tích tự nhiên
Huyện Trảng Bom là một huyện trung du, phía Nam giáp huyện Long Thành, phía Đông giáp huyện Thống Nhất, phía Tây giáp thành phố Biên Hoà, phía Bắc giáp huyện Vĩnh Cữu.
- Tổng diện tích tự nhiên là 326.14 km2, chiếm 5.54% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh
Hình 1: Bản đồ địa lý của huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai
2.1.2 Điều kiện tự nhiên
2.1.2.1 Địa hình – thổ nhưỡng
- Huyện Trảng Bom mang đặc trưng của địa hình trung du, độ dốc phổ biến 3-150, chủ yếu bao gồm những dãy đồi thoải lượn có độ cao trung bình 86-105 cm và những đồng bằng cục bộ.
- Đất nông nghiệp có bốn loại chính, trong đó phần lớn là đất đỏ Bazan và đất phù sa cổ thích hợp cho vùng chuyên canh: cà phê, tiêu, điều, bắp , mì và các loại cây ăn trái đặc sản. Còn lại là đất cát và đất xám bạc màu thích hợp cho xây dựng trang trại chăn nuôi có qui mô lớn.
2.1.2.2 Khí hậu – Thời tiết
Khí hậu cận nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, có hai mùa tương phản nhau (mùa khô và mùa mưa). Nhiệt độ cao quanh năm là điều kiện cho phát triển cây trồng nhiệt đới, đặc biệt là cây công nghiệp có giá trị xuất khẩu cao. Nhiệt độ bình quân năm là 25-260C chênh lệch nhiệt độ cao nhất giữa tháng nóng nhất và lạnh nhất là 4.20C ; số giờ nắng trung bình từ 5-9, 6-8 giờ/ngày. Lượng mưa tương đối lớn và phân bố theo vùng và theo vụ. Lượng mưa tương đối lớn khoảng 2155.9 mm.
2.1.3 T ài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên khoáng sản có Puzlan làm nguyên liệu phụ gia xi măng, trữ lượng 20 triệu tấn, một số mỏ đá quý, mỏ đá Bazan, than bùn, cuội sỏi làm nguyên liệu chế biến phân bón và vật liệu xây dựng
Ưu thế về đặc thù tự nhiên là nhân tố quan trọng trong đinh hướng phát triển các loại cây lâu năm, cây ngắn ngày và cây lương thực như: cao su, cà phê, tiêu, cây ăn quả, điều, chôm chôm, sầu riêng, ngô, mía, bông và các loại đỗ, lúa nước.
2.2 Tình hình hoạt động kinh tế xã hội
2.2.1 Kinh tế
2.2.1.1 Nông – Lâm nghiệp – Thủy sản
- Diện tích đất nông nghiệp là 27.142 ha theo thống kê năm 2005.
- Giá trị sản xuất nông nghiệp chiếm 18.5% cơ cấu sản phẩm quốc nội, đạt 610.425 triệu đồng
Bảng 1: Bảng thống kê sử dụng đất trong nông nghiệp năm 2005
ĐẤT
DIỆN TÍCH (đơn vị: ha)
Đất sản xuất nông nghiệp
Đất trồng cây hàng năm
Đất trồng lúa
Đất cỏ dùng vào chăn nuôi
Đất trồng cây hàng năm khác
Đất trồng cây lâu năm
24.666
8.850
3.303
0
5.546
15.816
Đất lâm nghiệp
Đất rừng sản xuất
Đất rừng phòng hộ
Đất rừng đặc dụng
1.588
1.549
3
36
Đất nuôi trồng thủy sản
674
Đất làm muối
0
Đất nông nghiệp khác
215
Tổng cộng : 27.142 ha
(Nguồn Niên giám thống kê năm 2005)
Nhận xét : Diện tích đất nông nghiệp chiếm gần 84% diện tích đất tự nhiên toàn huyện. Đây chứng tỏ tiềm năng nông nghiệp của Huyện là rất lớn.
Bảng 2: Bảng thống kê giá trị sản xuất nông- lâm -thuỷ sản
CHỈ TIÊU
ĐƠN VỊ TÍNH
NĂM 2005
A.Giá trị sản xuất nông nghiệp
Triệu đồng
576.599
Phân theo ngành: 1. Trồng trọt
2. Chăn nuôi
3. Dịch vụ nông nghiệp
Triệu đồng
325.299
Triệu đồng
228.022
Triệu đồng
23.278
Phân theo thành phần kinh tế
1. Quốc doanh
2. Ngoài quốc danh
Triệu đồng
25.967
550.631
Diện tích giao trồng cây hàng năm
Trong đó: diện tích lúa
Ha
20.879
6.129
Tổng SL lương thực cây có hạt quy lúa
Tấn
57.935
Tổng diện tích cây lâu năm
Ha
13.917,3
Chăn nuôi
1. Tổng đàn heo
2. Tổng đàn trâu
3. Tổng đàn bò
4. Tổng đàn gia cầm
Con
204.634
304
4.270
1000 con
583,395
B. Giá trị sản xuất lâm nghiệp
Quốc Doanh
Ngoài Quốc doanh
Triệu đồng
8.231
C. Giá trị sản xuất thủy sản
Quốc Doanh
Ngoài Quốc Doanh
Triệu đồng
25.595
1. Đánh bắt
Triệu đồng
840
2. Nuôi trồng
Triệu đồng
24.755
(Nguồn Niên giám thống kê năm 2005)
Nhận xét: giá trị sản xuất nông nghiệp đóng góp đáng kể cho kinh tế của Huyện.
2.2.1.2 Công nghiệp
- Huyện hiện nay có ba khu công nghiệp : Sông Mây, Bàu Xéo, Hố Nai
- Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 1855430 triệu đồng , chiếm 59.5% tổng sản phẩm quốc nội
Bảng 3: Bảng thống kê cơ sở sản xuất công nghiệp, lao động
và giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005
CHỈ TIÊU
SỐ CƠ SỞ
SỐ LAO ĐỘNG (NGƯỜI)
GIÁ TRỊ SẢN XUẤT
(TRIỆU ĐỒNG)
I.Chia theo thành phần kinh tế
- Quốc doanh
- Ngoài quốc doanh
816
37.656
1.886.430
II.Chia ra cấp quản lý
- Tỉnh
- Huyện
- Liên doanh với nước ngoài
738
4.468
142.372
81
33.188
1.724.058
III.Chiatheo ngành cấp 2:
-Công nghiệp khai thác mỏ
-Chế biến lương thực-thực phẩm
-Dệt
-May
-Giày da
-Gỗ
-Giấy
-Hoá chất và sản phẩm từ hoá chất
-Cao su
-Chất khoáng phi kim loại
-Sản phẩm từ kim loại
-Sản xuất máy móc thiết bị điện
-Sản xuất Radio,Tivi, Thiết bị điện
-Sản xuất thiết bị vận tải
-Sản xuất sửa chữa phương tiện vận tải khác
-Sản xuất giường, tủ, bàn ghế
9
84
6.490
235
1.694
298.900
9
894
36.445
126
1.703
28.697
15
15.913
546.380
58
1.169
40.295
11
6.3
25.289
6
292
52.726
9
1.708
116.589
31
489
33.198
112
1.009
44.168
4
582
93.588
1
74
30.949
46
3.891
227.215
26
1.635
163.004
118
4.916
122.497
(Nguồn Niên giám thống kê năm 2005)
2.2.2 Xã hội
2.2.2.1 Dân số – tỉ lệ nam nữ
Trảng Bom là một huyện mới tách từ huyện Thống Nhất cũ, nên có rất nhiều sự đổi mới, có những xã diện tích tự nhiên lớn nhưng mất độ dân số không đông.
Bảng 4: Bảng thống kê dân số và mật độ dân số, tỉ lệ nam nữ
STT
ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH
SỐ ẤP
DIỆN TÍCH TỰ NHIÊN (KM2)
DÂN SỐ TRUNG BÌNH (NGƯỜI)
MẬT ĐỘ DÂN SỐ (NGƯỜI/KM2)
DÂN SỐ
NAM
NỮ
1
TT Trảng Bom
5
9,78
14.875
1.521
7492
7363
2
Xã Cây Gáo
4
17,05
9.993
583
5025
5066
3
Xã Thanh Bình
4
27,35
22.927
436
6034
6081
4
Xã Sông Trầu
8
43,13
12.498
290
6322
6378
5
Xã Đồi 61
4
25,71
7.232
281
3658
3688
6
Xã An Viễn
6
22,12
4.345
196
2918
2215
7
Xã Bàu Hàm
4
22,48
10.171
452
5144
5185
8
Xã Sông Thao
3
26,29
9.030
343
4567
4604
9
Xã Hưng Thịnh
3
17,06
7.864
461
3979
4010
10
Xã Đông Hòa
2
11,43
10.038
878
5087
5111
11
Xã Trung Hòa
2
15,11
10.306
628
5223
5246
12
Xã Tây Hòa
3
14,8
10.299
696
5219
5245
13
Xã Quảng Tiến
4
7,17
10.481
1.462
5289
5359
14
Xã Bình Minh
3
14,47
16.665
1.152
8411
8518
15
Xã Giang Điền
5
8,93
4.528
507
2285
2314
16
Xã Bắc Sơn
5
24,35
19.302
793
9745
9867
17
Xã Hố Nai 3
4
18,91
19.887
1.052
10042
10167
( Nguồn Niên giám thống kê năm 2005)
Nhận xét: là một huyện mới tách ra từ Huyện Thống Nhất,với một Huyện mới nên mật độ dân số chưa cao.Nhưng với những tiềm năng về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, Trảng Bom có tiềm năng phát triển kinh tế nông nghiệp rất lớn.
2.2.2.2 Lao động và phân bố lao động trong các ngành
Trảng Bom là Huyện lao động tập trung vào nông nghiệp là chính , số lao động tham gia vào công việc quản lý nhà nước và công ngiệp chiếm số ít.
Qua bảng cân đối lao động cho thấy lực lượng lao động của huyện chiếm hơn 50% dân số toàn huyện, đậy là một lực lượng lao động dồi dào, rất thích hợp cho một nền kinh tế đa năng cả nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
Bảng 5: Bảng cân đối lao động xã hội năm 2005
CHỈ TIÊU
NĂM 2005 (NGƯỜI)
I. Lao động trong độ tuổi toàn huyện
1. Số người trong độ tuổi lao động mà không có khả năng lao động
2. Số người trong độ tuổi lao động mà có khả năng lao động
103.112
1.758
101.354
II. Số người ngoài độ tuổi lao động mà tham gia lao động
2.144
III. Nguồn lao động
103.498
IV. Cân đối lao động
1. Lao động làm việc trong các ngàng KTQD
1.1 Trong tuổi lao động
1.2 Ngoài tuổi lao động
2. Số người trong tuổi lao động đang đi học
3. Số người trong tuổi lao động làm nội trợ
4. Số người trong độ tuổi lao động có việc tạm thời
5. Số người trong độ tuổi lao động chưa có việc làm
6. Số người trong độ tuổi lao động không có nhu cầu làm việc
82.145
80.096
2.049
6.125
9.231
1.258
4.105
634
( Nguồn Niên giám thống kê năm 2005)
Bảng 6: Lao động xã hội làm việc trong các ngành KTQD năm 2005
CHỈ TIÊU
NĂM 2005
A. Nông – lâm nghiệp
33.841
B. Thủy sản
398
C. Công nghiệp khai thác mỏ
168
D. Công nghiệp chế biến
23.610
E. Sản xuất phân phối điện
128
F. Xây dựng
4.112
G. Thương nghiệp sưả chữa
10.425
H. Khách sạn – nhà hàng
2.580
I. Vận tải kho bãi – TT liên lạc
2.144
J. Tài chính tín dụng
98
K. Hoạt động KH – CN
17
L. Các hoạt động liên quan
130
M . Quản lý nhà nước
675
N. Giáo dục – Đào tạo
1.868
O. Y tế và hoạt động cứu trợ
444
P. Hoạt động văn hoá thể thao
108
Q. Các hoạt động Đảng, đoàn thê’
285
T. Hoạt động cá nhân và cộng đồng
766
U. Hoạt động làm thuê
340
V. Hoạt động của các tổ chức
8
( Nguồn Niên giám thống kê năm 2005)
CHƯƠNG 3: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Định nghĩa trang trại – Trang trại sinh thái – Kinh tế trang trại
¶ Trang trại : là loại hình sản xuất nông ngiệp của hộ gia đình nông dân, hình thành và phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường từ phương thức sản xuất này thay thế phương thức sản xuất phong kiến. Trang trại được hình thành từ cơ sở các hộ tiểu nông sau khi phá bỏ cái vỏ bọc sản xuất tự cấp tự túc khép kín, vươn lên sản xuất nhiều nông sản hàng hoá tiếp cận với thị trường, từng bước thích nghi với nền kinh tế cạnh tranh.(PGS.PTS Lâm Quang Huyên)
Trang trại : là một dải đất dài hoặc mặt nước bất kỳ tạo nên bởi một hoặc nhiều khoảnh đất dùng đề trồng trọt và chăn nuôi dưới sự quản lý của chủ đất hoặc người thuê đất. Trang trại là một bộ phận của hệ thống lớn – đó là hệ thống nông nghiệp bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản… (PGS.TS Phạm Văn Côn – TS.Phạm Thị Hương)
¶ Trang trại sinh thái : là mô hình kinh tế trang trại theo định hướng sinh thái, sản xuất sản phẩm sạch bằng các quy trình sản xuất thân thiện với thiên nhiên. (GĐ dự án Nguyễn Vĩnh Thái)
Trang trại sinh thái đưa ra một cái nhìn mới về hệ thống lương thực của chúng ta nơi mà có thế củng cố đất trồng, bảo vệ không khí và nguồn nước, khuyến khích những hệ sinh thái và kinh tế khác nhau, và gìn giữ cuộc sống nông thôn trên tất cả các mặt của việc sản xuất ra lương thực tốt cho sức khoẻ. (Lượt dịch Internet)
¶ Kinh tế trang trại : hình thức sản xuất hàng hoá phổ biến trong nông nghiệp ở các nước phát triển và đang phát triển trên thế giới từ châu Âu, châu Mỹ đến châu Á và các châu lục khác. Bản thân kinh tế trang trại có nguồn gốc từ kinh tế hộ gia đình nông dân, được phát triển dần dần trong quá trình chuyển dịch của nền kinh tế tiểu nông tự cấp tự túc sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá quy mô lớn. Trong hoạt động kinh tế, trang trại chịu sự chi phối của nền kinh tế thị trường, tuân theo quy luật cung cầu và chấp nhận cạnh tranh.
