Đánh giá dự án chăn nuôi bò thịt chất lượng cao tại thị xã Phúc Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc

ĐẶT VẤN ĐỀ Cùng với sự phát triển của ngành trong cả nước, ngành chăn nuôi nước ta hiện nay đang được Đảng và Nhà nước quan tâm và có chiều hướng phát triển thành ngành chính trong nền sản xuất nông nghiệp. Nhằm nâng cao cả về số lượng và chất lượng đàn gia súc phục vụ cho nhu cầu thực phẩm tiêu dùng và xuất khẩu. Thị xã Phúc Yên đã tổ chức thực hiện nhiều chương trình, dự án nhằm mục tiêu này, trong đó có “dự án chăn nuôi bò thịt chất lượng cao tại thị xã Phúc Yên” là sự cần thiết có tính chi

doc53 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2613 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá dự án chăn nuôi bò thịt chất lượng cao tại thị xã Phúc Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ến lược cho sự phát triển đàn gia súc nói riêng và nghành trồng trọt nói chung của tỉnh trong những năm tới.Trong đó việc đánh giá tính khả thi của dự án chăn nuôi bò thịt và nghiên cứu đưa những tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng vào chăn nuôi là điều hết sức cần thiết trước mắt và cả tương lai. “Đánh giá dự án chăn nuôi bò thịt chất lượng cao tại thị xã Phúc Yên-tỉnh Vĩnh Phúc” sẽ cho chúng ta thấy một cái nhìn tổng quát về dự án cũng như tính khả thi của dự án để từ đó có sự điều chỉnh trong việc triển khai thực hiện, hoàn thiện dự án nhằm phát huy hiệu quả cao nhất của dự án, đem lại lợi ích thiết thực cho người dân. Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần: Chương I: Một số vấn đề về xây dựng dự án chăn nuôi bò thịt chất lượng cao tại thị xã Phúc Yên -tỉnh Vĩnh Phúc ChươngII: Đánh giá về dự án chăn nuôI bò thịt chất lượng cao tại thị xã Phúc Yên -tỉnh Vĩnh Phúc. Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao tính khả thi của dự án chăn nuôI bò thịt chất lượng cao tại thị xã Phúc Yên -tỉnh Vĩnh Phúc. Với vốn kiến thức còn hạn chế nên trong quá trình thực hiện đề tài không tránh khỏi nhưng sai sót, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô cùng các cô, chú trong cơ quan. Em xin chân thành cảm ơn thầy PGS.TS Phạm Văn Khôi; các cô, chú trong phòng Nông nghiệp & phát triển nông thôn thị xã Phúc Yên đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG DỰ ÁN CHĂN NUÔI BÒ THỊT CHẤT LƯỢNG CAO TẠI THỊ XÃ PHÚC YÊN-TỈNH VĨNH PHÚC I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG 1. Dự án đầu tư Có thể hiểu rằng dự án đầu tư nói chung, dự án đầu tư phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn nói riêng, là một tổng thể các hoạt động dự kiến với các nguồn lực và chi phí cần thiết, được bố trí theo một trình tự chặt chẽ với lịch thời gian và địa điểm xác định nhằm tạo ra những kết quả cụ thể để thực hiện những mục tiêu kinh tế – xã hội nhất định. Trong Nông nghiệp và kinh tế nông thôn có thể phân biệt hai nhóm dự án theo phạm vi đầu tư là: - Nhóm các dự án đầu tư theo phạm vi ngành, vùng. Mục đích của các dự án này là khai thác các nguồn tài nguyên và điều kiện kinh tế – xã hội của các ngành, các vùng để phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. - Nhóm các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nông nghiệp và các doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế nông thôn nhằm thực hiện mục tiêu và chiến lược sản xuất kinh doanh doanh nghiệp. 2. Khái niệm thẩm định dự án Thẩm định dự án đầu tư là việc kiểm tra, so sánh, đánh giá một cách khách quan, khoa học và toàn diện các nội dung của dự án, hoặc so sánh đánh giá các phương án của một dự án hay nhiều sự án, để đánh giá tính hợp lý, tính hiệu quả và tính khả thi của dự án. Từ đó có những quyết định về đầu tư và cho phép đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư nhằm mục đích - Đánh giá tính hợp lý của dự án: Tính hợp lý được biểu hiện một cách tổng hợp trong nội dung nghiên cứu và cách thức tính toán của dự án (hợp lý trong xác định mục tiêu, trong xác định và