Tài liệu Đánh giá ảnh hưởng của việc thu hồi đất xây dựng khu công nghiệp Khai Quang thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc đến đời sống, việc làm của người dân: ... Ebook Đánh giá ảnh hưởng của việc thu hồi đất xây dựng khu công nghiệp Khai Quang thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc đến đời sống, việc làm của người dân
125 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1644 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Đánh giá ảnh hưởng của việc thu hồi đất xây dựng khu công nghiệp Khai Quang thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc đến đời sống, việc làm của người dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bé GI¸O DôC Vµ §µO T¹O
TR¦êNG §¹I HäC N¤NG NGHIÖP Hµ NéI
hoµng xu©n hoµn
§¸nh gi¸ ¶nh hëng cña viÖc thu håi ®Êt x©y dùng khu c«ng nghiÖp khai quang
thµnh phè VÜnh Yªn tØnh VÜnh Phóc
®Õn ®êi sèng, viÖc lµm cña ngêi d©n
LUËN V¡N TH¹C SÜ N¤NG NGHIÖP
Chuyªn ngµnh : QU¶N Lý §ÊT §AI
M· sè : 60.62.16
Ngêi híng dÉn khoa häc : pgs.ts. hå thÞ lam trµ
Hµ NéI - 2009
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc./.
Tác giả luận văn
Hoàng Xuân Hoàn
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo của các nhà khoa học, các thầy cô giáo và sự giúp đỡ nhiệt tình, những ý kiến đóng góp quý báu của nhiều cá nhân và tập thể để hoàn thành bản luận văn này.
Nhân dịp này tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Hồ Thị Lam Trà đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong thời gian thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự góp ý chân thành của các thầy, cô giáo Khoa Tài nguyên và Môi trường - Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội;
Tôi xin chân thành cảm ơn Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Phúc, Ban Quản lý các KCN và THĐT tỉnh Vĩnh Phúc; Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư; Sở Lao động- Thương binh và xã hội, Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc; các phòng Tài nguyên và Môi trường, Tài chính, Nội vụ và Thống kê của Thành phố Vĩnh Yên; UBND phường Khai Quang và các Trưởng thôn Minh Quyết; Thanh Giã;Trại Giao, Hán Lữ,..đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong thời gian nghiên cứu thực hiện luận văn tại địa phương.
Tôi xin cảm ơn tới gia đình, những người thân, cán bộ, đồng nghiệp và bạn bè đã tạo điều kiện về mọi mặt cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả Luận văn
Hoàng Xuân Hoàn
MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Ký hiệu các chữ viết tắt v
Danh mục các bảng vi
Danh mục các hình vii
KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Các chữ viết tắt
Ký hiệu
1
Bị ảnh hưởng
BAH
2
Công nghiệp hóa, hiện đại hoá
CNH, HĐH
3
Khu công nghiệp
KCN
4
Bồi thường
BT
5
Giải phóng mặt bằng
GPMB
6
Tái định cư
TĐC
7
Ủy ban nhân dân
UBND
8
lđ
lao động
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
4.1 Diện tích, dân số và mật độ dân số thành phố Vĩnh Yên tính đến 31/12/2008 41
4.2 Hiện trạng sử dụng đất của TP Vĩnh Yên tính đến 31/12/2008 43
4.3 Cơ cấu sử dụng đất của KCN Khai Quang 46
4.4 Tình hình bồi thường thiệt hại về đất của dự án 49
4.5 Tình hình bồi thường thiệt hại về tài sản dự án 50
4.6 Phương án hỗ trợ thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất xây dựng dự án KCN Khai Quang 51
4.7 Kết quả điều tra về thu hồi đất và bồi thường hỗ trợ của các hộ dân 55
4.8 Phương thức sử dụng tiền bồi thường hỗ trợ của các hộ dân 56
4.9 Tài sản sở hữu của các hộ trước và sau khi thu hồi đất 59
4.10 Đánh giá về tình hình tiếp cận cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội của các hộ dân sau khi bị thu hồi đất 61
4.11 Kết quả phỏng vấn về quan hệ trong nội bộ gia đình các hộ dân sau khi bị thu hồi đất 64
4.12 Kết quả phân tích mẫu đất tại một số vị trí trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc 65
4.13 Chất lượng nước thải khu vực KCN Khai Quang 67
4.14 Kết quả diễn biến môi trường không khí khu vực KCN Khai Quang. 68
4.15 Kết quả đánh giá chất lượng môi trường KCN Khai Quang của các hộ dân 69
4.16 Thu nhập bình quân của người dân ở khu vực nghiên cứu 70
4.17 Thu nhập của các hộ điều tra trước và sau khi thu hồi đất 71
4.18 Sự thay đổi về thu nhập của các hộ sau khi bị thu hồi đất 79
4.19 Sự thay đổi về lao động và việc làm của các hộ dân trước và sau khi bị thu hồi đất 81
4.20 Tự đánh giá của các hộ về tình hình việc làm 82
4.21 Sự thay đổi ngành nghề của người lao động trước và sau khi thu hồi đất 86
DANH MỤC CÁC HÌNH
STT
Tên hình
Trang
4.1 Cơ cấu kinh tế TP Vĩnh Yên năm 2008 42
4.2 Sự thay đổi về tài sản sở hữu của hộ 60
4.3 Sự thay đổi về ngành nghề của hộ 89
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai ngoài chức năng vốn có của nó là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế, thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các công trình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng thì trong thời kỳ phát triển kinh tế mới đất đai có thêm những chức năng có ý nghĩa quan trọng là chức năng tạo nguồn vốn và thu hút cho đầu tư phát triển.
Trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để đưa đất đai thực sự trở thành nguồn vốn, nguồn thu hút cho các đầu tư phát triển thì việc thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất để xây dựng các khu, cụm công nghiệp, khu đô thị tập trung nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, xây dựng cơ cấu đất đai hợp lý là con đường hết sức cần thiết và duy nhất. Hiện nay trên địa bàn cả nước đã có khoảng trên 200 Khu công nghiệp các loại, gần 300 các cụm công nghiệp và hàng nghìn các khu đô thị tập trung. Các Khu công nghiệp thu hút trên 1 triệu lao động trực tiếp, nộp ngân sách năm 2007 khoảng 1,1 tỉ USD, đóng góp rất lớn vào sự phát triển chung của đất nước [1].
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được của việc đổi mới kinh tế đất nước trong đó có hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai hiện vẫn còn những bất cập chưa được giải quyết kịp thời. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ ở các tỉnh, thành phố nhất là các tỉnh có vị trí địa lý và địa hình thuận lợi đã làm ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống kinh tế và văn hóa của người dân, làm biến đổi cả về chiều sâu của xã hội nông thôn truyền thống. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, bình quân mỗi năm có 73 nghìn ha đất nông nghiệp được thu hồi đã tác động tới đời sống khoảng 2,5 triệu người với gần 630 nghìn hộ nông dân và trung bình, cứ 1 ha đất bị thu hồi, có 10 người bị mất việc [1].
Sự thay đổi đời sống của người nông dân có đất bị thu hồi là một vấn đề mang tính thời sự cấp bách, trở thành vấn đề mang tính xã hội trên cả nước. Thiếu việc làm và tỷ lệ thất nghiệp cao, cùng với sự di chuyển tự do của lao động nông thôn lên thành phố tìm kiếm việc làm đang đặt ra cho các nhà quản lý cũng như các nhà hoạch định cần giải quyết.
Ảnh hưởng của việc thu hồi đất để xây dựng các khu, cụm công nghiệp đến đời sống, việc làm của người dân đang là vấn đề đặc biệt được quan tâm nhất là đối với địa bàn nghiên cứu tỉnh Vĩnh Phúc - Là một tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, cách Hà Nội hơn 50 km có các điều kiện rất thuận lợi, trong 10 năm kể từ sau khi tái lập đã trở thành một tỉnh có tốc độ CNH, HĐH đứng đầu cả nước, hàng năm cho phép chuyển mục đích hàng trăm ha đất nông nghiệp sang các mục đích khác thì sau giai đoạn mở rộng thu hút đầu tư ban đầu, đời sống người dân, môi trường ở các khu vực đã chuyển mục đích sử dụng đang là vấn đề được các cấp, các ngành trong tỉnh hết sức quan tâm, đòi hỏi trả lời được những câu hỏi lớn:
- Sau khi bị thu hồi đất đời sống người dân có những biến chuyển như thế nào, những khó khăn, thuận lợi của họ sẽ gặp phải?
- Sau khi bị thu hồi đất, nhận tiền bồi thường (hoặc đất tái định cư) người dân đã tổ chức cuộc sống như thế nào, hiệu quả sử dụng của đồng vốn có được ra sao, chuyển đổi nghề có gây ra các tác động xấu đến môi trường hay không?
Trên cả nước hiện nay đã có hàng loạt các nghiên cứu đánh giá, các báo cáo về đời sống người dân sau khi bị thu hồi đất. Quá trình thực hiện việc tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và các chính sách hỗ trợ cho người dân như các Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường tại Hải Dương, Vĩnh Phúc, Hưng Yên... đề tài nghiên cứu của Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp và hàng trăm các bài viết, các đề tài của nhiều tác giả trong và ngoài nước. Các nghiên cứu kể trên đã đưa ra được khái quát về đời sống người dân ở các địa bàn nghiên cứu và đã đề xuất được những giải pháp tương đối thỏa đáng. Tuy vậy do đặc điểm của mỗi địa bàn khác nhau cộng với các hạn chế trong điều tra thực tế nên vẫn còn gây ra những tranh cãi. Kết quả nghiên cứu chưa đầy đủ, thỏa đáng, các giải pháp khó có thể áp dụng thống nhất thành các quy phạm chung. Nhằm tìm hiểu các tác động của việc thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp đến đời sống, việc làm của người dân bị thu hồi đất và đề xuất các giải pháp hợp lý cho khu vực và có thể nhân rộng áp dụng rộng rãi là mục tiêu của đề tài nghiên cứu “Đánh giá ảnh hưởng của việc thu hồi đất xây dựng khu công nghiệp Khai Quang thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc đến đời sống, việc làm của người dân ”.
1.2 Mục đích và yêu cầu nghiên cứu
1.2.1 Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá việc thực hiện chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án xây dựng khu công nghiệp Khai Quang - Thành phố Vĩnh Yên.
- Đánh giá được các tác động của việc thu hồi đất đến người dân bị thu hồi đất xây dựng khu công nghiệp Khai Quang.
- Đề xuất các giải pháp và chính sách hỗ trợ mới và hợp lý cho địa bàn nghiên cứu.
1.2.2 Yêu cầu nghiên cứu
- Phản ánh được chính xác các tác động của việc thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp đến đời sống, việc làm và môi trường của người dân ở địa bàn nghiên cứu;
- Đánh giá một cách khách quan và đưa ra được các biện pháp hợp lý được người dân đồng tình trên cơ sở đầy đủ khoa học và thực tiễn.
2. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Đất đai, thu hồi đất, bồi thường và tái định cư ở Việt Nam
2.1.1 Những văn bản pháp quy của Nhà nước về đất đai
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 thắng lợi, đến năm 1953 Nhà nước ta thực hiện cải cách ruộng đất nhằm phân phối lại ruộng đất với khẩu hiệu “người cày có ruộng” và Luật cải cách ruộng đất được ban hành. Thời kỳ này Nhà nước thừa nhận sự tồn tại của 3 hình thức sở hữu đất đai: sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Bên cạnh đó Luật cải cách ruộng đất có các quy định về tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất tuỳ theo từng trường hợp cụ thể [16].
Đến năm 1959 bản Hiến pháp thứ 2 được ban hành và nhiều văn bản khác quy định vẫn có 3 hình thức sở hữu về đất đai do vậy, khi thu hồi, lấy đất của tập thể và tư nhân Nhà nước phải thực hiện trưng dụng đất. Điều 20 của Hiến pháp nói rõ: “Khi nào cần thiết vì lợi ích chung Nhà nước mới trưng mua hoặc trưng dụng, trưng thu có bồi thường thích đáng các tư liệu sản xuất ở thành thị và nông thôn, trong phạm vi và điều kiện do pháp luật quy định.” [17].
Về việc trưng dụng đất, ngày 14/04/1959 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 151-TTg quy định về thể lệ tạm thời về trưng dụng đất. Một trong những nguyên tắc của việc trưng dụng ruộng đất của nhân dân dùng vào việc xác định những công trình do Nhà nước quản lý: “Đảm bảo kịp thời và đủ diện tích cần thiết cho công trình xây dựng, đồng thời chiếu cố đúng mức quyền lợi và đời sống của người có ruộng. Những người có ruộng đất bị trưng dụng được bồi thường và trong trường hợp cần thiết được giúp giải quyết công việc làm ăn” [23]. Bên cạnh đó Nghị định cũng quy định về việc bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng dụng: “Cách bồi thường tốt nhất là vận động nhân dân điều chỉnh hoặc nhường ruộng đất cho những người có ruộng đất bị trưng dụng để họ có thể tiếp tục sản xuất”. “ … trường hợp không làm được như vậy sẽ bồi thường một số tiền bằng từ 1 đến 4 năm sản lượng thường niên của ruộng đất bị trưng dụng. Mức bồi thường nhiều hay ít phải căn cứ thực tế ở mỗi nơi…”[14].