Một số đặc điểm của kinh tế trang trại là:
Đây là dạng kinh tế hộ gia đình dựa trên đất, vốn, lao động để tạo ra khối lượng lớn hàng hóa.
Người nông dân có vốn và gia đình họ làm việc trong trang trại của mình.
Trang trại có quy mô lớn gắn chặt với kinh tế thị trường, có nhu cầu cao về công nghệ, đặc biệt là công nghệ chế biến, tiếp thị, năng suất và giảm giá thành. Trang trại cần phải trang bị phương tiện và công nghệ hiện đại.
Hiện nay nhiều dạng kinh tế trang trại cùng tồn tại, trong đó phổ biến nhất là kinh tế hộ nông dân.
3.2 Trang trại sinh thái theo hướng nông nghiệp bền vững
- Phát triển bền vững là cải thiện chất lượng cuộc sống con người đang sinh sống trong khả năng chịu đựng của hệ sinh thái duy trì cuộc sống đó.
- Nông ngiệp bền vững là một khái niệm được xây dựng và phát triển bởi hai tác giả người Uc là Bill Mollison và David Holmgren nhằm mục tiêu chống ô nhiễm đất, nước và không khí của trái đất do các hệ thống công nghiệp và nông nghiệp; chống mất mát các loài thực vật và động vật; chống suy giảm các tài nguyên thiên nhiên không thể tái sinh và chống các hệ thống kinh tế có tác động phá hoại…Nông nghiệp bền vững là một nền nông nghiệp duy trì cơ sở tài nguyên thiên nhiên, tiếp tục phát triển bằng cách nâng cao nhận thức, cải thiện tổ chức, hiệu năng kỹ thuật và công bằng xã hội.
- Nông nghiệp bền vững thường được gọi là sinh thái nông nghiệp. Nông nghiệp sinh thái bền vững là sản xuất dựa vào tài nguyên thiên nhiên; muốn sản xuất cho năng suất bền vững thì phái duy trì/ khôi phục các giá trị của tài nguyên ở mức ổn định. Nông nghiệp sinh thái bền vững là yêu cầu tất yếu của nền nông ngiệp mới nhân bản và thịnh vượng.
- Trang trại sinh thái theo hướng nông nghiệp bền vững thì cần phải tuân theo các tiêu chí sau:
Bảo vệ được môi trường, bảo vệ được cân bằng sinh thái.
Về mặt kinh tế đem lại hiệu quả lâu dài, không làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên.
Về mặt xã hội, không được tạo ra bất bình đẳng và sự phân hoá xã hội nông thôn.
3.3 Những đặc trưng cơ bản của trang trại, tiêu chí nhận dạng trang trại và thực trạng quy mô trang trại ở Việt Nam
3.3.1 Đặc trưng
Mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá với qui mô lớn.
Mức độ tập trung hoá và chuyên môn hoá các điều kiện và yếu tố sản xuất cao hơn hẳn (vượt trội) so với sản xuất của nông hộ, thể hiện ở qui mô sản xuất như: đất đai, đầu con gia súc, lao động, giá trị nông lâm thuỷ sản hàng hoá.
Chủ trang trại có kiến thức và kinh nghiệm trực tiếp điều hành sản xuất, biết áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất; sử dụng lao động gia đình và thuê lao động bên ngoài sản xuất hiệu quả cao, có thu nhập vượt trội so với kinh tế hộ.
3.3.2 T iêu chí
Thực hiện Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn – Tổng cục thống kê đã ra thông tư liên bộ số 69/2000/TTLB-BNN-TCTK quy định hướng dẫn tiêu chí về kinh tế trang trại, trong đó nêu rõ: một số hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản được xác định là trang trại phải đạt cả hai tiêu chí định lượng như sau :
Một là, giá trị sản lượng hàng hóa và giá trị bình quân một năm đạt từ 40 ttriệu đồng trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và ven biển miền Trung, từ 50 triệu đồng trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên.
Hai là, quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế hộ nông dân tương ứng với từng ngành sản xuất và từng vùng kinh tế.
Đối với trang trại trồng trọt: trang trại trồng cây hàng năm từ 2 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và ven biển miền Trung, từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên. Trang trại trồng cây lâu năm từ 3 ha trở lên với các tỉnh phía Bắc và ven biển miền Trung, từ 5 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên. Trang trại trồng hồ tiêu từ 0,5 ha trở lên.
Trang trại chăn nuôi: chăn nuôi gia súc lớn (trâu, bò), chăn nuôi sinh sản, để lấy sữa: thường xuyên có từ 10 con trở lên; để lấy thịt: thường xuyên có từ 50 con trở lên. Chăn nuôi gia súc (lợn, dê): chăn nuôi lợn sinh sản: thường xuyên có từ 20 con trở lên; với dê và cừu: thường xuyên có từ 100 con trở lên. Chăn nuôi lợn thịt: có thường xuyên 50 con trở lên. Chăn nuôi gia cầm (gà, vịt, ngang, ngỗng): có thường xuyên 2.000 con trở lên (không có tính số đầu con dưới 7 ngày tuổi).
Trang trại nuôi trồng thủy sản: diện tích mặt nước để nuôi trồng thủy sản có từ 2 ha trở lên (riêng đối với nuôi tôm thịt theo kiểu công nghiệp từ 1 ha trở lên).
Đối với các loại sản phẩm nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản có tính chất đặc thù như trồng hoa, cây cảnh, trồng nấm, nuôi ong và giống thủy, đặc sản thì tính theo tiêu chí một (lấy giá trị hàng hóa để đánh giá).
Theo TS. Trương Thị Minh Sâm, những tiêu thức chủ yếu để phân biệt kinh tế trang trại với các loại hình kinh tế khác trong nông, lâm, ngư nghiệp như sau:
- Tổng giá trị tài sản đưa vào sản xuất, kinh doanh nông lâm, ngư nghiệp phải đạt từ 100 – 149 triệu đồng/năm. Tỷ suất nông, lâm, thủy sản hàng hóa thực hiện phải đạt trên 85%. Lãi ròng lớn hơn hai lần lãi suất tiền vay ngân hàng nông nghiệp địa phương tại thời điểm sản xuất - kinh doanh.
- Lao động chủ yếu là gia đình, nhưng phải có thuê mướn lao động trực tiếp thường xuyên và thời vụ khoảng 5 lao động quy đổi (số ngày mà chủ trang trại phải thuê lao động trực tiếp/số ngày lao động bình quân trong năm của một lao động tại một địa phương lớn hơn hoặc bằng 5).
- Chủ trang trại phải áp dụng có hiệu quả một số tiến bộ khoa học – kỹ thuật nhất định trong quá trình quản lý, điều hành sản xuất – kinh doanh.
- Diện tích đất đai tùy theo vật nuôi và cây trồng cụ thể, nhưng nhất thiết phải có diện tích đất đai hoặc mặt nước từ 0.5 ha trở lên.
- Xem xét tình hình trang trại dựa trên cơ sở những tiêu chí trên đây ta thấy biểu hiện tương đối rõ rệt trên các mặt:
- Mục đích của sản xuất kinh doanh: kinh tế trang trại khu vực phía Nam có mục đích là sản xuất hàng hóa để bán với chiều hướng ngày càng lớn hơn, và tỷ suất hàng hóa ngày càng cao hơn. Kinh tế hộ gia đình nông dân không có mục đích chính là sản xuất hàng hóa, tuy nhiên một số hộ gia đình cũng có thể có sản phẩm hàng hóa để bán nhưng quy mô không ổn định và tỷ suất hàng hóa thấp chủ yếu là do tiêu dùng không hết nên mới được đưa ra thị trường.
- Chủ thể của sản xuất kinh doanh: Nếu trong nền kinh tế tiểu nông truyền thống trước đây, người chủ hộ chỉ cần có kinh nghiệm sản xuất và cần cù lao động theo kinh nghiệm cha truyền con nối là được, thì trong nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa ngày nay, người chủ trang trại khu vựa phía Nam phải biết xây dựng phương án sản xuất – kinh doanh phù hợp với yêu cầu thị trường, mục tiêu bán được càng nhiều nông sản hàng hóa càng tốt, lợi nhuận nhiều càng hay. Muốn vậy, chủ trang trại khu vực phía Nam phải là người có khả năng lớn hơn các chủ trang trại khác về vốn, có năng lực tổ chức. Sản xuất kinh doanh hơn, và có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao hơn chủ kinh tế hộ trong việc làm giàu chính đáng từ sản xuất kinh doanh.
- Trình độ và hiệu quả sản xuất kinh doanh của kinh tế trang trại cao hơn kinh tế hộ. Nhiều trang trại khu vực phía Nam đã đầu tư hoặc tự giác hợp tác giữa các trang trại với nhau để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị dùng cho việc chế biến sơ bộ nông sản, cung cấp cho thị trường tiêu thụ nông sản sản phẩm hàng hóa, hoặc cung cấp nguyên liệu bán thành phẩm cho công nghiệp chế biến xuất khẩu.
Một số trang trại ở khu vực phía Nam có xu hướng chuyển hẳn sang ngành chế biến nông sản thực phẩm suất khẩu vì thế họ đã chuyển nhượng hẳn, hoặc cho thuê lại đất đai trong trại của mình. Điều đó tạo sự phân công và hợp tác mới trong lao động xã hội ở nông thôn, đẩy mạnh việc chuyên môn hóa và làm tăng giá trị nông sản hàng hóa do trang trại tạo ra, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghịêp nông thôn khu vực phía Nam theo lối tiến bộ.
Nhìn chung, kinh tế trang trại phía Nam tuy mới xuất hiện nhưng đã và đang đóng góp đáng kể vào việc phát huy nội lực , khơi dậy tiềm năng lao động, đất đai tiền vốn trong dân, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
3.3.2 Thực trạng quy mô
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì cả nước ta hiện nay có đến 113.000 trang trại lớn nhỏ. Bình quân mỗi trang trại có từ 3-5 ha. Trang trại của nước ta được phát triển theo quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, đây là loại hình thích hợp nhất của kinh tế trang trại. Xu thế chung của thế giới hiện nay cũng đang khuyến khích các loại hình đầu tư kinh tế theo quy mô vừa và nhỏ vì các loại hình này thích hợp cho việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, cân bằng được giữa việc phát triển với bảo vệ môi trường sinh thái.
Qua điều tra cho thấy, thu nhập bình quân của các hộ kinh tế trang trại gấp hai, ba chục lần so với những vùng nông nghiệp bấp bênh. Tuy nhiên, sự sống trù phú vẫn chưa đến với nhiều vùng sinh thái trước đây vốn mỏng manh mà các nhà khoa học sinh thái gọi là các vùng sinh thái nhạy cảm, vùng sinh thái kém bền vững, đó là những vùng sâu, vùng xa, vùng đồi cát ven biển... do địa lý tự nhiên khắc nghiệt nên dân cư sống thưa thớt. Tại những nơi này, khai thác, sử dụng hợp lý đất và nước - hai tài nguyên quan trọng của kinh tế trang trại, là thành phần cơ bản của môi trường sinh thái.
Khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên nước không những để có đủ nước phục vụ trồng trọt mà còn đủ nước dùng cho sinh hoạt của cộng đồng. Trong kinh tế trang trại, việc quản lý các nguồn phân bón gia súc phải chặt chẽ để tránh làm ô nhiễm các nguồn nước ngầm và nước mặt. Ở các vùng khan hiếm nước không nên trồng các loại cây cần tưới nhiều nước, cân đối việc sử dụng nước trong trồng trọt, chăn nuôi và sinh hoạt của nhân dân. Bảo vệ các hệ thống rừng đầu nguồn là biện pháp cơ bản để giữ nguồn nước cho loại hình kinh tế trang trại ở vùng cao cũng như đồng bằng. Xây dựng các hồ chứa nước cũng như các đập thủy lợi trên vùng cao là ._.những biện pháp tích cực để dự trữ nguồn nước cho phát triển kinh tế trang trại. Bên cạnh đó cần phải nâng cao hiệu suất cây trồng để chống xói mòn và bảo vệ độ phì nhiêu của đất. Chú trọng quản lý phân chuồng và sử dụng các nguồn lá cây làm phân bón, bảo đảm sự sống an toàn cho đa dạng sinh học, nâng cao năng suất cây trồng.