nghiên cứu các nội dung của dự án, trong phương pháp tính toán, trong xác định khối lượng công việc cần tiến hành, các chi phí cần thiết và các kết quả đạt được…). - Đánh giá tính hiệu quả của dự án: Hiệu quả được xem xét triên các phương diện về tài chính và kinh tế xã hội của dự án. Tính hiệu quả được biểu hiện ở các chỉ tiêu được đánh giá của dự án. Trong đó có thể so sánh đánh giá giữa đồng vốn bỏ ra với hiệu quả mang lại của từng dự án, có thể so sánh hiệu quả giữa các phương án của dự án. Nhưng cũng có thể xem xét nó với các vấn đề bên ngoài nhưng có liên quan với dự án (đầu tư cho dự án có hiệu quả hơn so với đầu tư khác hay không ? ). - Đánh giá tính khả thi của dự án: Đây là mục đích hết sức quan trọng trong thẩm định dự án. Một dự án hợp lý và hiệu quả cần phải có tính khả thi. Tất nhiên, hợp lý và hiệu quả là hai điều kiện quan trọng để dự án có tính khả thi. Nhưng tính khả thi còn phải xem xét với nội dung và phạm vi rộng hơn của dự án (xem xét kế hoạch tổ chức thực hiện môi trường pháp lý của dự án…) II. CÁC NỘI DUNG CỦA THẨM ĐỊNH DỰ ÁN 1. Thẩm định các điều kiện pháp lý Các điều kiện pháp lý để thẩm định và xét duyệt dự án đầu tư khả thi phát triển nông nghiệp, nông thôn bao gồm các văn bản và các thủ tục với các yêu cầu thẩm định sau: - Hồ sơ trình duyệt có đủ theo quy định và có hợp lý hay không ? Các loại văn bản trong hồ sơ trình duyệt tùy theo loại dự án đã được quy định ở trên. - Tư cách pháp nhân và năng lực của chủ đầu tư. Bao gồm: + Quyết định thành lập, thành lập lại các doanh nghiệp nông nghiệp, Nhà nước, các hợp tác xã nông nghiệp đã chuyển đổi hoặc giấy phép hoạt động đối với các thành phần kinh tế khác. Trong những trường hợp khác sẽ do Nhà nước quy định. Ví dụ: các dự án theo Quyết định 327/QĐTTg cho phép Ủy ban nhân dân xã là chủ đầu tư nếu ở đó không có doanh nghiệp Nhà nước hoạt động. Ủy ban nhân dân xã phải có quyết định của Ủy ban nhân dân huyện hoặc tỉnh cho phép có tư cách pháp nhân trong quản lý dự án. + Người đai diện chính thức. + Năng lực kinh doanh: Phải có các văn bản thể hiện năng lực về tài chính (biểu hiện ở năng lực về nguồn vốn tự có, điều kiện thế chấp khi vay vốn…). + Địa chỉ liên hệ, giao dịch. Những năm trước đây, nội dung thẩm định này rất đơn giản vì phải qua rất nhiều bước mới đến bước thành lập Hội đồng và tiến hành thẩm định dự án. Những thành viên Hội đồng phần lớn làm công tác quản lý nên đã biết rất rõ về người đại diện của dự án, về địa phương dự án đầu tư. Hơn nữa các dự án chủ yếu được thực hiện thông qua nguồn vốn của Nhà nước số dự án còn ít nên dễ quản lý. Tuy nhiên do sơ suất, đôi khi vì những lý do khó xác định việc thẩm định dự án đã bỏ qua các điều kiện pháp lý (phổ biến nhất là bỏ qua việc thẩm định điều kiện về năng lực kinh doanh) nên đã gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng. Hiện nay, có rất nhiều đơn vị và cá nhân tham gia đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, sự quản lý đầu tư đã trở nên phức tạp hơn. Vì vậy thẩm định các điều kiện pháp lý là rất cần thiết và phải được thực hiện nghiêm ngặt. Đối với các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài cần có thêm các văn bản pháp lý sau. + Bản cam kết đã cung cấp thông tin chính xác về những vấn đề liên quan đến doanh nghiệp. + Một số văn bản về thỏa thuận trong trường hợp liên doanh. + Bản cam kết tuân thủ luật pháp Việt Nam của phía nhà đầu tư nước ngoài. 