BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
----------------------------
NGUYỄN MẠNH CƯỜNG
ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC THU HỒI ĐẤT XÂY DỰNG CÁC KHU, CỤM CÔNG NGHIỆP ĐẾN ĐỜI SỐNG VÀ VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI DÂN TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ TỪ SƠN - TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành : QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Mã số : 60.62.16
Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. HỒ THỊ LAM TRÀ
HÀ NỘI - 2009
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn
100 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1733 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Đánh giá ảnh hưởng của việc thu hồi đất xây dựng các khu, cụm công nghiệp đến đời sống và việc làm của người dân trên địa bàn thị xã Từ Sơn - Tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc./.
Tác giả luận văn
Nguyễn Mạnh Cường
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo của các nhà khoa học, các thầy cô giáo và sự giúp đỡ nhiệt tình, những ý kiến đóng góp quý báu của nhiều cá nhân và tập thể để hoàn thành bản luận văn này.
Nhân dịp này tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Hồ Thị Lam Trà đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong thời gian thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự góp ý chân thành của các thầy, cô giáo Khoa Tài nguyên và Môi trường - Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn Văn phòng UBND tỉnh; Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư; Sở Lao động - Thương binh và xã hội, Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh; các phòng Tài nguyên và Môi trường, Tài chính, Nội vụ và Thống kê của thị xã Từ Sơn; UBND xã Phù Chẩn và phường Đình Bảng; các Trưởng thôn Doi Sóc, Rích Gạo, Phù Lộc xã Phù Chẩn đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong thời gian nghiên cứu thực hiện luận văn tại địa phương.
Tôi xin cảm ơn tới gia đình, những người thân, bạn bè và đồng nghiệp đã tạo điều kiện về mọi mặt cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2009
Tác giả luận văn
Nguyễn Mạnh Cường
MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục chữ viết tắt v
Danh mục bảng vi
Danh mục biểu đồ vii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Các chữ viết tắt
Ký hiệu
1
Bồi thường, hỗ trợ
BT, HT
2
Bị ảnh hưởng
BAH
3
Công nghiệp hóa, hiện đại hoá
CNH, HĐH
4
Giải phóng mặt bằng
GPMB
5
Hội đồng nhân dân
HĐND
6
Luật đất đai
LĐĐ
7
Ngân hàng phát triển Châu Á
ADB
8
Ngân hàng Thế giới
WB
9
Nhà máy
NM
10
Nghị định
NĐ
11
Quyền sử dụng đất
QSDĐ
12
Tái định cư
TĐC
13
Thương mại, dịch vụ
TM, DV
14
Ủy ban nhân dân
UBND
15
Xí nghiệp
XN
DANH MỤC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
4.1. Hiện trạng sử dụng đất thị xã Từ Sơn năm 2008 43
4.2. Cơ cấu sử dụng đất của cụm công nghiệp đa nghề Đình Bảng 49
4.3. Cơ cấu sử dụng đất khu công nghiệp 51
4.4. Cơ cấu sử dụng đất khu đô thị 51
4.5. Kết quả bồi thường thiệt hại về đất dự án cụm công nghiệp đa nghề Đình Bảng 56
4.6. Tổng kinh phí bồi thường giải phóng mặt bằng của dự án cụm công nghiệp đa nghề Đình Bảng 58
4.7. Tổng kinh phí bồi thường, hỗ trợ của dự án khu công nghiệp, đô thị và dịch vụ VSIP 59
4.8. Khái quát về thu hồi đất và bồi thường hỗ trợ của các hộ dân 62
4.9. Phương thức sử dụng tiền bồi thường hỗ trợ của các hộ dân 63
4.10. Tài sản sở hữu của các hộ điều tra 66
4.11. Tình hình thu nhập của các hộ sau khi bị thu hồi đất 67
4.12. Thu nhập bình quân 1 nhân khẩu 1 năm phân theo nguồn thu (dự án cụm công nghiệp Đình Bảng) 68
4.13. Kết quả điều tra về trình độ văn hóa, chuyên môn của số người trong độ tuổi lao động 70
4.14. Tình hình lao động và việc làm của các hộ dân bị thu hồi đất ở 2 dự án 71
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT
Tên biểu đồ
Trang
4.1. Cơ cấu kinh tế thị xã Từ Sơn năm 2008 44
4.2. Cách thức sử dụng tiền của người dân sau khi nhận tiền bồi thường 64
4.3. Tài sản sở hữu của các hộ điều tra phỏng vấn 66
4.4. Sự thay đổi về ngành nghề của hộ 72
1. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), trong những năm qua trên địa bàn cả nước đã hình thành và đi vào hoạt động nhiều khu công nghiệp với quy mô khác nhau. Cùng với xu hướng đó, quá trình xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia cũng đang diễn ra rất nhanh ở nước ta, không chỉ đối với các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh mà còn đối với hầu hết các tỉnh, thành phố khác trên phạm vi cả nước, tạo lên động lực mới cho sự phát triển, thúc đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy nhiên quá trình phát triển nhanh các khu công nghiệp, khu đô thị, việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, các công trình công cộng và lợi ích quốc gia cũng đang đặt ra những vấn đề bức xúc, thậm chí gây lên những tác động tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến mục tiêu phát triển dài hạn và bền vững của đất nước.
Việc phát triển các khu, cụm công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng, phục vụ lợi ích quốc gia đi liền đồng thời với việc thu hồi đất, bao gồm cả đất ở và đất nông nghiệp của một bộ phận dân cư, chủ yếu là các vùng ven đô thị, vùng có điều kiện giao thông thuận lợi, vùng có tiềm năng, có điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, xã hội. Giải quyết việc làm, ổn định và từng bước nâng cao đời sống cho người bị thu hồi đất là nhiệm vụ của các cấp ủy Đảng, chính quyền và toàn xã hội. Để làm được điều đó cần có một hệ thống chính sách đồng bộ để vừa thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, vừa bảo đảm được lợi ích của người bị thu hồi đất.
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của khu vực phía Bắc, tỉnh Bắc Ninh có một vị trí quan trọng trong tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng -Quảng Ninh và có vị trí rất thuận lợi về giao thông: có đường QL1A, QL18, đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn chạy qua; Bắc Ninh cách cảng hàng không quốc tế Nội Bài 43 km, cách cảng biển Hải Phòng và cảng biển Cái Lân (Quảng Ninh) 110 km, cách cửa khẩu Việt - Trung (tại Lạng Sơn) 112 km. Để tận dụng và phát huy được ưu thế trên, biến các tiềm năng thành các thế mạnh thực tế về kinh tế, khai thông các nguồn vốn đầu tư tỉnh Bắc Ninh đã có chiến lược phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh, trong những năm gần đây tỉnh Bắc Ninh đã thu hồi hơn 2.600 ha đất để xây dựng các khu công nghiệp và cụm công nghiệp. Năm 2001 tỉnh Bắc Ninh đã chấp thuận dự án đầu tư cụm công nghiệp Đa nghề Đình Bảng, năm 2007 là dự án khu công nghiệp, đô thị và dịch vụ VSIP nằm trên địa bàn thị xã Từ Sơn, đây là một vị trí thuận lợi cho việc đầu tư hạ tầng và phát triển các ngành nghề truyền thống. Việc đầu tư các cụm công nghiệp trên nhằm mục đích giữ gìn và phát huy các làng nghề truyền thống, đồng thời sản xuất ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu trong nước và tiến tới có thể xuất khẩu các sản phẩm sang khu vực và hội nhập kinh tế với các nước ASEAN. Tại đây sẽ phát triển các cơ sở lắp ráp linh kiện điện tử, sản xuất bao bì, chế biến xuất khẩu… và một số công trình khác.
Mặc dù đã có tác động rất tích cực đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh, thị xã, nhưng việc thu hồi đất vẫn là vấn đề “nóng”, gây bức xúc của người dân; việc xây dựng cụm công nghiệp Đa nghề Đình Bảng và khu công nghiệp dịch vụ VSIP đang gây ra nhiều vấn đề về kinh tế, xã hội bức xúc. Điều đó thể hiện ở một số nét chủ yếu sau:
Một là: xu thế đô thị hóa, xây dựng các cụm công nghiệp gắn liền với tình trạng đất giành cho sản xuất, kinh doanh của người dân bị thu hẹp, phải chuyển sang làm việc khác. Điều này làm cho một bộ phận dân cư bị mất việc làm truyền thống, phải chuyển đổi nghề nghiệp, thay đổi chỗ ở. Trong khi đó, quá trình phát triển khu công nghiệp chưa gắn liền với việc đào tạo nghề, chưa chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho người dân có đất bị thu hồi chuyển đổi nghề nghiệp. Điều đó đã làm cho phần lớn dân cư ở khu vực này không có khả năng tìm kiếm cho mình một công việc mới.
Hai là: công tác bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp mới chỉ chú ý đến mặt lượng mà bỏ qua mặt chất. Mặc dù số tiền mà Nhà nước phải bỏ ra để bồi thường cho những người dân về việc thu hồi đất là không nhỏ, nhưng số tiền đó trong nhiều trường hợp không những không giúp cho người dân thiết lập một cuộc sống mới tốt hơn mà còn gây lên những tác động xã hội tiêu cực. Do bồi thường thu hồi đất không gắn với tư vấn, định hướng về nghề nghiệp và chuyển đổi cơ cấu ngành nghề nên nhiều hộ nông dân không có khả năng sử dụng số tiền đó vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ba là: chính sách thu hồi đất để xây dựng khu công nghiệp ở nước ta những năm gần đây đã không gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và không theo một quy hoạch phát triển đồng bộ. Vì vậy, một bộ phận lớn người dân bị thu hồi đất, nhất là nông nghiệp, đã không được thu hút vào các hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Vì vậy, đời sống của một số người dân bị thu hồi đất vốn đã khó khăn nay lại khó khăn hơn.
Bốn là: quá trình đô thị hóa và phát triển khu công nghiệp, cũng gây nên những tác động tiêu cực như sự du nhập của các tệ nạn xã hội (ma túy, mại dâm, cờ bạc…), điều này không những đem lại sự bất ổn cho xã hội mà còn tác động không nhỏ đến suy nghĩ, lòng tin của người dân có đất bị thu hồi. Hậu qủa đó làm cản trở quá trình thực hiện mục tiêu cao cả của Đảng ta là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đồng thời gây mất niềm tin của người dân vào các chủ trương, chính sách và đường lối của Đảng và Nhà nước. [14]
Để đánh giá đúng thực trạng thu nhập, đời sống và việc làm của người dân bị thu hồi đất xây dựng cụm công nghiệp Đa nghề Đình Bảng; khu công nghiệp, đô thị và dịch vụ VSIP và đề xuất giải pháp, giải quyết các vấn đề bức xúc nêu trên, từ đó có những cơ sở cho việc đổi mới chính sách trong quá trình đô thị hóa xây dựng các khu, cụm công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng và cả nước nói chung, tôi chọn đề tài: Đánh giá ảnh hưởng của việc thu hồi đất xây dựng các khu, cụm công nghiệp đến đời sống và việc làm của người dân trên địa bàn thị xã Từ Sơn - tỉnh Bắc Ninh.
1.2 Mục tiêu
Đánh giá việc thực hiện chính sách bồi thường, GPMB khi Nhà nước thu hồi đất cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, khu cụm công nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
Đánh giá được ảnh hưởng của việc thu hồi đất đến thu nhập, đời sống, việc làm của người dân trên địa bàn thị xã Từ Sơn - tỉnh Bắc Ninh.
Đưa ra các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và đẩy nhanh tiến độ thu hồi đất phục vụ cho tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất.
1.3 Yêu cầu
- Các số liệu điều tra phải đầy đủ, chính xác, trung thực và khách quan.
- Các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất và nâng cao đời sống và việc làm của người dân có đất bị thu hồi đất phải có tính khả thi.
2. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng của một số nước và các tổ chức ngân hàng quốc tế
2.1.1 Trung Quốc
Ở Trung Quốc thực hành chế độ đất đai công hữu, tức là chính sách sở hữu toàn dân (đối với đất đô thị) và chính sách sở hữu tập thể (đất ở nông thôn, ngoại ô đô thị ngoài phần sở hữu Nhà nước do pháp luật quy định), đất tự canh tác (đồi núi).
Luật Đất đai được xây dựng trên cơ sở các quy định của Hiến pháp. Hiến pháp đặt ra các quy phạm pháp luật về chế độ sở hữu đối với đất đai, chế độ sử dụng đất đai và bảo hộ đất đai.
Về thẩm quyền thu hồi đất: Chỉ có Chính phủ (Quốc vụ viện) và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương mới có thẩm quyền thu hồi đất. Quốc vụ viện có thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp từ 35 ha trở lên và 70 ha trở lên đối với các loại đất khác. Dưới hạn mức này thì do chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ra quyết định thu hồi đất. Đất nông nghiệp sau khi thu hồi sẽ chuyển từ đất thuộc sở hữu tập thể thành đất thuộc sở hữu nhà nước.
Về trách nhiệm bồi thường: Pháp luật đất đai Trung Quốc quy định, người nào sử dụng đất thì người đó có trách nhiệm bồi thường. Phần lớn tiền bồi thường do người sử dụng đất trả. Tiền bồi thường bao gồm các khoản như lệ phí sử dụng đất phải nộp cho Nhà nước và các khoản tiền trả cho người có đất bị thu hồi. Ngoài ra, pháp luật đất đai Trung quốc còn quy định mức nộp lệ phí trợ cấp đời sống cho người bị thu hồi đất là nông dân cao tuổi không thể chuyển đổi sang ngành nghề mới khi bị mất đất nông nghiệp, khoảng từ 442.000 – 2.175.000 nhân dân tệ/ha.
Các khoản phải trả cho người bị thu hồi đất gồm tiền bồi thường đất đai, tiền trợ cấp TĐC, tiền bồi thường hoa màu và tài sản trên đất. Cách tính tiền bồi thường đất đai và tiền trợ cấp TĐC căn cứ theo giá trị của đất đai những năm trước đây rồi nhân với một hệ số do Nhà nước quy định. Còn đối với tiền bồi thường hoa màu và tài sản trên đất thì xác định theo giá thị trường tại thời điểm thu hồi đất.
Về nguyên tắc bồi thường: các khoản tiền bồi thường phải đảm bảo cho người dân bị thu hồi đất có chỗ ở bằng hoặc cao hơn so với nơi ở cũ. Ở Bắc Kinh, phần lớn các gia đình dùng số tiền bồi thường đó cộng với khoản tiền tiết kiệm của họ có thể mua được căn hộ mới. Còn đối với người dân ở khu vực nông thôn có thể dùng khoản tiền bồi thường mua được hai căn hộ ở cùng một nơi. Tuy nhiên, ở thành thị, cá biệt cũng có một số gia đình sau khi được bồi thường cũng không mua nổi một căn hộ để ở. Những đối tượng trong diện giải tỏa mặt bằng thường được hưởng chính sách mua nhà ưu đãi của Nhà nước, song trên thực tế họ thường mua nhà bên ngoài thị trường.
Về tổ chức thực hiện và quản lý giải tỏa mặt bằng: Cục Quản lý tài nguyên đất đai ở các địa phương thực hiện việc quản lý giải tỏa mặt bằng. Người nhận khu đất thu hồi sẽ thuê một đơn vị xây dựng giải tỏa mặt bằng khu đất đó, thường là các đơn vị chịu trách nhiệm thi công công trình trên khu đất giải tỏa.
Ở Trung Quốc do có sự khác nhau về hình thức sở hữu đất đai ở thành thị và nông thôn nên có sự phân biệt về bồi thường nhà ở giữa hai khu vực này. Đối với trường hợp bồi thường cho người dân ở thành thị, chủ yếu Nhà nước tiến hành bồi thường bằng tiền. Giá tiền bồi thường do các tổ chức do các tổ chức tư vấn về giá đất xác định căn cứ vào giá bất động sản tại thời điểm thu hồi. Ngược lại, việc bồi thường cho người dân ở khu vực nông thôn lại có những đặc điểm riêng biệt. Ở Trung Quốc Nhà nước quan tâm tới nông dân, tạo điều kiện cho họ được hưởng những thành quả công nghiệp hóa, đô thị hóa khu thu hồi đất. Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp hoặc là thu hồi đất ở thuộc khu vực nông thôn để sử dụng vào mục đích khác thì người nông dân được lưu ý, quan tâm về lợi ích cũng như được bồi thường một cách hợp lý. Một vấn đề rất quan trọng đó là gắn công tác bồi thường với việc giải quyết các vấn đề xã hội. Thông thường khi bị thu hồi đất, người nông dân khó tìm được việc làm thích hợp với khả năng của mình. Để giải quyết vấn đề này, Trung Quốc đã thực hiện chế độ dưỡng lão đối với người già (phụ nữ từ 45 tuổi và nam giới từ 50 tuổi trở lên) và hỗ trợ tiền cho những người đang trong độ tuổi lao động để các đối tượng này tự tìm việc làm mới. Tiền dưỡng lão được trả từ 90.000 – 110.000 nhân dân tệ/một lần do Cục Bảo hiểm xã hội và Cục Bảo hiểm xã hội có trách nhiệm trả tiền dưỡng lão hàng năm cho những người thuộc diện này; tiền hỗ trợ khoảng 100.000 – 120.000 nhân dân tệ/người.
Nhìn chung hệ thống pháp luật về bồi thường và TĐC của Trung Quốc đều nhằm bảo vệ những người mà mức sống có thể bị giảm do việc thu hồi đất để thực hiện các dự án. Theo một nghiên cứu gần đây của WB thì các luật về TĐC của Trung Quốc đối với các dự án phát triển đô thị, công nghiệp và giao thông “đã đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của WB trong tài liệu hướng dẫn thực hiện TĐC” [12].
2.1.2 Đài Loan
Ở Đài Loan tồn tại 2 hình thức sở hữu đất đai: Sở hữu của Nhà nước (công hữu): chiếm 69% so với tổng diện tích tự nhiên toàn lãnh thổ và sở hữu tư nhân chiếm 31%, bao gồm đất ở, đất sản xuất nông nghiệp của nông dân và đất của các tổ chức tư nhân khác.
Pháp luật đất đai Đài Loan cũng quy định rõ về những trường hợp tự triệt tiêu quyền sở hữu như đất đai tư hữu khi thiên nhiên biến đổi thành đầm hồ, hoặc thuỷ đạo có thể vận chuyển được thì quyền sở hữu tự triệt tiêu. Hoặc người có quyền sở hữu và gia đình đã đi khỏi huyện thị nơi có đất đó liên tục trong thời gian 5 năm liền [13].
Trong Luật Đất đai Đài Loan quy định cụ thể các loại đất không được trở thành sở hữu tư nhân bao gồm: đất đai nằm trong một giới hạn nhất định của bờ biển, đất đai nằm trong một giới hạn nhất định của hồ đầm và hồ đầm hình thành tự nhiên cần dùng cho công cộng, đất đai nằm trong một giới hạn nhất định của hai bên hồ và thuỷ đạo có thể làm đường vận chuyển, đất đai nằm trong một giới hạn nhất định của hai bên hồ và hồ đầm, mương máng nằm trong khu vực của thành phố, thị trấn, đường giao thông công cộng, đất suối nước khoáng, đất thác nước, đất dùng cho nguồn nước công cộng, đất danh lam thắng cảnh, cổ tích, những đất khác mà pháp luật cấm không được tư hữu. Những loại đất này pháp luật quy định nếu thuộc sở hữu tư nhân thì Nhà nước sẽ trưng thu theo quy định của pháp luật. Khi trưng thu Nhà nước sẽ trả tiền đất cho chủ sở hữu theo giá trị thực tế của đất.
Pháp luật Đài Loan còn quy định những diện tích đất thuộc sở hữu tư nhân, nhưng trong đất có khoáng sản thì khoáng sản không thể trở thành sở hữu tư nhân.
Đất đai thuộc công hữu hiện nay do Cục quản lý tài sản công hữu quản lý.
Qua các quy định trên cho thấy, Nhà nước muốn mở rộng diện tích đất thuộc sở hữu của mình thì Nhà nước phải bỏ tiền ra mua của các chủ sở hữu khác, chỉ khi nào dân không đồng ý bán thì lúc đó Nhà nước mới trưng thu.
Đảm bảo nguyên tắc, nếu phải di chuyển đi nơi khác người dân vẫn mua được đất và xây dựng được nhà ở.
Trước đây, tình trạng dân khiếu kiện nhiều do giá bồi thường thấp nhưng nay Chính phủ bồi thường cao theo giá thị trường (theo giá thực tế mua bán) và người dân không phải nộp thuế giá trị gia tăng nên một số hộ dân hiện nay không bán được đất lại muốn Chính phủ mua lại.
Ở Đài Loan, phân biệt rất rõ hai trường hợp.
- Các công trình của Nhà nước thì Nhà nước mới đứng ra thoả thuận mua đất của dân, nếu dân không đồng tình, thì Nhà nước lấy quyền của mình trưng thu để lấy đất xây dựng các công trình của Nhà nước theo kế hoạch sử dụng đất.
- Những công trình của tư nhân thì tư nhân phải tự thoả thuận với dân, Nhà nước không thực hiện việc trưng thu đất nếu tư nhân không thoả thuận được với dân. Trường hợp này tư nhân phải mua với giá cao hơn. Nhà nước không can thiệp vì việc kinh doanh, tư nhân phải tính toán lợi nhuận nếu thấy giá đất tuy đắt, nhưng thấy khả năng đầu tư có triển vọng thì nhà đầu tư tư nhân vẫn sẵn sàng mua của dân. Hơn nữa việc thoả thuận mua bán này là quan hệ dân sự, nên Nhà nước không can thiệp. Trường hợp Nhà nước làm công trình phải di chuyển cả thôn thì Nhà nước xây dựng khu tái định cư.
Khi Nhà nước cần xây dựng các công trình phục vụ sự nghiệp công cộng, quốc phòng, giao thông thuỷ lợi, y tế, giáo dục, từ thiện, thực thi các chính sách kinh tế... được phép trưng thu đất đai tư hữu trong giới hạn quy định của pháp luật.
Nhà nước thực hiện 2 hình thức trưng thu: trưng thu từng khu đoạn để thực thi các chính sách kinh tế của Nhà nước, xây dựng quốc phòng và sự nghiệp công cộng; trưng thu bảo lưu dùng cho sự nghiệp xây dựng trong tương lai, nhưng thời hạn bảo lưu không quá 3 đến 5 năm, tuỳ theo tính chất từng loại công trình, quá thời hạn quy định trên, trưng thu bảo lưu không còn hiệu lực.
Đất đai trưng thu nếu làm giảm hiệu quả sử dụng đất của người sử dụng đất gần đó, được bồi thường tương đương, nhưng không vượt quá mức giá đất bị ảnh hưởng.
Đất đai trưng thu theo khu đoạn, sau khi chỉnh lý, phân khu đoạn mới, nếu còn thừa đưa ra bán hoặc cho thuê, thì người có quyền sở hữu đất đai cũ được quyền ưu tiên mua lại.
Người có quyền sở hữu đất đai cũ (người bị trưng thu đất), kể từ ngày được bồi thường đầy đủ trong vòng 1 năm đến 5 năm, được làm đơn mua lại đất (theo mức giá trưng thu) trong trường hợp sau 1 năm Nhà nước vẫn chưa bắt đầu sử dụng đất theo kế hoạch trưng thu.
2.1.3 Australia
Luật Đất đai của Australia quy định đất đai của quốc gia thuộc sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân. Luật Đất đai bảo hộ tuyệt đối quyền lợi và nghĩa vụ của chủ sở hữu đất đai. Chủ sở hữu có quyền cho thuê, chuyển nhượng, thế chấp, thừa kế theo di chúc mà không có sự cản trở nào, kể cả việc tích lũy đất đai. Luật cũng quy định Nhà nước có quyền trưng thu đất tư nhân để sử dụng vào mục đích công cộng, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và việc trưng thu đó gắn liền với việc Nhà nước thực hiện bồi thường [9].
Theo luật của Australia có hai loại thu đất, đó là thu hồi đất bắt buộc và thu hồi đất tự nguyện.
Thu hồi đất tự nguyện được tiến hành khi chủ đất cần được thu hồi đất. Trong thu hồi đất tự nguyện không có quy định đặc biệt nào được áp dụng mà việc thỏa thuận đó là nguyên tắc cơ bản nhất. Chủ có đất cần được thu hồi và người thu hồi đất sẽ thỏa thuận giá bồi thường đất trên tinh thần đồng thuận và căn cứ vào thị trường. Không có bên nào có quyền hơn bên nào trong thỏa thuận và cũng không bên nào được áp đặt đối với bên kia.
Thu đất bắt buộc được Nhà nước Australia tiến hành khi Nhà nước có nhu cầu sử dụng đất cho các mục đích công cộng và các mục đích khác. Thông thường, nhà nước có được đất đai thông qua đàm phán.