Việc lạm dụng thuốc trừ sâu gây nguy hại cho an toàn của các sinh vật như DDT, Dieldrin, Parathion... là một thảm họa của môi trường sống. Hiện nay, việc phun thuốc trừ sâu để bảo vệ hoa quả đang bị người tiêu dùng lên án; đã có nhiều vụ ngộ độc do ăn phải thức ăn nhiễm thuốc trừ sâu; sử dụng kích thích tăng trọng đã làm giảm uy tín các sản phẩm nông nghiệp trên thị trường.
Bảng 7: Tình hình trang trại trong cả nước 1999
STT
Vùng
Tổng số trang trại
Vốn bình quân/trang trại (triệu đồng)
Thu nhập bình quân/trang trại (triệu đồng)
Thuê lao động thường (người)
1
Cả nước
55.852
93,96
37,98
0,80
2
Đồng Bằng Sông Hồng
1.488
122,40
42,46
1,70
3
Đông Bắc
2.951
49,24
27,33
0,98
4
Tây Bắc
282
59,13
23,82
0,96
5
Bắc Trung Bộ
4.084
49,40
23,04
0,80
6
Duyên Hải Nam Trung Bộ
3.122
102,77
26,17
0,85
7
Tây Nguyên
2.873
190,59
53,59
1,60
8
Đông Nam Bộ
9.085
211,18
54,04
1,50
9
Đồng bằng sông Cửu Long
31.967
59,92
35,95
0,50
(Nguồn Tổng cục thống kê năm 2004)
Hình 2: Biểu đồ biểu diễn số lượng trang trại mỗi vùng Việt Nam năm 2004
Nhận xét: Số lượng trang trại của cả nước tăng đáng kể từ năm 1999 đến năm 2004, do các chính sách mới trong việc thành lập trang trại, các nhà nông dân mạnh dạn hơn trong việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp.
3.4 Trang trại sinh thái là mô bình kết hợp giữa mô hình khung VAC và các nhân tố khác
3.4.1 Mô hình VAC
Mô hình VAC là mô hình làm kinh tế nông nghiệp khép kín mang lại nhiều giá trị thiết thực cho nông nghiệp Việt Nam. Nhờ có mô hình này mà người làm nông nghiệp có thể: xử lý các nguồn chất thải trong chăn nuôi, biến một phần phế phẩm thành nguồn lực tham gia sản xuất, tận dụng triệt để tài nguyên trong mô hình… Các yếu tố này giúp nông dân giảm các chi phí sản xuất tính trên đơn vị sản phẩm, tạo ra môi trường sinh thái sạch và có tính tương hỗ liên hoàn. Thực ra khái niệm VAC không phái là phát minh mới mà là một khái niệm mang tính khái quát cao, thể hiện bản chất của nghề nông nghiệp: tiết kiệm và khái thác triệt để. Nếu để ý kỹ đâu đâu cũng xuất hiện mô hình VAC, có điều mỗi nơi tổ chức khác nhau. Trong nông nghiệp khi hội đủ các yếu tố tài nguyên thì việc áp dụng mô hình VAC là hợp lý và được bảo hộ nhiều nhất.
- Tuy nhiên, chúng ta phải nhìn nhận rằng mô hình VAC chỉ là “cái khung” chứ chưa phải là hoàn chỉnh, áp dụng ngay và thành công ngay. Đa số những người nông dân nghĩ rằng là trang trại và xây dựng mô hình VAC là một. Chính như vậy nên việc làm trang trại không thành công, và nó chỉ dừng ở mức độ tự cung tự cấp, đủ trang trải, không thể tiến lên sản xuất lớn được chứ chưa nói đến khả năng chuyển đổi mô hình.
- Chúng ta xây dựng trang trại dựa trên điều kiện tài nguyên khác nhau và xây dựng phải dựa trên cái khung là mô hình VAC, và để phát huy hiệu quả cao chúng ta phải nâng cao mức độ hổ trợ liên hoàn của các thành phần, khả năng sản xuất của từng thành phần, áp dụng khoa học kỹ thuật, các chương trình sử dụng phân bón và phòng trừ dịch hại…
3.4.2 Các nhân tố khác
3.4.2.1 Các công trình xử lý chất thải trong chăn nuôi
¯ Phân gia súc
Công trình xử lý sinh học
Sản xuất phân bón
Phương pháp sản xuất phân bón hữu cơ từ phân heo nói riêng và từ phân gia súc nói chung dựa trên sự phân hủy các thành phần hữu cơ có trong phân dưới tác dụng của vi sinh vật có sẵn trong phân. Tùy theo chế độ hoạt động của vi sinh vật, ta có thể chia ra 3 phương pháp ủ như sau:
Phương pháp ủ nóng: nhiệt độ trong đống phân ủ đạt đến 80 – 90oC. Phương pháp này nhanh chóng, đơn giản nhưng lại mất đi nhiều đạm.
Phương pháp ủ nguội: nhiệt độ trong đống phân ủ đạt khoảng 35 - 50 oC. Phương pháp này có ưu điểm là đạm ít mất đi nhưng thời gian ủ dài.
Phương pháp ủ hỗn hợp: khắc phục được nhược điểm của hai phương pháp trên. Tiến hành ủ nóng trước nguội sau, phân tươi được đổ đống, không nén, để phân hủy cho đến khi nhiệt độ trong đống phân đạt khoảng 50 - 60 oC, sau đó nén chặt đống phân lại ủ nguội.
Việc sử dụng phân ủ làm phân bón rõ ràng hiệu quả hơn việc sử dụng phân tươi do các chất hữu cơ đã bị phân hủy một phần trong quá trình ủ nên cây hấp thu nhanh hơn, giảm thất thoát N ra môi trường dưới dạng NH3. Ngoài ra, các loại vi khuẩn gây bệnh, trứng giun sán trong phân giảm rõ rệt sau quá trình ủ nên sử dụng phân an toàn hơn so với phân tươi.
Tùy vào quy mô, diện tích đất sẵn có mà công việc ủ phân thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Ở quy mô gia đình, ta có thể thực hiện ủ phân ngay trong vườn nhà. Để tăng hiệu quả của quá trình ủ, ta có thể bổ sung dinh dưỡng cho quá trình ủ bằng các nguyên liệu như rơm rạ, tro bếp, đất, cây xanh … nếu diện tích đất không cho phép người ta thường dùng các giải pháp như : hốt phân lại bỏ vô thùng đậy kín rồi bán lại cho gia đình khác, đặt ống dẫn phân và nước thải sang ao cá nhà bên cạnh, hoặc thải trực tiếp ra ngoài. Ở quy mô công nghiệp, khi xử lý lượng lớn phân ta còn thu được một lượng lớn sản phẩm khí sinh học đáng kể sinh ra từ quá trình phân hủy kỵ khí của phân. Lượng biogas này được sử dụng làm nguồn nhiệt cho nhiều mục đích khác nhau. Nước rỉ từ đống phân ủ phải được thu lại và làm thc uống cho heo, đây là một nguồn dinh dưỡng rất tốt cho heo.
Khí sinh học – biogas
Quy trình công nghệ xử lý phân heo theo phương pháp ủ có thể được biểu diễn như hình vẽ ở trang sau:
HỐ Ủ PHÂN
SÂN PHƠI
THÙNG SẤY
HỆ THỐNG XỬ LÍ NƯỚC THẢI
NƯỚC RỈ
PHÂN HEO TƯƠI
BIOGAS
PHÂN HỮU CƠ THÀNH PHẦN
Hình 3: Công nghệ xử lý phân heo theo phương pháp ủ
Là quá trình sử dụng các vi sinh vật phân hủy kỵ khí các hợp chất hữu cơ phức tạp thành các chất hữu cơ đơn giản. Với hệ thống xử lý phân và nước thải chăn nuôi sản xuất biogas, ta có thể thu được các sản phẩm hữu ích như : khí đốt, phân bón, thức ăn cho cá (sản phẩm rắn và lỏng).
Khí đốt: biogas có thành phần gồm 60 – 75% CH4 và 25 – 40% CO2 là một loại nhiên liệu rất tốt so với các loại nhiên liệu truyền thống trước đây như than, củi, dầu … Khi cháy, nhiên liệu biogas không để lại muội than và tro nên có hiệu suất sử dụng rất cao. Do đó, việc tận dụng biogas trong đời sống người dân ở nông thôn cũng như trong sản xuất với vai trò làm một nguồn năng lượng phụ trợ thì có ý nghĩa thực tiễn rất lớn.
Phân bón: sau khi qua hệ thống biogas, thành phần của cặn có các chất dinh dưỡng thích hợp để làm phân bón. Có thể lấy số liệu tham khảo ở bảng sau:
Bảng 8 : Hiệu quả xử lý phân của hệ thống biogas
Chỉ tiêu
Trước khi xử lý
Sau khi xử lý
pH
7,4
7,9 – 8,0
COD (mg/L)
32000
5800 – 6600
BOD (mg/L)
10600
3400 – 3900
E.coli (MPN/ml)
15,76.107
12.104 – 15,56.103
Coliform (MPN/ml)
18,97.1010
12,3.103 – 25,74.105
Streptococcus (MPN/ml)
54,5.106
0,31.102 – 2,7.102
Trứng ký sinh trùng (trứng/g)
2750
105 – 175
(Nguồn :Nguyễn Thị Hoa Lý, 1994)
Qua số liệu trên, ta có thể kết luận được số lượng ấu trùng và trứng giun sán giảm rõ rệt so với phân tươi (trước khi xử lý), do đó an toàn hơn khi bón cho rau quả.
Thức ăn cho cá: phân và nước thải chăn nuôi sau khi qua xử lý ở bể biogas vẫn có thể sử dụng cho cá ăn. Số lượng vi trùng, ký sinh trùng đều giảm rõ rệt đến mức an toàn cho cá và cho người sử dụng. Hệ thống biogas còn góp phần giải quyết vấn đề mùi hôi cho cơ sở chăn nuôi và đặc biệt rất phù hợp với điều kiện khí hậu nước ta.
Các giá trị của khí sinh học
Tính bền vững về kinh tế:
- Khí sinh học giúp giảm chi phí nhiên liệu của gia đinh dành cho việc đun nấu và thắp sáng. Một hầm khí sinh học tiết kiệm được khoảng 2.3 tấn củi đun, tương đương với 0,03 hecta rừng mỗi năm;
- Việc sử dụng bã thải sinh học góp phần làm tăng sản lượng cây trồng và rau xanh, giúp tạo thêm thu nhập gia đình. Một hầm khí sinh học mỗi năm sản sinh ra 30 tấn bã thải sinh chất lượng cao. Ước tính có tới 90% số hộ nông dân sử dụng khí sinh học cũng dùng bã thải khí sinh học để cải tạo cơ cấu đất trồng và duy trì chất hữu có trong đất;
- Tỷ lệ hoàn vốn nội tại của hầm khí sinh học là khoảng 39%.Giảm khối lượng công việc:
- Hầm khí sinh học giúp giảm khối lượng công việc của người sử dụng, đặc biệt là phụ nữ nông thôn;
- Hầm khí sinh học tiết kiệm được cho một gia đình tới ba giờ mỗi ngày, chủ yếu là nhờ giảm thời gian dùng để kiếm củi, đun nấu và dọn dẹp lau chùi;- Thời gian tiết kiệm được có thể sử dụng để tạo thu nhập hoặc chăm sóc gia đình.
Nâng cao sức khoẻ:
- Việc tiếp xúc với khói khi đun nấu trong nhà là một vấn đề đối với người dân vùng nông thôn. Không khí ô nhiễm trong nhà là một trong những nguyên nhân chính gây viêm nhiễm đường hô hấp cho phụ nữ và trẻ em
- Khí sinh học cải thiện đáng kể điều kiện vệ sinh của nông trại và môi trường xung quanh, vì phân bón (và phân người) được chuyển thẳng tới hầm khí mà không bị phơi thải ra ngoài trời.
¯ Các phương pháp xử lý nước thải chăn nuôi
Nước thải chăn nuôi là hỗn hợp của phân, nước tiểu, nước rửa chuồng và tắm heo, thức ăn rơi vãi… có hàm lượng ô nhiễm cao, nhất thiết phải được xử lý trước khi thải ra môi trường. Việc xử lý nước thải chăn nuôi nhằm loại bớt hàm lượng chất rắn và khoáng hóa chất hữu cơ có trong nước thải.
Bảng 9: Các phương pháp xử lý nước thải chăn nuôi
Phương pháp
Quá trình
Cơ học
Tách bớt các hạt rắn ra khỏi nước thải
Hóa lý
Sử dụng các hóa chất keo tụ để tăng tính lắng của các hạt rắn trong nước thải
Hóa học
Diệt trùng bằng chất hóa học hoặc oxi hóa các chất độc hại có trong nước thải bằng chất hóa học
Sinh học
Khoáng hóa các chất hữu cơ có trong nước thải với sự tham gia của vi sinh vật
Quá trình xử lý cơ học : nhằm loại bớt một phần cặn ra khỏi nước thải, tạo điều kiện cho quá trình xử lý cơ học, hóa lý, sinh học được thực hiện tốt hơn.
Quá trình xử lý hóa lý : sử dụng các chất keo tụ như clorua sắt, polyme hữu cơ….nhằm tăng tính lắng của các hạt rắn có trong thành phần nước thải, giảm lượng chất hữu cơ có trong nước thải, tạo điều kiện cho quá trình xử lý hóa học và sinh học sau đó.