2. Thẩm định các mục tiêu của dự án Trong đánh giá hiệu quả của dự án có sự so sánh giữa các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả dự án đạt được với mục tiêu của dự án. Nếu mục tiêu của dự án xác định phù hợp, việc đánh giá hiệu quả của dự án sẽ phản ánh đúng chất lượng của dự án. Nếu mục tiêu của dự án xác định quá cao hoặc quá thấp, sự so sánh giữa các chỉ tiêu hiệu quả với mục tiêu của dự án sẽ cho những kết luận không phù hợp với mục tiêu của dự án sẽ cho những kết luận không phù hợp về dự án. Vì vậy, cần thiết phải có sự thẩm định mục tiêu của dự án làm cơ sở cho sự đánh giá chất lượng của dự án. Nội dung thẩm định mục tiêu của dự án gồm: - Mục tiêu của dự án có phù hợp với chương trình và kế hoạch phát triển kinh tế chung của cả nước hoặc của từng vùng kinh tế hay không? Để thẩm định vấn đề này cần có sự lượng hóa mục tiêu bằng những tiêu thức cụ thể tạo điều kiện cho việc thẩm định chi tiết và đạt được kết quả cao, tránh thẩm định một cách qua loa đại khái. Ví dụ: Khi thẩm định dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn chúng ta phải xác định dự án thuộc chương trình nào. Hiện nay, trong nông nghiệp, nông thôn có rất nhiều chương trình: Chương trình phát triển kinh tế trang trại, chương trình trồng 5 triệu ha rừng, chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình cho vay giải quyết việc làm (chương trình 120)… Nhiều khi đối tượng dự án thuộc nhiều chương trình, nếu không xác định rõ mục tiêu theo các tiêu thức cụ thể sẽ dẫn đến tình trạng đánh giá dự án thiếu cơ sở và các kết luận đưa ra là không phù hợp. Trên cơ sở mục tiêu của chương trình kế hoạch phát triển tiến hành thẩm định mục tiêu của dự án. Mục tiêu của án và mục tiêu của chương trình, kết cấu phải thống nhất với nhau. Tuy nhiên đối với dự án, ngoài yêu cầu mục tiêu phải phù hợp với mục tiêu của chương trình (gọi là mục tiêu chính) còn có thể có những mục tiêu phụ, nhưng không mâu thuẫn và cản trở mục tiêu chính. - Ngành nghề trong dự án có thuộc nhóm ngành nghề Nhà nước cho phép hoạt động không? Nhìn chung các nhóm ngành trong nông nghiệp đều thuộc nhóm ngành Nhà nước khuyến khích phát triển. Riêng một số ngành, lĩnh vực ngoài nông nghiệp, nhưng đầu tư ở lĩnh vực nông thôn lại cần xem xét. Vì vậy cần thiết phải thẩm định. Nội dung của thẩm định là xem xét chủ đầu tư (chủ thể của dự án) có được phép kinh doanh của ngành đó hay không?. - Mục tiêu của dự án có thuộc nhóm ngành ưu tiên hay không? nếu thuộc nhóm ngành ưu tiên thì dự án sẽ được hưởng các chế độ ưu đãi và khi xét duyệt sẽ thuận lợi hơn. 3. Thẩm định về thị trường của dự án đầu tư Các vấn đền liên quan đến thị trường, khi xây dựng dự án các nhà chuyên môn đã sử dụng những công cụ đánh giá, phân tích khoa học, nhưng nông nghiệp, nông thôn là lĩnh vực hết sức phức tạp và có nhiều đặc điểm, đặc thù. Vì vậy trong tính toán, xác định các phương án không tránh khỏi những sai sót. Thẩm định về thị trường dự án cần tập trung vào xử lý các vấn đề sau: - Kiểm tra tính toán về nhu cầu hiện tại, tương lai, khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án, khả năng chiếm lĩnh thị trường. - Xem xét vùng thị trường của dự án. Bởi vì có những trường hợp dự án không được tự do lựa chọn thị trường để đảm bảo sự cân đối, đặc biệt tránh hiện tượng tranh mua, tranh bán ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Khi cần thiết phải quy vùng thị trường cho dự án. Tất nhiên, trong dự án người soạn thảo đã có giải pháp về thị trường cho dự án, trong đó, việc xác định điểm tiêu thụ sản phẩm của dự án cũng đã được tính toán và đề cập, nhưng cũng cần phải thẩm định cả tính khoa học và tính khả thi của việc xác định này .v.v… Đối với các dự án đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn khi thẩm định về thị trường với các nội dung trên cần lưu ý: - Sản phẩm của dự án đầu tư chủ yếu là các sản phẩm, của ngành nông nghiệp. Đây là các sản phẩm ở dạng tươi sống khi chưa qua chế biến có khối lượng lớn, cồng kềnh, là sản phẩm đáp ứng nhu cầu thường xuyên của các tầng lớp dân cư và những nhu cầu của các ngành kinh tế, xã hội. Các sản phẩm này được sản xuất ra lại có tính thời vụ. Do vậy, ngoài việc tính toán tiêu thụ như các sản phẩm hàng hóa khác cần lưu ý xem xét vấn đề vận chuyển, bảo quản và chế biến được đề cập thế nào trong dự án để đảm bảo cho khâu tiêu thụ sản phẩm của dự án thuận lợi. - Khi thẩm định khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án cần xem xét tới khía cạnh về số lượng, chất lượng và chủng loại sản