Năm 1980, Quốc hội đã ban hành bản Hiến pháp thứ 3 của nước CHXNCN Việt Nam. Bản Hiến pháp lần này đã khẳng định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa,…là của Nhà nước - đều thuộc sở hữu toàn dân” [18]. Chính vì vậy ngay sau đó, vào ngày 01/07/1980 Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 201/CP về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước: “…Toàn bộ ruộng đất trong cả nước đều do Nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch và kế hoạch chung nhằm đảm bảo ruộng đất sử dụng hợp lý, tiết kiệm và phát triển theo hướng đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa” [11].
Trên tinh thần của Hiến pháp năm 1980 Luật Đất đai năm 1988 được ban hành, tiếp tục khẳng định lại đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Về việc thu hồi đất và bồi thường thiệt hại thì Luật Đất đai 1988 không nêu cụ thể việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, mà chỉ nêu phần nghĩa vụ của người sử dụng đất: “Đền bù thiệt hại cho người sử dụng đất để giao cho mình bồi hoàn thành quả lao động và kết quả đầu tư đã làm tăng giá trị của đất đó theo quy định của Pháp luật” [19].
Năm 1992, bản Hiến pháp 1992 được ban hành thay thế cho các bản Hiến pháp trước đây. Điều 17 Hiến pháp quy định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển thềm lục địa và vùng trời… đều thuộc sở hữu toàn dân”. Điều 23: “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hoá. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do AN, QP, lợi ích quốc gia mà Nhà nước trưng mua hay trưng dụng, có BT tài sản của cá nhân hay tổ chức theo giá trị thị trường” [20].
Năm 1993, Luật Đất đai 1993 được ban hành, thay thế cho Luật Đất đai 1988, dựa trên tinh thần mới của bản Hiến pháp 1992 đã có những đổi mới quan trọng, đặc biệt đối với việc thu hồi đất phục vụ cho công cộng và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Luật Đất đai năm 1993 đã thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992. Tại Điều 12: “Nhà nước xác định giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất, tính giá trị tài sản khi giao, bồi thường thiệt hại về đất khi thu hồi đất. Chính phủ quy định khung giá các loại đất đối với từng vùng và theo từng thời gian”. Điều 27: “Trong trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích Quốc phòng, An ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì người bị thu hồi đất được đền bù thiệt hại” [21].
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai ngày 29/06/2001 quy định cụ thể hơn về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất đai đang sử dụng của người sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích Quốc gia, lợi ích công cộng. Việc bồi thường, hỗ trợ được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Nhà nước có chính sách để ổn định đời sống cho người có đất bị thu hồi.
Cùng với mục đích là tiếp tục hoàn thiện Luật Đất đai, tạo nên khung pháp lý chặt chẽ thuận tiện cho việc quản lý và sử dụng đất ở Việt Nam. Ngày 26/11/2003 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI kỳ họp thứ tư đã thông qua Luật Đất đai 2003 và ngày 10/12/2003 lệnh của Chủ tịch nước đã công bố Luật Đất đai quy định cho việc quản lý và sử dụng đất. Sự ra đời của Luật Đất đai 2003 đã thay thế cho tất cả các Luật Đất đai và Luật sửa đổi, bổ sung trước đó nhằm phù hợp với tình hình xã hội hiện nay, đáp ứng tốt hơn những yêu cầu, những đòi hỏi mới trong quá trình phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội của đất nước, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Tại Điều 39 Luật Đất đai 2003 quy định về thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích Quốc gia, lợi ích công cộng: “Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được công bố hoặc sau khi dự án đầu tư có nhu cầu sử dụng đất phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt…” [22].
2.1.2 Một số văn bản về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích An ninh-Quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng
Sau khi Quốc hội ban hành Luật Đất đai 2003, các chính sách về đất đai cũng thay đổi theo. Như vậy, để phù hợp với sự ra đời của Luật Đất đai mới và tình hình thực tiễn trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng Chính phủ đã ban hành các văn bản pháp luật sau:
a. Nghị định số 197/2004/NĐ-CP
Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng [7].
Về phạm vi điều chỉnh
Nghị định này quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích QP, AN, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. mục đích phát triển kinh tế quy định tại Điều 36 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai.
Đối với các dự án sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), nếu việc BT, HT và TĐC theo yêu cầu của nhà tài trợ khác với quy định tại Nghị định này thì trước khi ký kết Điều ước quốc tế, cơ quan chủ quan dự án đầu tư phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Trong trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định tại Nghị định này thì áp dụng theo quy định tại Điều ước quốc tế đó.
Các trường hợp không thuộc phạm vi áp dụng Nghị định này: Cộng đồng dân cư xây dựng, chỉnh trang các công trình phục vụ lợi ích chung của cộng đồng bằng nguồn vốn do nhân dân đóng góp hoặc Nhà nước hỗ trợ; Khi Nhà nước thu hồi đất không thuộc phạm vi quy định tại khoản 1 Điều này.
Về đối tượng áp dụng
Tổ chức, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, hộ gia đình, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đang sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi đất (người bị thu hồi).
Người bị thu hồi đất, bị thiệt hại tài sản gắn liền với đất bị thu hồi, được bồi thường đất, tài sản, được hỗ trợ và bố trí tái định cư theo quy định tại Nghị định này.
Về nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Người bị Nhà nước thu hồi đất có đủ điều kiện quy định tại Điều 8 của Nghị định này thì được bồi thường; trường hợp không đủ điều kiện được bồi thường thì UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (UBND cấp tỉnh) xem xét để hỗ trợ.
Người bị thu hồi đất đang sử dụng vào mục đích nào thì được BT bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất thì được BT bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi đất; trường hợp bồi thường bằng việc giao đất mới hoặc bằng nhà, nếu có chênh lệch về giá trị thì phần chênh lệch đó được thực hiện thanh toán bằng tiền.
Trường hợp người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật thì phải trừ đi khoản tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi thường, hỗ trợ để hoàn trả ngân sách nhà nước.
Bồi thường về đất
- Nguyên tắc bồi thường đất quy định:
+ Những trường hợp được nhận bồi thường.
+ Những trường hợp không được nhận bồi thường.
+ Những trường hợp được nhận hỗ trợ.
- Bồi thường, hỗ trợ đối với đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân
Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng hoặc bồi thường bằng tiền tính theo giá đất cùng mục đích sử dụng.
Bồi thường đối với đất phi nông nghiệp là đất
Người sử dụng đất ở khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở được BT bằng giao đất ở mới, nhà ở tại khu TĐC hoặc BT bằng tiền.
Diện tích đất bồi thường không vượt quá hạn mức giao đất ở tại địa phương và không vượt quá diện tích của đất bị thu hồi.
Bồi thường tài sản
- Nguyên tắc bồi thường tài sản quy định:
+ Trường hợp được nhận bồi thường.
+ Trường hợp được nhận hỗ trợ.
- Bồi thường nhà, công trình xây dựng trên đất
+ Đối với nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân được bồi thường bằng giá trị xây dựng mới của nhà, công trình.
+ Đối với nhà, công trình xây dựng khác không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này được bồi thường theo mức sau:
Mức bồi thường nhà, công trình
=
Giá trị hiện có của nhà, công trình bị thiệt hại
+
Một khoản tiền tính bằng tỷ lệ phần trăm theo giá trị hiện có của nhà, công trình
Đối với công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật, mức bồi thường bằng giá trị xây dựng mới của công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương do Bộ Xây dựng ban hành; nếu công trình không còn sử dụng thì không được bồi thường.
+ Đối với nhà, công trình xây dựng khác bị phá dỡ một phần, mà phần còn lại không còn sử dụng được thì được bồi thường cho toàn bộ nhà, công trình; trường hợp nhà, công trình xây dựng khác bị phá dỡ một phần, nhưng vẫn tồn tại và sử dụng được phần còn lại thì được bồi thường phần giá trị công trình bị phá dỡ và chi phí để sửa chữa, hoàn thiện phần còn lại theo tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương của nhà, công trình trước khi bị phá dỡ.
Bồi thường về di chuyển mồ mả
Đối với việc di chuyển mồ mả, mức tiền bồi thường được tính cho chi phí về đất đai, đào, bốc, di chuyển, xây dựng lại và các chi phí hợp lý khác có liên quan trực tiếp. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định mức bồi thường cụ thể về mồ mả cho phù hợp với tập quán và thực tế tại địa phương.
- Bồi thường đối với cây trồng, vật nuôi
Những cây trồng, vật nuôi có trên đất bị thu hồi được nhận bồi thường.
Về hỗ trợ
- Hỗ trợ về di chuyển
Hộ gia đình khi Nhà nước thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở được hộ trợ để thực hiện di chuyển.
Tổ chức có đủ điều kiện được bồi thường thiệt hại đất và tài sản khi bị thu hồi mà phải di chuyển cơ sở, được hỗ trợ chi phí thực tế về di chuyển, tháo dỡ và lắp đặt.
- Hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất
Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp được giao, được hỗ trợ ổn định đời sống.
Khi Nhà nước thu hồi đất của tổ chức kinh tế, hộ sản xuất kinh doanh có đăng ký kinh doanh, mà bị ngừng sản xuất kinh doanh, thì được hỗ trợ.
- Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm
Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi bị thu hồi trên 30% diện tích đất sản xuất nông nghiệp thì được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho người trong độ tuổi lao động; mức hỗ trợ và số lao động cụ thể được hỗ trợ do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định cho phù hợp với thực tế ở địa phương.
- Hỗ trợ cho người đang thuê nhà không thuộc sở hữu Nhà nước
- Hỗ trợ khi thu hồi đất công ích của xã, phường, thị trấn.
Về bố trí tái định cư
Cơ quan (tổ chức) được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giao trách nhiệm bố trí tái định cư phải thông báo cho từng hộ gia đình bị thu hồi đất, phải di chuyển chỗ ở về dự kiến phương án bố trí tái định cư
Thông tư 116/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP. Thông tư này hướng dẫn cụ thể, và có thêm một số nội dung về bồi thường đất, bồi thường tài sản; chính sách HT, TĐC và tổ chức thực hiện BT, HT và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất đối với các trường hợp quy định tại Nghị định 197/2004/NĐ-CP [6].
- Hướng dẫn cách xác định cho phí đầu tư vào đất còn lại được quy định tại khoản 3 Điều 9 Nghị định 197/2004/NĐ-CP.
- Phân loại cụ thể đất nông nghiệp của các hộ gia đình, cá nhân bị Nhà nước thu hồi đất. Việc phân loại cụ thể này để xác định mức bồi thường, hỗ trợ hợp lý, sát thực với từng loại đất và giải quyết trường hợp chênh lệch giữa giá đất mới được giao và giá đất bị thu hồi.
- Về bồi thường đối với đất thuộc hành lang an toàn khi xây dựng công trình công cộng có hành lang bảo vệ an toàn, có quy định thêm khoản: “Khi hành lang bảo vệ an toàn công trình xây dựng làm ảnh hưởng đến công trình khác mà những công trình này không thể sử dụng được theo thiết kế, quy hoạch xây dựng ban đầu hoặc phải phá dỡ thì được bồi thường”.
- Về bồi thường đối với cây trồng, vật nuôi: Thông tư xác định, hướng dẫn cụ thể việc phân chia từng loại cây trồng lâu năm (cây trồng đang ở chu kỳ đầu tư hoặc đang ở thời gian xây dựng cơ bản; cây lâu năm thu hoạch một lần; cây lâu năm thu hoạch nhiều lần; cây lâu năm đã đến thời hạn thanh lý) và xác định giá trị hiện có của vườn cây lâu năm để tính bồi thường. Quy định thêm về bồi thường đối với cây trồng và lâm sản phụ trồng trên diện tích đất lâm nghiệp do Nhà nước giao mà khi giao là đất trống, đồi núi trọc.
- Về tổ chức thực hiện: Hướng dẫn về trình tự tổ chức thực hiện; phương án BT,HT và TĐC được chia làm 2 phần: phần 1 là xác định bồi thường, hỗ trợ cho từng người có đất bị thu hồi và phần 2 là phương án bố trí TĐC; quy định về chi trả bồi thường, hỗ trợ và TĐC.
- Về chi phí cho công tác tổ chức thực hiện: Dự toán chi phí và mức chi cho công tác tổ chức thực hiện.