Quá trình xử lý hóa học : rất ít được sử dụng trong nước thải chăn nuôi. Trường hợp thường gặp nhất là diệt trùng nước thải sau khi xử lý sinh học trước khi xả ra nguồn tiếp nhận. Phương pháp diệt trùng nước thải (và nước cấp) thường gặp nhất là clo hóa. Ngoài ra có thể diệt trùng bằng O3 hoặc sử dụng tia cực tím. Trong phương pháp clo hóa tác nhân thường dùng là Cl2 và các hợp chất chứa Clo như: HClO, ClO2.
Xử lý sinh học : là quá trình được sử dụng rộng rãi và hiệu quả nhất để xử lý nước thải chăn nuôi. Quá trình xử lý sinh học có thể xảy ra trong điều kiện hiếu khí hoặc kỵ khí.
Trong điều kiện hiếu khí : tùy vào điều kiện làm thoáng, ta phân chia 2 dạng:
Xử lý sinh học hiếu khí trong điều kiện tự nhiên: sử dụng cánh đồng lọc, cánh đồng tưới và hồ sinh vật.
Thực chất của quá trình xử lý nước thải trên cánh đồng tưới hay cánh đồng lọc là: khi nước thải lọc qua đất, các chất lơ lửng và chất keo bị giữ lại tạo thành các màng vi sinh vật bao bọc hạt đất, màng vi sinh vật hấp thụ các chất hữu cơ, sử dụng O2 của không khí trên mặt đất và qua lớp đất trên mặt (0,2-0,3m) oxy hóa các chất hữu cơ và nitrat hóa. Sự phân bố nước thải đều khắp trên cánh đồng tưới, tải lượng hợp lý nước thải được xử lý trên cánh đồng quyết định hiệu quả xử lý của phương pháp này.
Hồ sinh vật: Có tác dụng ổn định nước thải với yêu cầu phải có lượng oxy bổ sung. Các vi sinh vật hiếu khí sử dụng oxy biến đổi các chất hữu cơ thành CO2, H2O và tạo tế bào vi khuẩn mới. Lượng oxy mới bổ sung trong hồ sinh vật tự nhiên là do khuyếch tán qua mặt thoáng của hồ và do các loại tảo quang hợp đem lại.
Xử lý sinh học hiếu khí trong điều kiện nhân tạo : Sử dụng bể lọc sinh học, bể bùn hoạt tính, mương oxy hóa.
Bể lọc sinh học: Hoạt động như một bể lọc, có thể làm sạch nước thải hữu cơ nhờ sự hoạt động của các sinh vật hiếm khí. Các vi sinh vật này hình thành trên bề mặt của vật liệu đệm, tạo thành lớp màng sinh vật bám dính trên bề mặt vật liệu đệm. Để một bể lọc sinh học hoạt động tốt, hiệu quả cao, nhất thiết phải phân bố đều nước thải trên bề lọc, thông gió cung cấp oxy đầy đủ cho các vi sinh vật hoạt động, tải lượng và tốc độ thích hợp.
Bể bùn hoạt tính (aerotank): Bùn họat tính là tập hợp các vi sinh vật hiếu khí tự hình thành khi thổi không khí vào nước thải. Việc sục khí nén hoặc khuấy trộn có tác dụng xáo trộn tốt, đồng thời cung cấp oxy cho vi sinh vật hoạt động, tăng hiệu quả xử lý của bể.
Mương oxy hóa: Việc làm thoáng (bổ sung oxy) và khuấy trộn được thực hiện bằng cách cho nước thải chảy dọc theo mương. Đến cuối chiều dài mương, hầu hết lượng chất tiêu thụ hữu cơ có trong nước thải đã được các vi sinh vật hiếu khí thoáng hóa
Điều kiện tối ưu cho quá trình xử lý sinh học hiếu khí:
Nhiệt độ tối ưu
Cung cấp oxy đầy đủ và xáo trộn đều
Tải lượng chất hữu cơ và tỷ lệ C/N thích hợp
Trong điều kiện kỵ khí: các vi sinh vât kỵ khí hoạt động làm lên men các chất hữu cơ có trong nước thải, biến đổi thành các sản phẩm khí như CH4, CO2, H 2, H2S, NH3 . Quá trình lên men kỵ khí xảy ra dưới tác dụng của rất nhiều loài vi khuẩn, trải qua hai giai đọan
1) Giai đoạn lên men axít: Trong giai đoạn này, các chất hữu cơ bị phân hủy thành các sản phẩm đơn giản
Protid àpeptid và các acid amin
Chất béoàglycerine và acid béo
Hydratcarbonàđường đơn giản
Sau đó, các chất trên được chuyển hóa thành các sản phẩm đơn giản hơn, chủ yếu là các acid hữu cơ (chiến đến 99%), gồm acid butyric, acid propionic, acid acetic, …các chất hữu cơ khác như aldehyd, alcol và các chất vô cơ như NH3, H2S, CO2, H2, pH của nước thải trong giai đọan 1 thấp hơn 7, do đó giai đoạn này gọi là giai đoạn lên men acid.
2) Giai đoạn lên men kiềm: các sản phẩm của giai đoạn 1 tiếp tục được chuyển hóa thành CH4, CO2, H2 với sự tham gia của các vi khuẩn mêtan như Methanobacterium, Methanococcus, Methanosarcina.
Do các acid hữu cơ được biến đổi thành các sản phẩm khí như CH4, CO2, H2 , pH của nước thải cuối cùng đạt khoảng 6,7-7,4.
Điều kiện tối ưu cho quá trình lên men
Nhiệt độ tối ưu
Xáo trộn đều
Liều lượng chất hữu cơ cho vào và tỷ lệ C/N thích hợp
Hiệu quả của quá trình lên men được đặc trưng bởi hai yếu tố chính là chất lượng nước thải trước và sau khi xử lý và lượng khí đốt tạo ra từ 1g chất hữu cơ được xử lý
Tùy theo kiểu phát triển của vi sinh vật kỵ khí trong công trình xử lý có thể chia ra 3 dạng:
Kiểu vi sinh vật phát triển ở trạng thái lơ lửng
Bể phân hủy kỵ khí đơn giản (bể tự hoại): là loại thiết bị xử lý nước thải đơn giản nhất. Các vi sinh vật sinh trưởng và phát triển bên trong bể, phân hủy chất hữu cơ có trong nước thải, đồng thời sử dụng chất hữu cơ để sản xuất tế bào mới. Trong thiết bị có khuấy trộn, sự xáo trộn sẽ làm phân bố đều các vi sinh vật có trong bể, tăng hiệu quả xử lý của bể. Dòng nước thải chỉ vào bể một lần, không tái sử dụng sinh khối vi sinh vật trong dòng ra, vừa lãng phí vừa làm giảm chất lượng (độ sạch) dòng ra.
Bể phân hủy kỵ khí tiếp xúc: Để khắc phục nhược điểm của bể phân hủy kỵ khí đơn giản, người ta sử dụng thêm một bể lắng để tách sinh khối vi sinh vật và cặn hữu cơ chưa phân hủy, đưa trở lại vào bể phân hủy, chỉ cho nước thải đã xử lý ra. Sự hồi lưu này vừa tận dụng triệt để sinh khối vi sinh vật vừa làm nâng cao chất lượng dòng ra.
Kiểu hỗn hợp
UASB: dòng nước thải vào chảy ngược dòng từ dưới lên trên, tạo sự khuấy trộn trong bể xử lý, tăng mức độ xử lý. Nước thải đã xử lý thoát ra máng tràn dọc theo thành bể và theo ống dẫn ra ngoài.
Hồ sinh vật kỵ khí: trong điều kiện kỵ khí, các chất hữu cơ có trong nước thải sẽ bị phân hủy dưới tác dụng của vi sinh vật kỵ khí. Điểm khác biệt của hồ sinh vật kỵ khí và bể phân hủy đơn giản là kích thước hồ lớn hơn, do đó tốc độ dòng chảy chậm.
Bể 2 vỏ: do dòng chảy ngược có thể làm xáo trộn quá nhiều nước thải có trong bể, làm ảnh hưởng đến độ sạch của dòng ra, bể 2 vỏ được thiết kế thêm một ngăn lắng bên trên, làm cho các hạt chất hữu cơ chưa phân hủy và sinh khối vi sinh vật lắng lại, nâng cao chất lượng dòng nước thải ra.
Kiểu vi sinh vật phát triển trên giá thể
Tầng sôi: có cấu tạo tương tự bể lọc sinh học kỵ khí nhưng các giá thể là loại vật liệu nhẹ, nên có thể chuyển động lơ lửng khi có dòng nước thải chảy ngược dòng từ dưới lên trên, tạo thành tầng sôi.
Tầng tĩnh (bể lọc sinh kỵ khí): có cấu tạo tương tự như bể lọc sinh học hiếu khí. Tuy nhiên, trong bể lọc sinh học kỵ khí, nước thải có thể được cho chảy ngược dòng hoặc xuôi dòng, đồng thời thiết bị được làm kín và không có sự bổ sung oxy, tạo điều kiện kỵ khí cho vi sinh vật kỵ khí phát triển.
Bảng10 : Sản phẩm cuối của các quá trình xử lý hiếu khí và kỵ khí
Quá trình xử lý hiếu khí
Nguyên tố
Quá trình xử lý kỵ khí
CO32- ß CO2 ß
C
à CH4 và CO2
NO3- ß NO2- ß NH3 ß
N
à NH3
SO42- ß
S
à H2S
H2O ß
H
à Hợp chất hữu cơ hay NH3
PO43- ß
P
Sau quá trình xử lý sinh học, trong một số trường hợp, nước thải chăn nuôi còn phải được xử lý hóa học để khử trùng, tiêu diệt các mầm bệnh rồi mới cho thải ra môi trường.
3.4.2.2 Chương trình sản xuất và sử dụng phân bón trong sản xuất
Tính cần thiết: chúng ta hiểu đúng về giá trị thực của phân bón. Phân bón là chất xúc tác làm tăng năng suất cây trồng. Chất xúc tác này càng tốt thì năng suất cây trồng càng tăng. Nhưng phải lưu ý rằng: năng suất chỉ tăng có giới hạn, có thêm chất xúc tác (phân bón) thì năng suất cũng không tăng, thậm chí phản tác dụng, làm chai đất, cây trồng bị “ngộ độc”, năng suất giảm, thậm chí có thể bị chết. Vấn đề kế tiếp: chất xúc tác đó là gì? Hữu cơ, vô cơ, vi lượng hay vi sinh? Nhiều chương trình nông nghiệp bền vững tại nhiều nước đã chứng minh rằng: phải hỗn hợp. Trong nền nông nghiệp sinh thái bền vững, phân bón không chỉ làm chức năng thúc đẩy quá trình sinh trưởng cây trồng mà còn phải thực hiện chức năng khôi phục tài nguyên đất. Phân vô cơ không thực hiện được chức năng này, mà từng loại phân lại không đủ chất, không đủ dinh dưỡng, kể cả các yếu tố vi lượng, để tái tạo tạo đất. Vấn đề còn lại là phối hợp như thế nào và sử dụng ra sao. Trong nông nghiệp sinh thái bền vững, người ta không chỉ dùng phân hữu cơ vi sinh để sản xuất sản phẩm sạch mà có sự kết hợp với các loại phân hóa học khác. Chỉ có sự phối hợp mới giải quyết được bài toán đề năng suất. Tuy nhiên việc phối hợp cần phải tuân theo một số quy trình chuẩn mực để đảm bảo yếu tố cân bằng sinh thái và bảo vệ môi sinh.
Sản xuất phân bón: trong các chương trình nông nghiệp sinh thái bền vững, phân hữu cơ và phân vi sinh đóng vai trò hết sức quan trọng. Chính vì vậy chúng tôi đặc biệt quan tâm tới khả năng tự sản xuất phân bón trong mô hình (ở đây là phân vi sinh và hữu cơ). Mỗi mô hình cần có quy trình sản xuất phân có năng suất riêng sao cho đáp ứng được các yêu cầu của chính mô hình đó. Khả năng tự sản xuất phân bón giúp nhà đầu tư tiết kiệm một khoản đầu tư rất lớn, giúp nâng cao tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư. Nhưng cần lưu ý rằng: phải có nguyên liệu thì mới sản xuất được phân hữu cơ và phân vi sinh. Mà nguyên liệu chủ yếu có được từ các chương trình chăn nuôi. Do đó nhà đầu tư phải tính toán các chương trình chăn nuôi với quy mô sao cho phù hợp với nhu cầu thực tế của mô hình.
Hiệu quả: hiệu quả của việc sử dụng phân bón hữu cơ và phân vi sinh thể hiện rõ rệt ở các khía cạnh: tác dụng bền vững và toàn diện, cải tạo nguồn tài nguyên đất, sản xuất sản phẩm sạch, chất lượng cao. Người ta nhận thấy rằng, khi sử dụng phân hữu cơ với một tỷ lệ hợp lý và thường xuyên thì cây trồng sẽ có khả năng đề kháng tốt hơn đối với dịch hại và điều kiện không thuận lợi của khí hậu, thời tiết. Ngoài ra, sản phẩm sản xuất có nguồn gốc từ quá trình sử dụng phân bón hữu cơ và vi sinh sẽ bảo toàn được các giá trị nguyên thủy của nó. Có thể nói, hiệu quả của việc sản xuất và sử dụng phân bón hữu cơ và phân vi sinh là rất lớn, không chỉ thể hiện ở khả năng cho năng suất cao, bền vững, cải tạo nguồn tài nguyên đất…, mà quan trọng hơn nữa là nó cổ vũ cho các chương trình sản xuất sản phẩm sạch, thân thiện với thiên nhiên, góp phần xây dựng nền nông nghiệp sinh thái có tính cạnh tranh cao, thịnh vượng và bền vững.