phẩm trong xu hướng biến động của nhu cầu theo các khía cạnh này đã được xem xét và tính toán như thế nào trong dự án đầu tư của nông nghiệp. Đặc biệt, phải xem xét sự tính toán về tính an toàn trong vệ sinh thực phẩm. Lưu ý các sản phẩm nông nghiệp phải là các sản phẩm an toàn. - Trên thực tế khi soạn thảo dự án, để đánh giá nhu cầu thị trường đối với sản phẩm của dự án cần đánh giá nhu cầu hiện tại, dự báo nhu cầu thị trường tương lai. Đây là công việc hết sức phức tạp và khó khăn. Bởi vì, số liệu của nông nghiệp thường thiếu và không hệ thống, các dự đoán khó đảm bảo độ tin cậy cao. Cần nắm chắc đặc điểm này để tránh hai khuynh hướng. + Tuyệt đối hóa yêu cầu thẩm định dẫn đến khắt khe trong thẩm định. Các dự án khó có sự đánh giá cao nếu theo khuynh hướng này khi thẩm định. + Đơn giản hóa trong thẩm định về vấn đề thị trường. Vì cho rằng cơ sở của sự tính toán không vững chắc, dẫn đến thẩm định mang tính hình thức. Vai trò của thẩm định dự án, vì thế không được phát huy. 4. Thẩm định về công nghệ và kỹ thuật của dự án đầu tư Nghiên cứu về công nghệ và kỹ thuật của dự án cũng là một trong các nội dung quan trọng của xây dựng dự án. Vì vậy, sự thẩm định về công nghệ và kỹ thuật của dự án cũng là một trong các nội dung quan trọng của thẩm định dự án đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nội dung của thẩm định về công nghệ và kỹ thuật của dự án bao gồm: - Kiểm tra các phép tính toán khi xác định công nghệ và kỹ thuật của dự án. Việc kiểm tra gồm có: + Kiểm tra các công cụ sử dụng trong tính toán, trong đó, đặc biệt lưu ý đến các định mức kinh tế, kỹ thuật. Đối với hệ thống các định mức kinh tế, kỹ thuật cần phải rà soát cho phù hợp với các điều kiện cụ thể của dự án. Lưu ý tới tính phù hợp của từng loại cây trồng và vật nuôi (có thể lấy quy trình sản xuất của từng loại cây trồng vật nuôi làm căn cứ rà soát và tính toán). + Kiểm tra những sai sót trong tính toán như: tính toán không đúng phương pháp, không đúng về kỹ thuật tính toán, không đầy đủ và không phù hợp đối tượng tính toán… - Kiểm tra tính phù hợp của công nghệ, thiết bị đối với dự án. Đặc biệt, trong điều kiện của Việt Nam về thời tiết khí hậu, các mối liên hệ, các khâu trong quá trình sản xuất, các tính toán khả năng phát triển trong tương lai, tỷ lệ phụ tùng thay thế và điều kiện vận hành, bảo trì… cần phải được đặc biệt chú ý đối với các dự án đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn. Bởi vì, sản xuất nông nghiệp gắn chặt với các điều kiện về tự nhiên; trình độ dân trí, trình độ khoa học kỹ thuật của người lao động còn thấp, trong khi đó cuộc cách mạng khoa học, công nghệ diễn ra hết sức mạnh mẽ. Việc đánh giá khi thẩm định cần tránh tư tưởng tiếp cận nhanh các vấn đề công nghệ hiện đại trong khi các vấn đề khác không đồng bộ dẫn đến không hiệu quả trong đầu tư. Ngược lại, không khai thác những tiến bộ của khoa học và công nghệ dẫn đến không tạo điều kiện cho sản phẩm dự án có tính canh tranh, hiệu quả của đầu tư cũng sẽ thấp. Ví dụ: trong ngành chè, với quan điểm thiết bị chế biến phải hiện đại mới cho sản phẩm với chất lượng cao. Một doanh nghiệp trong ngành chè đã nhập công nghệ chế biến với các thiết bị chân không để bảo vệ hương vị của chè. Nhưng trong điều kiện hiện tại, do chạy theo lợi nhuận người sản xuất chè búp nguyên liệu sử dụng nhiều phân hóa học, thuốc trừ sâu độc hại nên khi chế biến theo công nghệ này thiết bị một mặt giữ hương vị tự nhiên của chè, mặt khác giữ lại các chất độc hại của thuốc trừ sâu làm cho chất lượng sản phẩm bị giảm nhiều so với thiết bị chế biến cũ, chè không tiêu thụ được. Bởi vì, sản phẩm trước kia hương vị tự nhiên có ít, nhưng dư lượng hóa chất độc hại cũng ít do chúng được bay hơi khi chế biến. - Thẩm định về việc xác định địa điểm xây dựng lưu ý thẩm định địa điểm xây dựng dự án cả về các văn bản pháp lý đến địa điểm cụ thể. Đặc biệt lưu ý về sự ảnh hưởng của dự án đến môi trường, đánh giá được mức độ ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của dự án đến môi trường xung quanh. - Việc lựa chọn thiết bị và nguyên vật liệu cần chú ý: các loại thiết bị và nguyên vật liệu được sản xuất trong nước càng nhiều càng tốt, tất nhiêu các loại này phải đảm bảo các yêu cầu về kinh tế và kỹ thuật. - Việc thẩm định kỹ thuật, công nghệ cần có ý kiến của chuyên gia chuyên ngành kỹ thuật. Nếu có sự chuyển giao công nghệ phải đối chiếu với các quy định của luật pháp về chuyển giao công nghệ. 5. Thẩm định về tài chính của dự án đầu tư Đây là phần thẩm định hết sức quan trọng, vì vấn đề tài chính của dự án liên quan trực tiếp đến mục tiêu của các nhà đầu tư, đặc biệt là với các hoạt động đầu tư kinh doanh. Thẩm định về tài chính dự án đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn bao gồm các nội dung sau: - Kiểm tra các phép tính toán. Khi kiểm tra các phép tính toán cần lưu ý tới các công cụ sử dụng trong tính toán như: các định mức, giá cả nguyên liệu, thiết bị và sản phẩm. Kiểm tra các sai sót trong kỹ thuật tính toán. - Kiểm tra tổng vốn, đầu tư, cơ cấu các loại vốn. Khi kiểm tra tổng vốn đầu tư cần lưu ý: trong nhiều dự án phát triển mục đích người lập dự án là nhận được nguồn vốn tài trợ. Vì vậy, khi tính toán nhu cầu vốn các khoản mục trong danh mục Nhà nước tài trợ thường được tính rất đầy đủ, thậm chí có khi còn trội lên. Trong khi đó, các khoản mục thuộc nguồn vốn tự có hoặc vốn đi vay thường không được tính toán hết. Tình trạng trên đã dẫn đến không tính hết nhu cầu vốn và tính không chính xác. Do vậy, việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả về tài chính của dự án thường có những sai lệch. Việc triển khai dự án sẽ gặp khó khăn. Ví dụ: theo quy định, những khoản mục sau được nhận vốn tài trợ từ ngân sách Nhà nước theo quyết định 773/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 21/ 12/ 1994. + Trồng rừng phòng hộ bảo vệ cây trồng. + Xây dựng vườn ươm cây giống. + Xây dựng kết cấu hạ tầng: giao thông nội vùng, thủy lợi, hệ thống điện, kênh mương… Các khoản được vay lãi suất ưu đãi: + Vay khai hoang xây dựng đồng ruộng. + Vay mua giống cây ăn quả, giống trâu bò… Các khoản mục thuộc nguồn vốn tự có: + Các chi phí vật chất: Phân đạm, thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc, gia cầm… + Các chi phí về lao động: tiền công, tiền thưởng… Tính toán các nguồn vốn khi tính toán trên, chứ không chỉ chú trọng vào nguồn vốn Nhà nước cấp. Vì vậy, khi thẩm định phải xem xét kiểm tra từng loại đã được tính đúng, tính đủ chưa, trong đó cần chú ý đặc biệt đến nguồn vốn tự có. Bởi vì, trong nông nghiệp, nông thôn hiện nay đời sống của nông dân còn nhiều khó khăn, vốn tích lũy bằng tiền rất ít. Nếu không tính toán và kiểm tra kỹ, khi thực hiện dự án sẽ sử dụng không đúng mục đích các nguồn vốn đầu tư. Hiệu quả thực tế của dự án sẽ không tương ứng với hiệu quả tính toán. - Thẩm tra độ an toàn về mặt tài chính: Đó là việc thẩm định mức độ chủ động về tài chính của dự án khi có những bất thường trong thực hiện dự án. Độ an toàn về tài chính được xem xét qua hệ thống chỉ tiêu đã trình bày ở chương trình phân tích tài chính dự án. Khi thẩm định về độ an toàn tài chính của dự án, một mặt, thẩm định lại kết quả tính toán (nếu sử dụng kết quả trong dự án), tính toán chỉ tiêu (nếu người thẩm định tự tính toán); mặt khác, căn cứ vào các chỉ tiêu để đưa ra kết luận về độ an toàn tài chính của dự án. Việc đưa ra các kết luận dựa vào các tiêu chuẩn sau: + Tỷ lệ vốn riêng/vốn đầu tư. Phần vốn riêng được tính bởi các nguồn: Vốn tự có, vốn liên doanh và vốn cổ phẩn. Khi tỷ lệ vốn riêng/ vốn đầu tư có giá trị lớn hơn 0,5 độ an toàn về tài chính của dự án được đảm bảo. Dự án có thể chủ động được tài chính trong hoạt động. + Tỷ lệ lưu hoạt vốn cần đạt từ 1,5 đến 2,0 (giá trị tài sản lưu động/các khoản nợ ngắn hạn đến kỳ thanh toán) tức là, nếu tỷ lệ lưu hoạt từ 1,5 đến 2,0 thì khả năng thanh toán đối với các nghĩa vụ tài chính ngắn hạn được đảm bảo. + Khả năng