Trình tự thu đất bắt buộc được thực hiện như sau: Nhà nước gửi cho các chủ đất một văn bản trong đó nêu rõ mục tiêu thu hồi đất vì các mục đích công cộng. Văn bản này gồm các nội dung chính như cơ quan muốn thu hồi đất, miêu tả chi tiết mảnh đất, mục đích sử dụng đất sau khi thu hồi và các giải thích vì sao mảnh đất đó phù hợp với mục tiêu công cộng đó. Chủ sở hữu mảnh đất có thể yêu cầu Bộ trưởng Bộ Tài chính và Quản lý xem xét lại vấn đề thu hồi đất. Nếu chủ sở hữu vẫn chưa hài lòng thì có thể tiếp tục yêu cầu Trọng tài phúc thẩm hành chính phán xử. Trọng tài phúc thẩm hành chính không thể xem xét tính đúng đắn về quyết định của Chính phủ nhưng có thể xem xét các vấn đề liên quan khác. Nhà nước thông báo rộng rãi quyết định thu hồi đất và chủ sở hữu đất phải thông báo cho bất kỳ ai muốn mua mảnh đất đó về quyết định thu hồi đất của Chính phủ. Sau đó, Nhà nước sẽ ban hành quyết định thu hồi đất và thông báo trên báo chí. Chủ sở hữu đất nhận được thông báo khuyên tiến hành các thủ tục yêu cầu bồi thường. Chủ sở hữu đất thông thường có quyền tiếp tục ở trên đất ít nhất là 6 tháng sau khi đã có quyết định thu hồi đất. Ngay sau khi có quyết định thu hồi đất, chủ đất có thể yêu cầu nhà nước bồi thường. Nguyên tắc của bồi thường là công bằng và theo giá thị trường. Thông thường, các yếu tố sẽ được tính toán trong quá trình bồi thường đó là giá thị trường, giá trị đặc biệt đối với chủ sở hữu, các chi phí liên quan như chi phí di chuyển, chi phí TĐC [9].
2.1.4 Chính sách bồi thường và TĐC của các tổ chức ngân hàng quốc tế
Ngân hàng Thế giới (WB) là một trong những tổ chức tài trợ quốc tế đầu tiên đưa ra chính sách về TĐC bắt buộc. Tháng 2/1980, lần đầu tiên chính sách TĐC được ban hành dưới dạng một Thông báo Hướng dẫn Hoạt động nội bộ (OMS 2.33) cho nhân viên. Từ đó đến nay chính sách TĐC đã được sửa đổi và ban hành lại nhiều lần [12].
Như chúng ta đã biết, khi nhà nước thu hồi đất và TĐC thì những người bị ảnh hưởng (BAH) là những người mà do hậu quả của dự án họ phải chịu thiệt hại toàn bộ hay một phần tài sản vật chất và phi vật chất, bao gồm nhà cửa, cộng đồng, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, các phương tiện sản xuất bao gồm đất đai, nguồn thu nhập, kế sinh nhai do đất đai tạo ra, đặc trưng văn hóa và tiềm năng về sự hỗ trợ lẫn nhau để đảm bảo đời sống, tài nguyên cho sinh tồn và hệ sinh thái v.v. Kinh nghiệm của WB cho thấy việc TĐC không tự nguyện do các dự án phát triển gây nên, trong trường hợp không thể giảm thiểu được, thường dẫn đến những hiểm họa nghiêm trọng về kinh tế, xã hội và môi trường do các hệ thống sản xuất bị phá vỡ, con người phải đối mặt với sự bần cùng hóa khi những tài sản, công cụ sản xuất hay nguồn thu nhập của họ bị mất đi. Tất cả những điều đó nếu giải quyết không tốt sẽ dẫn đến những khó khăn, căng thẳng về xã hội và dễ dàng dẫn tới sự bần cùng hóa đời sống dân cư. Chính vì vậy mà Chính sách TĐC của WB đã đưa ra những nguyên tắc hướng dẫn cơ bản đó là:
- TĐC không tự nguyện cần được tránh ở mọi nơi có thể tránh được hoặc giảm đến mức tối thiểu bằng cách đưa ra mọi phương án có thể lựa chon trong quá trình thiết kế kỹ thuật;
- Ở những nơi mà TĐC không tự nguyện là không thể tránh khỏi, hoạt động TĐC cần được nhận thức và thực thi như những chương trình phát triển bền vững, cần cung cấp đủ nguồn đầu tư để giúp những người bị dự án ảnh hưởng tiêu cực được chia sẻ lợi ích của Dự án; những người BAH cần được tham khảo ý kiến đầy đủ và cần được tham gia vào quá trình lập kế hoạch và thực hiện các chương trình TĐC;
- Những người BAH cần được trợ giúp nhằm cải thiện điều kiện sống và mức sống của mình hoặc ít nhất là khôi phục được mức sống cũ như trước khi có Dự án.
Từ tháng 02/1994, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) đã bắt đầu áp dụng bản Hướng dẫn Hoạt động của WB về TĐC và từ tháng 11/1995 Ngân hàng này đã có chính sách riêng của Ngân hàng về TĐC bắt buộc.
Nhìn chung, phương châm của ADB cũng tương tự như của WB đều có xu hướng giảm thiểu đến mức thấp nhất các tác động của việc thu hồi đất, đồng thời có chính sách thoả đáng, phù hợp đảm bảo cho người BAH không gặp phải bất lợi trong cuộc sống, khôi phục, cải thiện chất lượng cuộc sống, nguồn sống. Để thực hiện được phương châm đó, thì chìa khoá dẫn tới sự thành công đó là phải chấp nhận và thực hiện chính sách phát triển mà con người là trung tâm. Kinh nghiệm về lý thuyết cũng như thực tiễn cho thấy, các yếu tố đảm bảo cho bồi thường TĐC thành công là những chính sách phù hợp của Chính phủ, nguồn tài chính đầu tư, khâu tổ chức thực hiện của chính quyền địa phương và trình độ nhận thức, hiểu biết pháp luật của nhân dân. Bên cạnh đó, sự kiểm soát, giám sát chặt chẽ của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là yếu tố đồng hành trong quá trình thực hiện các dự án.
Theo chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng (GPMB) và TĐC của WB và ADB thì việc thiếu các quyền pháp lý chính thức về đất sẽ không cản trở việc bồi thường cho một số nhóm dân BAH và những người ảnh hưởng còn được mở rộng cả với đối tượng không bị thiệt hại về đất đai và tài sản mà chỉ BAH nhỏ về mặt tinh thần. Đối với đất đai và tài sản được bồi thường, chính sách của WB và ADB là phải bồi thường theo giá xây dựng mới đối với tất cả các công trình xây dựng và quy định thời hạn bồi thường TĐC hoàn thành trước một tháng khi dự án triển khai thực hiện.
Khôi phục thu nhập là một yếu tố quan trọng của TĐC khi những người BAH bị mất cơ sở sản xuất, công việc kinh doanh, việc làm hay những nguồn thu nhập khác, bất kể là họ có mất nơi ở hay không. Các bước cơ bản trong các chương trình khôi phục thu nhập của WB và ADB đó là:
- Phân tích các hoạt động kinh tế của tất cả những người BAH (theo giới, nhóm tuổi, trình độ văn hóa, kỹ năng, thu nhập, số người trong hộ gia đình, nguyện vọng, các phương án) để đánh giá các nhu cầu của họ;
- Xác định các chương trình khôi phục thu nhập đa dạng (cho cả cá nhân lẫn các nhóm đặc biệt) thông qua việc tư vấn về lợi ích và sự phân tích khả thi về tài chính và thị trường;
- Kiểm tra các chương trình đào tạo và tạo thu nhập với người BAH được lựa chọn trên cơ sở thử nghiệm;
- Nhân rộng việc thử nghiệm;
- Đánh giá chương trình và hỗ trợ kỹ thuật bổ sung nếu cần thiết.
Thực hiện công tác TĐC và khôi phục cuộc sống của những người BAH, các tổ chức ngân hàng quốc tế quy định đây là quá trình từ khi bồi thường tới khi người BAH tổ chức sắp xếp lại hoặc di chuyển xây dựng lại nơi mới và ổn định các điều kiện để sinh hoạt phục vụ cuộc sống cũng như đảm bảo nguồn thu nhập của họ không bị suy giảm.
Việc lập kế hoạch cho công tác bồi thường TĐC được các tổ chức cho vay vốn quốc tế coi là điều bắt buộc trong quá trình thẩm định dự án. Mức độ chi tiết của kế hoạch phụ thuộc vào số lượng người BAH và mức độ tác động của dự án. Kế hoạch bồi thường TĐC phải được coi là một phần của chương trình phát triển cụ thể, cung cấp đầy đủ nguồn vốn và cơ hội cho các hộ BAH. Ngoài ra còn phải áp dụng các biện pháp sao cho người bị di chuyển hoà nhập được với cộng đồng mới.
Về quyền được tư vấn và tham gia của các hộ BAH, các tổ chức quốc tế quy định các thông tin về dự án cũng như chính sách bồi thường TĐC của dự án phải được thông báo đầy đủ, công khai để tham khảo ý kiến, hợp tác, thậm chí trao quyền cho các hộ BAH và tìm mọi cách thoả mãn nhu cầu chính đáng của họ trong suốt quá trình lập kế hoạch bồi thường TĐC cho tới khi thực hiện công tác lập kế hoạch.
2.1.5 Nhận xét, đánh giá
Việc xây dựng và phát triển các công trình đều cần đất. Do đất đai không phải lúc nào cũng có sẵn để đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của mỗi nước. Vì thế, mọi Nhà nước đều phải sử dụng quyền lực của mình để thu hồi đất hoặc trưng thu đất của người đang sở hữu, đang sử dụng để phục vụ cho nhu cầu xây dựng các công trình phục vụ lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia. Ở mỗi nước, quyền lực thu hồi, trưng thu đất được ghi trong Hiến pháp hoặc tại Bộ Luật Đất đai hoặc một bộ luật khác. Nếu việc thu hồi, trưng thu đã phù hợp với quy định của pháp luật mà người sở hữu hoặc sử dụng đất không thực hiện thì Nhà nước có quyền chiếm hữu đất đai. Việc thu hồi đất, trưng thu đất và bồi thường thiệt hại về đất tại mỗi quốc gia đều được thực hiện theo chính sách riêng do Nhà nước đó quy định. Tuy nhiên, các chính sách đó đều có các nội dung chủ yếu sau:
Đối tượng được bồi thường về đất: Tất cả những người đang sử dụng đất mà bị Nhà nước thu hồi hoặc trưng thu, kể cả những người thiếu chứng chỉ hợp pháp về đất đai, chiếm đất bất hợp pháp trước ngày Nhà nước thực hiện thu hồi đất hoặc trưng thu đất mà đã tồn tại không có tranh chấp hoặc khiếu nại đều được bồi thường. Hay nói cách khác là tất cả những người có đất BAH bởi dự án đều có quyền được bồi thường.
Phương thức bồi thường đất: Việc bồi thường được thực hiện theo hai phương thức là bồi thường bằng hiện vật (đất, nhà, lương thực, vật liệu xây dựng v.v) hoặc bồi thường bằng tiền cho đất đai bị thiệt hại. Tuy nhiên, dù thực hiện theo phương thức nào thì cũng đều phải xác định giá trị đất bị thu hồi để làm cơ sở thực hiện việc bồi thường.
Giá trị đất bị thu hồi, trưng thu: Giá trị đất bị thu hồi hoặc trưng thu được tính trên cơ sở giá trị thực của đất. Nguyên tắc chung ._.là giá bồi thường, giá trưng thu phải là giá thị trường hoặc giá thay thế.
Chính sách hỗ trợ khi bị thu hồi đất, trưng thu đất: Ngoài việc bồi thường cho người bị thu trưng thu, trưng mua hoặc thu hồi đất, các quốc gia còn quy định việc hỗ trợ cho người bị thu hồi đất hoặc bị trưng thu đất. Đó là các khoản hỗ trợ bổ sung ngoài bồi thường nhằm tạo điều kiện cho người bị thu hồi đất hoặc bị trưng thu đất ổn định và cải thiện đời sống, sản xuất, thu nhập, chuyển đổi nghề nghiệp.
Qua nghiên cứu chính sách bồi thường GPMB của một số nước và các tổ chức ngân hàng quốc tế, Việt Nam chúng ta cần học hỏi các kinh nghiệm để tiếp tục hoàn thiện chính sách bồi thường GPMB ở một số điểm sau:
- Hoàn thiện các quy định về định giá đất nói chung và định giá đất để bồi thường GPMB nói riêng;
- Bổ sung thêm một số giải pháp nhằm hỗ trợ người dân có đất bị thu hồi khôi phục thu nhập, ổn định cuộc sống, đặc biệt là đối với lao động trên 35 tuổi (kinh nghiệm dưỡng lão của Trung Quốc);
2.2 Thực trạng chính sách bồi thường khi nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam
2.2.1 Chính sách pháp luật Đất đai liên quan đến bồi thường khi thu hồi đất ở Việt Nam
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 thắng lợi, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, ngay sau đó bản Hiến pháp 1946 đầu tiên ra đời và đã khẳng định: “ Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo.” [20]
Năm 1953, Nhà nước ta thực hiện cải cách ruộng đất nhằm phân phối lại ruộng đất với khẩu hiệu “người cày có ruộng” và Luật cải cách ruộng đất được ban hành. Thời kỳ này Nhà nước thừa nhận sự tồn tại của 3 hình thức sở hữu đất đai: sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Bên cạnh đó Luật cải cách ruộng đất có các quy định về tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất tuỳ từng trường hợp cụ thể [21]. Nhưng thực tế việc trưng thu, trưng thu là chủ yếu còn việc trưng mua ít xảy ra.