3.4.2.3 Chương trình quản lý dịch hại tổng hợp IPM
a. Giới thiệu: Việc phối hợp đồng bộ các biện pháp kiểm soát sẽ tạo thành hệ thống canh tác năng động, phối hợp tất cả các phương pháp đã biết để kiểm soát sâu bệnh và cỏ dại đến mức độ có thể chấp nhận được. Phương pháp canh tác này gọi là phương pháp quản lý dịch hại tổng hợp và đòi hỏi phải thực hiện các công việc sau:
Lập kế hoạch ngăn chặn hoặc giảm sâu bệnh và cỏ dại.
Nhận biết các loại sâu bệnh và cỏ dại.
Quan sát cây trồng, mùa vụ, sâu bệnh, cỏ dại và môi trường xung quanh.
Xác định ngưỡng thiệt hại và mức suy giảm có thể chấp nhận được đối với chất lượng, năng suất cây trồng.
Phối hợp các phương pháp di truyền học, canh tác, cơ học, thủ công, sinh học và các biện pháp hóa học để tối ưu hóa và tổng hợp hiệu quả của chúng.
Đánh giá và điều chỉnh những biện pháp đã thực hiện để cải tiến biện pháp thực hiện.
Việc phối hợp đồng bộ cũng đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc về hệ thống sản xuất thực phẩm, về sinh học lẫn về kinh tế xã hội, và quyết tâm không ỷ lại vào chỉ một hoặc hai phương án kiểm soát. Mục tiêu cuối cùng là đạt được sự tiếp cận cân bằng và bổ sung lẫn nhau giữa các biện pháp để có thể kiểm soát sâu bệnh và cỏ dại đến mức tối đa.
b. Các thành phần của phương pháp IPM
Thuốc diệt nấm bệnh
Trong phương án IPM, điều chú trọng khi sử dụng thuốc diệt nấm bệnh là việc sử dụng một cách thích hợp, vừa đủ, chính xác, phối hợp các hóa chất tạo ra hiệu ứng tổng hợp… để giảm lượng thuốc mà vẫn hạn chế thiệt hại mùa màng ở mức có thể chấp nhận được.
Việc điều chỉnh thời điểm phun thuốc cũng có thể làm giảm liều lượng các thuốc diệt nấm cần sử dụng, làm tăng hiệu quả của chúng.
Thời tiết và các đặc tính môi trường ở địa phương có ảnh hưởng lớn đến mức độ lây lan nhiều mầm bệnh mấm. Trong những năm thời tiết thuận lợi mà bệnh nấm không lây lan rộng thì những cánh đồng không phun thuốc diệt nấm sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với những cánh đồng có phun thuốc. Ngược lại, trong những năm bệnh nấm lây lan rộng (30 -40% số cây trồng mắc bệnh) thì việc phun thuốc mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
Kỹ thuật và dụng cụ phun thuốc cũng đóng vai trò rất quan trọng đối với hiệu quả phân thuốc. Nếu sử dụng các vòi phun dạng mới có thể chính xác cao và có khả năng phun thuốc qua các vòm lá phủ, đồng thời điều chỉnh chiều cao và góc phun cũng như tốc độ di chuyển của người phun thuốc, tránh phun sót, phun lặp. Thực hiện phun thuốc trong điều kiện thời tiết thích hợp thì sẽ đạt hiệu quả phun thuốc cao, tiết kiệm thuốc và hạn chế ô nhiễm môi trường.
Các cây trồng có khả năng kháng thuốc
Tạo ra và sử dụng các loại cây trồng có khả năng kháng bệnh là một phương pháp hạn chế mất mát mùa màng một cách bền vững, cả về kinh tế lẫn sinh thái. Sử dụng các biện pháp như phun thuốc, bón phân hóa học có thể làm tăng sản lượng cây trồng nhưng cũng có thể phá hủy môi trường sinh thái và làm giảm lợi nhuận vì chi phí đầu vào cao.
Ở cây thuốc lá được cấy gen kháng bệnh, tỷ lệ cây chết ban đầu giảm 50% so với cây thuốc lá bình thường. Một số lúa mì lại cũng có khả năng hạn chế 50% sự phát triển của các bệnh nấm và cho năng suất cao hơn so với ruộng đối chứng có phun thuốc diệt nấm.
Các biện pháp kỹ thuật canh tác
Làm đất
Việc làm đất dẫn đến các thay đổi vật lý của đất (khả năng trữ nước, độ tơi xốp và thoáng khí, nhiệt độ đất…). Chính các thay đổi này tác động đến hoạt động và sự sống còn của các mầm bệnh, khả năng nhiễm bệnh của cây trồng và thành phần các vi sinh vật trong đất. Phản ứng của mầm bệnh thực vật đối với việc làm đất phụ thuộc vào tương quan mầm bệnh – cây trồng và ảnh hưởng của môi trường do làm đất và mức độ mắc bệnh cây trồng có thể tăng, giảm hoặc không thay đổi. Ở cây đậu việc làm đất sâu có thể làm hạn chế các bệnh ở rể cây, nhưng ở ngũ cốc nếu không làm đất thì bệnh lại giảm. Việc làm đất quá nhiều sẽ phá hủy các chất hữu cơ, đảo lộn cân bằng các quần thể vi khuẩn đất, tăng nguy cơ phân hóa và thoái hóa đất đồng thời tốn nhiều năng lượng, tăng chi phí đầu vào. Tuy nhiên việc giảm cường độ làm đất lại có thể làm tăng lượng thuốc diệt nấm cần sử dụng, vì phế thải nông nghiệp nằm ở trên mặt đất tạo nơi trú ẩn cho nhiều loại nấm và mầm bệnh. Sự lây nhiễm bệnh ở cây trồng lúc này phụ thuộc vào điều kiện thời tiết.
Luân canh
Có thể nói luân canh cây trồng là phương pháp kiểm soát sâu bệnh lâu đời nhất. Trong thời đại đôc canh và chuyên canh cao như ngày nay thì việc áp dụng các phương pháp luân canh là điều cần thiết, tạo khả năng sử dụng kẻ thù tự nhiên (thiên địch) của mầm bệnh và sự phân hủy phế thải nông nghiệp để kiểm soát mầm bệnh.
Việc luân canh các loại cây trồng khác nhau sẽ giảm nguy cơ mắc bệnh cho cây trồng (trong khi ở các hệ độc canh thì nguy cơ bùng nổ các dịch bệnh nặng sẽ cao hơn). Luân canh cây trồng là biện pháp có ý nghĩa quan trọng hơn so với các phương pháp làm đất trong việc hạn chế dịch bệnh cây trồng. Nếu trồng nối vụ các cây trồng không cho họ hàng với nhau thì nguy cơ lây truyền bệnh sẽ giảm đáng kể. Khi trồng liên tục một giống cây, một số mầm bệnh có thể sống sót và phát triển rất nhanh, bất chấp các biện pháp làm đất. Chế độ độc canh cũng dẫn đến sự chọn lọc tự nhiên những loại mầm bệnh nguy hiểm hơn đối với cây trồng.
Luân canh cây trồng làm giảm mức độ lây nhiễm bệnh ban đầu trong ruộng. Các kết quả khảo sát ở Mỹ cho thấy trong những năm thời tiết bất lợi cho sự phát triển dịch bệnh thì chỉ 01 năm luân canh giữa các vụ lúa mì cũng đủ để giảm đáng kể mức độ dịch bệnh.
Ở những vùng mưa nhiều hoặc ở những đồng ruộng được tưới tiêu (nơi nguy cơ xảy ra dịch bệnh cây trồng lớn hơn) thì ảnh hưởng của luân canh đối với năng suất thu hoạch rất rõ rệt. Các kết qua khảo sát ở Mỹ cho thấy ở những ruộng lúa mì luân canh với đậu lăng và lúa mạch thì thiệt hại do dịch bệnh gây ra thấp hơn nhiều so với những ruộng chỉ độc canh lúa mì. Trong khoảng thời gian ngắn, việc luân canh có thể không đem lại lợi nhuận tối đa cho nông dân, nhất là khi trồng những cây luân canh giá trị thấp, nhưng về lâu dài thì đây là chiến lược bền vững vì nó duy trì sự tăng năng suất trong nhiều năm.
3. Các biện pháp khác
Những biện pháp khác nhau như: chọn thời điểm gieo trồng, chọn chiều sâu gieo trồng, khoảng cách giữa hàng cây, sử dụng thuốc diệt cỏ, phân hóa học và tưới tiêu… cũng ảnh hưởng đến sự bùng phát và mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh. Nếu áp dụng riêng rẽ từng biện pháp trên thì thường không đủ để kiểm soát dịch bệnh cây trồng một cách hiệu quả. Mức độ kiểm soát sẽ tăng lên nếu áp dụng phối hợp các biện pháp khác nhau.
Trong nhiều năm người ta đã sử dụng việc bón các chất dinh dưỡng, chất vi lượng như là một phương pháp kiểm soát dịch bệnh. Có thể cung cấp trực tiếp các chất dinh dưỡng và các chất vi lượng cho cây trồng bằng cách bón phân hoặc cung cấp gián tiếp bằng cách thay đổi cấu trúc nhờ hoạt động của các vi sinh vật. Cây lúa mì thiếu đồng thường dễ mắc bệnh hơn và cho năng suất thấp hơn so với những cây có hàm lượng đồng cao hơn. Có thể bổ sung đồng cho cây bằng cách bón phân nhiều sunfat vào đất. Trên thị trường cũng có bán những sản phẩm mấm vi sinh có khả năng hòa tan quặng photphat, cải thiện khả năng hấp thụ photphat của cây. Cả hai phương pháp (cung cấp trực tiếp bằng phân bón, sử dụng vi sinh vật để làm tăng khả năng hấp thụ của cây) đều giúp nâng cao khả năng kháng bệnh của cây trồng và làm tăng năng suất thu hoạch.
Thuốc diệt cỏ tác động đến mầm bệnh thực vật thông qua hoạt chất trong thuốc. Một số thuốc diệt cỏ như Glysophat, Triallat, Trifluralin tác động trực tiếp đến sự hình thành bào tử của các mầm bệnh. Glysophat ngăn cản hoàn toàn sự sản sinh bào tử mầm bệnh…; Triallat làm giảm 50%; nhưng ngược lại Trifluralin lại làm tăng 128% sự sinh sản bảo tử. Vì vậy khi sử dụng thuốc diệt cỏ cần phải lưu ý đến đặc điểm này.
4. Các tác nhân sinh học
Trong những hệ sản xuất nông nghiệp cân bằng về sinh thái, việc sử dụng các tác nhân vi sinh hoặc các chế phẩm từ chúng sẽ là một phương án thay thế hấp dẫn để kiểm soát cả các tác nhân gây bệnh lây qua lá lẫn các mầm bệnh trong đất.
Hiệu quả của các tác nhân sinh học là chúng có tác dụng đặc trưng đối với những mầm bệnh cần tiêu diệt. Các vi sinh này sống trên phế thải nông nghiệp và tác động đến mầm bệnh thực vật bằnh sự cạnh tranh, tiêu diệt mầm bệnh hoặc đối kháng với mầm bệnh, qua đó hạn chế sự bùng phát và giảm mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh. Tuy nhiên, để đạt được mức độ kiểm soát diện rộng người ta cần các tác nhân vi sinh phổ biến và ít đặc trưng hơn. Ở Braxin người ta áp dụng loại vi sinh Trichoderma harzianum có sống ở cả phế thải lúa mì lẫn phế thải đậu tương trên đồng ruộng, và nhờ đó đã làm giảm các mầm bệnh sống qua mùa đông ở cả hai loại cây này.
Trong khi phát triển các tác nhân vi sinh người ta cũng áp dụng nguyên tắc như ở cây lai. Ví dụ, so với cây có gen chỉ kháng với một thứ bệnh thì những cây có gen kháng được nhiều loại bệnh sẽ được bảo vệ tốt hơn và lâu dài hơn trong một phạm vi môi trường rộng hơn. Tương tự như vậy, hỗn hợp một số chủng vi sinh có thể giúp tăng 20% năng suất lúa mì, nhưng từng chủng vi sinh riêng lại không có tác dụng đáng kể đối với năng suất thu hoạch.
Các công ty nông hóa hiện đang đi tìm những phương án thay thế cho vi sinh vật sống bằng cách phát triển những hóa chất là những sản phẩm trao đổi chất của các tác nhân vi sinh. Tuy nhiên, việc thương mại hóa các sản phẩm này còn gặp nhiều khó khăn do chi phí cao và độ bền kém (nhưng ưu điểm của chúng là khả năng tác động chọn lọc cao và cơ chế tác dụng kiểu mới có thể đưa sản phẩm vượt lên chiếm ưu thế). Các sản phẩn này cũng thích hợp với chiến lược kiểm soát phối hợp và nói chung chúng có thể phân hủy được trong tự nhiên.
c. Hiệu quả của phương pháp IPM
Việc áp dụng cân đối các thành phần của phương pháp IPM sẽ giúp tăng năng suất cây trồng và tăng lợi nhuận so với khi áp dụng các phương pháp ._.kinh tế cao từng bước đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa và xuất khẩu, tăng thu nhập trên đơn vị diện tích canh tác, an toàn cho người sử dụng. Bên cạnh đó, đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến nhằm tăng năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của nông thôn bằng cách phát triển kinh tế trang trại, kinh tế tập thể. Do đó việc lựa chọn những giống cây trồng và vật nuôi chủ lực cho mô hình trang trại sinh thái là khâu quan trọng trong việc quy hoạch và xây dựng trang trại.