Thông tư số 69/2006/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 02/08/2006 về sửa đổi, bổ sung cho Thông tư số 116/2004/TT-BTC, cụ thể là sửa đổi, bổ sung một số điều khoản: điểm 3 mục 3 phần I về chi trả bồi thường, hỗ trợ và TĐC; điểm 3.1 mục 3 phần II về giá đất để tính bồi thường, chi phí đầu tư vào đất còn lại; mục 2 phần IV về hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm; mục 3 và mục 4 phân VII về mức chi cho công tác tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, TĐC: “Không quá 2% tổng số kinh phí bồi thường, hỗ trợ của dự án” [5].
b. Nghị định số 84/2007/NĐ-CP
Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung cụ thể đối với một số trường hợp thu hồi đất; bồi thường, hỗ trợ về đất; trình tự thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại. Nghị định này được coi như là “nhát cắt pháp luật”, từ khi Nghị định này có hiệu lực thì tất cả những trường hợp còn tồn tại, chưa giải quyết được trước đó thì sẽ được giải quyết theo Nghị định 84/2007/NĐ-CP, còn từ sau đó tất cả các trường hợp sẽ được thực hiện đúng theo Nghị định. Nghị định quy định cụ thể, chi tiết một số trường hợp thu hồi đất; bồi thường hỗ trợ về đất; trình tự thủ tục thu hồi đất và thực hiện việc BT-HT-TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, trong trình tự thủ tục của công tác bồi thường - GPMB Nghị định bổ sung mới về lập phương án BT-HT-TĐC bao gồm có phương án tổng thể và phương án chi tiết, quy định cụ thể thẩm quyền, thời hạn giải quyết từng khâu trong công việc và đặc biệt bổ sung thêm khâu kê khai, kiểm kê và xác định nguồn gốc đất đai được tiến hành trước khi lập phương án bồi thường, TĐC nhằm xác định giá bồi thường và chính sách hỗ trợ một cách khách quan. Trong điều khoản thi hành, Nghị định 84/2007/NĐ-CP đã bãi bỏ khoản 6 và khoản 8 Điều 8, các Điều 41, 42, 47, 49, đoạn 2 khoản 2 Điều 50 Nghị định 197/2004/NĐ-CP [8].
Thông tư 14/2008/TTLB-BTC-BTNMT của Bộ Tài chính và Bộ Tài nguyên & Môi trường ngày 31/01/2008 về hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 84/2007/NĐ-CP: hướng dẫn về hỗ trợ đối với đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư, đất vườn, đất ao xen kẽ với đất ở trong khu dân cư; hướng dẫn kinh phí chuẩn bị hồ sơ Địa chính cho khu đất bị thu hồi bao gồm kinh phí do nhà đầu tư trả sẽ được quyết toán vào vốn đầu tư của dự án, kinh phí do Nhà nước trả sẽ được quyết toàn vào nguồn kinh phí hoạt động của Tổ chức phát triển quỹ đất hoặc cơ quan Tài nguyên-Môi trường hoặc Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất; hướng dẫn lập, thẩm định và xét duyệt phương án tổng thể về BT-HT-TĐC, phương án BT-HT-TĐC và việc lập thêm “Hội đồng thẩm định” khi cần thiết.
2.2 Những vấn đề về KCN
2.2.1 Các khái niệm về KCN
Đối với khái niệm về KCN, ngay từ khi loại hình này ra đời cho đến nay vẫn đang có những tranh cãi có tính học thuật về KCN, KCX. Có quan niệm cho rằng KCN là một vùng đất được phân chia theo hệ thống nhằm cung cấp mặt bằng cho các ngành công nghiệp. Một số các nhà nghiên cứu khác có quan niệm rộng hơn coi KCN như một khu đô thị công nghiệp hay thành phố công nghiệp, ngoài việc cung cấp cơ sở hạ tầng, tiện ích công cộng, KCN còn bao gồm khu thương mại, dịch vụ hành chính, trường học, bệnh viện, các khu vui chơi giải trí, nhà ở cho người lao động,… nằm ngoài hàng rào KCN, KCX. Hiện nay có một số khái niệm về KCN như sau:
1. KCN là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ kể cả dịch vụ sản xuất công nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà ở... Về thực chất mô hình này là khu hành chính kinh tế đặc biệt như KCN Bata (Indonesia) các công viên công cộng ở khu vực lãnh thổ Đài Loan và một số nước Tây Âu [12].
2. KCN là khu vực lãnh thổ hữu hạn ở đó tập trung các doanh nghiệp công nghiệp và DV sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh sống. Mô hình này được xây dựng ở một số nước như Malaysia, Indonesia, Thái Lan..., khu vực lãnh thổ Đài Loan [12].
3. Theo Nghị định số 192/CP ngày 25/12/1994 của Chính phủ, các KCN được định nghĩa là các khu vực công nghiệp tập trung, không có dân cư, được thành lập với các ranh giới được xác định nhằm cung ứng các dịch vụ để hỗ trợ sản xuất, đây có thể nói là khái niệm cơ bản và đầu tiên của Việt Nam về KCN, tiếp đó tại Nghị định 36-CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ: KCN là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập. Điều này có nghĩa quan niệm KCN ở Việt Nam chỉ là phần diện tích đất đai dành cho xây dựng cơ sở hạ tầng cho thuê. Tất cả các công trình phúc lợi xã hội ngoài hàng rào và gần KCN không nằm trong khái niệm này. Từ những quan niệm như vậy mà công tác quy hoạch KCN, KCX mới chỉ quan tâm đến các điều kiện về cơ sở vật chất hạ tầng cho các cơ sở sản xuất công nghiệp, dịch vụ. Về thực chất, đây là quá trình tập trung các cơ sở sản xuất kinh doanh vào thành KCN, chưa tính đến một quy hoạch tổng thể gắn KCN với việc hình thành các cụm công nghiệp, hình thành các đô thị công nghiệp gắn phát triển KCN cùng với phong tục, truyền thống, văn hóa dân tộc của người Việt Nam.
Hiện nay Chính phủ đã ban hành Nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 Quy định về KCN, khu chế xuất và khu kinh tế, đây là Văn bản pháp quy mới nhất có nêu đến Khái niệm về KCN, theo đó: KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này [9]. Như vậy, xét về bản chất các định nghĩa không có sự khác biệt lớn, tuy nhiên do yêu cầu của từng thời kỳ của phát triển kinh tế cũng như các quan điểm khác nhau trong định hướng vĩ mô thì cũng các định nghĩa này cũng có những điểm khác nhau.
2.2.2 Bản chất của xây dựng KCN
Bản chất của xây dựng KCN là quá trình phát triển các nhà máy xí nghiệp một cách có quy hoạch tổng thể trên phương diện toàn quốc gia hay một vùng lãnh thổ nhất định nhằm tương trợ lẫn nhau trong sản xuất, kinh doanh công nghiệp cũng như xử lý chất thải. Mặt khác việc xây dựng các KCN còn tạo điều kiện cho các địa phương ứng dụng một cách nhanh nhất các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhờ đó nâng cao được n._.ăng suất cũng như hạn chế được vấn đề gây ra ô nhiễm môi trường và nhờ đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất sẽ nâng cao trình độ cũng như tay nghề cho công nhân, cho cán bộ kỹ thuật dẫn tới có được lực lượng lao động tay nghề cao trong sản xuất, đây là điều hết sức cần thiết hiện nay.
2.2.3 Nguyên tắc và vai trò của xây dựng KCN
Trong thời kỳ CNH, HĐH việc xây dựng các khu cụm công nghiệp tập trung là cần thiết và được nhà nước khuyến khích. Từ năm 1994 các KCN được xây dựng để cung ứng cơ sở hạ tầng thuận lợi, tạo điều kiện dễ dàng cho đầu tư nước ngoài và đặc biệt khuyến khích các DN nhỏ và vừa gia nhập các khu vực công nghiệp. Lợi ích của việc sản xuất tập trung tại các khu cụm công nghiệp so với phát triển công nghiệp tản mạn là đảm bảo tiết kiệm về kết cấu hạ tầng, quản lý hành chính và quản lý môi trường mặt khác cung cấp các dịch vụ thuận lợi hơn.
Các KCN, KCX được hình thành cũng nhằm tránh sự phân tán các cơ sở sản xuất trong khu dân cư sinh sống, vừa không thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vừa gây ô nhiễm môi trường xung quanh khu dân cư, làm ảnh hưởng lớn đến đời sống của công đồng dân cư trong vùng, nhất là ảnh hưởng đến sức khỏe người dân. Do đó, phát triển và phân bố các KCN được thực hiện theo các nguyên tắc sau đây:
- Có khả năng tạo ra kết cấu hạ tầng, thuận lợi về giao thông vận tải, cung cấp điện, cấp nước và thải nước. Xử lý môi trường bảo đảm có hiệu quả và phát triển bền vững lâu dài, có đủ mặt bằng để mở rộng và phù hợp với những tiến bộ khoa học kỹ thuật của nền văn minh công nghiệp, hậu công nghiệp của thế giới;
- Có khả năng cung cấp nguyên liệu tương đối thuận tiện, hoặc trực tiếp với nguồn nguyên liệu. Đôi khi do cự ly vận tải và yêu cầu bảo quản nguyên liệu, quy mô xí nghiệp công nghiệp phải thích hợp để đảm bảo hiệu quả;
- Có nguồn lao động cả số lượng và chất lượng đáp ứng được yêu cầu sản xuất với chi phí tiền lương thích hợp;
- Có khả năng giải quyết thị trường tiêu thụ sản phẩm cả trong nước và nước ngoài;
- Tiết kiệm tối đa đất sản xuất nông nghiệp đặc biệt là đất trồng trọt trong việc sử dụng đất để xây dựng KCN;
- Kết hợp với yêu cầu đảm bảo an ninh quốc phòng trong những điều kiện cụ thể ở từng khu vực và từng giai đoạn;
Theo các chuyên gia Nhật, chìa khóa cho sự thành công của các KCN là vị trí, dịch vụ hạ tầng và năng lực quản lý. Với các mục tiêu cụ thể, KCN có những vai trò sau:
- Thu hút và tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư phát triển hạ tầng, góp phần tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn trong quá trình thu hút đầu tư trong và ngoài nước;
- Góp phần tăng trưởng kinh tế, tạo thêm năng lực sản xuất mới, tạo nguồn hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy nhanh tốc độ CNH - HĐH, tạo điều kiện phát triển công nghiệp theo quy hoạch, tránh manh mún, phân tán và tự phát góp phần tiết kiệm đất đai, sử dụng có hiệu quả ngồn vốn đầu tư, tiết kiệm chi phí sản xuất;
- KCN là hình thức hữu hiệu thực hiện chiến lược lâu dài về tạo việc làm và chuyển đổi cơ cấu lao động cũng như sử dụng lao động một cách hiệu qủa, nhất ở các nước đang phát triển so với thực tế về giá nhân công ở các khu vực dư thừa về lao động khác;
- Du nhập các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, học tập kinh nghiệm quản lý của các công ty tư bản nước ngoài để tránh bị tụt hậu về kinh tế nhất là trong sản xuất công nghiệp và tăng sức cạnh tranh trên thị trường hàng xuất khẩu;
- Là hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ, đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá và tác động lan toả tích cực trong việc CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn;
- Có điều kiện thuận lợi trong kiểm soát, bảo vệ và xử lý sự cố môi trường. KCN là địa điểm tốt nhất để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm từ các đô thị, thành phố lớn phục vụ mục đích phát triển công nghiệp bền vững;
- KCN còn có vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại của quốc gia, KCN là nơi thử nghiệm các chính sách kinh tế mới đặc biệt là chính sách kinh tế đối ngoại và thường thể hiện xu hướng của chính sách đối ngoại của toàn bộ nền kinh tế;
- KCN đóng vai trò tiên phong trong sự phát triển kinh tế quốc dân. KCN sẽ là đầu tàu trong phát triển kinh tế kéo theo sự phát triển ở những vùng lân cận và các vùng khác của đất nước;
Qua các vai trò KCN nêu trên cho ta thấy sự khác biệt và nổi trội cả về chất và lượng của hình thức KCN so với cụm công nghiệp và doanh nghiệp công nghiệp độc lập phân tán được thể hiện qua các tiêu chí tác động của nó như sau:
- Đối với các nhà đầu tư vào KCN: Với cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội sẵn có, nhà đầu tư vào KCN có thể xây dựng được nhà máy, xí nghiệp của mình một cách nhanh chóng, trong khi đó nếu đầu tư ngoài KCN nhà đầu tư sẽ mất thời gian và tài chính trong quá trình Bồi thường - GPMB, đặc biệt là thời gian và các thủ tục trong quá trình kết nối các đầu mối kỹ thuật cho sản xuất như: điện, nước, viễn thông, giao thông;
- Đối với các nhà đầu tư nước ngoài: Khi các dự án có công nghệ hiện đại đòi hỏi chất lượng cơ sở hạ tầng ở mức độ cao nên khi đầu tư ngoài KCN khó có thể đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy, hầu hết các dự án sản xuất công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu ở các KCN;
- Về cơ chế quản lý: Cơ chế quản lý bằng các Ban quản lý KCN trong các KCN tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến các thủ tục trong sản xuất như: xuất nhập khẩu vật tư, thủ tục thuế, hải quan, tuyển dụng và đào tạo lao động so với các doanh nghiệp đầu tư ngoài KCN;
- Đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế vĩ mô việc xây dựng KCN theo quy hoạch phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia, chiến lược phát triển công nghiệp, chiến lược thương mại quốc tế,... tạo được bước đi phù hợp với khả năng của đất nước về tài chính, thu hút đầu tư, phát triển hạ tầng của từng thời kỳ, đảm bảo phân bố lực lượng sản xuất trên lãnh thổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, bảo vệ môi trường sinh thái, đây cũng là bài học được rút ra từ thời kỳ phát triển các cụm công nghiệp Việt Trì, Đông Anh của những năm 60, 70 của thế kỷ trước và hiện nay vẫn chưa thể khắc phục được hoàn toàn;
- Đối với phát triển KT-XH vùng: trên cơ sở lợi thế vùng, xây dựng KCN vừa khai thác lợi thế của vùng vừa tránh được đầu tư phân tán, phát huy được hiệu quả của vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Phát triển KCN là phát triển công nghiệp theo quy hoạch, bảo vệ môi trường, tiết kiệm và phát huy hiệu quả sử dụng đất và các nguồn lực khác, hình thành đô thị mới, thực hiện văn minh, tiến bộ xã hội, giảm khoảng cách giữa các vùng nông thôn và thành thị. Phát triển KCN là giải pháp quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng;
- Đối với hội nhập kinh tế quốc tế: Như đã phân tích ở trên, hàng hoá trong KCN một mặt cung cấp thị trường nội địa để đảm bảo đủ sức cạnh tranh và ngăn chặn hàng nhập lậu từ các nước khác, mặt khác KCN là khu sản xuất hàng hoá xuất khẩu (thường chiếm 65% - 70% tổng doanh số hàng hoá do KCN sản xuất ra) được coi là một cửa ngõ khai thông nền kinh tế trong nước với nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới;
Như vậy, KCN là một hình thức tổ chức công nghiệp tiên tiến, hữu hiệu, phù hợp và khả thi cho các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, có vai trò quan trọng hàng đầu trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trong suốt giai đoạn đổi mới và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
2.2.4 Tình hình xây dựng các KCN trên thế giới và Việt Nam
2.2.4.1 Tình hình xây dựng các KCN trên thế giới
Việc hình thành và xây dựng các KCN đã và đang trở thành một trong những mô hình phát triển kinh tế quan trọng ở các nước đang phát triển và cả những nước phát triển. Mô hình kinh tế này ra đời nhằm thúc đẩy nhanh quá trình hình thành và phát triển cơ sở hạ tầng công nghiệp và công nghiệp nông thôn, thúc đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế và đổi mới cơ cấu kinh tế mỗi quốc gia.