Năm 1959 bản Hiến pháp thứ 2 được ban hành và nhiều văn bản khác quy định miền Bắc nước ta từ vĩ tuyến 17 trở ra có 3 hình thức sở hữu về đất đai: sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Sự tồn tại của sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân do vậy mà khi thu hồi, lấy đất của tập thể và tư nhân Nhà nước phải thực hiện trưng dụng đất. Điều 20 của Hiến pháp nói rõ: “Khi nào cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước mới trưng mua, hoặc trưng dụng, trưng thu có bồi thường thích đáng các tư liệu sản xuất ở thành thị và nông thôn, trong phạm vi và điều kiện do pháp luật quy định.” [22]
Về việc trưng dụng đất, ngày 14/04/1959, Thủ tướng Chính phủ ban hành nghị định số 151-TTg quy định về thể lệ tạm thời về trưng dụng đất. Một trong những nguyên tắc của việc trưng dụng ruộng đất của nhân dân dùng vào việc xác định những công trình do Nhà nước quản lý: “Đảm bảo kịp thời và đủ diện tích cần thiết cho công trình xây dựng, đồng thời chiếu cố đúng mức quyền lợi và đời sống của người có ruộng. Những người có ruộng đất bị trưng dụng được bồi thường và trong trường hợp cần thiết được giúp giải quyết công việc làm ăn” [16]. Bên cạnh đó Nghị định cũng quy định về việc bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng dụng: “Cách bồi thường tốt nhất là vận động nhân dân điều chỉnh hoặc nhường ruộng đất cho những người có ruộng đất bị trưng dụng để họ có thể tiếp tục sản xuất”. “ Trường hợp không làm được như vậy sẽ bồi thường một số tiền bằng từ 1 đến 4 năm sản lượng thường niên của ruộng đất bị trưng dụng. Mức bồi thường nhiều hay ít phải căn cứ thực tế ở mỗi nơi…”.[16]
Ngày 06/07/1959 Uỷ ban kế hoạch Nhà nước và Bộ Nội vụ ban hành Thông tư liên bộ số 1424/TTLB về việc thi hành Nghị định 151-TTG để làm địa điểm xây dựng các công trình kiến thiết cơ bản với nguyên tắc : “Đảm bảo kịp thời và đủ diện tích cần thiết cho công trình xây dựng, đồng thời chiếu cố đúng mức quyền lợi và đời sống cho người có ruộng đất. Chỉ được trưng dụng số ruộng đất thật cần thiết, không được trưng dụng thừa. Hết sức tiết kiệm ruộng đất cày cấy, trồng trọt…”. Về bồi thường cho những người có ruộng đất bị trưng dụng thì: “Có hai cách bồi thường: bồi thường bằng ruộng đất, bồi thường bằng tiền. Nhưng bồi thường bằng ruộng đất là tốt nhất và là chủ yếu. Giá bồi thường căn cứ vào sản lượng của ruộng đất đã dùng để tính thuế nông nghiệp…bồi thường chủ yếu nhằm những ruộng đất có sản lượng và hoa lợi…”[1]
Bên cạnh đó còn có các thông tư khác liên quan, cụ thể, chi tiết hơn, phù hợp với tình hình thực tế của những biến động xã hội thời kì này: Thông tư số 47/CP ngày 15/01/1946 do Uỷ ban kiến thiết cơ bản Nhà nước ban hành về thể lệ tạm thời về lựa chọn địa điểm công trình và quản lý đất xây dựng. Thông tư số 1792/TTg ngày 11/01/1970 do Thủ tướng Chính phủ ban hành về bồi thường nhà cửa, đất đai và cây cối lâu năm, hoa màu cho nhân dân xây dựng vùng kinh tế mới.
Năm 1980, Quốc hội đã ban hành bản Hiến pháp thứ 3 của nước CHXNCN Việt Nam. Bản Hiến pháp lần này đã khẳng định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa…là của Nhà nước - đều thuộc sở hữu toàn dân” [23]. Chính vì vậy ngay sau đó, vào ngày 01/07/1980 Hội đồng Chính phủ ra quyết định số 201/CP về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước: “Toàn bộ ruộng đất trong cả nước đều do Nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch và kế hoạch chung nhằm đảm bảo ruộng đất sử dụng hợp lý, tiết kiệm và phát triển theo hướng đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”. [10]
Trên tinh thần của Hiến pháp năm 1980 Luật Đất đai năm 1988 được ban hành, tiếp tục khẳng định lại đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Về việc thu hồi đất và bồi thường thiệt hại thì Luật Đất đai 1988 không nêu cụ thể việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, mà chỉ nêu phần nghĩa vụ của người sử dụng đất: “Đền bù thiệt hại cho người sử dụng đất để giao cho mình bồi hoàn thành quả lao động và kết quả đầu tư đã làm tăng giá trị của đất đó theo quy định của Pháp luật”. [24]
Năm 1992, bản Hiến pháp 1992 được ban hành thay thế chấp cho các bản Hiến pháp trước đây. Điều 17 Hiến pháp quy định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển thềm lục địa và vùng trời… đều thuộc sở hữu toàn dân”. Điều 23: “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hoá. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do AN, QP, lợi ích quốc gia mà Nhà nước trưng mua hay trưng dụng, có BT tài sản của cá nhân hay tổ chức theo giá trị thị trường”. [25]
Năm 1993, Luật Đất đai 1993 được ban hành, thay thế cho Luật Đất đai 1988, dựa trên tinh thần mới của bản Hiến pháp 1992 đã có những đổi mới quan trọng, đặc biệt đối với việc thu hồi đất phục vụ cho công cộng và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Luật Đất đai năm 1993 đã thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992. Điều 12: “Nhà nước xác định giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất, tính giá trị tài sản khi giao, bồi thường thiệt hại về đất khi thu hồi đất. Chính phủ quy định khung giá các loại đất đối với từng vùng và theo từng thời gian”. Điều 27: “Trong trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích Quốc phòng, An ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì người bị thu hồi đất được đền bù thiệt hại”[26]
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai ngày 29/06/2001 quy định cụ thể hơn về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất đai đang sử dụng của người sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích Quốc gia, lợi ích công cộng. Việc bồi thường, hỗ trợ được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Nhà nước có chính sách để ổn định đời sống cho người có đất bị thu hồi.
Cùng với mục đích là tiếp tục hoàn thiện Luật Đất đai, tạo nên khung pháp lý chặt chẽ thuận tiện cho việc quản lý và sử dụng đất ở Việt Nam. Ngày 26/11/2003 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI kỳ họp thứ tư đã thông qua Luật Đất đai 2003 và ngày 10/12/2003 lệnh của Chủ tịch nước đã công bố Luật Đất đai quy định việc quản lý và sử dụng đất. Sự ra đời của Luật Đất đai 2003 đã thay thế cho tất cả các Luật Đất đai và Luật sửa đổi, bổ sung trước đó nhằm phù hợp với tình hình xã hội hiện nay, đáp ứng tốt hơn những yêu cầu, những đòi hỏi mới trong quá trình phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội của đất nước, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Điều 39 Luật Đất đai 2003 quy định về thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích Quốc gia, lợi ích công cộng: “Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được công bố hoặc sau khi dự án đầu tư có nhu cầu sử dụng đất phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt…”.[27]
2.2.2 Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đất đai về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Sau khi Quốc hội ban hành Luật Đất đai 2003, các chính sách về đất đai cũng thay đổi theo. Như vậy, để phù hợp với sự ra đời của Luật Đất đai mới và tình hình thực tiễn trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng Chính phủ đã ban hành các văn bản pháp luật sau:
2.2.2.1 Nghị định số 22/1998/NĐ-CP
Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 1998 của Chính phủ về việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng [5].
Nghị định số 22 đi sâu quy định chi tiết và nhấn mạnh đến tính hợp pháp của đối tượng đền bù. Đối với mức đền bù thiệt hại về đất, Nghị định quy định phải căn cứ trên giá đất của địa phương ban hành theo quy định của Chính phủ nhân với hệ số K để đảm bảo giá đất tính đền bù phù hợp với khả năng sinh lợi và giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa phương , tức là đã quan tâm ít nhiều đến yếu tố thị trường. Riêng đối với đất ở tại đô thị, Nghị định quy định đền bù thiệt hại bằng tiền, nhà ở hoặc đất ở tại khu tái định cư, còn đất được quy hoạch để xây dựng đô thị nhưng chưa có cơ sở hạ tầng thì không được đền bù như đất đô thị, mà đền bù theo giá đất đang chịu thuế sử dụng đất hay tiền thuê đất nhân với hệ số K.
Giá đất đền bù do Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định cho từng dự án theo đề nghị của Sở Tài chính-Vật giá.
Ngoài tiền đền bù đất và tài sản, Nhà nước còn có chính sách hỗ trợ. Nghị định cũng quy định lập khu tái định cư có cơ sở hạ tầng thích hợp để bố trí đất ở cho các hộ phải di chuyển.
Về phân cấp tổ chức thực hiện thu hồi đất, Nghị định quy định như sau:
- UBND cấp huyện thành lập Hội đồng đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng cấp huyện để lập phương án đền bù trình UBND cấp tỉnh;
- Hội đồng thẩm định cấp tỉnh do UBND cấp tỉnh thành lập, tiến hành thẩm định và trình cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh xem xét phê duyệt;
- Trong trường hợp cần thiết, UBND cấp tỉnh thành lập Hội đồng đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng cấp tỉnh để lập phương án đền bù trình Chủ tịch UBND cấp tỉnh phê duyệt mà không phải trình lên Chính phủ.
Hội đồng đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng được lập cho từng dự án.
2.2.2.2 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP
Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng [6]:
Về phạm vi điều chỉnh
Nghị định này quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích QP, AN, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. mục đích phát triển kinh tế quy định tại Điều 36 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai.
Đối với các dự án sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), nếu việc BT, HT và TĐC theo yêu cầu của nhà tài trợ khác với quy định tại Nghị định này thì trước khi ký kết Điều ước quốc tế, cơ quan chủ quan dự án đầu tư phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Trong trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định tại Nghị định này thì áp dụng theo quy định tại Điều ước quốc tế đó.
Các trường hợp không thuộc phạm vi áp dụng Nghị định này: Cộng đồng dân cư xây dựng, chỉnh trang các công trình phục vụ lợi ích chung của cộng đồng bằng nguồn vốn do nhân dân đóng góp hoặc Nhà nước hỗ trợ; Khi Nhà nước thu hồi đất không thuộc phạm vi quy định tại khoản 1 Điều này.
Về đối tượng áp dụng
Tổ chức, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, hộ gia đình, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đang sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi đất (người bị thu hồi).
Người bị thu hồi đất, bị thiệt hại tài sản gắn liền với đất bị thu hồi, được bồi thường đất, tài sản, được hỗ trợ và bố trí tái định cư theo quy định tại Nghị định này.
Thông tư 116/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP. Thông tư này hướng dẫn cụ thể, và có thêm một số nội dung về bồi thường đất, bồi thường tài sản; chính sách HT, TĐC và tổ chức thực hiện BT, HT và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất đối với các trường hợp quy định tại Nghị định 197/2004/NĐ-CP [2]:
- Hướng dẫn cách xác định cho phí đầu tư vào đất còn lại được quy định tại khoản 3 Điều 9 Nghị định 197/2004/NĐ-CP.
- Phân loại cụ thể đất nông nghiệp của các hộ gia đình, cá nhân bị Nhà nước thu hồi đất. Việc phân loại cụ thể này để xác định mức bồi thường, hỗ trợ hợp lý, sát thực với từng loại đất và giải quyết trường hợp chênh lệch giữa giá đất mới được giao và giá đất bị thu hồi.
- Về bồi thường đối với đất thuộc hành lang an toàn khi xây dựng công trình công cộng có hành lang bảo vệ an toàn, có quy định thêm khoản: “Khi hành lang bảo vệ an toàn công trình xây dựng làm ảnh hưởng đến công trình khác mà những công trình này không thể sử dụng được theo thiết kế, quy hoạch xây dựng ban đầu hoặc phải phá dỡ thì được bồi thường”.
- Về bồi thường đối với cây trồng, vật nuôi: Thông tư xác định, hướng dẫn cụ thể việc phân chia từng loại cây trồng lâu năm (cây trồng đang ở chu kỳ đầu tư hoặc đang ở thời gian xây dựng cơ bản; cây lâu năm thu hoạch một lần; cây lâu năm thu hoạch nhiều lần; cây lâu năm đã đến thời hạn thanh lý) và xác định giá trị hiện có của vườn cây lâu năm để tính bồi thường. Quy định thêm về bồi thường đối với cây trồng và lâm sản phụ trồng trên diện tích đất lâm nghiệp do Nhà nước giao mà khi giao là đất trống, đồi núi trọc.
- Về tổ chức thực hiện: Hướng dẫn về trình tự tổ chức thực hiện; phương án BT,HT và TĐC được chia làm 2 phần: phần 1 là xác định bồi thường, hỗ trợ cho từng người có đất bị thu hồi và phần 2 là phương án bố trí TĐC; quy định về chi trả bồi thường, hỗ trợ và TĐC.