ª Cây trồng: Theo định hướng của tỉnh Đồng Nai thì phát triển các loại cây trồng chính theo 3 nhóm cây ngắn ngày, cây công nghiệp và cây ăn quả. Ở nhóm cây ngắn ngày, cây rau, cây hoa, kiểng bonsai được xác định tập trung phát triển. Đến năm 2010, ngoài những vùng trồng rau truyền thống trước đây, còn mở rộng diện tích gieo trồng tại Biên Hoà, Nhơn Trạch, Long Thành, Trảng Bom, Thống Nhất lên 14.000 ha theo hướng sản xuất an toàn và ứng dụng công nghệ cao; tổ chức sản xuất dưới hình thức tập thể để kiểm soát an toàn thực phẩm, thuận lợi tiêu thụ. Đối với cây, hoa và kiểng bonsai tập trung vào những chủng loại có khả năng tăng trưởng tốt như huệ, layơn, cúc, hoa giấy, vạn thọ, bonsai… Nhóm cây công nghiệp tập trung vào hai loại cây chính đạt giá trị xuất khẩu cao là điều và hồ tiêu. Các huyện Cẩm Mỹ, Long Khánh, Xuân Lộc, Tân Phú, Trảng Bom là những địa phương có lợi thế điều kiện tự nhiên cho cây tiêu phát triển, phấn đấu đạt ổn định 8.000 ha. Những vùng đất xám bạc màu không chủ động được nước tưới như Cẩm Mỹ, Xuân Lộc, Tân Phú, Long Thành, Định Quán, Trảng Bom, Vĩnh Cửu rất phù hợp để phát triển cây điều. Diện tích cho loại cây này ổn định khoảng 35.000ha. Với kế hoạch 33.500 ha, nhóm cây ăn quả được tập trung phát triển những loại cây chôm chôm, sầu riêng, xoài cát Hoà Lộc, bưởi…Do vậy, trong mô hình trang trại sinh thái đề xuất xây dựng ở huyện Trảng Bom, chúng tôi đề xuất giống cây trồng cho trang trại là :
Cây ngắn ngày: Trồng rau theo hướng trồng rau sạch và an toàn để đáp ứng với nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của người dân, để đảm bảo sức khỏe cộng đồng.
Cây công nghiệp: Đầu tư phát triển diện tích điều và hồ tiêu.
Cây ăn quả: sẽ tập trung vào ưu thế điểu kiện tự nhiên của huyện, phát triển giống đặc sản của huyện là: chôm chôm và sầu riêng.
ª Vật nuôi: vật nuôi chủ lực mà ngành nông nghiệp hướng tới là tăng số lượng đàn heo, bò, gà dưới hình thức chức chăn nuôi theo hướng tập trung, bảo đảm an toàn vệ sinh, bảo vệ môi trường sinh thái. Để cải thiện và nâng cao năng suất chất lượng đàn và tăng dần số lượng đàn bò lên 10.000 con vào năm 2010, Đồng Nai tiếp tục phát huy những tiềm năng vốn cố và triển khai ứng dụng rộng rãi công nghệ lưu giữ, cấy truyền phôi cho bò hướng cao sản thịt, sữa. Bên cạnh đó cũng ứng dụng công nghệ tinh đông viên, thụ tinh nhân tạo cho heo để dần nâng đàn heo đến năm 2010 là 1,5 triệu con.
Ngoài chú trọng phát triển đàn gà, còn tập trung khai thác hiệu quả diện tích mặt nước ao hồ, sông suối… để nuôi những chủng loại tôm,cá truyền thống như: tôm càng xanh, tôm sú, cá chép, cá tai tượng, cá rô phi, cá tra, cá diêu hồng…
Và giống vật nuôi chúng tôi lựa chọn cho trang trại là : nuôi heo tập trung và giống bò thịt và bò sữa.
5.5 Đề xuất mô hình trang trại sinh thái
Trong mô hình đề xuất của đồ án này, có 11 công trình gồm có:
Hàng rào bảo vệ trang trại và hành lang cây xanh
Nhà sinh hoạt của chủ trang trại và nhân công
Nhà bếp
Kho chứa vật liệu
Hệ thống hầm ủ khí sinh học biogas
Hệ thống chuồng trại chăn nuôi heo
Hồ xử lý chất thải chăn nuôi chủ yếu là nước thải vệ sinh chuồng trại và tắm heo theo phương pháp sinh học
Các ao nuôi trồng thủy sản
Vườn trồng rau an toàn
Vườn trồng cây lâu năm
Khu vực canh tác cây ngắn ngày
ª Hàng rào bảo vệ trang trại và hành lang cây xanh: Hàng rào bảo vệ trang trại được xây dựng bằng kẽm lưới B40, nhằm phòng chống nạn mất trộm trong mùa thu hoạch, ngăn chặn súc vật thả rong vào trang trại gây ảnh hưởng đến vườn tược. Hành lang cây xanh, hạn chế được mùi hôi từ hệ thống chuồng trại, ngăn cản bụi và tạo cảnh quan sinh thái cho trang trại. Hành lang cây xanh có thể trồng các cây có tán rộng.
ª Nhà sinh hoạt của chủ trang trại và nhân công: Đây là nơi dùng để hội họp, sinh hoạt gia đình của chủ trang trại, cũng là nơi giao dịch với các mối lái thu mua nông sản, được thiết kế như nhà ở dân dụng.
ª Nhà bếp: được xây dựng cách biệt, trong nhà bếp hầu như khí đốt là khí biogas từ hầm ủ sinh học, việc xây dựng cách biệt với nhà sinh hoạt là do khí sinh học biogas có mùi khó chịu, và để thuận tiện trong việc đun nấu thức ăn cho gia súc.
ª Kho chứ vật liệu: được chia làm hai ngăn, một ngăn chứa thức ăn công nghiệp của heo và thuỷ sản, ngăn còn lại chứa phân bón, các loại thuốc BVTV. Hai ngăn cách biệt, hạn chế được sự nhiễm độc vào thức ăn chăn nuôi. Ngoài ra, còn có thêm nơi để sản phẩm nông sản sau khi thu hoạch chưa đem tiêu thụ.
ª Hệ thống hầm ủ khí sinh học: nên đặt gần nhà bếp để tiết kiệm các vật liệu dẫn truyền, công trình khí sinh học nên có mái che để ngăn cản sự ngập nước vào mùa mưa. Có hệ thống dẫn nước sau khi ủ phân tích tụ vào vòi cho heo uống, theo nghiên cứu trong nước này chứa nhiều thành phần dinh dưỡng giúp heo sinh trưởng mạnh. Phân sau khi ủ được sử dụng trong việc trồng rau và cây ăn quả, cây ngắn hạn.
ª Hệ thống chuồng trại chăn nuôi heo: được xây dựng kiên cố để sử dụng lâu dài, có các chuồng dành riêng cho heo nái đang chửa và heo con, có các biện pháp như rải vôi, hay xịt thuốc diệt trùng để heo con và heo nái tránh bị bệnh truyền nhiễm. Có hệ thống vòi uống nước để tránh sự lãng phí nước, cũng như chuồng trại được khô thoáng tránh ẩm ướt.
ª Hồ xử lý chất thải chăn nuôi: sử dụng hồ tuỳ nghi, để vi sinh vật trong nước thải chăn nuôi bị ôxy hoá một phần, ta sẽ trồng thêm bèo tấm, vì trong nước thải chăn nuôi chứa rất nhiều chất dinh dưỡng thích hợp cho bèo tấm phát triển. Bèo tấm một phần làm phân bón cho cây, một phần sử dụng làm thức ăn cho cá, tiết kiệm được chi phí thức ăn trong chăn nuôi và nuôi trồng.
ª Các ao nuôi trồng thủy sản: được bố trí song song, có thể nuôi trồng các loại thuỷ sản khác nhau.
ª Vuờn trồng rau an toàn: được bao lưới xung quanh để hạn chế sự xâm nhập của sâu và rầy. Phân bón được sử dụng trong vườn chính là phân sau khi ủ biogas, tuyệt nhiên trong vườn rau an toàn là không sử dụng thuốc BVTV, phân bón hoá học bị cấm sử dụng ở Việt Nam. Chỉ được dùng các loại thuốc hóa học ít độc hại và phân giải nhanh khi cần thiết, sử dụng đúng liều lượng, đảm bảo thời gian cách ly cho phép theo hướng dẫn của ngành BVTV. Nên sử dụng các loại thuốc vi sinh, thuốc có nguồn gốc thực vật.
ª Vườn trồng cây lâu năm: đối với cây lâu năm như cây đặc sản: chôm chôm, sầu riêng… công việc bón phân và chăm sóc được chú trọng nhất vào thời điểm ra hoa của cây, ta nên có các biện pháp như xịt thuốc được phép sự dụng của bộ nông nghiệp để hạn chế các dịch rầy nâu, rầy trắng, sâu cho cây giúp cây phát triển tốt trong mùa ra trái, có các biện pháp bảo vệ trái tránh như các loại động vật ăn quả như dơi…
ª Khu vực canh tác cây ngắn ngày: chủ yếu là khoai, cây họ đậu. Việc canh tác cây ngắn ngày một phần giúp ích trong việc làm thức ăn cho gia súc, cũng tăng thêm thu nhập cho trang trại. Việc luân canh cây ngắn ngày, như là cây họ đậu giúp việc cải thiện tốt đất trồng.
Ngoài các công trình chính thì hệ thống kênh dẫn và thoát nước vào các vườn cũng được xây dựng hợp lý để tránh ngập úng vào mùa mưa, khô hạn vào mùa nắng.
Bản vẽ sơ đồ mô hình trang trại
CHƯƠNG 6: ĐỀ XUẤT QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ VÒNG ĐỜI SẢN PHẨM LCA CHO CÁC NÔNG SẢN ĐƯỢC NUÔI TRỒNG Ở TRANG TRẠI
6.1 Ý nghĩa của việc đánh giá LCA cho nông sản của trang trại
- Ngày 7-11-2006, Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO (tổ chức mậu dịch thế giới), đây là bước khởi đầu cho các doanh nghiệp Việt Nam
- Ở Việt Nam, nông nghiệp đang là nguồn sinh kế chính của hơn 60% dân số cả nước, có ảnh hưởng trực tiếp đến hơn 2/3 hộ gia đình làm nông nghiệp trong đó có 44% số hộ thuộc diện khó khăn và có nguy cơ tiềm ẩn tái nghèo.
- Với vị trí quan trọng như vậy nông nghiệp là chìa khoá của sự ổn định và phát triển đối với người dân. Trong bối cảnh hội nhập WTO, nông nghiệp nước ta có thể có thêm nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng có không ít những tác động ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của nông nghiệp, ảnh hưởng đến an ninh lương thực cho người nông dân, đặc biệt là người nông dân nghèo.
- Việt Nam gia nhập WTO, những lợi ích tiềm năng bao gồm như mở rộng thị trường cho những mặt hàng xuất khẩu truyền thống nông nghiệp và thuỷ sản, đồng thời chúng ta có cơ hội tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO giúp tránh được những vụ kiện vô lý như là cá ba sa giữa Việt Nam và Mỹ.
- Việt Nam đang là một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn trong khu vực và thế giới với nhiều sản phẩm đặc trưng như cà phê, điều, hồ tiêu, chè, gạo. Thế nhưng khả năng chuyển từ sản xuất thô lên chế biến của các doanh nghiệp nội địa có thương hiệu riêng, tăng giá trị gia tăng trong sản phẩm đang là một quá trình chậm chạp, khó khăn.
- Không chỉ nông sản mà cả ngành chăn nuôi của Việt Nam cũng sẽ gặp phải rất nhiều trở ngại khi gia nhập WTO. Một trong những thách thức đó là mức độ cạnh tranh trong ngành chăn nuôi hiện tại rất là thấp, cụ thể như là năng suất sản xuất, chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm chăn nuôi thị trường nội địa đều có mức cạnh tranh thấp hơn so với cạnh tranh quốc tế.
- Do đó việc đánh giá vòng đời sản phẩm LCA của nông sản trước khi xuất xưởng là một khâu rất quan trọng. Nó đánh giá được chất lượng nông sản, và đây là thủ tục cơ bản để nông sản Việt Nam bước vào thị trường thế giới, để khẳng định thế mạnh về nông sản Việt Nam.Từ đó, chúng ta phát huy thế mạnh thương hiệu nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới.
6.2 Áp dụng LCA cho nông sản của trang trại
6.2.1 Cây trồng
Đối tượng được ứng dụng trong mô hình trang trại sinh thái là sản xuất rau an toàn.
Vòng đời sản phẩm của cây rau là :
Làm đất
Gieo cấy
Chăm sóc
Thu họach
Vận chuyển – tiêu thụ
Thải bỏ
Đề tài của chúng tôi chỉ dừng ở mô hình trang trại sinh thái, nên việc đánh giá vòng đời sản phẩm LCA cho nông sản của trang trại chỉ dừng ở bước thu họach. Còn bước vận chuyển và tiêu thụ thì sẽ được các daonh nghiệp thu mua quản lý.