trả nợ dài hạn. Chỉ tiêu này đánh giá bằng khả năng tích lũy bằng tiền so với nghĩa vụ phải hoàn trả nợ vay dài hạn trả ở các năm. Khả năng này ³ 1 là đảm bảo an toàn. Khi xây dựng dự án, căn cứ vào khối luợng các công việc thực hiện đầu tư, người soạn thảo dự án tính toán tổng nhu cầu về vốn theo suốt chu kỳ và theo từng thời điểm của dự án (thường là từng năm). Trên cơ sở đó, người soạn thảo xây dựng kế hoạch vay vốn và hoàn trả vốn. Để kiểm tra các chỉ tiêu trên, người thẩm định phải dựa vào hệ thống tính toán của dự án làm căn cứ thẩm định. - Kiểm tra và so sánh các chỉ tiêu hiệu quả. Phương pháp xây dựng các chỉ tiêu hiệu quả đã đề cập ở chương phân tích tài chính dự án. Trong bản dự án khi tính toán hiệu quả kinh tế dự án, người soạn thảo đưa ra một hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả về mặt tài chính của dự án. Tùy theo từng loại dự án, tùy theo những điều kiện cụ thể khác nhau mà hệ thống chỉ tiêu và phương pháp tính toán sẽ được vận dụng mức độ khác nhau. Tối ưu nhất là dự án tính toán được một hệ thống đầy đủ các chỉ tiêu với phương pháp tính có xem xét tới các yếu tố biến động (giá cả, tác động của thời tiết, khí hậu, cung cầu trên thị trường…). Nhiệm vụ của người thẩm định là: + Kiểm tra sự tính toán phát hiện những bất hợp lý, những sai sót và sự không đầy đủ của dự án. + Nếu dự án không có những sai sót bất hợp lý, thực hiện việc so sánh đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án. Trường hợp có sai sót, có thể điều chỉnh (nếu không lớn) và tính toán lại các chỉ tiêu làm cơ sở cho việc so sánh đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án. Khi đánh giá nên tập trung vào các chỉ tiêu chính với mức đánh giá cụ thể sau: * Tỷ lệ lợi ích/chi phí (B/C) Về nguyên tắc chung B/C ³ 1 có thể chấp nhận được. Và B/C càng lớn hơn 1 càng tốt. Trong điều kiện của sản xuất nông nghiệp khi đất đai còn bị lãng phí, nguồn lao động dồi dào, nhu cầu nông sản cấp thiết, tỷ lệ B/C = 1 vẫn có thể chấp nhận được. * Giá trị hiện tại thuần NPV. Nguyên tắc xem xét: Nếu NPV < 0 dự án không được chấp nhận. Chỉ chấp nhận dự án khi NPV ³ 0. Nếu có nhiều dự án cần chọn lựa thì chấp nhận dự án có NPV lớn nhất. Tất nhiên, việc xem xét này cần đặt trong mối quan hệ với các chỉ tiêu khác. * Tỷ suất hoàn vốn nội bộ IRR Phần lớn các dự án khi phân tích tài chính người soạn thảo đã tính IRR. Nội dung của thẩm định chỉ tiêu IRR trước hết là kiểm tra việc tính toán IRR để đánh giá tính chính xác của chỉ tiêu IRR của dự án. Tiếp theo là so sánh chỉ tiêu IRR tính toán đúng của dự án với yêu cầu về chỉ tiêu IRR đối với các dự án thuộc lĩnh vực đầu tư của dự án đang thẩm định (nếu có). Trong trường hợp có yêu cầu cụ thể về chỉ tiêu IRR, dự án chỉ được chấp thuận khi đáp ứng được yêu cầu quy định. Trường hợp không có yêu cầu cụ thể về chỉ tiêu IRR, dự án chỉ được chấp thuận khi trị số của IRR lớn hơn tỷ suất tính toán của dự án. * Thời gian thu hồi vốn đầu tư (T). Đối với nông nghiệp nông thôn, cần lựa chọn T theo các thời hạn sau: Các dự án dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm, chăn nuôi thủy sản, trồng cây ngắn ngày: T £ 5 năm. Các dự án trồng cây dài ngày (cây công nghiệp, cây ăn quả), trâu bò sữa, các công trình thuộc kết cấu hạ tầng… T £ 10 – 20 năm. * Tỷ lệ lợi nhuận / vốn đầu tư (P) Tổng lợi nhuận (hiện giá) P = Tổng vốn đầu tư (hiện giá) Về nguyên tắc dự án được chấp nhận khi P ³ 0 và P càng lớn càng tốt. Chú ý: trên đây là một số tiêu chuẩn chủ yếu trong thẩm định dự án đầu tư. Khi thẩm định dự án, người thẩm định không xem xét chúng một cách biệt lập mà phải có sự phối hợp các tiêu chuẩn với nhau. Trong đó tiêu chuẩn chủ yếu và quan trọng nhất là tiêu chuẩn về chỉ tiêu IRR và NPV. 6. Thẩm định về kinh tế – xã hội Đối với các dự án đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn việc đánh giá khía cạnh kinh tế – xã hội của dự án nhằm xác định. - Dự án có sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên của đất nước không? Đã mang lại những lợi ích kinh tế gì cho đất nước ? - Dự án có tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống, tập quán và phương thức canh tác lạc hậu hay không ? - Mục tiêu dự án có phù hợp với mục tiêu của xã hội không ? Khi đánh giá cần dựa vào việc kiểm tra đánh giá các chỉ tiêu sau: - Tỷ lệ sinh lời xã hội: là chỉ tiêu phản ánh lợi ích xã hội của dự án. - Lợi ích – chi phí xã hội: Lợi ích xã hội là lợi ích không phải chủ đầu tư được hưởng mà những người sử dụng, khai thác dự án, dân cư trong vùng và Nhà nước được hưởng, ví dụ: dự án 327 (chủ đầu tư là Nhà nước và hộ nông dân) Nhà nước và hộ nông được phần giá trị rừng và giá trị cây rừng sau khi thu hoạch. Cư dân trong vùng nói chung sẽ được hưởng sự thay đổi thời tiết theo hướng mưa thuận gió hòa hơn, đất nông nghiệp không bị rửa trôi, các công trình giao thông không bị tàn phá, lũ lụt không hoặc ít xảy ra, đời sống được ổn định và từng bước nâng lên… Tương ứng như vậy, các chi phí xã hội là những chi phí mà người khai thác, người được hưởng lợi phải bảo ra. Trong trường hợp này, các dự án nông nghiệp đang ở tình trạng hạch toán trên phạm vi xã hội chưa đầy đủ. Vì vậy đa số người được hưởng lợi ích xã hội của dự án đều không phải trả tiền. Kể cả các nhà máy thải ra các chất độc hại nhờ nông nghiệp mà môi trường được cải tạo, nhưng sự hỗ trợ lại cho nông nghiệp lại hầu như chưa được xem xét và tính tới. - Giá trị gia tăng, bao gồm: Giá trị gia tăng do chính hoạt động dự án sinh ra, giá trị gia tăng từ các hoạt động kinh tế khác phát sinh nhờ tác động bởi các hoạt động của dự án. - Mức độ giải quyết việc làm: Trong nền kinh tế nước ta nói chung, nông nghiệp và nông thôn nói riêng, đây là chỉ tiêu rất quan trọng. Nguyên tắc chung là dự án càng giải quyết được nhiều việc làm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. - Tiết kiệm hoặc tăng thu ngoại tệ: tính toán ngoại tệ tiết kiệm trong trường hợp dự án có sản xuất các mặt hàng thay thế nhập khẩu. Số ngoại tệ tiết kiệm này phải được tính toán và đánh giá khi phân tích kinh tế và khi thẩm định dự án. Việc tăng thu ngoại tệ được tính toán và thẩm định trong trường hợp dự án có sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Hiện nay, nước ta ở tình trạng còn khan hiếm ngoại tệ, nông nghiệp, nông thôn là ngành, lĩnh vực quan trọng thực hiện chiến lược sản xuất hàng xuất khẩu. Vì vậy, số tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ càng nhiều càng tốt. - Tỷ lệ đóng góp cho ngân sách có thể đánh giá bằng tổng trị giá các khoản đóng góp (thuế, lệ phí và các khoản phải nộp khác…). Tất nhiên, việc trích nộp cho ngân sách phải căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành. Tiêu chuẩn đánh giá khi thẩm định là mức đóng góp trên vốn đầu tư càng lớn càng tốt. Để thấy được mức đóng góp cho ngân sách so với vốn đầu tư, có thể xem xét chỉ tiêu: Mức đóng góp trên vốn đầu tư = Tổng các khoản nộp ngân sách Tổng vốn đầu tư Ngoài ra còn cần thẩm định đánh giá các khía cạnh khác của dự án góp phần phát triển kinh tế địa phương, mức độ sử dụng nguyên vật liệu trong nước, thỏa mãn tiêu dùng của nhân dân, góp phần phát triển các ngành khác như thế nào ? 7. Thẩm định về môi trường sinh thái Hầu hết các hoạt động nông nghiệp đều có ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sinh thái theo hai chiều hướng: Tích cực và tiêu cực. Thẩm định về môi trường sinh thái của dự án cần phải coi ảnh hưởng tích cực đến môi trường là sản phẩm của dự án. Những ảnh hưởng tích cực của dự án nông nghiệp có thể được xem trên các khía cạnh: - Bảo vệ và cải tạo nguồn nước. - Bảo vệ và cải tạo nguồn dưỡng khí cho con người. - Bảo vệ và cải tạo đất, bảo vệ các công trình xã hội. - Tạo cảnh quan, tôn tạo vẻ đẹp thiên nhiên. -….. Trong trường hợp cho phép, để đánh giá tác động môi trường kết hợp với đánh giá lợi ích xã hội có thể tính sự hạn chế thiệt hại do lũ lụt gây ra nhờ cải tạo môi trường quan thực hiện dự án. Đánh giá