- Về chi phí cho công tác tổ chức thực hiện: Dự toán chi phí và mức chi cho công tác tổ chức thực hiện.
Thông tư số 69/2006/TT-BTC của Bộ tài chính ngày 02/08/2006 về sửa đổi, bổ sung cho Thông tư số 116/2004/TT-BTC, cụ thể là sửa đổi, bổ sung một số điều khoản: điểm 3 mục 3 phần I về chi trả bồi thường, hỗ trợ và TĐC; điểm 3.1 mục 3 phần II về giá đất để tính bồi thường, chi phí đầu tư vào đất còn lại; mục 2 phần IV về hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm; mục 3 và mục 4 phân VII về mức chi cho công tác tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, TĐC: “Không quá 2% tổng số kinh phí bồi thường, hỗ trợ của dự án” [3].
2.2.2.3 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP
Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung cụ thể đối với một số trường hợp thu hồi đất; bồi thường, hỗ trợ về đất; trình tự thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại. Nghị định này được coi như là “nhát cắt pháp luật”, từ khi Nghị định này có hiệu lực thì tất cả những trường hợp còn tồn tại, chưa giải quyết được trước đó thì sẽ được giải quyết theo Nghị định 84/2007/NĐ-CP, còn từ sau đó tất cả các trường hợp sẽ được thực hiện đúng theo Nghị định. Nghị định quy định cụ thể, chi tiết một số trường hợp thu hồi đất; bồi thường hỗ trợ về đất; trình tự thủ tục thu hồi đất và thực hiện việc BT-HT-TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, trong trình tự thủ tục của công tác bồi thường – GPMB Nghị định bổ sung mới về lập phương án BT-HT-TĐC bao gồm có phương án tổng thể và phương án chi tiết, quy định cụ thể thẩm quyền, thời hạn giải quyết từng khâu trong công việc và đặc biệt bổ sung thêm khâu kê khai, kiểm kê và xác định nguồn gốc đất đai được tiến hành trước khi lập phương án bồi thường, TĐC nhằm xác định giá bồi thường và chính sách hỗ trợ một cách khách quan. Trong điều khoản thi hành, Nghị định 84/2007/NĐ-CP đã bãi bỏ khoản 6 và khoản 8 Điều 8, các Điều 41, 42, 47, 49, đoạn 2 khoản 2 Điều 50 Nghị định 197/2004/NĐ-CP [7].
Thông tư 14/2008/TTLB-BTC-BTNMT của Bộ Tài chính và Bộ Tài nguyên & Môi trường ngày 31/01/2008 về hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 84/2007/NĐ-CP: hướng dẫn về hỗ trợ đối với đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư, đất vườn, đất ao xen kẽ với đất ở trong khu dân cư; hướng dẫn kinh phí chuẩn bị hồ sơ Địa chính cho khu đất bị thu hồi bao gồm kinh phí do nhà đầu tư trả sẽ được quyết toán vào vốn đầu tư của dự án, kinh phí do Nhà nước trả sẽ được quyết toàn vào nguồn kinh phí hoạt động của Tổ chức phát triển quỹ đất hoặc cơ quan Tài nguyên-Môi trường hoặc Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất; hướng dẫn lập, thẩm định và xét duyệt phương án tổng thể về BT-HT-TĐC, phương án BT-HT-TĐC và việc lập thêm “Hội đồng thẩm định” khi cần thiết [6P].
2.2.2.4 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP
Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và tái định cư [8].
Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
Trường hợp bồi thường bằng việc giao đất mới hoặc giao đất ở tái định cư hoặc nhà ở tái định cư, nếu có chênh lệch về giá trị thì phần chênh lệch đó được thanh toán bằng tiền như sau: trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ lớn hơn tiền sử dụng đất ở hoặc tiền mua nhà ở tái định cư thì người tái định cư được nhận phần chênh lệch; trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ nhỏ hơn tiền sử dụng đất ở hoặc tiền mua nhà ở tái định cư thì người tái định cư phải nộp phần chênh lệch.
Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm: hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở; hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tạo việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp; hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp trong khu dân cư, đất vườn, ao không được công nhận là đất ở và các khoản hỗ trợ khác. Cụ thể, khi Nhà nước thu hồi đất của tổ chức kinh tế, hộ sản xuất kinh doanh có đăng ký kinh doanh mà bị ngừng sản xuất, kinh doanh thì được hỗ trợ cao nhất bằng 30% một năm thu nhập sau thuế theo mức thu nhập bình quân của 3 năm liền kề trước đó được cơ quan thuế xác nhận; hỗ trợ bằng tiền tương đương 30 kg gạo/01 tháng cho một nhân khẩu khi thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp trong thời hạn tối thiểu 06 tháng và tối đa 36 tháng tùy từng trường hợp cụ thể.
Việc bồi thường nhà, công trình xây dựng trên đất cũng được quy định cụ thể. Mức bồi thường đối với nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân bằng giá trị xây dựng mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương do Bộ Xây dựng ban hành; đối với nhà và các loại công trình khác, mức bồi thường bằng tổng giá trị hiện có của nhà, công trình bị thiệt hại và khoản tiền tính bằng tỷ lệ phần trăm theo giá trị hiện có của nhà, công trình. Tài sản gắn liền với đất thuộc một trong các trường hợp quy định tại các khoản 4, 6,7 và 10 Điều 38 của Luật Đất đai thì không được bồi thường.
2.2.3 Sự đổi mới của Nghị định số 197/2004/NĐ-CP so với Nghị định số 22/1998/NĐ-CP
2.2.3.1 Nguyên tắc bồi thường đất và tài sản gắn liền với đất
Điều 5 - NĐ 22 quy định khi Nhà nước thu hồi đất, tuỳ từng trường hợp cụ thể, người có đất bị thu hồi được Nhà nước đền bù bằng tiền, bằng đất hoặc nhà ở, NĐ 197 quy định việc bồi thường cho người có đất bị thu hồi trước hết phải bằng đất ở, người bị thu hồi đất phải được giải quyết bằng khu TĐC có điều kiện tốt hơn nơi ở cũ.
Trong trường hợp không có đất để bồi thường thì người bị thu hồi đất được bồi thường tính bằng tiền theo giá đất có cùng mục đích sử dụng tại thời điểm có quyết định thu hồi (K.2-Điều 6). Nguyên tắc này nhằm đảm bảo quyền thống nhất quản lý đất đai của Nhà nước, vừa đảm bảo bồi thường bằng giá trị QSDĐ cho người BAH để họ tái tạo lại quỹ đất hoặc tư liệu sản xuất có giá trị tương đương giá trị quỹ đất bị thu hồi. Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất mới hoặc bằng nhà, bằng tiền theo đề nghị của người có đất bị thu hồi và phù hợp với thực tế ở địa phương. Ngoài ra, NĐ 197 còn quy định rõ việc khấu trừ nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi thường, hỗ trợ để hoàn trả ngân sách nhà nước đối với các trường hợp người nhận bồi thường chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với Nhà nước theo quy định.
Về tài sản nguyên tắc bồi thường của NĐ 197 vẫn kế thừa NĐ 22 nhưng có điểm khác là quy định bồi thường bằng 100% theo đơn giá xây dựng mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn, kỹ thuật tương đương do Bộ Xây dựng ban hành mà không phân biệt cấp, hạng nhà.
2.2.3.2 Thời điểm thu hồi đất
Nghị định 22 quy định thời điểm Nhà nước thu hồi đất được thực hiện khi dự án đầu tư được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, NĐ 197 quy định thời điểm thu hồi đất được tiến hành trong cả 2 trường hợp (trường hợp khi dự án đầu tư được phê duyệt và trường hợp QH, KHSDĐ đã được công bố). Như vậy, việc thu hồi đất có thể tiến hành sớm, ngay khi công bố QH, KHSDĐ mà không cần phải chờ đến thời điểm dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền xét duyệt. Mục đích là để tạo ra một môi trường thuận lợi cho các chủ đầu tư, khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư vốn để thực hiện các dự án xây dựng CSHT, chỉnh trang đô thị, phát triển kinh tế và hạn chế tổn thất của Nhà nước khi thực hiện thu hồi đất, đặc biệt là đất sử dụng cho mục đích chỉnh trang đô thị.
2.2.3.3 Giá đất bồi thường
Giá đất bồi thường theo NĐ 22 được xác định trên bảng giá đất của địa phương ban hành trên cơ sở khung giá đất của Chính phủ nhân với hệ số K. Giá đất để tính đền bù thiệt hại do chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW quy định cho từng dự án theo đề nghị của Sở Tài chính-Vật giá, có sự tham gia của các ngành liên quan. Việc xác định hệ số K cũng như phương pháp xác định hệ số K còn nhiều điểm chưa rõ ràng như giá trị thị trường bình quân, phương thức cập nhật, xử lý thông tin giá thị trường chậm dẫn đến tình trạng một số địa phương không biết xác định hệ số K. Khắc phục tồn tại này, NĐ 197 có quy định mới về giá đất bồi thường với mục tiêu là tạo điều kiện cho người BAH ổn định và cải thiện được đời sống. Theo đó, giá đất do Nhà nước quy định phải đảm bảo nguyên tắc sát với giá chuyển nhượng QSDĐ thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường. Căn cứ vào nguyên tắc xác định giá đất và khung giá đất của Chính phủ, UBND tỉnh, T.p trực thuộc TW xây dựng giá đất cụ thể tại địa phương trình HĐND cho ý kiến trước khi quyết định. Giá đất là căn cứ để tính giá trị bồi thường cho người có đất bị thu hồi đã tạo lập tính nhất quán trong quá trình áp dụng ở các địa phương. Phương pháp và nguyên tắc xác định giá đất bồi thường theo NĐ 197 có sự tiến bộ, hợp lý hơn như xoá bỏ hệ số K, quy định giá đất được công bố vào ngày 01/01 hàng năm, đưa ra hướng giải quyết khi các chủ thể mắc lỗi (quy định mới) nhằm khuyến khích và thúc đẩy người bị thu hồi đất sớm nhận tiền bồi thường, giao đất để GPMB, đảm bảo tiến độ dự án.
2.2.3.4 Bồi thường về đất đối với đất nông nghiệp
NĐ 197 quy định việc bồi thường cho từng loại đất cụ thể trên nguyên tắc là bồi thường trước tiên phải bằng việc giao đất mới, nếu không có đất thì bồi thường bằng tiền hoặc nhà cho phù hợp với mục đích sử dụng của từng loại đất. Trước đây, việc áp dụng giá đất bồi thường đối với diện tích đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư, đất vườn ao liền kề với đất ở khu dân cư tương tự như giá bồi thường đất nông nghiệp khác mà không hưởng thêm sự hỗ trợ nào đã gặp phải sự phản ứng gay gắt từ phía người dân, đặc biệt là nông dân vì đất nông nghiệp trong nội đô thị, đất vườn ao trong khu dân cư nông thôn đều thuộc quy hoạch đất đô thị hoặc đất khu dân cư. Trong thực tế, các loại đất này có thể dễ dàng chuyển thành đất phi nông nghiệp và có giá chuyển nhượng cao hơn hẳn đất nông nghiệp ở các vùng khác, cá biệt có nơi giá đất nông nghiệp tương đương giá trị đất phi nông nghiệp liền kề. Để giải quyết tình trạng này, ngoài việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp cùng loại, NĐ 197 quy định người bị thu hồi đất còn được hỗ trợ bằng tiền, mức hỗ trợ từ 20 - 50% giá đất ở liền kề. Việc quy định hỗ trợ thêm một phần chênh lệch giữa giá đất phi nông nghiệp và giá đất nông nghiệp là hoàn toàn phù hợp, đảm bảo quyền lợi cho người nông dân. Ngoài ra còn quy định cụ thể việc bồi thường cho trường hợp hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất nông nghiệp đang sử dụng vượt hạn mức SDĐ; bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp do các hộ gia đình, cá nhân nhận khoán của các nông, lâm trường quốc doanh.
2.2.3.5 Bồi thường về tài sản đối với một số trường hợp cụ thể
Việc bồi thường đối với một số tài sản như mồ mả, cây trồng, vật nuôi, công trình văn hoá, di tích lịch sử, nhà thờ, đình, chùa, am, miếu về cơ bản vẫn thực hiện theo NĐ 22. Đối với trường hợp bồi thường nhà, công trình của người đang sử dụng nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước, NĐ 197 quy định: Nhà nước không bồi thường đối với người đang sử dụng nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước nhưng được bồi thường chi phí tự cải tạo, sửa chữa khi bị thu hồi và được thuê nhà ở tại nơi TĐC; trường hợp đặc biệt không có nhà TĐC để bố trí thì được hỗ trợ bằng tiền để tự lo chỗ ở mới; mức hỗ bằng 60% giá trị đất và 60% giá trị nhà đang thuê (NĐ 22 chỉ dừng ở việc quy định người đang sử dụng nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước bị phá dỡ được mua nhà ở hoặc thuê nhà ở tại nơi khác với diện tích không thấp hơn nơi ở cũ); xử lý tiền bồi thường đối với tài sản thuộc sở hữu nhà nước, bồi thường cho người lao động bị ngừng việc do bị thu hồi đất. Đây là nội dung đổi mới của NĐ 197, thể hiện quan điểm đảm bảo đầy đủ quyền lợi của người BAH.