ª Làm đất
Trước khi gieo trồng, hầu hết các người trồng rau đã cáy một lần để có một lớp đất tơi xốp trên bề mặt. Sau đó, đất được vét thành liếp tùy theo nhu cầu sản xuất mà liếp rau lớn hay nhỏ, thông thường để thuận tiện cho gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch thì 1 liếp rau thường có chiều ngang 1-1.2 m, chiều dài tùy diện tích dất trồng mà chia ra. Các liếp rau thường cách xa nhau từ 0.2m đến 0.3m. Kỹ thuật chủ yếu trong vét hàng là dùng cuốc xới đất cho tơ xốp cán nhuyễn. Sau đó bón lót 1 lớp phân chuồng hay vôi để rửa đất diệt côn trùng, ngăn ngừa mầm bệnh và làm tăng chất lượng đất.
Sau khi vào sản xuất hầu hết công việc làm đất được nhẹ nhàng hơn nhiều. Sau một vụ thu hoạch chỉ xới đất vét lại hàng sơ qua và hòa chung vào lớp đất này 1 lượng phân thích hợp để cấy rau phát triển để lên. Ngoài ra còn sử dụng thêm thuốc diệt kiến và côn trùng.
ª Gieo trồng
Sau khi đã chọn giống thích hợp. giống được gieo xuống đất bằng cách :
Đất sau khi làm xong được phơi nắng 3 đến 4 ngày sau đó tưới nhẹ một lớp nước để tạo độ ẩm trong đất. Bón lót một lớp phân mỏng thường sử dụng các phân chuồng, phân hóa học, bánh dầu, phân vi sinh …
Sau khi bón lót xong, hạt giống được trộn chung với cát rồi gieo xuống từng liếp. Sau đó rải lên liếp 1 lớp tro để dằn hạt xuống và thường xuyên tưới sương lớp nước giữ ẩm cho đất. Khoảng 20 ngày, hạt cây nảy mầm và lên cây con, số cây con này được chọn theo tiêu chuẩn khỏe, mập để cấy xuống những liếp khác.
ª Chăm sóc
Giai đoạn chăm sóc, cây từng ngày được lớn lên, sinh trưởng và phát triển. Trong giai đoạn này, cây thường trải qua các quy trình sau :
Làm cỏ
Xịt thuốc
Bón phân
Tưới nước
Đây là giai đoạn trưởng chính của cây trồng, do đó trong công tác chăm sóc được kết hợp nhiều hình thức khác nhau.
Làm cỏ, giúp cây cỏ đủ chất dinh dưỡng từ đất, và có đủ diện tích để sinh trưởng phát triển.
Xịt thuốc, kích thích sự tăng trưởng của cây, giúp cây phát huy hết tiềm năng của sự tăng trưởng. Đồng thời diệt sâu bọ gây hại đến sự tăng trưởng của cây.
Bón phân, tăng cường chất dinh dưỡng cho đất cung cấp chất dinh dưỡng, khoáng chất cho cây . Đây cũng là một hình thức kích thích giúp cây tăng trưởng phát triển.
Tưới nước, là công việc hằng ngày phải được thực hiện khi trồng cây. Nước cung cấp nước, tạo độ ẩm, pH cho đất, cung cấp nước và môi trường thích hợp cho cây phát triển. Đồng thời nước còn giúp cây vận chuyển các khoáng chất và chất dinh dưỡng nuôi cây.
Những cách thức sử dụng thuốc BVTV sai thường gặp :
Sử dụng các lọai thuốc BVTV đã bị cấm hoặc hạn chế sử dụng, do không biết hoặc muốn hiệu quả diệt sâu cao, bảo vệ mùa màng.
Lạm dụng thuốc theo đúng nghĩa dùng qua 1nhiều đợt phun cho một vụ rau quả, thường xuyên ở nồng độ cao hơn nhiều so với hướng dẫn ghi trên nhãn.
Không đảm bảo thời gian cách ly kể từ khi phun lần cuối đến khi thu hái sản phẩm vì muốn kịp phiên chợ để bán rau hoặc cần ăn ngay.
Sự thiếu thông tin, kiến thức về độc tính và cách sử dụng thuốc BVTV và những lợi ích trước mắt.
Bảng 13 : So sánh kỹ thuật dùng thuốc trên RAT và RKAT
Sâu bệnh
Số hộ sử dụng thuốc
Số lần phun
Loại thuốc
RAT
RKAT
RAT
RKAT
Sâu da láng
( sâu xanh)
Sâu tơ
Sâu đo
Côn trùng
Bọ trĩ
Đóm lá
Rỉ sắt
Nấm
Thối nhũng
Kiến
Cỏ
Bioxin
Tập kỳ
Atabron
Sec SG
Netoxin
Regent
Bioxin
Sec SG
Netoxin
Bioxin
Sec SG
Netoxin
Sec SG
Tribodan
Loran
Admire
Vicarben
Ridomin
An vil
Carbenzim
Topsin 50 WP
Loran
Vicarben
Furadan
Lasso
8
1
4
3
3
4
8
3
3
8
3
3
11
1
5
8
5
5
8
2
0
9
1
11
9
4
2
6
2
1
7
4
2
1
4
2
1
2
1
4
9
2
4
9
0
6
10
5
10
11
1-2
2-3
2-3
2-3
2-3
2-3
2-3
2-3
1-2
1-2
2-3
1-2
1-2
1-2
1-2
1-3
1-2
1-2
2-3
2-3
1-2
1-2
1
1
1
3-5
3-6
4-6
3-4
4-5
3-6
3-4
2-3
1-3
2-3
3-4
3-5
3-5
3-5
3-4
3-5
3-5
3-4
2-5
0
3-5
3-4
1
1
1-2
(Nguồn www.vnexpress.net)
Qua điều tra, phần đông nông dân sử dụng thuốc theo cảm tính, khi nào có sâu thì phun. Liều lượng phun tùy thuộc vào tình hình sâu bệnh và kinh nghiệm. Nông dân không được hướng dẫn cụ thể và huấn luyên về cách sử dụng thuốc. Một số nông dân giao việc chọn thuốc cho người bán. Họ sử dụng nhiều loại thuốc khác nhau nhưng không hiểu gì về tác dụng, trách nhiệm thuộc về người bán, phải đoán đúng loại sâu để bán đúng loại thuốc. một số nông dân còn sử dụng thuốc ấm do có giá thành rẻ mà tác dụng nhanh. Nông dân thường phun thuốc sáng sớm hoặc chiều tối.
Một số loại thuốc trừ sâu nông dân thường sử dụng : Tập kỳ, Dipel, Selecron 500 EC, Ammate, Abemectin, topsin, Atazron, Trebon, Sherpa, Padan …
Các loại phân vô cơ hay phân hóa học thường được sử dụng
Phân đạm : loại phân vô cơ chứa N dưới dạng Ammonium (NH4+) hoặc nitrat (NO3-). Đặc diểm chung của lọai phân này là những tinh thể trắng, dễ tan trong nước, dễ hút ẩm, nên dễ chảy ngòai không khí. Các lọai phân đạm thường gặp là :
Đạm Sulphat (NH4)2SO4 (SA) : có màu trắng, kết tinh.
Đạm chlorur (NH4Cl) : dạng bột trắng, kết tinh, rất dễ tan trong nước.
Đạm nitrat (NH4NO3) : dạng muối kết tinh trắng, rất dễ tan, dễ chảy nước, hay bị đóng cục.
Urea CO(NH2)2 : dạng tinh thể màu trắng, không mùi, dễ chảy nước.
Phân lân : lọai phân vô cơ dạng muối phosphat đặc trưng bởi thành phần P2O5, thường gặp là :
Super phosphat đơn : thành phần hóa học chính là Monocalciphosphat Ca(H2PO4)2 có dạng bột màu xám, có tính acid, dễ tan trong nước.
Super phosphat kép : dạng hạt trong những hạt nhựa, dễ tan trong nước.
Phân lân nung chảy : có dạng bộ màu trắng xanh, không mùi vị, không tan trong nước, có tính kiềm nhẹ.
Phân kali : chủ yếu thường gặp là :
Kali chlorur (KCL) : có màu trắng, vị mặn.
Kali Sulphat (K2SO4) : dạng bột màu trắng, vị hơi đắng, ít chảy nước.
Hiện nay thông dụng là các loại phân bón vô cơ tổng hợp như : DAP, NPK,…
ª Thu họach:
Sau một thời gian tăng trưởng và phát triển, tùy từng loại rau mà ta có thời gian thu hoạch nhất định.
Ví dụ :
Chủng loại
Cải
Xà lách
Rau đay
Thời gian
( ngày)
35
40
30
(Nguồn www.vnexpress.net)
Chủng loại
Rau dền
Rau mồng tơi
Rau muống
Thời gian
( ngày)
30
24
35
(Nguồn www.vnexpress.net)
Tùy thuộc vào diện tích trồng, giống, kỹ thuật chăm sóc mà sản lượng từng loại rau được thu hoạch khác nhau.
Và công tác này cũng được tiến hành tương tự cho cây ăn quả và cây công nghiệp.
6.2.2 Vật nuôi
Đối với gia súc, thì điển hình là heo. Quy trình nuôi heo gồm các giai đọan sau:
Xây dựng chuồng trại
Nhập con giống
Chăm sóc và tăng trưởng
Xuất xưởng
Xây dựng chuồng trại
Đối với mô hình trang trại thì số lượng vật nuôi , điển hình như là heo thì không ngừng ở số lượng hàng chục con, mà lên cả hàng trăm hay hàng ngàn con. Nên vấn đề xây dựng chuồng trại không phải là không quan trọng, chính việc bố trí chuồng trại và vệ sinh cho chuồng trại ảnh hưởng đến chất lượng vật nuôi.
Khi số lượng heo lớn thì ta nên làm chuồng hai dãy, còn gọi là chuồng hai mái. Kiểu chuồng này có hai dãy đâu mặt vào nhau, giữa có một hành lang rộng khoảng 2m xuyên suốt dọc theo chiuều dài của hai dãy chuồng để làm lối qua lại hầu dễ dàng trong việc chuyển vận thức ăn hàng ngày cho heo, đồng thời tiện cho việc chăm sóc và vệ sinh chuồng trại. Phía sau hai dãy chuồng cũng có hành lang hẹp, tiếp giáp với sân nắng để hằng ngày thả heo ra đó vận động.
Kiểu chuồng hai mái do mặt tiền của hai dãy đâu mặt vào nhau nên phía hậu của một dãy được quay về hướng tốt là đông hay đông nam, vá mặt hậu dãy kia phải hướng về phía tây hay tây bắc, vừa nóng vừa lạnh. Do đó, dãy có mặt hậu hướng về phía tây hay tây bắc cần có cây cao bóng cả toả bóng mát che phủ để ngăn cản nắng chiều rọi vào chuồng, và có rèm sáo phủ kín cửa ngõ trong mùa lạnh giá và mưa bão, như vậy heo mới sinh trưởng tốt.
Mỗi dãy chuồng cũng được chia ra nhiều ngăn và mỗi ngăn cần trổ hai cửa: cửa mặt tiền để nhân công tiện ra vào khi cần, và cửa mặt hậu để lùa heo ra sân phơi nắng.
Vật liệu xây dựng chuồng trại: việc chăn nuôi trong trang trại là một việc làm mang tính lâu dài và áp dụng các kỹ thuật nhằm đạt năng suất tốt nhất. Do đó, chúng ta nên làm chuồng với vật liệu đắt tiền, như vậy mới bền chắc, sử dụng được về lâu về dài lại dễ quét dọn hợp vệ sinh.
Môi trường chăn nuôi không hợp vệ sinh gây nên bệnh giun sán ở động vật cũng như người lao động trực tiếp tăng gia sản xuất.
Mái chuồng nên lợp bằng tôn lạnh, hoặc ngói. Mái cần có độ dốc cần thiết để tránh dột, và phải cao hơn 3m so với mặt nền chuồng như vậy mới tại được sự thông thoáng, mát mẻ. Chuồng mà ngột ngạt, nóng bức sẽ gây hại cho sức khoẻ của vật nuôi.
Vách chuồng nên xây dựng bằng gạch, tô ximăng kỹ và quét vôi 6 tháng 1 lần để sát trùng mới tốt. Tùy theo khí hậu mỗi vùng mà vách chuồng có thể xây cao lên tận mái để ngăn ngừa gió lạnh bên ngoài tràn vào, hoặc tường vách chỉ xây lưng chừng, để trống phần trên cho mát mẻ trong mùa nắng (trong mùa mưa bão mới treo rèm, bạt…). Hai đầu nên có cửa chống để giúp không khí trong chuồng được thông thoáng hơn vào ban ngày, và chỉ khi cần thiết, như vào ban đêm thời tiết trở lạnh mới sập cửa chống xuống.
Vách ngăn giữa hai chuồng liên kế nhau cũng nên xây gạch, tô ximăng kỹ, như vậy mới chống giữ sự cọ xát và cắn phá của heo. Chỉ có vách gạch mới giúp ta giữ vệ sinh chuồng trại dễ dàng mỗi khi xịt rửa… Vách ngăn chuồng có thể xây cao 1m hay 1.2m tuỳ theo heo nuôi có kích thướt lớn hay nhỏ.
Nền chuồng nên tráng ximăng, tốt nhất là đổ bêtông, như vậy mới đủ sức chịu đựng sự ủi phá của heo. Nền chuồng cần có độ nhám cần thiết để heo khỏi trượt ngã gây thương tật, nhất là ở chuồng heo nái, và phải có độ dốc cần thiết để nước rửa chuồng và nước tắm heo không đọng vũng lại mà trôi tuột hết xuống mương rãnh phía sau. Nên chuống càng khô ráo, càng sạch sẽ , heo nuôi càng khoẻ mạnh.