Sự ra đời của các KCN có thể nói bắt đầu từ khi các nước quan tâm nới rộng thương mại quốc tế và bắt đầu dùng các loại thuế truyền thống và hàng rào thuế quan khắt khe đối với những sản phẩm hàng hoá vào lãnh thổ của mình. KCN phát triển mạnh vào nửa thế kỷ 20. Tuy có thể nói loại hình này bắt đầu từ thế kỷ 18 song trong thời điểm đó mới chỉ ở bước sơ khai, chỉ xác định cho một khu vực làm ăn kinh tế được tự do và có nhiều ưu đãi.
Xét trên phạm vi toàn thế giới thì loại hình KCN mới thực sự bắt đầu hình thành từ sau thế chiến thứ 2 (giữa những năm 50) về cả quy mô, số lượng, loại hình và từng bước hoàn chỉnh qua các thập kỷ 60, 70 của thế kỷ 20. Đây là khoảng thời gian mà loại hình KCN phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. KCN đầu tiên trên thế giới được thành lập năm 1896 ở Trandford Park Manchester (Anh), vùng công nghiệp Clearing Chicago, bang Ilinois được coi là KCN đầu tiên của Mỹ và năm 1940 Italia cũng thành lập một KCN ở Napoli, đến thập kỷ 50 - 60 ở Mỹ có 452 vùng công nghiệp và gần 1000 KCN, sau đó tăng lên 2400 KCN vào năm 1970, ở Pháp có 230 KCN năm 1963 và Canada có 21 vùng công nghiệp năm 1965. Ở các nước đang phát triển bắt đầu vào cuối thập kỷ 60 mới có 9 KCN ở 9 nước thì đến đầu thập kỷ 70 có 34 KCN, đến giữa thập kỷ 80 có 35 nước thành lập được 79 KCN, sau 2 năm (1987) theo số liệu thống kê đã đạt 111 KCN ở 40 nước, nhìn chung mô hình KCN đã trở thành làn sóng phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới và trở thành mô hình tiến bộ đối với chương trình phát triển công nghiệp, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở các nước đang phát triển vào những năm 1960 - 1970 như Hàn Quốc, Malaysia, Philippin, Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan,... Hiện nay, trên thế giới có hàng ngàn KCN được thành lập, tuy nhiên sự phát triển các KCN các nước không đều, thậm chí ở một số nước không thành công nhưng số lượng loại hình này vẫn không ngừng tăng lên [29].
Đến nay, việc xây dựng phát triển các KCN có nhiều thay đổi. Các nước tập trung đi sâu vào quản lý chất lượng hiệu quả, tạo môi trường thuận lợi, dịch vụ, chính sách và đặc biệt là cơ sở hạ tầng ngày càng hoàn thiện, nhằm hướng tới lợi nhuận cao hơn cho các nhà sản xuất, KD đến đầu tư nhờ giảm chi phí sản xuất về nhân công, thuế, giao thông vận tải, dịch vụ, phục vụ nhanh chóng trên cơ sở khuyến khích từ các chính sách của nước chủ nhà dành cho các nhà đầu tư ở trong KCN làm cho các sản phẩm hàng hoá ở đây giá rẻ, chất lượng cao lại có khả năng cạnh tranh với các nơi khác trên thị trường thế giới và khu vực. Với các nhà đầu tư nước ngoài vào KCN của nước sở tại còn có điều kiện thuận lợi để thâm nhập vào thị trường nước đó có điều kiện được cung cấp nguyên liệu tại chỗ tạo sự ổn định về nguyên liệu và thị trường mở rộng hơn.
2.2.4.2 Tình hình xây dựng các KCN ở Việt Nam
Năm 1957, Việt Trì là nơi đầu tiên được chọn để xây dựng KCN của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đến năm 1962 KCN Việt Trì tỉnh Vĩnh Phú (cũ) nay là Phú Thọ được khánh thành. Khu công nghiệp này do Trung Quốc và Liên Xô giúp đỡ xây dựng, bao gồm các nhà máy như: nhà máy giấy, nhà máy chè, nhà máy bột ngọt,.. Như vậy, có thể coi việc hình thành và xây dựng các KCN của Việt Nam được tính từ năm 1957. Trong hơn 40 năm qua đất đai của nước ta đã sử dụng hiệu quả cao hơn, tuy bình quân diện tích đất nông nghiệp thấp và giảm dần do các KCN ngày một tăng lên nhưng do đầu tư các yếu tố kỹ thuật và giống cây trồng tốt nên nông dân không những đã sản xuất đủ lương thực, thực phẩm cung cấp đủ cho nhu cầu trong nước mà tỷ trọng xuất khẩu từ nông nghiệp ngày càng nhiều.
Hàng năm nước ta chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang xây dựng các KCN với số lượng hàng chục nghìn ha. Tính đến cuối tháng 12/2008 cả nước đã có 219 KCN được thành lập. Tính trong 182 KCN ngoài Khu kinh tế và các KCN được cấp giấy chứng nhận đầu tư cho dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN) đã chiếm tổng diện tích đất tự nhiên 43.791 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 29.358 ha, chiếm 67% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó, 110 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 26.115 ha và 72 KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với tổng diện tích đất tự nhiên 17.675 ha. Các KCN, KCX phân bố ở 53 tỉnh, thành phố trên cả nước; tập trung ở ba vùng kinh tế trọng điểm với tổng diện tích đất tự nhiên chiếm gần 60% tổng diện tích các KCN cả nước [15].
Với tốc độ phát triển nhanh chóng về cả diện tích và số lượng các KCN trong những năm qua, nhiều địa phương không có quỹ đất dự phòng, số nhân khẩu nông nghiệp tăng nhưng sự chuyển dịch lao động nông nghiệp sang ngành nghề khác lại chậm dẫn tới một bộ phận nông dân thiếu đất hoặc không có đất để sản xuất. Ở các thành phố lớn, các tỉnh có tốc độ đô thị hoá nhanh, số hộ nông dân không còn đất sản xuất chiếm tỷ lệ lớn nhất cả nước như ở Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hưng Yên,....
Thực hiện chủ trương của Đảng, thi hành Luật Đất đai và các quyết định của Chính phủ các cấp, các ngành đã chú trọng quản lý, sử dụng đất đai có hiệu quả, thực hiện nhiều chính sách đối với hộ nông dân được thu hồi đất. Hệ thống kết cấu hạ tầng ở nông thôn được xây dựng khá hơn, việc xác lập và xác định các khu tái định cư cũng như các chính sách đền bù tương đối thoả đáng. Những yếu tố đã góp phần thúc đẩy sản xuất và ổn định chính trị, kinh tế, xã hội ở nông thôn.
Tuy nhiên, ở một số nơi chưa thực hiện tốt chủ trương của Đảng cũng như việc thi hành Luật đất đai và các Quyết định của Chính phủ cộng với quá trình công nghiệp hoá và đô thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh, đã làm cho số hộ nông dân không còn đất sản xuất tăng lên. Tình trạng lao động không có việc làm đối với những hộ bị thu hồi đất và lao động dư thừa trong nông thôn ngày một nhiều. Ở một số nơi, do việc buông lỏng quản lý đất đai của chính quyền cơ sở nên đã nảy sinh tình trạng tranh chấp đất đai trong nội bộ nhân dân. Một bộ phận nông dân do chưa hiểu rõ chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước nên không giao đất cho Nhà nước, khiếu kiện đông người, vượt cấp đã diễn ra, có nơi trở thành “điểm nóng” gây nên những vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự ở nông thôn.
2.2.4.3 Tình hình xây dựng các KCN của tỉnh Vĩnh Phúc
Với quan điểm công tác quy hoạch phải đi trước một bước, quy hoạch phải mang tính tổng thể, đồng bộ, gắn phát triển công nghiệp với phát triển đô thị và dịch vụ, bảo đảm sự đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào KCN, khai thác phát triển KCN ở các vùng đồi, vùng đất bạc màu, hạn chế tối đa khai thác quỹ đất trồng lúa cho phát triển công nghiệp, bảo đảm cho sự phát triển bền vững các KCN. Sau 10 năm, từ xuất phát điểm chỉ có 1 KCN được thành lập vào năm 1998 là KCN Kim Hoa, huyện Mê Linh (nay thuộc Thành phố Hà Nội) đến nay trên địa bàn tỉnh đã hình thành một hệ thống 11 KCN với tổng diện tích 3.025 ha được phân bố hợp lý ở 6 huyện, thành, thị xã. Trong đó có 6 KCN đã đi vào hoạt động và có tỷ lệ sử dụng đất cho các dự án cao như KCN Quang Minh (giai đoạn I 344 ha) đạt 100%, KCN Khai Quang 74,1%, KCN Bình Xuyên 54%, KCN Kim Hoa (giai đoạn 1) 100%, còn lại 5 KCN đang trong giai đoạn đầu tư [2].
Từ nay đến năm 2020, tỉnh chú trọng thu hút các dự án công nghệ cao và công nghiệp phụ trợ nhằm hình thành một trung tâm sản xuất các sản phẩm công nghệ cao tại Vĩnh Phúc, tập trung khai thác các dự án từ các quốc gia, vùng lãnh thổ truyền thống như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan hướng tới các dự án đầu tư từ Mỹ và EU đồng thời, khuyến khích các dự án đầu tư vào nông nghiệp, du lịch, dịch vụ nhằm đảm bảo cho phát triển đồng bộ.
Riêng năm 2008, tỉnh Vĩnh Phúc được Thủ tướng Chính phủ cho chủ trương thành lập thêm KCN Sơn Lôi (300 ha) và KCN Hội Hơp (150 ha) hoàn thiện đề án Quy hoạch bổ sung phát triển các KCN tỉnh Vĩnh Phúc vào quy hoạch phát triển các KCN Việt Nam đến năm 2015 định hướng đến năm 2020 để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Theo Đề án này, ngoài 11 KCN đã có, dự kiến từ nay đến 2020 tỉnh Vĩnh Phúc có thêm 14 KCN với diện tích 5.576 ha. Như vậy đến năm 2020 tỉnh Vĩnh Phúc sẽ có 23 KCN với diện tích trên 8.600 ha [2].
Tính đến hết tháng 8/2008, trên địa bàn tỉnh có: 615 dự án đầu tư trực tiếp trong và ngoài nước (tính cả huyện Mê Linh) trong đó lĩnh vực công nghiệp 471 dự án chiếm 76,59%, lĩnh vực dịch vụ, thương mại 75 dự án chiếm 12,2%, lĩnh vực nông nghiệp 13 dự án chiếm 2,11%, lĩnh vực đào tạo 16 dự án chiếm 2,6% và lĩnh vực du lịch, đô thị 40 dự án chiếm 6,5%.
Các dự án đầu tư nước ngoài đến từ 16 quốc gia và vùng lãnh thổ như Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Mỹ, Ý, Anh, Đức,… trong đó khu vực Đông Bắc Á chiếm tỷ lệ lớn với Đài Loan đứng đầu có 47 dự án, vốn đầu tư: 991,775 triệu USD sau đó là Nhật Bản với 29 dự án, vốn đầu tư 690,37 triệu USD, Hàn Quốc 34 dự án, vốn đầu tư 180,38 triệu USD. Đặc biệt, có các doanh nghiệp lớn như: Honda, Toyota, Piagio, Foxconn, Compal, Daewoo.