2.2.3.6 Chính sách hỗ trợ
Chính sách hỗ trợ cho những người có đất bị thu hồi về cơ bản NĐ 197 vẫn kế thừa các quy định của NĐ 22 và có quy định mới trong chính sách hỗ trợ là sẽ tạo điều kiện cho các địa phương áp dụng thống nhất các quy định về hỗ trợ trong thực tiễn, hạn chế sự thắc mắc, khiếu kiện từ dân và mức hỗ trợ cho các trường hợp cụ thể đã được nâng cao hơn để phù hợp thực tế, đảm bảo quyền lợi cho người có đất bị thu hồi giúp người bị thu hồi đất ổn định và cải thiện cuộc sống (kể cả trường hợp đất thu hồi thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn).
2.2.3.7 Chính sách tái định cư
Nghị định 197/2004 quy định UBND cấp tỉnh phải lập và thực hiện các dự án TĐC trước khi thu hồi đất, khu TĐC phải được quy hoạch chung cho nhiều dự án trong cùng một địa bàn và phải có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ. Chính sách TĐC theo NĐ 197 được đánh giá là có tiến bộ hơn hẳn so với NĐ 22 và có ý nghĩa quan trọng, tạo cơ sở pháp lý trong quá trình thực hiện quyền, nghĩa vụ của người có đất bị thu hồi, góp phần nâng cao ý thức, nhận thức cho người dân về chính sách bồi thường, đảm bảo cho các dự án được triển khai đúng tiến độ.
2.2.3.8 Tổ chức thực hiện
Tổ chức thực hiện là một trong những bước quan trọng, quyết định đến hiệu quả công tác bồi thường, GPMB, NĐ 197 đã đưa ra những quy định mới về tổ chức thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và TĐC, quy định thành lập tổ chức chuyên trách (tổ chức phát triển quỹ đất), thành lập Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và TĐC cấp huyện; công khai phương án bồi thường, hỗ trợ và TĐC; trách nhiệm cụ thể của UBND các cấp, các sở, ban, ngành cấp tỉnh, Bộ, ngành TW, tổ chức được giao nhiệm vụ thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ và TĐC; quy định về các trường hợp thoả thuận bồi thường, hỗ trợ.
2.2.4 Thực tiễn bồi thường giải phóng mặt bằng ở Việt Nam
Xuất phát từ điều kiện lịch sử của nước ta, quy luật của sự phát triển và yêu cầu của thực tiễn cho nên giải phóng mặt bằng ở nước ta có từ rất sớm. Bản Hiến pháp năm 1959 là văn bản luật đầu tiên đánh dấu cho bước khởi đầu của công tác bồi thường, GPMB.
Trong giai đoạn thời chiến và những năm đầu của thời kỳ khôi phục đất nước sau chiến tranh thì việc “bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất” luôn đặt lợi ích chung của cộng đồng lên trước, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân. Do vậy mà việc bồi thường cho những người có đất bị trưng dụng, thu hồi không có những quy định cụ thể về định mức bồi thường, quyền lợi mà họ sẽ được hưởng mà tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể để đưa ra mức bồi thường một cách tương đối. Bên cạnh đó thì việc quản lý công tác bồi thường cũng rất đơn giản, Nhà nước luôn vận động người dân tự điều chỉnh lại ruộng đất hoặc nhường lại một phần ruộng đất cho những người bị thu hồi đất để họ tiếp tục sản xuất.
Theo quy luật vận động của sự phát triển, mọi mặt về chính trị - kinh tế - xã hội nước ta đã từng bước thay đổi, tạo ra bộ mặt mới cho đất nước trên trường quốc tế. Công tác giải phóng mặt bằng, lấy địa điểm để thực hiện các dự án phát triển kinh tế, các dự án vì an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng đang là điểm nóng và có nhiều vấn đề nảy sinh khi thực hiện công tác này. Trong bối cảnh mới như vậy, thì các chính sách của nước ta luôn luôn có sự điều chỉnh để phù hợp với thực tế, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư cũng như người chịu ảnh hưởng khi Nhà nước thu hồi đất. Trên thực tế của việc áp dụng các chính sách về thu hồi, GPMB đã tạo ra những phản ứng không giống nhau về hiệu quả của nó:
Trong những năm qua, chính sách BT-GPMB đã đi vào cuộc sống, tạo mặt bằng cho các dự án xây dựng ở Việt Nam, thu hút nguồn vốn đầu tư, tạo nguồn lực sản xuất, chuy._.ụm công nghiệp trên địa bàn thị xã Từ Sơn nói riêng và tỉnh Bắc Ninh nói chung. Do đó, để thực hiện mục tiêu thu hồi đất để phát triển công nghiệp, tạo ra việc làm, nâng cao đời sống của nhân dân, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở xã Phù Chẩn nói riêng và tỉnh Bắc Ninh nói chung và khắc phục những vấn đề khó khăn, vướng mắc ở xã Phù Chẩn cần có những giải pháp cụ thể như sau:
- Tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân quán triệt đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn của Đảng và Nhà nước, giành một phần đất chuyển đổi để phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ
Đây là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, muốn phát triển kinh tế xã hội không có con đường nào khác là phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông nghiệp là chủ yếu sang kinh tế công nghiệp và dịch vụ. Hay nói một cách khác phải giảm dần tỷ trọng kinh tế nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế chung, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu chung đó.
Trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó là bước chuyển dịch cơ cấu lao động. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tất yếu dẫn đến phân công lại lao động xã hội và phải chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Việc chuyển từ lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp và dịch vụ là một bước tiến quan trọng trong tiến trình phát triển xã hội. Chuyển từ lao động thủ công, năng suất thấp, công nghệ và kỹ thuật lạc hậu sang lao động cơ giới, máy móc, công nghệ cao, năng suất lao động cao. Chuyển từ lao động có thu nhập thấp sang linh vực lao động có thu nhập cao, chuyển từ lao động phân tán, ngoài trời, phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, ít có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, kỷ luật lao động thấp sang lao động tập trung, tổ chức lao động trong nhà máy công xưởng, ít thậm chí không phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, lao động tập thể, hiệp tác lao động, lao động có tổ chức kỷ luật. Hay nói một cách khác là khi chuyển từ lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp, dịch vụ là có sự chuyển dịch về vật chất, sự thay đổi về chất trong lao động ở nông thôn khi giành đất để làm công nghiệp.
Việc thu hồi đất làm Khu công nghiệp đô thị và dịch vụ VSIP là một dự án lớn. Dự án này được thực hiện sẽ mang lại lợi ích thiết thực, hiệu quả không những cho nhân dân xã Phù Chẩn mà còn đem lại lợi ích cho tỉnh Bắc Ninh và cả vùng đồng bằng Bắc Bộ, cụ thể:
+ Tỉnh Bắc Ninh sẽ khai thác lợi thế của một vùng đất chỉ trồng lúa nay đã có một khu công nghiệp sạch vào loại hiện đại của khu vực phía Bắc.
+ Địa phương sẽ thu hút được khối lượng vốn lớn đầu tư vào địa bàn, với một công nghệ hiện đại, làm tăng giá trị sản xuất công nghiệp, thay đổi mạnh mẽ cơ cấu của địa phương.
+ Khu công nghiệp đô thị và dịch vụ VSIP được xây dựng và đi vào hoạt động sẽ làm thay đổi cách nghĩ, cách làm, tác phong lao động của nhân dân xã Phù Chẩn và của cả khu vực. Khu công nghiệp VSIP sẽ giải quyết được lao động dư thừa, tăng thu nhập cho người dân và tăng thu ngân sách trên địa bàn.
- Khu công nghiệp đô thị và dịch vụ VSIP góp một bước tiến quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn của tỉnh Bắc Ninh.
Với những nội dung nói trên nếu chúng ta làm tốt công tác tuyên truyền tới tận từng người dân thì nhất định những thắc mắc, hoài nghi, thậm chí cả những việc chưa ủng hộ sẽ được nhân dân nắm chắc và hiểu rõ và sẽ cùng với các cấp ủy đảng, chính quyền thực hiện dự án thắng lợi. Vì vậy, công tác tuyên truyền có một vai trò hết sức quan trọng và được coi như một giải pháp quan trọng hàng đầu cần phải được quan tâm.
- Đẩy mạnh công tác quy hoạch chi tiết phát triển kinh tế, xã hội
- Trước hết phải tập trung cho công tác quy hoạch tổng thể xã Phù Chẩn cũng như các xã, phường khác trên địa bàn thị xã. Trên cơ sở thực trạng và quỹ đất hiện có, cần quy hoạch lại làng xóm, các khu, cụm dân cư theo hướng bảo tồn những làng xóm hiện có, phát triển các khu dân cư mới theo hướng đô thị hóa, văn minh hiện đại. Quy hoạch các cớ sở kinh tế, trường học, nhà văn hóa, sân vận động, khu vui chơi giải trí, các cơ sở tín ngưỡng tôn giáo. Quy hoạch lại đồng ruộng, hệ thống kênh tưới tiêu, quy hoạch lại sản xuất tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn xã, quy hoạch lại kết cấu hạ tầng nông thôn.
- Sau khi quy hoạch đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt thì vấn đề quan tâm nhất là quản lý quy hoạch, tổ chức thực hiện quy hoạch. Việc tổ chức thực hiện quy hoạch theo nguyên tắc những chương trình nào cấp thiết và bức xúc cần phải làm trước thì làm trước hay nói một cách khác là phải xác định được thứ tự ưu tiên để triển khai thực hiện có hiệu quả.
- Đối với xã Phù Chẩn thì việc quy hoạch tổng thể đã thực hiện, đây là bản quy hoạch mang tính chỉ đạo, tổng quát. Đến thời điểm này thì xã Phù Chẩn chưa có một quy hoạch chi tiết cho sản xuất nông nghiệp, vì đối với Phù Chẩn sản xuất nông nghiệp sau khi giành đất làm Khu công nghiệp vẫn chủ yếu, đại bộ phận lao động vẫn là lao động nông nghiệp, trong khi xây dựng Khu công nghiệp đô thị và dịch vụ VSIP thì đời sống của người dân vẫn phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó xã phải có quy hoạch khu vực dịch vụ để những hộ mất đất hoàn toàn hoặc 50% diện tích đất trở lên họ có thể làm dịch vụ cho khu công nghiệp, đảm bảo đời sống trước mắt và lâu dài. Đối với quy hoạch khác có thể làm sau nhưng trên tinh thần tiến hành đồng bộ và khẩn trương.
- Đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người dân xã Phù Chẩn là việc làm cấp bách hiện nay và ổn định tình hình địa phương.
- Đi đôi với việc tính đúng, tính đủ và kịp thời mức bồi thường và bồi thường hỗ trợ cho người dân có đất bị thu hồi thì tỉnh Bắc Ninh và chủ đầu tư dự án Khu công nghiệp đô thị dịch vụ VSIP cần phải tích cực đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động, đây là vấn đề có tính cấp bách trước mắt vừa là vấn đề mang tính lâu dài. Diện tích thu hồi đất xã Phù Chẩn, việc thu hồi đất làm Khu công nghiệp đô thị và dịch vụ VSIP là quá lớn, dự án đã lấy gần hết đất nông nghiệp của xã mà từ lâu đời người dân ở đây chỉ sống bằng nghề làm nông nghiệp là chính nên bài toán về lao động, việc làm và thu nhập mà không được quan tâm giải quyết thì sẽ gây ra bức xúc, những vấn đề phức tạp không lường trước được. Cơ cấu nông thôn lại rất phức tạp và đa dạng, có độ tuổi từ 18 đến 35; có độ tuổi từ 36 đến 50; có độ tuổi trên 50. Độ tuổi từ 18 đến 35 bố trí đào tạo nghề đưa vào các nhà máy, công xưởng trong khu công nghiệp sạch; còn độ tuổi từ 36 đến 50 đào tạo nghề để giải quyết việc làm tại chỗ; độ tuổi trên 50 chủ yếu làm dịch vụ và ngành nghề. Như vậy, ngay cả các độ tuổi chúng ta cũng phải có phân loại và cách đào tạo nghề khác nhau cho phù hợp với thực tế.
- Với tình hình bức xúc về đời sống và việc làm như hiện nay ở xã Phù Chẩn, vấn đề đặt ra là phải tập trung giải quyết việc làm cho người lao động, cụ thể:
+ Các cấp chính quyền từ tỉnh cho đến xã phải có quan điểm thống nhất về việc tập trung đào tạo nghề cho người lao động, tỉnh phải hỗ trợ một phần kinh phí cho việc đào tạo nghề, phần còn lại chủ đầu tư hỗ trợ, có như vậy người dân mới tích cực đi học nghề.