Cần ngăn chuồng riêng biệt cho heo nái đang chửa, heo nái đáng nuôi con, và heo thịt...
Nhập con giống
Khi thành lập trang trại, chúng ta cần chú ý đến việc nhập nguồn giống đầu vào. Đối với giống vật nuôi, cần liên hệ với trạm khuyến nông địa phương để biết rõ về nguồn gốc xuất xứ. Theo xu hướng hiện nay, các trang trại đều chọn các giống heo hướng nạc vì trong mỡ động vật nói chung, mỡ heo nói riêng chứa nhiều choesterol gây hại cho sức khoẻ nên không như thị trường ưa dùng như trước.
Cần có một cái bảng để theo dõi số lượng heo giống nhập vào, nguồn gốc xuất xứ, đặc điểm sinh trưởng để có sự chăm sóc tốt nhất. (Có thể tham khảo theo mẫu bảng sau)
Bảng 14 : Bảng theo dõi quá trình nhập giống heo trong trang trại
STT
Giống heo
Số lượng
Ngày nhập
Đặc điểm sinh trưởng
¶ Chăm sóc và tăng trưởng
Thành phần thức ăn cần thiết để nuôi heo bao gồm các chất: bột đường, chất đạm, chất béo, chất khoáng và vitamin. Thức ăn mà thiếu một trong các thành phần trên trong nhiều ngày liền sẽ ảnh hưởng xấu đến sức tăng trọng của heo.
Chất bột đường cần thiết cho sự sinh trưởng của heo. Thức ăn nuôi heo mà thiếu chất bột đường trầm trọng heo sẽ không được cung cấp đủ nhiệt lượng và nhiệt năng, từ đó dẫn đến việc heo con, heo lứa thường mắc chứng cảm lạnh, cơ thể suy nhược, sức đề kháng yếu nên dễ mắc nhiều thứ tật bệnh. Heo mẹ ăn thiếu chất bột đường sẽ bị chứng viêm vú do cơ thể không đồng hoá được chất đạm thành sữa. Chất bột đuờng có trong gạo, tấm gạo; cám gạo; bột bắp vàng; khoai lang; khoai mì.
Chất đạm đóng vai trò rất quan trọng, nên không thể thiếu được. Nếu thức ăn thiếu chất đạm, các tế bào của tất cả các cơ quan trọng cơ thể heo sẽ không được nuôi dưỡng và tu bổ đúng mức nên cơ thể heo suy yếu dần, dẫn đến ốm đau rồi chết. Chất đạm do thực phẩm cung cấp cho heo hàng ngày đã góp phần tạo ra xương, thịt, da, lông, máu huyết nhờ đó mà heo sinh trưởng tốt và tăng trọng nhanh. C1o hai nguồn đạm chính đó là đạm thực vật và đạm động vật. Chất đạm có trong bột cá; bột thịt; bột sữa; bánh dầu phộng; bánh dầu dừa; đậu xanh, đậu nành.
Chất béo trong thực phẩm nuôi heo cung cấp hiệt lượng và nhiệt năng giúp heo sống sởn sơ và mập mạnh. Thế nhưng không nên cho heo ăn nhiều chất béo, nhất là heo thịt, vì nếu dư dùng heo sẽ mập mỡ và có thể bị bệnh tiêu chảy.
Chất khoáng đóng vai trò quan trọng trong sự dinh dưỡng của heo như kiến tạo và bảo vệ các tế bào, như giúp cơ thể heo đồng hoá chất bột đường, chất đạm và chất béo. Vì vậy nếu thiếu khoáng thì các cơ quan đều bị suy nhược, năng suất thịt sữa cũng bị giám và mất dần năng lực đề kháng…Nếu thiếu khoáng chất thì cho dù heo có ăn đầy đủ các chất bột đường, đạm, chất béo đi nữa thì cũng vô ích vì những chất này không được đồng hoá. Do đó, nếu để tình trạng thiếu khoáng kéo dài thì heo sẽ suy nhược dần và bệnh tật sẽ có cơ hội tốt để xâm nhập vào cơ thể. Chất khoáng gồm chất vôi; chất photpho; muối; và các chất khoáng vi lượng.
Vitamin cần thiết cho sự sinh trưởng và sinh sản của heo, có nhiều trong rau xanh. Các vitamin cần thiết là vitamin A; B; D; E.
Thức ăn hỗn hợp được chế biến sẵn: đây là nguồn thực phẩm đáng tin cậy và tiện lợi tuy nhiên nếu chỉ sử dụng một loại thức ăn này sẽ tốn một chi phí đáng kể.
Heo uống rất nhiều nước, nhất là trong mùa nắng hạn. heo con vừa lẻ bầy uống từ 1 đến 2 lít mỗi ngày. Loại heo lứa 40-50 kg thì uống khoảng 5 lít mỗi ngày. Heo từ 100 kg trở lên uống từ 7-10 lít. Nên có hệ thống vòi tự động cho heo uống nước nhằm không làm hoang phí nuớc, mặt khác còn đảm bảo vệ sinh chuồng trại không bị nước làm hôi ẩm.
Chúng ta nên lập một bảng để theo dõi thức ăn hàng ngày của đàn heo, nhằm mục đích kiểm tra chất lượng thức ăn, thành phần thức ăn hay dự đoán được khả năng có thể mắc bệnh ở heo và cân bằng dinh dưỡng cho heo một cách hợp lý.
Bảng 15: Bảng theo dõi thức ăn hàng ngảy của heo
NGÀY
LOẠI THỨC ĂN
THÀNH PHẦN
NGUỒN NƯỚC UỐNG
GHI CHÚ
Vệ sinh chuồng trại: 2 lần một ngày, nhằm tránh gây mùi hôi do thành phần chất thải trong phân heo lên men phân huỷ.
Chăm sóc heo: xây dựng sân nắng bên cạnh chuồng, cho heo ra phơi nắng độ từ 8h đến 10 h mỗi ngày, vừa vận động vừa phơi nắng giúp tổng hợp được vitamin D và tạo nên sự năng động ở heo.
Trong qua trình sinh sản: nên theo dõi kỹ từng con heo nái đến ngày sinh sản, có phương pháp đỡ đẻ heo con tốt tránh gây hiện tượng heo con chết sau khi sinh. Heo con sau khi sinh được cho ở một chuồng khác và các phương pháp khử trùng tránh được các bệnh truyền nhiễm do heo con mới sinh có sức đề kháng yếu.
Phòng và trị bệnh cho heo: nên tiêm phòng để ngăn ngừa các bệnh truyền nhiễm do cực vi trùng và vi khuẩn gây ra như bệnh dịch tả, bệnh toi, bệnh lở mồm long móng… Tạo một môi trường sống cho heo thật tốt như vệ sinh chuồng trại thường xuyên, thoáng mát, sách sẽ, khẩu phần ăn có thành phần dinh dưỡng hợp lý để giúp chúng tăng sức đề kháng, lướt qua một số bệnh tật thông thường. Các người quản lý trang trại phải thường xuyên truy cập các thông tin mới nhất về cách phòng và trị bệnh cho heo để có thể có các biện pháp ngăn ngừa kịp thời nếu dịch bệnh xảy ra.
¶ Xuất xưởng
Đến một trọng lượng cần thiết, thì đàn heo đạt yêu cầu xuất xưởng ra thị trường. Với sự theo dõi chặt chẽ từ khâu nhập giống đến khâu chăm sóc, giá trị kinh tế của heo được nâng lên đáng kể, và trang trại sẽ là một nhà cung cấp đáng tin cậy cho người tiêu dùng.
Bảng 16: Bảng theo dõi quá trình xuất xưởng heo
STT
GIỐNG HEO
SỐ LƯỢNG
(CON)
TRỌNG LƯỢNG TRUNG BÌNH (Kg/ con)
NGÀY XUẤT XƯỞNG
TÌNH TRẠNG SINH TRƯỞNG
GHI CHÚ
CHƯƠNG 7: KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
7.1 Kết luận
Hiện nay, ở Việt Nam có hơn 100.000 trang trại với quy mô lớn nhỏ thu hút hơn 20 triệu lao động Việt Nam. Loại hình kinh tế mới này đã huy động được nguồn nhân lực, vốn, vật tư để phát triển nông nghiệp, nâng cao đời sống của người nông dân. Bên cạnh những lợi ích từ hoạt động kinh tế trang trại đem lại thì trong quá trình hình thành và phát triển các loại hình hoạt động như chăn nuôi, trồng trọt và nuôi trồng thủy sản cũng đã và đang tác động xấu đến môi trường. Các vấn đề ô nhiễm ôi trường từ các trang trại chăn nuôi chủ yếu từ phân rác của gia súc gây ảnh hưởng đến môi trường không khí, đất, nước và đặc biệt là sức khoẻ con người. Các trang trại nuôi trồng thủy sản thì tác động đến hệ sinh thái rừng ngập mặn do lấy đất làm ao nuôi tôm, cá làm cạn kiệt tài nguyên sinh vật và gây ô nhiễm môi trường nước nghiêm trọng.
Qua đồ án chúng tôi khảo sát được rằng hiện nay trên toàn Huyện Trảng Bom theo số liệu khảo sát có hơn 410 trang trại với các loại hình trồng trọt và chăn nuôi khác nhau, và rút ra được những vần đề sau:
Loại hình hoạt động kinh tế trang trại của địa phương ngày càng được phát triển và mở rộng, vì điều kiện tự nhiên của huyện rất thích hợp với mô hình kinh tế trang trại.
Hầu hết các trang trại hoạt động sản xuất kinh doanh đều mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với các hộ nông dân sản xuất khác. Có những trang trại thu nhập lên đến hàng trăm triệu đồng, kinh tế trang trại đã cải thiện được một phần đời sồng tinh thần cho nhiều hộ trang trại và đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho người dân. Chỉ một số ít trang trại sản xuất kinh doanh không hiệu quả là do giá cả thị trường chi phối.
Kinh tế trang trại đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho nông dân và lao động xã hội, tăng thu nhập.
Kinh tế trang trại đã thúc đẩy tình hình sử dụng đất đai có hiệu quả hơn. Các trang trại đã tích cực đi đầu hương ứng chương trình phủ xanh đất trống, đồi trọc, khai phá đất hoang, đất mặt nước để đưa vào sử dụng.
Nhìn chung, mô hình trang trại đang là phương thức sản xuất kinh doanh điển hình đối với người dân nông thôn địa phương, là loại hình làm ăn hiệu quả phù hợp với tình hình kinh tế xã hội hiện nay. Song, bước đầu vẫn còn những tồn tại đối với các trang trại như sau:
Vấn đề về môi trường trong trang trại đang có nguy cơ bùng nổ nghiêm trọng, việc lạm dụng quá mức các loại thuốc BVTV, phân bón hoá học gây suy thoái nghiêm trọng cho môi trường đất canh tác và môi trường nước.
Các trang trại hoạt động chăn nuôi gây ảnh hưởng không nhỏ đến các môi trường thành phần do chất thải chăn nuôi và mùi hôi phát sinh trong quá trình phân huỷ chất thải.
Trình độ học vấn của người nông dân còn thấp nên việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong nông nghiệp còn yếu kém và hạn chế. Nhận thức của họ về vấn đề môi trường chưa cao nên việc áp dụng các mô hình trang trại nhằm giảm thải lượng chất thải như VAC còn dừng ở mức độ thấp.
7.2 Kiến nghị
7.2.1 Đối với cơ quan quản lý nhà nước
Hy vọng trong một tương lai gần, các cơ quan quản lý trang trại có thể áp dụng mô hình trang trại sinh thái này nhằm cải thiện về mặt môi trường cho nông thôn, góp phần phát triển nông nghiệp và nông thôn hiện nay.
Trang trại sinh thái phát triển đến một mức ổn định. Chúng ta có thể phát triển một loại hình du lịch mới dựa trên nền tản trang trại sinh thái đó là du lịch sinh thái. Đây là một loại hình du lịch mới đấy tiềm năng phát triển, nhằm bảo vệ môi trường và phát triển nông nghiệp theo một hướng bền vững.
Đây là những hướng phát triển kinh tế tích cực, góp phần thúc đầy kinh tế khu vự nông thôn phát triển, xoá bỏ sự chênh lệch đối với nông thôn và thành thị trong các mặt.
Các cơ quan thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, hội thảo nhằm giới thiệu các mô hình kinh tế trang trại đa dạng thích hợp với điều kiện địa phương để người nông dân có thể chọn lựa một hướng phát triển tích cực trong hoạt động kinh tế trang trại.
Nâng cao trình độ văn hoá của người nông dân, để họ có thể dễ dàng tiếp thu những ứng dụng khoa học kỹ thuật mới trong nông nghiệp.
7.2.2 Đối với người nông dân
Người nông dân không chỉ học hỏi và tìm tòi hướng đi mới trong hoạt động kinh tế nông nghiệp, mà người nông dân còn phải chủ động trong việc sáng tạo ra những mô hình kinh tế trang trại khác phù hợp với điều kiện địa phương nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất.
Ngoài ra ý thức của người nông dân trong việc bảo vệ môi trường là rất quan trọng, một khi ý thức được nâng cao thì việc áp dụng những mô hình trang trại thân thiện với môi trường rất dễ.
._.