Các dự án đầu tư vào tỉnh trong những năm qua đã tạo điều kiện cho tỉnh Vĩnh Phúc hình thành nên các Trung tâm công nghiệp lớn như: công nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy với 4 nhà máy lớn Honda, Toyota, Daewoo, Foxconn, Xuân Kiên và nhiều nhà máy sản xuất sản phẩm linh kiện phụ tùng đã trở thành trung tâm vật liệu xây dựng lớn so với toàn quốc và hiện nay đang từng bước hình thành Trung tâm sản phẩm điện tử viễn thông, công nghệ cao do các nhà đầu tư lớn đến từ Đài Loan như Compal, Hồng Hải đầu tư.
Từ kết quả về thu hút đầu tư trên đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thể hiện trên các mặt sau:
- Giá trị sản xuất công nghiệp do các dự án đầu tư trực tiếp trong và ngoài nước hàng năm tạo ra chiếm trên 90% tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh, tốc độ tăng bình quân các ngành công nghiệp, xây dựng trong các năm từ 1997-2007 là 33,1%.
- Kim ngạch xuất khẩu: do các dự án FDI tạo ra hàng năm chiếm trên 85% giá trị kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh.
- Thu ngân sách hàng năm từ các dự án FDI chiếm trên 80% tồng thu ngân sách toàn tỉnh hàng năm.
- Giải quyết việc làm cho gần 6 vạn lao động trực tiếp trong các nhà máy. Trong đó lao động là người của tỉnh Vĩnh Phúc chiếm trên 60%, riêng 3 năm gần đây mỗi năm giải quyết việc làm cho trên 1 vạn lao động chưa kể các lao động trực tiếp thi công trên các công trường xây dựng và lao động gián tiếp khác.
Kết quả đó đã góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của toàn tỉnh, bình quân giai đoạn 1997-2007 tăng 17,5%, giai đoạn 2006-2008 tăng 20,4% [2].
2.3 Những tác động của việc xây dựng các KCN
2.3.1 Tác động về kinh tế
*/Tích cực:
Quá trình CNH trong các KCN đã làm thay đổi về phương thức sản xuất cũ, đã có sự chuyên môn hoá cao hơn trong sản xuất. Do vậy sản xuất phát triển nhanh chóng về số lượng và chất lượng, lợi nhuận được tăng lên. Mặt khác sự phát triển KCN làm tăng nhu cầu tiêu thụ về số lượng và chất lượng làm cho các ngành sản xuất khác có thêm thị trường tiêu thụ nên các ngành này cũng có cơ hội phát triển hơn. Đối với phát triển kinh tế của địa phương có KCN thì KCN làm tăng GDP cho địa phương và quan trọng hơn là tăng giá trị sử dụng đất. Việc phát triển các KCN làm cho các địa phương hầu hết được thay đổi về bộ mặt kinh tế, cơ sở hạ tầng phát triển, các ngành nghề phụ trợ phát triển qua đó đời sống kinh tế được nâng cao hơn.
*/ Tiêu cực:
Bên cạnh các mặt tích cực đã nêu, việc xây dựng KCN cũng có những tác động tiêu cực trong việc chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất, nó sẽ phát triển theo hướng xấu đi nếu không có sự kiểm soát, định hướng có quy hoạch của các cấp thẩm quyền. Đặc biệt là vấn đề của người nông dân bị mất đất sản xuất, một số hộ nông dân do quá tuổi lao động, không có trình độ theo yêu cầu của nhà tuyển dụng đã không chuyển đổi được việc làm dẫn đến tình trạng thất nghiệp và giảm thu nhập nên kinh tế những hộ này ngày càng đi xuống.
2.3.2 Tác động về xã hội
*/ Tích cực
Xây dựng KCN dẫn tới nhu cầu về lao động vào các ngành công nghiệp tại KCN sẽ tăng nên lực lượng lao động ở độ tuổi còn trẻ trong vùng sẽ có cơ hội học tập để đáp ứng được công việc. Từ đó sẽ có công việc ổn định và thu nhập cao hơn lao động nông nghiệp trước đây. Ngoài ra, việc xây dựng KCN kéo theo nhiều loại hình dịch vụ phát triển vì vậy, những người dân trong vùng có thêm các cơ hội về các loại hình việc làm mới nhờ đó nâng cao thu nhập. Xây dựng các KCN là cơ hội để phát triển các ngành nghề truyền thống, những hộ nông dân mất đất không đáp ứng được công việc mới có tính chất công nghiệp cao sẽ chuyển hướng tham gia vào để phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống để tận dụng được sức lao động của nhiều độ tuổi lao động cũng như thời gian nhàn rỗi (nghề thêu, mây tre đan,...). Đối với vấn đề phát triển xã hội, CNH hoá tại các KCN góp phần phát triển xã hội một cách toàn diện: nâng cao dân trí; cuộc sống văn minh; mở rộng và phát triển nền văn minh nhân loại và các KCN đã thúc đẩy sự phát triển của công đồng. Cùng với sự phát triển đô thị, các khu vực ven đô, ngoại thành, các khu vực khác đều trở thành nơi cung cấp lao động, cung cấp thực phẩm, lương thực, nguyên liệu cho KCN nhờ vậy mà sản xuất cộng đồng phát triển. Thêm vào đó sự phát triển các KCN làm thay đổi bộ mặt văn hoá của địa phương, thay đổi theo hướng tốt hơn của nếp sống cộng đồng, có cơ hội tiếp xúc và hưởng thụ phương tiện thông tin đại chúng, văn hoá mới hiện đại, có tiêu chuẩn tốt hơn.
*/ Tiêu cực:
Như đã nêu trên, việc xây dựng các KCN đối với vấn đề xã hội gây ra tình trạng phổ biến là thất nghiệp mùa vụ và dư thừa lao động, tình trạng này gây không ít những tác động tiêu cực cho xã hội. Ở các khu vực có KCN các tệ nạn xã hội nhiều hơn, tỷ lệ thất nghiệp, mù chữ cao hơn và cũng mất dần các phong tục tập quán tốt trước đây do nhiều thành phần xã hội tập trung đến để làm việc và mưu sinh, kiếm sống.
2.3.3 Tác động đến việc làm của người dân
Hiện nay thất nghiệp, thiếu việc làm đã và đang là mối quan tâm của Chính phủ các nước, các tổ chức kinh tế và mọi người trên thế giới. Giải quyết việc làm cho người lao động đang trở thành vấn đề toàn cầu, là một thách thức lớn của mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam, thất nghiệp, thiếu việc làm đang và sẽ là bài toán khó trong quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế trên con đường CNH, HĐH đất nước.
Vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất dẫn đến chuyển dịch lao động cũng đang diễn ra mạnh mẽ cả tự phát và trong quy hoạch. ''Đất xây dựng kết cấu hạ tầng phát triển công nghiệp, dịch vụ và xây dựng đô thị tăng tương đối nhanh'' điều này tất yếu dẫn đến một bộ phận không nhỏ lao động nông nghiệp không còn tư liệu sản xuất rơi vào tình trạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm. Hiện tượng lao động nông nghiệp có đất bàn giao mất việc làm hoặc bị giảm việc làm do quá trình đô thị hoá và hình thành các KCN tập trung diễn ra mạnh mẽ nhất là 15 tỉnh thuộc vùng Đồng bằng Sông Hồng.
Theo số liệu báo cáo của các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội ở các tỉnh. Trong năm 2007 diện tích đất nông nghiệp chuyển mục đích sử dụng là 4.419 ha. Dự kiến thời kỳ 2006-2010 vùng đông Bắc sẽ chuyển đổi mục đích sử dụng đất là 24.615 ha [13].
Do tốc độ đô thị hóa nhanh cùng với việc tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp và đô thị ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong những năm gần đây nên một diện tích lớn đất nông nghiệp đã phải chuyển sang để xây dựng các KCN, khu đô thị mới và các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật… Việc chuyển mục đích đối với đất nông nghiệp nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống, việc làm của người dân bị thu hồi đất. Theo kết quả điều tra thì trung bình cứ mỗi hộ dân bị thu hồi đất có 1,5 lao động bị mất việc làm.
Tại thành phố Hà Nội tính đến hết năm 2007 có khoảng 200.000 người thất nghiệp do mất đất sản xuất mặc dù Thành phố đã có nhiều giải pháp như hỗ trợ đào tạo nghề cho một người trong độ tuổi lao động là 3,8 triệu đồng nhưng việc sử dụng khoản hỗ trợ này chưa có hiệu quả cao [13].
Tại thành phố Hồ Chí Minh thì trong vòng năm năm trở lại đây, Thành phố đã triển khai 412 dự án, diện tích đất đã thu hồi của các hộ dân lên tới 60.203.074 m2; tổng số hộ bị ảnh hưởng là 53.853 hộ và việc sử dụng tiền có được từ BT-GPMB cũng không đạt hiệu quả, chủ yếu vào việc mua sắm phương tiện đi lại, vật dụng sinh hoạt chưa chú tâm đến việc học nghề, giải quyết việc làm. Trước khi bị thu hồi đất, phần lớn người dân đều có cuộc sống ổn định vì họ có đất sản xuất, có tư liệu sản xuất được để thừa kế từ thế hệ này cho các thế hệ sau. Sau khi bị thu hồi đất, đặc biệt là những hộ nông dân bị thu hồi hết đất sản xuất, điều kiện sống và sản xuất của họ bị thay đổi hoàn toàn. Mặc dù nông dân được giải quyết bồi thường bằng tiền, song họ vẫn chưa định hướng ngay được những ngành nghề hợp lý để có thể ổn định được cuộc sống [13].
Ở Vĩnh Phúc trong những năm gần đây có tốc độ phát triển các KCN, khu đô thị mới tăng nhanh mặc dù trong những năm qua Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân nhân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, các tổ chức xã hội, người lao động đã triển khai nhiều hoạt động để giải quyết việc làm (xây dựng đề án giải quyết việc làm cho lao động, tổ chức các hội chợ việc làm,..) hàng năm giải quyết cho hàng vạn lao động nhưng tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức khá cao (ở đô thị là 2%). Với tốc độ thu hồi đất trong những năm vừa qua rõ ràng việc làm cho lao động sau khi giao đất là một vấn đề rất lớn khi lực lượng lao động này đại bộ phận chưa qua đào tạo và độ tuổi cao (35-55-60 tuổi), nhất là lao động nữ, vì vậy để tìm được việc làm trong các cụm công nghiệp, KCN, phù hợp với yêu cầu của các nhà tuyển dụng là rất khó khăn.
2.4 Kinh nghiệm các nước trên thế giới về giải quyết việc làm cho người dân khi bị thu hồi đất
Để giải quyết vấn đề việc làm và lao động dư thừa trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở một số nước trên thế giới, các quốc gia đã có nhiều giải pháp khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi nước. Kết quả đạt được của mỗi quốc gia là bài học quý báu đối với vấn đề giải quyết việc làm cho người dân trong quá trình công nghiệp hóa ở Việt Nam.
- Kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang Đức: Công tác khuyến khích phát triển kinh tế đô thị là một trọng tâm được ưu tiên ở tất cả các đô thị của nước Đức. Công tác lãnh đạo và quản lý các KCN đều chú ý tập trung khai thác các tiềm năng kinh tế địa phương tạo điều kiện thuận lợi để nó phát triển. Việc này liên quan đến hàng loạt các nhân tố như tác động vào hoạt động của các doanh nghiệp thông qua chính sách tài chính thuế, duy trì khuyến khích các doanh nghiệp mới, chuẩn bị mặt bằng và cơ sở hạ tầng, marketing đô thị, khuyến khích đổi mới công nghệ, xây dựng chính sách việc làm cho địa phương. Nước Đức hiện nay đang ở trong thời kỳ “phi công nghiệp hoá” nên đã giải thể các nhà máy xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 để chuyển sang các dây chuyền sản xuất hiện đại có công nghệ cao và sạch, tạo năng suất lao động cao và giảm ô nhiễm môi trường. Các dự án phát triển kinh tế ở các KCN được chuẩn bị một cách nghiêm túc, dân chủ và hướng vào phục vụ lợi ích của cộng đồng.
Thành phố Nordhorn và Lingen là những thành phố để lại bài học bổ ích về chuyển đổi công nghệ, tạo việc làm mới, khuyến khích các công ty phát triển đa ngành, mở thêm các công ty mới. Doanh nghiệp dệt đã phát triển sớm cách đây hơn 100 năm. Thời kỳ năm 1960 đã có 11.000 công nhân, đến những năm gần đây chỉ còn 1.000 chỗ làm. Từ khi công nghiệp dệt đi xuống thành phố đã tạo được 10.000 chỗ làm mới. Từ ngành dệt độc tôn này đã chuyển sang đa ngành, bắt buộc phải có sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế mạnh mẽ. Quá trình cải tạo công nghiệp dệt cũng là quá trình CNH-HĐH. Thành phố còn tập trung đầu tư vào phát triển hệ thống giao thông để phát triển kinh tế, kết quả đạt được là tạo 18.000 chỗ làm mới. Nước Đức còn giải quyết việc làm cho lao động bằng cách lập ra qũy bổ sung do nhà nước tài trợ, mục đích tạo thêm việc làm, trợ cấp thất nghiệp và phân tích cơ cấu thất nghiệp, để xây dựng các chương trình bồi dưỡng nâng cao tay nghề, tạo việc làm thay thế đáp ứng nhu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, hạn chế tình trạng thất nghiệp. Đây là kinh nghiệm có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp nhà nước đang chuyển đổi cơ cấu kinh tế và CNH-HĐH ở các vùng ngoại vi thành phố, đòi hỏi chuẩn bị nguồn nhân lực từ con em nông dân để họ bước vào làm việc ở các khu liên doanh và các KCN mới [10].