+ Thực hiện phân loại lao động ở xã theo hướng những lao động trong độ tuổi có thể đào tạo phục vụ cho Khu công nghiệp thì bố trí học nghề cho Khu công nghiệp và khi học xong được nhận vào làm trong Khu công nghiệp, còn những lao động không trong độ tuổi có thể làm việc ở Khu công nghiệp thì đào tạo cho họ nghề khác, việc đào tạo nghề khác phải có địa chỉ cụ thể đảm bảo việc làm khi họ học xong, tránh tình trạng đào tạo cho xong việc. Những lao động không còn trong độ tuổi học nghề mà còn độ tuổi lao động (từ 36 đến 55 tuổi nữ, 60 tuổi nam) thì các cấp có thẩm quyền phải nghiên cứu khôi phục một số ngành nghề thủ công truyền thống của địa phương, hoặc có biện pháp khoa học kỹ thuật trong việc chăn nuôi gia súc, gia cầm.
+ Tiếp tục quy hoạch và xây dựng khu vực dịch vụ phục vụ cho chính khu công nghiệp đô thị và người dân của địa phương. Vấn đề này được xem như một khâu cuối cùng để giải quyết việc làm và vấn đề lao động. Vì khi khu dịch vụ hình thành thì tất cả những người còn lại sẽ làm dịch vụ. Như vậy sẽ không ai là không có việc làm, vấn đề đời sống việc làm đã được giải quyết tận gốc.
- Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn.
- Hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn bao gồm: điện, đường, trường, trạm xá, kênh mương (phục vụ sản xuất nông nghiệp của các diện tích còn lại), các thiết chế văn hoá cho xã Phù Chẩn. Như chúng ta đã biết việc huy động nguồn lực tài chính ở nông thôn hiện nay đều từ nông nghiệp và đặc biệt từ ruộng đất, nay nhân dân đã giao đất rồi thì còn có thể huy động từ đâu được nữa. Vậy vấn đề hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn ở Phù Chẩn không những có căn cứ kinh tế mà còn có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Với tinh thần trên, xã Phù Chẩn thị xã Từ Sơn và tỉnh Bắc Ninh cần có kế hoạch điều tra, xây dựng phương án đầu tư cho từng hạng mục công trình cụ thể để xây dựng một cách kịp thời để người dân ở đây phấn khởi yên tâm và tin tưởng vào việc giao đất để làm công nghiệp.
- Xây dựng và hướng dẫn xã Phù Chẩn và người dân quy chế quản lý và cách thức khai thác có hiệu quả các công trình đã được đầu tư. Đây là một việc làm hết sức quan trọng. Nếu các công trình được xây dựng mà không có quản lý, khai thác và bảo vệ thì sẽ không có hiệu quả, công trình nhanh chóng bị xuống cấp.
- Xây dựng Phù Chẩn thành xã có nông thôn mới. Thực hiện phương châm công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng không làm mất vẻ đẹp của nông thôn Việt Nam, giữ gìn bản sắc văn hoá của quê hương. Những thôn, xóm hiện nay thì cần giữ nguyên, nâng cấp, trùng tu để giữ nguyên vẻ cổ kính của làng quê. Tất cả những khu mới đều phải được quy hoạch và xây dựng theo hướng văn minh hiện đại. Khi đó Phù Chẩn sẽ có phố trong làng, có làng trong phố. Đó cũng là quan điểm mới của việc đô thị hoá nông thôn. Người dân không phải ra thành phố hoặc các khu công nghiệp khác mới có việc làm. Thực hiện được phương châm “Ly nông bất ly hương, nhập xưởng bất nhập đô”.
- Thực hiện tốt các chính sách kinh tế xã hội cho người dân ở xã Phù Chẩn
- Hướng dẫn nhân dân sử dụng có hiệu các loại tiền nhận được từ việc bồi thường, bồi thường để đầu tư, phát triển sản xuất, dịch vụ hoặc sử dụng vào những nhu cầu thiết yếu, tránh dùng vào những việc không cấp thiết.
- Cần thực hiện các chính sách hỗ trợ cho người dân giành đất cho làm công nghiệp ở Phù Chẩn như sau: đối với những gia đình bị thu hồi trên 30% diện tích đất sản xuất nông nghiệp có con đang học phổ thông thì hỗ trợ tiền học phí và tiền đống góp cơ sở vật chất trường học (theo mức quy định chung) trong 3 năm, nếu sau đó gia đình tiếp tục khó khăn thì vẫn tiếp tục được hỗ trợ. Đối với người dân trên 55 tuổi với nữ, trên 60 tuổi với nam thì hỗ trợ 100% Bảo hiểm y tế. Những người già cô đơn, không nơi nương tựa, những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn thì hỗ trợ 20 kg gạo một tháng cho đến khi qua đời. Số tiền trên được tính toán chính xác, cụ thể và công khai cho từng đối tượng.
- Đề nghị Khu công nghiệp đô thị và dịch vụ VSIP cho phép người dân góp vốn cổ phần vào các nhà máy trong khu công nghiệp nếu người dân có tiền và có nhu cầu. Làm tốt việc này không những tăng thêm nguồn lực tài chính cho doanh nghiệp mà còn huy động được nguồn vốn tại chỗ, giúp người dân quản lý tốt số tiền họ có mà lại có thu nhập thông qua hoạt động tiền tệ, đồng tiền được sử dụng có hiệu quả.
- Giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong khu vực công nghiệp, trong xã và trong tỉnh Bắc Ninh.
- Thực hiện tốt công tác quản lý cán bộ, công nhân viên chức và những người lao động trong khu công nghiệp.
- Làm tốt công tác phối hợp với địa phương trong việc quản lý tạm vắng tạm trú, quản lý chuyên gia và người nước ngoài đến làm việc tại khu công nghiệp.
- Xây dựng khu vực an toàn về trật tự xã hội.
- Đối với chính quyền địa phương
- Thanh tra Chính phủ sớm có kết luận những vấn đề nhân dân Phù Chẩn còn có ý kiến thắc mắc để công bố cho nhân dân Phù Chẩn, sớm ổn định tình hình xã.
- Tỉnh Bắc Ninh cần chỉ đạo các ngành các cấp thực hiện tốt các kết luận của thanh tra Chính phủ, tao những điều kiện thuận lợi nhất cho người dân Phù Chẩn và khu công nghiệp tổ chức thực hiện dự án.
- Thị ủy Từ Sơn và xã Phù Chẩn cần tập trung sức để tuyên truyền hướng dẫn nhân dân thực hiện tốt chủ trương triển khai xây dựng khu công nghiệp đô thị và dịch vụ, ủng hộ và hợp tác để sớm đưa khu công nghiệp sạch vào hoạt động. Củng cố tổ chức đảng, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân vận động nhân dân tập trung sức xây dựng quê hương giầu đẹp văn minh.
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1 Kết luận
Nghiên cứu ảnh hưởng của công tác thu hồi đất đến đời sống và việc làm của người dân trên địa bàn thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
5.1.1 Về thực hiện chính sách bồi thường GPMB
- Chính sách bồi thường được áp dụng tại dự án xây dựng cụm công nghiệp đa nghề Đình Bảng là Nghị định 22/1998/NĐ-CP, áp dụng hệ số K trong tính tiền bồi thường nên còn chưa sát với giá thị trường.
- Dự án xây dựng cụm công nghiệp đa nghề Đình Bảng tiến độ bồi thường giải phóng mặt bằng tiến hành nhanh, do diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi không lớn (28 ha), ảnh hưởng không nhiều tới đời sống của người dân.
- Dự án xây dựng khu công nghiệp, đô thị và dịch vụ VSIP áp dụng chính sách bồi thường theo Nghị định số 197/2004/NĐ-CP, do vậy mức giá bồi thường được áp dụng đã sát với thực tế hơn.
- Dự án xây dựng khu công nghiệp, đô thị và dịch vụ VSIP tiến độ giải phóng mặt bằng chậm hơn, do diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi lớn (374 ha); và vị trí thu hồi là địa phận giáp ranh giữa tỉnh Bắc Ninh và thành phố Hà Nội, do đó có sự chênh lệch lớn về giá đền bù, dẫn đến người dân có sự so sánh và kéo dài thời gian nhận tiền bồi thường.
- Tuy nhiên, ở cả hai dự án, giá bồi thường đất nông nghiệp vẫn thấp so với vùng và một số khu vực lân cận tại cùng thời điểm; đó là nguyên nhân gây nên những khó khăn trong công tác bồi thường GPMB và bức xúc của người dân tại các địa phương.
- Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất chủ yếu là bằng tiền và trả trực tiếp cho người dân. Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm chủ yếu là thực hiện sau khi đã thu hồi đất, dẫn tới người lao động bị mất cơ hội việc làm khi doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng.
5.1.2. Tác động của việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đến đời sống và việc làm của người dân
- Việc thu hồi đất để xây dựng Khu công nghiệp đô thị và dịch vụ VSIP cùng với chính sách bồi thường hỗ trợ bằng tiền mặt đã tác động rất lớn đến cơ cấu lao động. Lao động nông nghiệp giảm đi (từ 62,94% trước thu hồi đất xuống chỉ còn 11,83% sau thu hồi đất; lao động phi nông nghiệp tăng lên; số lao động không có việc làm và thiếu việc làm tăng lên tỷ lệ thuận với diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi; công tác hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp tại nơi thu hồi nhiều đất nông nghiệp để phát triển công nghiệp, đô thị chưa làm tốt đã tác động làm gia tăng tỷ lệ lao động bị thất nghiệp.
- Chính sách bồi thường hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất có tác động làm gia tăng các tài sản có giá trị của các hộ dân.
- Chính sách bồi thường hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất có tác động làm tăng thu nhập của người dân, song đó là sự biến động tăng không bền vững, thu bình quân đầu người/năm tăng từ 2.700 nghìn đồng trước thu hồi đất lên 5.236,59 nghìn đồng sau thu hồi; song nguồn thu này còn chứa đựng những yếu tố bất ổn do đây là nguồn thu chủ yếu từ chăn nuôi (nguồn thu từ chăn nuôi lợn không ổn định do bệnh dịch, thị trường và giá cả biến động) và thu từ dịch vụ cho công nhân thuê nhà trọ, thu từ làm thuê, làm cửu vạn, chạy xe ôm…).
- Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đã tác động tích cực tới việc phát triển các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội của địa phương, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống của nhân dân sở tại.
-Việc phát triển công nghiệp, đô thị cùng với chính sách bồi thường hỗ trợ bằng tiền khi Nhà nước thu hồi đất cũng đã góp phần làm gia tăng các tệ nạn xã hội tại địa phương, làm thay đổi môi trường tự nhiên cũng như môi trường sống của các hộ dân.
5.1.3 Các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và nâng cao đời sống, việc làm của người dân có đất bị thu hồi
- Quy hoạch đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp cho dân cư phải được tiến hành đồng thời với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội; vấn đề đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp cho dân cư phải được giải quyết trước khi thu hồi đất của người dân.
- Với các hộ mất đất:
+ Xây dựng kế hoạch sử dụng hiệu quả vốn được bồi thường.
+ Chủ động hướng dẫn người dân sử dụng tiền đền bù một cách có hiệu quả: hướng dẫn liên hệ góp vốn với doanh nghiệp dưới hình thức mua cổ phần, hoặc gửi vào Ngân hàng, mua bảo hiểm…
+ Cần từng bước khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống và nghề mới ở nông thôn.
+ Khuyến khích người nông dân còn đất dồn điền đổi thửa hoặc chuyển nhượng đất đai, chuyển dần theo hướng nông nghiệp sinh thái.
+ Phát triển kinh tế trang trại vừa và nhỏ:
5.2 Kiến nghị
Để công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất phù hợp với tình hình thực tiễn, tạo điều kiện cho các địa phương trong quá trình thực hiện, đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người bị thu hồi đất; chúng tôi xin kiến nghị:
- Cần xem xét điều chỉnh tăng giá đất nông nghiệp.
- Pháp luật về bồi thường GPMB cần nghiên cứu bổ sung thêm chế tài quy định việc “người bị thu hồi đất được góp vốn với doanh nghiệp và được chia lợi nhuận từ kết quả sản xuất doanh nghiệp”.
- Kế hoạch hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người bị thu hồi đất phải được tiến hành song song với quá trình lập quy hoạch, kế hoạch thu hồi đất nông nghiệp của các địa phương, của vùng và của cả nước. Kế hoạch đào tạo lao động của các địa phương phải được xây dựng cụ thể, chi tiết, trên cơ sở tính toán các loại hình doanh nghiệp thu hút vào địa phương, nhu cầu nguồn lao động về cơ cấu, số lượng và chất lượng mà doanh nghiệp cần để đảm bảo tính khả thi trong giải quyết việc làm.
- Việc đào tạo nghề cho người dân phải được thực hiện một cách chính quy, mang tính bắt buộc, nhất là đối với lao động dưới 35 tuổi.
