Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay

Tài liệu Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay: ... Ebook Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay

doc136 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3490 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐÂU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giai cấp công nhân đang hoạt động trong tất cả các ngành nghề, các thành phần kinh tế, “là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2006, tr.118. , là hạt nhân của liên minh công nông và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là cơ sở xã hội chủ yếu của Đảng. Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh là vấn đề quan trọng có ý nghĩa chiến lược của Đảng. Trong công cuộc đổi mới, giai cấp công nhân Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam chỉ chiếm 13% dân số, gần 23% lực lượng lao động xã hội, song hàng năm đã tạo ra khoảng 70% giá trị tổng sản phẩm trong nước, đảm bảo 60% nguồn thu ngân sách nhà nước. Những đóng góp của giai cấp công nhân khẳng định vị trí, vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp công nhân trong sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Giai cấp công nhân nước ta đang có sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, song trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong điều kiện khoa học công nghệ ngày càng phát triển nhanh, toàn cầu hoá diễn ra như một xu thế khách quan, tình hình thế giới có những thay đổi hết sức nhanh chóng, âm mưu ''diễn biến hoà bình'' của các thế lực thù địch đối với nước ta vẫn còn diễn biến phức tạp, tác động mặt trái của kinh tế thị trường và sự du nhập của các luồng văn hoá độc hại đang từng ngày, từng giờ tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam đang đứng trước những thách thức vô cùng to lớn. Tình trạng trạng thất nghiệp, lao động không ổn định, thời gian làm việc kéo dài và cường độ làm việc rất cao, điều kiện làm việc ít được cải thiện, tai nạn lao động gia tăng đe dọa giai cấp công nhân. Hàng chục vạn công nhân, lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất phải thuê nhà ở, sinh hoạt trong điều kiện tạm bợ thiếu thốn và không đảm bảo an toàn. Đặc biệt là tiền lương, thu nhập của người lao động chưa tương xứng với cường độ và thời gian lao động, thậm chí có nơi lương công nhân không đủ nuôi sống bản thân, đời sống gặp nhiều khó khăn. Điều kiện sinh hoạt tinh thần cũng rất thiếu thốn. Công nhân lao động không có thời gian, điều kiện sinh hoạt, học tập nâng cao nhận thức chính trị và trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Do vậy, trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp của một bộ phận công nhân còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, ý thức chính trị, hiểu biết pháp luật còn rất hạn chế. Có một bộ phận công nhân sống thiếu lý tưởng, niềm tin, sa vào các tệ nạn xã hội, dẫn đến tha hóa về phẩm chất lối sống, phai nhạt phẩm chất của giai cấp công nhân, giảm lòng tin và sự gắn bó với Đảng và Công đoàn. Đã xảy ra tranh chấp lao động và đình công ồ ạt trong công nhân lao động thời gian qua, phản ánh sự bức xúc về quyền lợi và thiếu am hiểu pháp luật của công nhân lao động. Tình hình trên có nhiều nguyên nhân, song một trong những nguyên nhân cơ bản là những năm qua, Đảng và Nhà nước chưa quan tâm thoả đáng đến xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân, đặc biệt, sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề xây dựng giai cấp công nhân còn nhiều bất cập. Từ nhận thức về vai trò, nội dung, phương thức lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân đến tổ chức lãnh đạo trong thực tiễn đều có những bất cập. Tình hình giai cấp công nhân đặt ra nhiều vấn đề mới cần có định hướng của Đảng, nhưng chủ trương, chính sách xây dựng giai cấp công nhân chậm đổi mới, Đảng chưa có chiến lược về xây dựng và phát triển giai cấp công nhân hiện đại; trong quá trình chuyển sang cơ chế mới đã có những biểu hiện coi nhẹ vị trí, vai trò giai cấp công