- Kinh nghiệm của Trung Quốc: Trung Quốc là quốc gia đông dân nhất thế giới. Tốc độ CNH-HĐH cũng đang diễn ra rất nhanh chóng. Diện tích đất canh tác hạn chế trong khi dân số đang tăng làm cho tỷ lệ thất nghiệp ở các vùng nông thôn ngày càng tăng. Hiện nay, ước tính Trung Quốc có từ 100 - 120 triệu lao động nông thôn không có việc làm, hàng năm lại tăng thêm 6-7 triệu lao động. Với lực lượng lao động nông thôn dư thừa này, hàng năm có hàng triệu người nhập cư vào các vùng thành thị. Thực trạng này đã gây ra rất nhiều khó khăn cho công tác quản lý đô thị về các mặt như: quản lý dân cư, lao động việc làm, an ninh, sức khoẻ và nhiều vấn đề khác. Trong những năm qua, mặc dù vẫn còn tình trạng di cư đến các đô thị lớn nhưng với các biện pháp hữu hiệu Trung Quốc đã đạt được những thành công trong việc hạn chế sức ép về việc làm. Giải pháp chủ yếu mà Trung Quốc áp dụng để giải quyết việc làm cho các KCN là:
+ Phát triển các xí nghiệp địa phương để thu hút việc làm. Các giai đoạn phát triển của xí nghiệp địa phương ở Trung Quốc bao gồm:
Giai đoạn đầu tiên là từ khi tiến hành đổi mới đến năm 1984. Trong giai đoạn này, nhờ vào chủ trương đổi mới của Trung Quốc về nông thôn, đặc biệt là hệ thống hợp đồng trách nhiệm với các hộ gia đình đã tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn, các nhân tố cho sản xuất đã bắt đầu xuất hiện và những người nông dân bắt đầu tham gia vào các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp. Các đội sản xuất được đổi tên thành các xí nghiệp địa phương.
Giai đoạn thứ hai từ năm 1985 đến năm 1988 khi sản xuất nông nghiệp có những biến động lớn và có sự giảm sút thì các xí nghiệp địa phương lại rất phát triển giúp cho kinh tế nông thôn phát triển một cách mạnh mẽ và toàn diện. Nhờ v._. dân có đất bị thu hồi được hưởng tiêu chuẩn bằng đất hoặc bằng tiền.
- Với các hộ mất đất: Các hộ dân bị thu hồi đất sản xuất cho Nhà nước cần có sự chuẩn bị về cả tinh thần và kế hoạch cho tương lai, chúng tôi đưa ra các giải pháp trước mắt sau:
+ Xây dựng kế hoạch sử dụng hiệu quả vốn được bồi thường: Ngay sau khi công khai quy hoạch đã được phê duyệt các hộ phải có kế hoạch cho tương lai và nhất là vấn đề sử dụng tiền vốn có từ bồi thường. Kinh nghiệm cho thấy các hộ có sự tính toán, đầu tư thời gian để xem xét, nghiên cứu sẽ sử dụng hiệu quả hơn, trong khi chưa có kế hoạch thì trước mắt nên gửi số tiền này vào ngân hàng, sau khi có kế hoạch sẽ sử dụng để đầu tư.
+ Xây dựng kế hoạch sản xuất mới đối với các hộ còn đất bằng việc phát triển ngành nghề mới hơn như: phát triển cơ sở sản xuất rau cây, con sạch, nuôi trồng các loại sản phẩm có hiệu quá kinh tế cao để nâng cao thu nhập và tiết kiệm thời gian nông nhàn.
4.5.2 Nhóm giải pháp lâu dài
- Trong cơ chế, chính sách
Qua kinh nghiệm của nhiều điạ phương, để giải quyết việc làm và tạo thu nhập lâu dài, ổn định cho người lao động có đất bị thu hồi, chúng tôi đưa ra các giải pháp lâu dài sau đây:
+ Chính sách của Nhà nước về thuế, đất đai, tín dụng, KHCN và thị trường tiêu thụ:
*/ Về tín dụng: Hiện nay,chính sách về tín dụng của nhà nước quá chặt chẽ, nhiều doanh nghiệp đã không thể tiệp tục hoạt động sản xuất kinh doanh do không đủ vốn, dẫn đến hàng trăm lao động thất nghiệp. Bên cạnh đó nhà nước cần có chính sách thông thoáng hơn trong việc hoàn tất các thủ tục hành chính cho doanh nghiệp. Hoàn thiện và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng cho các KCN để thu hút ngày càng nhiều các doanh nghiệp thuê địa điểm trên địa bàn quận tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho lao động.
*/ Về đất đai: Khuyến khích, tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Đặc biệt khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư tại các vùng có điều kiện khó khăn. Những doanh nghiệp đầu tư sản xuất nông nghiệp ở vùng khó khăn, ngoài việc được hưởng cơ sở hạ tầng do Nhà nước đầu tư, còn được tạo điều kiện về ưu đãi về thuê đất mặt bằng để gắn sản xuất với chế biến nông sản tại chỗ.
+ Tập huấn để nông dân tiếp cận kỹ thuật mới:
*/ Tổ chức tập huấn kỹ thuật về chăn nuôi, trồng trọt cho những hộ dân, doanh nghiệp tiếp cận với những quy trình sản xuất mới, giống mới.
Ngoài ra, Nhà nước cần tạo những nguồn vốn ưu đãi như quỹ Khuyến nông, quỹ Giải quyết việc làm... cho các doanh nghiệp, các hộ vay vốn khi có nhu cầu. Củng cố quan hệ sản xuất đổi mới, củng cố hoạt động kinh doanh của các HTX nông nghiệp, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia liên kết, liên doanh nhằm tạo mọi nguồn lực để phát triển sản xuất nông nghiệp.
+ Rà soát, bổ sung hoặc sửa đổi trong chính sách pháp luật về đất đai để có được sự đồng bộ, thống nhất và đặc biệt là dễ hiểu trong việc áp dụng, nhất là với vấn đề bồi thường, hỗ trợ, thu hồi đất,…
+ Cần bổ sung vào Luật đất đai và các Nghị định của Chính phủ về trách nhiệm của Nhà nước, trách nhiệm của nhà đầu tư đến vấn đề chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo đối với người dân có đất bị thu hồi. Nên đặt vấn đề đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm mới đối với người có đất bị thu hồi là vấn đề kinh tế, chính trị xã hội hàng đầu mà chính quyền các cấp phải có trách nhiệm phối hợp với các nhà đầu tư giải quyết.
+ Quy hoạch đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp cho dân cư phải được tiến hành đồng thời với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch sử dụng đất để xây dựng KCN và vấn đề đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp cho dân cư phải được giải quyết trước khi thu hồi đất của dân cư.
+ Cung cấp thông tin, tổ chức tư vấn hướng nghiệp cho người bị thu hồi đất có khả năng học tập chuyển đổi theo hình thức phù hợp. Cần quy định rõ trách nhiệm của các bên Nhà nước, chủ dự án, các tổ chức đào tạo trong việc tổ chức, bộ máy quản lý, kiểm tra đánh giá nhằm triển khai đào tạo và đảm bảo nguồn lực cho công tác đào tạo.
+ Chủ động hướng dẫn người dân sử dụng tiền đền bù một cách có hiệu quả bằng việc cung cấp thông tin, hướng dẫn liên hệ góp vốn với doanh nghiệp dưới hình thức mua cổ phần, hoặc gửi vào Ngân hàng, mua bảo hiểm. Với cách làm này, người dân sau khi bị thu hồi đất, vẫn được chia lợi nhuận từ kết quả sản xuất công nghiệp, kể cả có việc làm ngay trên mảnh đất của mình hoặc nhận được lãi suất tiền gửi để có thu nhập ổn định.
+ Tích cực tuyên truyền, vận động để người dân có đất bị thu hồi hiểu biết về chính sách đất đai nói chung và chính sách trong bồi thường, hỗ trợ cho người dân nói riêng.
+ Nâng cao chất lượng nguồn lao động từ người có đất bị thu hồi phù hợp với yêu cầu phát triển mới của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập.
Lao động nông nghiệp nước ta nói chung, người nông dân có đất bị thu hồi nói riêng có trình độ văn hoá kém, trình độ khoa học kỹ thuật, năng lực quản lý kém, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp rất hạn chế. Do đó, khi được thu hút vào làm việc trong các doanh nghiệp không đáp ứng được yêu cầu, dẫn đến tình trạng hoặc không được thu nhận, hoặc tự bỏ doanh nghiệp, hoặc bị thải hồi sau một thời gian làm việc.
Thêm nữa, trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới, xuất khẩu lao động đang trở thành một nhu cầu bức xúc cả về nước xuất khẩu và cả về phía các nước nhập khẩu lao động. Đối với nước ta, xuất khẩu lao động là vấn đề chiến lược quan trọng mang tính Quốc gia đem lại hiệu quả kép, “vừa ích nước vừa lợi nhà”. Do đó, xuất khẩu lao động là một biện pháp quan trọng đối với lực lượng lao động nước ta nói chung, với lao động ở các vùng có đất bị thu hồi nói riêng. Tuy nhiên, như đã nói, chất lượng lực lượng lao động nước ta nói chung, các vùng có đất bị thu hồi nói riêng hiện nay còn rất thấp. Vì thế để đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp và xuất khẩu lao động, cần thiết phải có sự lựa chọn và đào tạo nghề nghiệp, rèn luyện kỷ luật lao động và tác phong công nghiệp cho người lao động. Muốn vậy, cần khảo sát nắm nhu cầu nguồn lao động của các thị trường. Trên cơ sở đó, cần nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục và đào tạo, kể từ giáo dục phổ thông đến đào tạo nghề, thực hiện đổi mới nội dung, chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và nhu cầu xuất khẩu lao động.
- Đối với người dân có đất bị thu hồi:
+ Cần từng bước khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống và nghề mới ở nông thôn. Phát huy thế mạnh của các ngành nghề, làng nghề, cụm làng nghề truyền thống trong nông thôn sử dụng nhiều lao động, ít vốn để giải quyết lao động nông nghiệp dôi dư do ảnh hưởng của đô thị hoá. Để thực hiện được mục tiêu này cần có chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất như ưu đãi trong vay vốn, miễn giảm thuế, hỗ trợ tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm; tạo điều kiện thuê mặt bằng để hình thành các khu làng nghề sản xuất tập trung, tổ chức các cơ sở làm nghề truyền truyền thống trên cơ sở lấy hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, đồng thời phát triển mạnh mẽ các hình thức hiệp hội, liên kết giữa các gia đình tiến tới thành lập các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
+ Khuyến khích người nông dân còn đất dồn điền đổi thửa hoặc chuyển nhượng đất đai từ hộ có ít đất nông nghiệp sang một số hộ có chuyên canh sản xuất nông nghiệp, chuyển dần theo hướng nông nghiệp sinh thái.
+ Phát triển kinh tế trang trại vừa và nhỏ: Để giải quyết lao động dôi dư không có khả năng xin việc trong các công ty, các KCN, dịch vụ cần phát triển các trang trại vừa và nhỏ. Để làm được như vậy cần có chính sách khuyến khích nông dân chuyển nhượng, cho thuê đất nông nghiệp cùng với việc giới hạn về quy mô tránh hiện tượng tích trữ ruộng đất, hợp tác giữa các nhóm hộ để cùng phát triển sản xuất tạo ra các sản phẩm chất lượng cao hơn. Khuyến khích việc nuôi trồng thuỷ sản kết hợp với du lịch sinh thái (câu cá giải trí) nhằm khai thác có hiệu quả mặt nước nuôi trồng thuỷ sản. Khuyến khích các hộ, đơn vị cải tạo hồ, ao, đầu tư kè ao hồ nhằm khai thác có hiệu quả mặt nước đồng thời chống lấn chiếm của các hộ dân xung quanh.
* Đối với vấn đề ô nhiễm môi trường: Một trong những giải pháp quan trọng nhất đối với vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay và cả trong tương lai đó là giải pháp tuyên truyền, vận động ý thức bảo vệ môi trường của người dân, bao gồm: bảo vệ môi trường nước, môi trường không khí và rác thải
- Đối với việc xử lý nước thải và nước mặt. Giải pháp lâu dài và đảm bảo chất lượng nguồn nước và môi trường sinh thái của các con sông và ao hồ trên địa bàn là làm sạch các nguồn nước đổ ra sông hồ. Muốn vậy cần thực hiện các biện pháp như: đối với các nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở sản xuất cần có biện pháp bắt buộc về xử lý nước thải trước khi đổ ra các con sông nhằm đảm bảo chất lượng nước sông khỏi các chất thải, hoá chất độc hại. Đối với các KCN mới xây dựng, hệ thống xử lý nước thải công nghiệp phải được xây dựng đồng thời cùng với việc phát triển các dự án KCN. Với các xí nghiệp công nghiệp nằm riêng lẻ, phải xây dựng các trạm xử lý nước thải cục bộ. Đối với các khu dân cư, hệ thống thoát nước của các khu vực này cần thiết kế tách riêng với hệ thống nước mưa.