- Tuyên truyền giáo dục để mọi người thay đổi cơ bản nhận thức về lao động việc làm, giải quyết việc làm cho lao động nói chung và cho lao động sau bàn giao đất nói riêng phải được coi là chương trình hành động của các cấp uỷ Đảng, các cấp chính quyền, sự ủng hộ tích cực của các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể và bản thân người lao động./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nội vụ (1959), Thông tư liên bộ số 1424/TTLB ngày 5/7/1959 về việc thi hành Nghị định 151-TTg.
2. Bộ Tài chính (2004), Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 7/12/2004 về hướng dẫn thi hành Nghị định 197/2004/NĐ-CP.
3. Bộ Tài chính (2006), Thông tư số 69/2006/TT-BTC ngày 02/8/2006 về sửa đổi, bổ sung một số điều Thông tư 116/2004/TT-BTC.
4. Bộ Tài chính và Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Báo cáo kết quả tổng hợp về tăng cường quản lý sử dụng đất của quy hoạch và dự án đầu tư trên phạm vi cả nước.
5. Chính phủ (1998), Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/04/1998 về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
6. Chính phủ (2004), Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
7. Chính phủ (2007), Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
8. Chính phủ (2009), Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và tái định cư.
9. Chính sách thu hút đầu tư vào thị trường bất động sản Việt Nam (2006), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Hội đồng Chính phủ (1980), Quyết định số 201/CP ngày 01/7/1980 về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước.
11. Dương Tùng Linh - Giáo sư Khoa Địa chính - Đại học học Quốc lập Chính trị Bình Đông - Đài Loan (1999), Thảo luận về đảm bảo và hạn chế quyền sở hữu, bồi thường khi trưng thu, (Tôn Gia Huyên dịch).
12. Ngân hàng Phát triển Châu Á, Cẩm nang về tái định cư (Hướng dẫn thực hành).
13. Trương Phan - Cục Công nghiệp - Bộ Kinh tế Đài Loan (1996), Quan hệ giữa quy hoạch đất đai và phát triển kinh tế (nội dung thu hồi đất, chế độ bồi thường và tính công bằng).
14. Lê Du Phong - NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội (2007), Thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng, phục vụ lợi ích quốc gia.
15. Phòng Thống kê - UBND Thị xã Từ Sơn (2008), Niên giám thống kê.
16. Thủ tướng Chính phủ (1959), Nghị định số 151 ngày 15/4/1959 quy định về thể lệ tạm thời về trưng ruộng đất.
17. UBND tỉnh Bắc Ninh (1999), Quyết định số 132/QĐ-CT ngày 25/01/1999 quy định đền bù và khung giá các loại đất đền bù khi thu hôi đất.
18. UBND tỉnh Bắc Ninh (2007), Quyết định số 26/2007/QĐ-UBND ngày 14/5/2007 về việc ban hành quy định đơn giá bồi thường cây trồng, vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất.
19. UBND tỉnh Bắc Ninh (2007), Quyết định số 91/2007/QĐ-UBND ngày 18/12/2007 của UBND tỉnh Bắc Ninh về việc quy định giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
20. Quốc hội, Hiến pháp 1946.
21. Quốc hội, Luật cải cách ruộng đất 1953.
22. Quốc hội, Hiến pháp 1959.
23. Quốc hội, Hiến pháp 1980.
24. Quốc hội, Luật Đất đai 1988.
25. Quốc hội, Hiến pháp 1992.
26. Quốc hội, Luật Đất đai 1993.
27. Quốc hội, Luật Đất đai 2003.
PHỤ LỤC
tRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số:
phiÕu ®iªu tra hé gia ®×nh
(Dành cho hộ gia đình đã bị thu hồi đất)
Tỉnh/thành phố:.............................................................................................................................
Huyện/quận:....................................................................................................................................
Xã/phường:.......................................................................................................................................
Thôn/ấp:.............................................................................................................................................
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN
1. Họ và tên chủ hộ:……………………………Tuổi…………...…………………….....
2. Dân tộc:………………………………………Tôn giáo:………………........................
3. Nghề nghiệp chính của chủ hộ:…………………………………………………….......
4. Trình độ văn hoá của chủ hộ:………………………………………………………......
5. Tổng số nhân khẩu trong hộ gia đình:………………người.
6. Tổng số người trong độ tuổi lao động:………………người.
Số người có việc làm:……………… người.
Số người đã qua đào tạo:…………..người.
Số người chưa có việc làm:…………..người.
7. Thu nhập bình quân của hộ gia đình, cá nhân
- Trước khi bị thu hồi đất:…………..…đồng/người/năm.
- Sau khi bị thu hồi đất:……………..…đồng/người/năm.
- Việc thu hồi đất có ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình không:
Ảnh hưởng ít
c
Ảnh hưởng nhiều
c
Không ảnh hưởng
c
- Thu nhập chính của hộ gia đình là từ
Nông, lâm, ngư nghiệp
c
Kinh doanh, dịch vụ
c
Làm thuê
c
Khác:……………………….
c
- Hộ gia đình có nghề phụ gì không: Có c Không c
8. Hộ gia đình có thuộc diện hộ nghèo theo quy định không
- Trước khi bị thu hồi đất Có c Không c
- Sau khi bị thu hồi đất Có c Không c
II. ĐIỀU KIỆN SẢN XUẤT, SINH HOẠT CỦA HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN
1. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật nơi hộ gia đình, cá nhân sinh sống
Hạng mục
Trước khi bị thu hồi đất
Sau khi bị thu hồi đất
Đã hoàn thiện
Chưa hoàn thiện
Không có
Đã hoàn thiện
Chưa hoàn thiện
Không có
- Hệ thống điện lưới
c
c
c
c
c
c
- Hệ thống đường
c
c
c
c
c
c
- Hệ thống thông tin, liên lạc
c
c
c
c
c
c
- Hệ thống thoát nước
c
c
c
c
c
c
- Hệ thống cấp nước sạch
c
c
c
c
c
c
- Hệ thống thu gom rác thải
c
c
c
c
c
c
- Nhà vệ sinh
c
c
c
c
c
c
2. Cơ sở hạ tầng xã hội nơi hộ gia đình, cá nhân sinh sống
Hạng mục
Trước khi bị thu hồi đất
Sau khi bị thu hồi đất
Đã hoàn thiện
Chưa hoàn thiện
Không có
Đã hoàn thiện
Chưa hoàn thiện
Không có
- Trường học
c
c
c
c
c
c
- Trạm y tế
c
c
c
c
c
c
- Chợ
c
c
c
c
c
c
- Nhà văn hóa
c
c
c
c
c
c
- Sân thể thao
c
c
c
c
c
c
- Khu vui chơi giải trí
c
c
c
c
c
c
3. Các trang thiết bị, máy móc của hộ gia đình, cá nhân
Loại
Trước thu hồi đất
Sau thu hồi đất
Có
Không có
Có
Không có
- Xe máy
c
c
c
c
- Tivi
c
c
c
c
- Đầu đĩa
c
c
c
c
- Tủ lạnh
c
c
c
c
- Quạt điện
c
c
c
c
- Điện thoại cố định
c
c
c
c
- Máy tuốt lúa
c
c
c
c
- Máy cày
c
c
c
c
- Máy bơm
c
c
c
c
- Khác:
c
c
c
c
4. Diện tích các loại đất của hộ gia đình, cá nhân
Loại đất
Trước khi bị thu hồi đất (m2)
Sau khi bị thu hồi đất
(m2)
Đối với phần đất đã bị thu hồi
Diện tích (m2)
Số tiền bồi thường (tr đồng)
Số tiền hỗ trợ ( tr đồng)
Khác
- Đất trồng lúa
- Đất NTTS
- Đất trồng màu
- Khác:
5. Gia đình gặp phải những khó khăn gì sau khi bị thu hồi đất
- Mất việc làm
c
- Mất đi nguồn thu nhập từ sản xuất nông nghiệp
c
- Mất đi nguồn thu nhập từ nuôi trồng thuỷ sản
c
- Không đủ tiền để mua đất sản xuất nông nghiệp khác
c
- Không đủ tiền để mua đất nuôi trồng thuỷ sản
c
- Chương trình đào tạo nghề của địa phương không áp dụng được vào thực tế, không tìm kiếm được việc làm mới
c
- Khác:…………………………………………………………………
c
7. Những thay đổi tích cực trong đời sống của hộ gia đình, cá nhân sau khi bị thu hồi đất
- Có nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm hơn
c
- Con cái có điều kiện học hành tốt hơn
c
- Gia đình có điều kiện phát triển kinh tế hơn
c
8. Sau khi nhận được tiền đền bù và hỗ trợ hộ gia đình đã sử dụng số tiền này vào các mục đích
Các mục đích
Số tiền ( tr đồng)
- Xây dựng nhà cửa
- Đầu tư mua sắm tiện nghi sinh hoạt trong gia đình
- Gửi tiền tiết kiệm
- Đi học nghề
- Đầu tư cho con cái học nghề
9. Tình hình việc làm của hộ: Trước và sau khi bị thu hồi
STT
Nghề nghiệp của các lao động trong hộ
Trước khi bị thu hồi
(người)
Sau khi bị thu hồi
(người)
a
Lao động nông nghiệp
b
Tiểu thủ công nghiệp
c
Dịch vụ
d
Buôn bán
e
Làm thuê
g
Công nhân trong các nhà máy tại địa phương
h
CB,CNVC
i
Được đầu tư đi tìm việc làm ngoài địa phương
k
Nghề khác ngoài nông nghiệp
III. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
1. Về trình tự thủ tục bồi thường thiệt hại
Đúng trình tự
c
Không đúng trình tự
c
Đúng thời gian theo các quyết định đã ban hành
c
Không đúng thời gian theo các quyết định đã ban hành
c
Minh bạch
c
Không minh bạch
c
Công bằng
c
Không công bằng
c
Công khai
c
Không công khai
c
2. Về công tác tuyên truyền chính sách thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng
- Thời điểm tuyên truyền:…………………………………………………...
- Hình thức tuyên truyền
- Đến từng hộ gia đình
c
- Qua phương tiện thông tin đại chúng
c
- Phổ biến đến thôn/ấp
c
- Tự tìm hiểu
c
- Khác………………..
- Theo hộ gia đình công tác tuyên truyền như vậy có phù hợp hay không
- Phù hợp
c
- Không phù hợp
c - Tại sao:…………………….............................
- Không có ý kiến
c
3. Về giá đất bồi thường giải phóng mặt bằng
- Gia đình có bằng lòng với mức giá bồi thường hay không
Nếu KHÔNG cho biết lí do
- Việc đo đạc diện tích đền bù không chính xác
c
- Việc xác định nguồn gốc đất được đền bù không chính xác
c
- Đơn giá đền bù không thoả đáng
c
- Việc kiểm đếm tài sản hoa màu trên đất không chính xác
c
- Phải đi lại nhiều lần mới nhận đủ tiền đền bù
c
- Khác:
4. Các chính sách hỗ trợ của Nhà nước mà hộ gia đình được hưởng là
- Hộ gia đình có được cam kết tuyển dụng vào làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp không: Có c Không c
- Hộ gia đình có bao nhiêu người được tuyển dụng vào làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp:………….người.
- Mức thu nhập trong các nhà máy, xí nghiệp có phù hợp hay không:
Có c Không c
Các chính sách hỗ trợ
Số tiền được hỗ trợ (triệu đồng)
Thời gian hỗ trợ (năm)
Tính công khai của chính sách hỗ trợ
Có
Không
Hỗ trợ chuyển đổi nghề
c
c
Hỗ trợ sản xuất
c
c
Hỗ trợ đào tạo nghề
c
c
Hỗ trợ ổn định đời sống
c
c
Hỗ trợ bằng “quỹ hưu nông dân” cho người bị mất đất đã hết tuổi lao động
c
c
Khác
c
c
IV. NGUYỆN VỌNG, ĐỀ XUẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH
1. Theo ý kiến hộ gia đình việc bồi thường bằng tiền đối với diện tích bị thu hồi có phù hợp hay không
…………………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………….
2. Theo ý kiến hộ gia đình việc bồi thường bằng đất (quy đổi đất sản xuất nông nghiệp sang đất dịch vụ) đối với diện tích bị thu hồi có phù hợp hay không?
…………………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………….
3. Theo ý kiến hộ gia đình việc bồi thường bằng việc quy đổi nhận lao động vào làm việc trong khu công nghiệp đối với diện tích bị thu hồi có phù hợp hay không?
…………………………………………………………………………………………….
4. Theo ý kiến hộ gia đình việc bồi thường bằng đất sản xuất nông nghiệp ở một vị trí khác đối với diện tích bị thu hồi có phù hợp hay không?
…………………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………….
5. Gia đình có đồng tình với chính sách thay vì việc bồi thường như trước đây thì hộ gia đình sẽ góp cổ phần bằng đất bị thu hồi với doanh nghiệp không?
…………………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………….
6. Ý kiến khác
…………………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………….
Xin trân trọng cảm ơn hộ gia đình.
Ngày.........tháng..........năm 200
Điều tra viên
(Ký và ghi rõ họ tên)
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHQL09006.doc