tác động tiêu cực của dự án cần đặc biệt lưu ý mức độ phá hoại môi trường do phá vỡ cân bằng sinh thái. Việc tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái trong nhiều trường hợp là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên trên thực tế, người ta vẫn coi các dự án có tính công nghiệp tác động tiêu cực đến môi trường của các dự án phát triển nông nghiệp có tác động tích cực đến môi trường nên trong phần lớn trường hợp phân tích môi trường của dự án nông nghiệp người ta hầu như chỉ phân tích các tác động tích cực. Vấn đề là ở chỗ tác động tiêu cực này đến đâu ? khắc phục những tác động này như thế nào ? Ví dụ: Nhiều dự án khai thác đất dẫn tới làm giảm chất lượng đất đai. Khắc phục tác động tiêu cực này đòi hỏi phải xác định được cơ cấu cây trồng hợp lý có tác dụng bảo vệ đất, trồng rừng phòng hộ, bón phân hợp lý… 8. Thẩm định kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện dự án Thẩm định kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện dự án được thực hiện với việc xem xét, đánh giá những vấn đề sau: - Tổ chức bộ máy điều hành dự án. - Kế hoạch cung cấp các điều kiện thực hiện dự án: đất đai, sức lao động, vốn… - Kế hoạch và các biện pháp thực hiện dự án. - Kế hoạch về tiến độ thực hiện dự án. IV. PHƯƠNG PHÁP THẨM ĐỊNH Phương pháp thẩm định là cách thức thẩm định dự án nhằm đạt được các yêu cầu đặt ra đối với công tác thẩm định dự án. Việc thực hiện thẩm định dự án có thể theo những cách thức khác nhau: Tính toán các chỉ tiêu độc lập sau đó so sánh với các chỉ tiêu của dự án, hoặc từng bước rà soát mọi tính toán của người soạn thảo dự án đã tính toán trong dự án… Có thể với những tri thức khoa học người thẩm định sẽ tìm ra những bất hợp lý của dự án. Nhưng nếu không tuân theo những cách thức thẩm định khoa học, hợp lý người thẩm định phải mất nhiều thời gian mới rút ra kết luận về tính hợp lý của từng nội dung dự án. Trong việc thẩm định các dự án phát triển nông nghiệp nông thôn thường áp dụng các phương pháp sau. 1. Thẩm định theo trình tự Đó là việc thẩm định từ tổng quát đến chi tiết, từ kết luận trước làm tiền đề cho kết luận sau. a. Thẩm định tổng quát Cách thức thẩm định tổng quát là dựa vào các nội dung cần thẩm định để xem xét tổng quát phát hiện các vấn đề hợp lý hay chưa hợp lý. Thẩm định tổng quát cho phép hình dung khái quát dự án, hiểu rõ quy mô tầm quan trọng của nó. Tuy nhiên, thẩm định tổng quát ít phát hiện được các vấn đề bác bỏ. Bởi vì, trừ trường hợp những người soạn thảo dự án trình độ quá yếu không nắm được những mối liên hệ cơ bản giữa các nội dung của dự án mới để xảy ra các sai sót. Đa số các dự án sau khi thẩm định chi tiết những vấn đề sai sót mới được phát hiện. Thẩm định tổng quát cho phép đưa ra những nhận định khái quát về sự án. Phát hiện ra các vấn đề cần đi sâu thẩm định. Vì vậy, thẩm định tổng quát thường được sử dụng kết hợp với phương pháp khác trong thẩm định dự án đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn. Thẩm định tổng quát thường dựa trên cơ sở các tính toán của người soạn thảo dự án để đánh giá dự án. b. Thẩm định chi tiết Thẩm định chi tiết là cách thức thẩm định đi sâu vào từng nội dung của dự án. Trong từng nội dung của thẩm định, thẩm định chi tiết đều có những ý kiến nhận xét, kết luận về sự đồng ý hay bác bỏ, về chấp thuận hay sửa đổi… Khi thẩm định chi tiết cần lưu ý các nội dung cần thẩm định ở các vấn đề sau: 1. Mục tiêu của dự án có phù hợp với các chương trình phát triển kinh tế – xã hội trong vùng dự án không ? Có phù hợp với các điều kiện về nguồn lực hay không ?… 2. Các công cụ tính toán (các tiêu chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế - kỹ thuật) và các phương pháp sử dụng để tính toán. Các công cụ và phương pháp tính toán được biểu hiện ở các con số trong các phương án, các chỉ tiêu tính toán. Cần phải thẩm định công cụ và phương pháp tính toán và có ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0030.doc
Tài liệu liên quan