- Đối với nguồn nước ngầm: giải pháp lâu dài để đảm bảo chất lượng nguồn nước ngầm là giảm tối đa lượng nước thải ô nhiễm ngầm xuống lòng đất. Muốn vậy cần xây dựng hệ thống cống rãnh thoát nước tốt, xử lý nghiêm những trường hợp đổ chất thải, rác thải ô nhiễm xuống lòng đất. Việc khai thác nguồn nước ngầm cũng phải từng bước đưa vào quản lý và thực hiện theo quy hoạch tránh tình trạng khai thác nước ngầm tràn lan, gây cạn kiệt nguồn nước.
- Đối với vấn đề ô nhiễm rác thải: Đối với các loại rác thải công nghiệp độc hại cần phải tách khỏi các rác thải công nghiệp thông thường và được xử lý theo các yêu cầu riêng phù hợp với từng loại rác thải. Ở khu vực nông thôn rác thải cần được xử lý theo hai hình thức:
+ Xử lý tại chỗ: đối với các hộ gia đình nông nghiệp, rác thải sinh hoạt và rác thải chăn nuôi cần được khuyến khích xử lý theo dạng bể bioga tại các gia đình, qua đó vừa giải quyết được vấn đề rác thải, vừa có thể thoả mãn nhu cầu về năng lượng.
+ Xử lý tập trung: đối với các khu vực làng nghề hoặc các KCN, cụm công nghiệp nông thôn và các khu vực tập trung dân cư như các trung tâm dịch vụ nông thôn (các thị tứ), rác thải sẽ được xử lý tại nhà máy xử lý rác thải hoặc chôn lấp tại các bãi rác của huyện.
+ Xây dựng chiến lược lâu dài về tạo việc làm cho lao động mất đất nông nghiệp. Cụ thể hóa chiến lược đã xây dựng cho từng thời kỳ, từng lĩnh vực khoa học công nghệ, vốn, đào tạo, quản lý lao động, phân bố và sử dụng hợp lý lao động đúng trình độ, đúng tay nghề…
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1 Kết luận
Ở Vĩnh Phúc trong những năm gần đây quá trình phát triển các KCN diễn ra khá mạnh, được đánh giá là một trong những tỉnh phát triển KCN nhanh nhất Miền Bắc và sự phát triển về công nghiệp theo hướng CNH- HĐH này bước đầu đã đem lại những thành công đáng kể. Tuy vậy, diện tích đất nông nghiệp của tỉnh đã không ngừng bị thu hẹp cũng gây ra những tác động không nhỏ đến sản xuất, lao động, việc làm và đời sống của các hộ nông dân có đất bị thu hồi. Qua thời gian nghiên cứu đề tài: “Đánh giá ảnh hưởng của việc thu hồi đất xây dựng khu công nghiệp Khai Quang thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc đến đời sống, việc làm của người dân ” chúng tôi đi đến một số kết luận sau:
1. Về tình hình bồi thường, hỗ trợ của dự án:
- Dự án đã thực hiện đúng theo các quy định của Nhà nước trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ở thời điểm thực hiện, xác định chính xác các đối tượng, điều kiện bồi thường.
- Đơn giá bồi thường của dự án so với các khu vực khác cùng thời điểm tương đối thấp và có sự chênh lệch lớn giữa giá bồi thường đất ở và đất vườn. Tuy nhiên, các khoản hỗ trợ khác cho người dân bị thu hồi đất khá cao đã tạo được sự đồng thuận của người dân và đảm bảo tiến độ thực hiện.
2. Về đời sống của người dân sau khi bị thu hồi đất xây dựng KCN:
Cơ bản đã có sự thay đổi tích cực, các hộ do có thu nhập khá hơn từ việc có việc làm nên đã mua sắm được các tài sản có giá trị phục vụ cho cuộc sống, việc tiếp cận các cơ sở hạ tầng kỹ thuật và phúc lợi xã hội cũng được dễ dàng và thuận tiện hơn, quan hệ trong gia đình của các hộ nhờ đó cũng tốt đẹp hơn. Với vấn đề môi trường sinh thái, tuy đã có sự biến đổi theo chiều hướng xấu đi so với trước khi thành lập KCN Khai Quang nhưng chưa đến mức báo động, các chỉ tiêu ô nhiễm vẫn còn ở mức độ cảnh báo, chưa xảy ra các sự cố về môi trường nghiêm trọng. Tuy nhiên, đây là vấn đề hết sức quan trọng cần được nghiên cứu và có biện pháp phòng ngừa, xử lý ngay từ bây giờ.
3. Về việc làm của người dân:
- Về thu nhập: Sau khi bị thu hồi đất thu nhập bình quân của các hộ đều tăng lên góp phần cải thiện đời sống về vật chất cũng như tinh thần cho hộ. Bình quân tăng từ 6,3 triệu đồng/hộ lên 24,31 triệu đồng/hộ.
- Cơ cấu sản xuất, việc làm: Trước khi bàn giao đất nghề chủ yếu của các hộ gia đình là ngành sản xuất nông nghiệp và sau khi bàn giao đất cơ cấu có sự biến chuyển sang hướng kinh doanh dịch vụ và ngành nghề khác. Trong số hộ điều tra, nghề nông nghiệp của các hộ đã giảm đi 40,97% so với lúc chưa bàn giao đất. Ngành nghề kinh doanh dịch vụ và ngành nghề khác được mở rộng hơn trước, số lao động tham gia vào ngành này tăng lên, trong số 180 hộ điều tra hiện đã chiếm tỷ trọng 15,85% số lao động so với trước khi thu hồi đất là 5,46%, số lao động đi làm việc nơi khác cũng tăng lên chiếm 22,91% và trước khi thu hồi là 9,57%.
5.2 Kiến nghị
Chuyển dịch lao động nông nghiệp sang làm ngành nghề khác, tạo mở thêm việc làm và việc làm mới, nhanh chóng ổn định việc làm và đời sống cho người lao động là vấn đề bức xúc cần được quan tâm hàng đầu đối với các địa bàn nông thôn có đất bị thu hồi. Xuất phát từ những vấn đề còn tồn tại trong quá trình chuyển đổi đất sang xây dựng các KCN ở địa phương, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị như sau:
Đối với Nhà nước
Giao cho các cơ quan có chức năng cùng với các viện nghiên cứu xây dựng chi tiết và có cơ sở khoa học về chiến lược, quy hoạch kế hoạch sử dụng nguồn lực đất đai và chiến lược đào tạo lao động cho các cùng quy hoạch trước khi thu hồi đất từ nay cho đến năm 2010, 2020.
Cần hoàn thiện một số chính sách về kinh tế như chính sách khuyến khích phát triển các loại hình kinh tế thu hút nhiều lao động; chính sách đối với các dự án đầu tư thu hút nhiều lao động tại chỗ; chính sách khuyến khích người lao động học tập để thích nghi với thị trường lao động.
2. Đối với doanh nghiệp trong các KCN
Cần quan tâm hơn đối với lao động của những hộ bị thu hồi đất nói riêng và lao động của địa phương nói chung. Thực hiện nghiêm túc những yêu cầu của địa phương sau khi đã thu hồi đất. Bên cạnh đó cũng cần quan tâm tới công trình phúc lợi, tu bổ và sử dụng có hiệu quả những công trình đó.
Đối với chính quyền địa phương
Tăng cường các hoạt động tư vấn dịch vụ hướng nghiệp và dạy nghề. Hỗ trợ phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp trên địa bàn, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nhỏ và dịch vụ nông thôn. Thúc đẩy quá trình tích tụ đất nông nghiệp và hình thành các trang trại để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và thu hút được ngày càng nhiều số lao động làm công ăn lương trên địa bàn.
Đối với các hộ gia đình
Chấp hành tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước, chuyển đổi phương hướng sản xuất kinh doanh phải trong khuôn khổ pháp luật.
Trước hết cần tự tìm ra hướng đi mới, năng động, sáng tạo học hỏi kinh nghiệm của những hộ nông dân khác nhằm phát huy hết khả năng vốn có để vươn lên làm giàu chính đáng. Mạnh dạn đầu tư cho phát triển sản xuất, cho con em đi học nghề, học văn hoá nhằm tạo nền móng sau này có nghề nghiệp; tìm kiếm một số nghề đã phát triển ở địa phương mà hộ chưa thử nghiệm, sử dụng đồng vốn có hiệu quả./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Ấn phẩm điện tử (Số 28, 2008), “Việc thu hồi đất phát triển công nghiệp và bảo đảm phát triển nông nghiệp, cải thiện đời sống nông dân”, (www.vst.vista.gov.vn/home/database/an_pham_dien_tu/nong_thon_doi_moi/2008/2008_00028/MItem.2008-07-09.3745/MArticle.2008-07- 09.4158/marticle_view)
2. Ban quản lý các KCN và thu hút đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc (2008), Báo cáo tổng kết 10 năm phát triển các KCN.
3. Bộ Tài chính và Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Báo cáo kết quả tổng hợp về tăng cường quản lý sử dụng đất của quy hoạch và dự án đầu tư trên phạm vi cả nước.
4. Bộ Nội vụ (1959), Thông tư liên bộ số 1424/TTLB ngày 5/7/1959 về việc thi hành Nghị định 151-TTg.
5. Bộ Tài chính (2006), Thông tư số 69/2006/TT-BTC ngày 02/8/2006 về sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư 116/2004/TT-BTC .
6. Bộ Tài chính (2004), Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 7/12/2004 về hướng dẫn thi hành Nghị định 197/2004/NĐ-CP.
7. Chính phủ (2004), Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
8. Chính phủ (2007), Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
9. Chính phủ (2008), Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế.
10. TrÇn V¨n Chö, TrÇn Ngäc Hiªn (1998), §« thÞ ho¸ vµ chÝnh s¸ch ph¸t triÓn ®« thÞ trong c«ng nghiÖp ho¸ - hiÖn ®¹i ho¸ ë ViÖt Nam, NXB ChÝnh trÞ Quèc gia, Hµ Néi.
11. Hội đồng Chính phủ (1980), Quyết định số 201/CP ngày 01/7/1980 về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước.
12. Trần Ngọc Hưng (2004), Giải pháp hoàn thiện và phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam - Luận án tiến sỹ Khoa học Khoa Kinh tế Trường Đại học thương mại Hà Nội.
13. Hoàng Hải, Tạp chí cộng sản (2004), Số phát hành 61.
14. Phòng Thống kê - UBND Thành phố Vĩnh Yên (2008), Niên giám thống kê.
15. QH (2008), Đến cuối tháng 2/2008 cả nước có 182 khu công nghiệp được thành lập,
16. Quốc hội, Luật cải cách ruộng đất 1953.
17. Quốc hội, Hiến pháp 1959.
18. Quốc hội, Hiến pháp 1980.
19. Quốc hội, Luật Đất đai 1988.
20. Quốc hội, Hiến pháp 1992.
21. Quốc hội, Luật Đất đai 1993.
22. Quốc hội, Luật Đất đai 2003.
23. Thủ tướng Chính phủ (1959), Nghị định số 151 ngày 15/4/1959 quy định về thể lệ tạm thời về trưng ruộng đất.
24. UBND tỉnh Hải Dương (2005), Quyết định số 5425/QĐ-UB ngày 18/11/2005 về việc phê duyệt phương án bồ thường, hỗ trợ khi thu hồi đất cho Ban quản lý dự án Khu công nghiệp tàu thủy Lai Vu thuê đất.
25. UBND tỉnh Vĩnh Phúc (1994), Quyết định số 286/QĐ-UB ngày 01/4/1997 về giá đất trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
26. UBND tỉnh Vĩnh Phúc (2003), Quyết định số 1918/QĐ-UB ngày 21/5/2003 về việc ban hành quy định giá đất trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
27. UBND tỉnh Vĩnh Phúc (2004), Quyết định số 5198/2004/QĐ-UB ngày 31/12/2004 về việc ban hành quy định giá đất trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
28. UBND tỉnh Vĩnh Phúc (2005), Quyết định số 302/2005/QĐ-UB ngày 27/01/2005 “V/v ban hành bản quy định đơn giá bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất”.
Tiếng Anh
29. Jeffey S; R.T Roger (1998), The Industrialization of Agriculture, Ashgata Pushlishing Limited, Hampshire, England.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: Một số hình ảnh về Khu công nghiệp Khai Quang
Ảnh 1: Khu vực xây dựng KCN Khai Quang thời điểm năm 2001
Ảnh 2: Toàn cảnh KCN Khai Quang năm 2008
Ảnh 3: Một số ruộng đất còn lại của khu vực cạnh KCN Khai Quang
Ảnh 4: Sự chuyển dịch ngành nghề ở khu vực được bố trí Tái định cư
Ảnh 5: Các hộ sử dụng tiền BT-GPMB vào việc xây dựng, sửa chữa nhà cửa
Ảnh 6: Môi trường khu vực KCN Khai Quang đang bị ô nhiễm
PHỤ LỤC 2: Mẫu phiếu điều tra
Phiếu 1: Dành cho hộ bị thu hồi đất
Phiếu số ........................
PHIẾU ĐIỀU TRA HỘ
VỀ TÌNH HÌNH ĐỜI SỐNG VÀ VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI DÂN
SAU KHI BỊ THU HỐI ĐẤT CHO KHU, CỤM CÔNG NGHIỆP
I- NHỮNG THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ HỘ GIA ĐÌNH:
1. Họ và tên người trả lời:…………………………………………………
2. Địa chỉ nơi ở hiện nay (ghi theo đơn vị hành chính):
a. Số nhà, đường phố, thôn, ấp:…..............…………………………….
b. Xã (phường, thị trấn):..……………………………………………
c. Huyện (Quận):.........................................………………………….
d. Tỉnh (thành phố):…....................…………………………………..
3. Số nhân khẩu thường trú:…..…người, trong đó:
a. Đang đi học (sống phụ thuộc gia đình):...............người.
b. Lao động nông nghiệp:...........…………………..người.
c. Lao động làm nghề TTCN:...……………………người.
d. Lao động buôn bán:……………………………...người.
e. Lao động đi làm thuê:...………………………….người.
f. Lao động là CB, CNVC:………………………….người.
g. Không có khả năng LĐ (già yếu, tàn tật):…..……người.
4. So với trước khi thu hồi: Tăng giảm………người; Do sinh đẻ………người.
Do nhập hộ mới……….người; Do cắt hộ khẩu……...người; Chết……….người.
II. NHỮNG THÔNG TIN VỀ SỬ DỤNG ĐẤT
1. Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích:
XD khu công nghiệp
XD các công
trình SXKD
XD khu đô thị,
khu dân cư
Mục đích
khác
2. Diện tích đất của hộ.
a. Diện tích đất nông nghiệp trước khi bị thu hồi: ……………..m2.
b. Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi: ...……………………..m2.
c. Bình quân diện tích đất nông nghiệp sau khi thu hồi: ....…….m2/người.
d. Diện tích đất ở (vườn) trước khi bị thu hồi: ……………..m2.
e. Diện tích đất ở (vườn) bị thu hồi: ...……………………..m2.
f. Bình quân diện tích đất ở (vườn) sau khi thu hồi: ......…….m2/người.
g. Gia đình có phải di dời đến nơi ở mới không: Có ; Không
3. Hình thức bồi thường mà hộ nhận được.
a. Bằng tiền: Số m2:…...…. x đơn giá (m2)…...........=…......……….. đồng.
b. Bằng đất ở: Số m2:……………………….
c. Bằng đất sản xuất: Số m2:.......……………
d. Bằng hình thức khác:……..………………
4. Phương thức sử dụng các khoản bồi thường.
a. Sử dụng tiền mặt: Tổng số tiền: Đã nhận:………………. đồng.
Còn thiếu:………………. đồng.
STT
Mục đích sử dụng
Sử dụng số tiền
được bồi thường
( 1.000 đồng )
Tỷ lệ % sử dụng
Đối với sô tiền
đã nhận
Đối với số tiền chưa nhận
( Dự kiến chi )
1
Nhận chuyển nhượng đất NN để tiếp tục sản xuất
2
Đầu tư vào SX, KD dịch vụ phi NN
3
Học nghề
4
Xây dựng, sửa chữa nhà cửa
5
Mua đồ dùng sinh hoạt gia đình
6
Cho vay
7
Gửi tiết kiệm
8
Mục đích khác (ghi cụ thể):
……………………………….
9
Số tiền còn lại chưa sử dụng
vào mục đích trên
10
Cộng
b. Nếu được bồi thường bằng đất sản xuất NN, việc sử dụng như thế nào? Đánh giá hiệu quả việc sử dụng diện tích đất được bồi thường theo ba mức:
Hiệu quả cao (C); Hiệu quả trung bình (TB); Kém hiệu quả (K):
STT
Mục đích sử dụng
Sử dụng diện tích đất
được bồi thường (m2)
Đánh giá
hiệu quả
(Cao,TB,Thấp)
Đối với diện tích đã được nhận
Đối với diên tích
chưa được nhận
(dự kiến sử dụng)
1
Dùng để sản xuất
2
Chuyển nhượng
3
Cho thuê
4
Sử dụng vào mục đích khác (ghi cụ thể):
…………………………….
5
Cộng
c. Nếu được bồi thường bằng đất ở và làm dịch vụ, việc sử dụng như thế nào?
Đánh giá hiệu quả việc sử dụng diện tích nhà nước bồi thường theo ba mức:
Hiệu quả cao (C); Hiệu quả trung bình (TB); Kém hiệu quả (K):
STT
Mục đích sử dụng
Sử dụng diện tích nhà
được bồi thường (m2)
Đánh giá
hiệu quả
(Cao,TB,Thấp)
Đối với diện tích đã được nhận
Đối với diện tích chưa được nhận (dự kiến sử dụng )
1
Dùng để ở
2
Chuyển nhượng
3
Cho thuê
4
Sử dụng vào mục đích khác ( ghi cụ thể ):
…………………………….
5
Cộng
d. Tài sản sở hữu của hộ
STT
Loại tài sản
Trước khi bị thu hồi
( Năm......................... )
Sau khi bị thu hồi
( Năm......................... )
a
Số xe máy
c
Số ô tô
d
Số tivi
e
Số tủ lạnh
f
Số máy giặt
g
Tài sản có giá trị khác (điện thoại, máy vi tính,...)
III. TÌNH HÌNH THU NHẬP VÀ VIỆC LÀM, MÔI TRƯỜNG SỐNG CỦA HỘ
1. Các nguồn thu nhập chủ yếu của hộ: Trước và sau khi bị thu hồi
STT
Các nguồn thu
Trước khi bị thu hồi
( Năm......................... )
Sau khi bị thu hồi
( Năm......................... )
a
Các nguồn thu từ NN/hộ
b
Các nguồn thu tư ngành nghề
c
Các nguồn thu từ dịch vụ
d
Làm thuê
e
Làm công nhân, CBVC
Tổng cộng (đồng )/hộ/năm:
2. Tình hình việc làm của hộ: Trước và sau khi bị thu hồi
Trong gia đình có lao đồng nào được tuyển dụng vào làm việc tại các nhà máy, xí nghiệp trong khu công nghiệp không? 1. Có £ 2. Không £
Nếu có hãy cho biết số lượng LĐ được tuyển dụng, thời gian tuyển dụng, thu nhập /tháng/LĐ.
1. Số lượng lao động:.....................................
2. Thời gian tuyển dụng:................................
3. Thu nhập bình quân /tháng:.......................
Nếu không, vì sao? .................................................................................................................................
STT
Nghề nghiệp của các lao động trong hộ
Trước khi bị thu hồi
(người)
Sau khi bị thu hồi
(người)
a
Lao động nông nghiệp
b
Tiểu thủ công nghiệp
c
Dịch vụ
d
Buôn bán
e
Làm thuê
g
Công nhân trong các nhà máy tại địa phương
h
CB,CNVC
i
Được đầu tư đi tìm việc làm ngoài địa phương
k
Nghề khác ngoài nông nghiệp
3. Đánh giá tình trạng việc làm của các lao động so với trước khi bị thu hồi đất.
Đủ việc làm Thiếu việc làm Không có việc làm Như cũ
4. Đánh giá của hộ về tình hình môi trường sinh thái trong khu, cụm công nghiệp
Tốt lên Như cũ Ô nhiễm (1 nặng, 2 trung bình, 3 nhẹ)
5. Đánh giá chung về tình trạng cuộc sống hiện tại so với trước khi bị thu hồi đất.
a. Thu nhập: Tốt lên Như cũ Kém hơn
b. Quan hệ trong hộ gia đình:
Tốt lên Như cũ Kém đi
c. Tình hình tiếp cận các cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội:
Tốt hơn Như cũ Kém hơn
IV. CÁC KIẾN NGHỊ CỦA NGƯỜI DÂN.
1. Trả nốt tiền bồi thường: …………………………………………………………...
2. Trợ cấp lương thực: …………………………kg.
3. Thực hiện đúng các cam kết đã hứa:
Hiện đã bị chậm trễ bao lâu?
…………………………………………………………………………………..
4. Về đào tạo nghề bằng tiền hoặc việc làm:……………………………………
………………………………………...…………………………………………..
5. Cho vay vốn:………………………mức vay………………………………….
6. Thu hút vào DN:…………………………...………………………………….
7. Kiến nghị khác (tăng giá bồi thường, kỹ thuật, nghề truyền thống..v.v…):
…………………...………………………………………………………………………………...…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… Ngày tháng năm 2008
Người điều tra
Chủ hộ
( Ký và ghi rõ họ tên)
Phiếu 2: Dành cho hộ không bị thu hồi đất
Phiếu số ........................
PHIẾU ĐIỀU TRA HỘ
VỀ TÌNH HÌNH THAY ĐỔI ĐỜI SỐNG VÀ VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI DÂN
SAU KHI THÀNH LẬP KHU, CỤM CÔNG NGHIỆP
I- NHỮNG THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ HỘ GIA ĐÌNH:
1. Họ và tên người trả lời:……………………………………………………
2. Địa chỉ nơi ở hiện nay (ghi theo đơn vị hành chính):
a. Số nhà, đường phố, thôn, ấp:…..............…………………………….
b. Xã (phường, thị trấn):..………………………………………………
c. Huyện (Quận):.........................................…………………………….
d. Tỉnh (thành phố):…....................……………………………………..
3. Số nhân khẩu thường trú:…..…người, trong đó:
a. Đang đi học (sống phụ thuộc gia đình):...............người.
b. Lao động nông nghiệp:...........…………………..người.
c. Lao động làm nghề TTCN:...……………………người.
d. Lao động buôn bán:……………………………...người.
e. Lao động đi làm thuê:...………………………….người.
f. Lao động là CB, CNVC:………………………….người.
g. Không có khả năng LĐ (già yếu, tàn tật):…..……người.
4. So với trước khi có KCN: Tăng giảm………người; Do sinh đẻ………người.
Do nhập hộ mới……….người; Do cắt hộ khẩu……...người; Chết……….người.
II. NHỮNG THÔNG TIN VỀ SỬ DỤNG ĐẤT
1. Diện tích đất của hộ.
a. Diện tích đất nông nghiệp hiện có của hộ: ……………..m2.
b. Bình quân diện tích đất nông nghiệp: ......…….m2/người.
c. Diện tích đất ở (vườn) hiện có của hộ: ……………..m2.
f. Bình quân diện tích đất ở (vườn): ......…….m2/người.
III. TÌNH HÌNH THU NHẬP, ĐỜI SỐNG VÀ VIỆC LÀM, MÔI TRƯỜNG SỐNG CỦA HỘ
1. Tài sản sở hữu của hộ
STT
Loại tài sản
Trước khi có KCN
( Năm......................... )
Sau khi có KCN
( Năm......................... )
a
Số xe máy
c
Số ô tô
d
Số tivi
e
Số tủ lạnh
f
Số máy giặt
g
Tài sản có giá trị khác (điện thoại, máy vi tính,...)
2. Các nguồn thu nhập chủ yếu của hộ: Trước và sau khi có KCN
STT
Các nguồn thu
Trước khi có KCN
( Năm......................... )
Sau khi có KCN
( Năm......................... )
a
Các nguồn thu từ NN/hộ
b
Các nguồn thu tư ngành nghề
c
Các nguồn thu từ dịch vụ
d
Làm thuê
e
Làm công nhân, CBVC
Tổng cộng (đồng )/hộ/năm:
3. Tình hình việc làm của hộ: Trước và sau khi có KCN
Trong gia đình có lao động nào được tuyển dụng vào làm việc tại các nhà máy, xí nghiệp trong khu công nghiệp không? 1. Có £ 2. Không £
Nếu có hãy cho biết số lượng LĐ được tuyển dụng, thời gian tuyển dụng, thu nhập /tháng/LĐ.
1. Số lượng lao động:.....................................
2. Thời gian tuyển dụng:................................
3. Thu nhập bình quân /tháng:.......................
Nếu không, vì sao? .................................................................................................................................
STT
Nghề nghiệp của các lao động trong hộ
Trước khi có KCN
(người)
Sau khi có KCN
(người)
a
Lao động nông nghiệp
b
Tiểu thủ công nghiệp
c
Dịch vụ
d
Buôn bán
e
Làm thuê
g
Công nhân trong các nhà máy tại địa phương
h
CB,CNVC
i
Được đầu tư đi tìm việc làm ngoài địa phương
k
Nghề khác ngoài nông nghiệp
4. Đánh giá tình trạng việc làm của các lao động so với trước khi có KCN.
Đủ việc làm Thiếu việc làm Không có việc làm Như cũ
4. Đánh giá của hộ về tình hình môi trường sinh thái trong khu, cụm công nghiệp
Tốt lên Như cũ Ô nhiễm (1 nặng, 2 trung bình, 3 nhẹ)
5. Đánh giá chung về tình trạng cuộc sống hiện tại so với trước khi có KCN
a. Thu nhập: Tốt lên Như cũ Kém hơn
b. Quan hệ trong hộ gia đình:
Tốt lên Như cũ Kém đi
c. Tình hình tiếp cận các cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội:
Tốt hơn Như cũ Kém hơn
IV. CÁC KIẾN NGHỊ CỦA NGƯỜI DÂN.
……………………………..............................................................................................................................................................................................................................................
Ngày tháng năm 2009
Người điều tra
Chủ hộ
( Ký và ghi rõ họ tên )
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHQL09019.doc
- PHỤ LỤC.doc