nhân, một số cấp uỷ có trách nhiệm nhưng chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề xây dựng giai cấp công nhân, chưa tập trung lãnh đạo giải quyết những vấn đề bức xúc của công nhân trong phạm vị trách nhiệm; Công đoàn còn lúng túng trong đổi mới tổ chức, hoạt động, chưa phát huy tốt vai trò trong xây dựng giai cấp công nhân… Cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước và chuyển đổi cơ cấu lao động sang hướng công nghiệp và dịch vụ, giai cấp công nhân nước ta sẽ phát triển rất nhanh, không chỉ là lực lượng chính trị, xã hội quan trọng mà còn là người nắm giữ cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại nhất của nền kinh tế, có vai trò quyết định vào thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tăng cường xây dựng giai cấp công nhân có giác ngộ và bản lĩnh chính trị, có trình độ học vấn và nghề nghiệp ngày càng cao trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2006, tr.305. . Thực hiện chủ trương đó, Đảng phải đặc biệt quan tâm lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân. Để khắc phục những hạn chế, bất cập, tăng cường có hiệu quả sự lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân của Đảng phải có những giải pháp đồng bộ, trong đó cần có những nghiên cứu khoa học về vấn đề này, làm rõ nội dung, phương thức, trách nhiệm trong việc lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân của Đảng. Thực tế đó cho thấy, việc nghiên cứu đề tài “Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay” có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề xây dựng và vận động giai cấp công nhân là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa chiến lược của Đảng trong mọi thời kỳ cách mạng, được đề cập trong nhiều văn kiện của Đảng từ khi thành lập đến nay, trong đó có vấn đề Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân. Những năm gần đây, trước những vấn đề đặt ra đối với giai cấp công nhân do công cuộc đổi mới và sự biến đổi của thế giới đem lại, nhiều cơ quan có trách nhiệm, nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn quan tâm nghiên cứu vấn đề xây dựng giai cấp công nhân và Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân. Sau đây xin lược qua những tài liệu và công trình tiêu biểu: * Báo, Tạp chí 1. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (Phát biểu tại Đại hội IX Công đoàn Việt Nam), Xây dựng giai cấp công nhân, tổ chức công đoàn vững mạnh là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, Ngày 13/10/2003. Trước yêu cầu của tình hình mới, để giai cấp công nhân xứng đáng là giai cấp tiên phong, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tổng Bí thư nêu một số vấn đề cơ hội lớn và cả những thách thức lớn đối với giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và đặc biệt là tổ chức công đoàn có trách nhiệm tạo các điều kiện thuận lợi về vật chất và tinh thần, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo động lực khuyến khích công nhân, lao động khắc phục khó khăn, tự giác rèn luyện tích cực tham gia các chương trình đào tạo, đào tạo lại và tự đào tạo, từng bước trí thức hóa công nhân và hình thành xã hội học tập. Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn vững mạnh là trách nhiệm không chỉ của riêng tổ chức công đoàn mà còn là của Đảng và Nhà nước”. 2. Văn Tạo, Quan điểm mới về giai cấp công nhân Việt Nam của Văn kiện Đại hội X của Đảng, Tạp chí Cộng sản tháng 5/2006. Tác giả cho rằng từ đầu những năm 1980 đến nay, giai cấp công nhân nước ta đã có những nét đổi mới như sau: 1)Về cơ bản, giai cấp công nhân đã được trí thức hóa. Một bộ phận lớn giai cấp công nhân đã là trí thức; 2) Trong tất cả các lĩnh vực lao động sản xuất, người công nhân không còn thuần túy là người làm thuê (chỉ có quyền được bán sức lao động để sống), mà đã có phần nào làm chủ, chí ít là làm chủ đất nước, góp phần làm chủ Nhà nước (định ra Hiến pháp, pháp luật...), nhằm làm chủ trong cả sản xuất lẫn phân phối sản phẩm lao động. 3) Đại bộ phận công nhân không còn hoàn toàn là vô sản như hồi đầu thế kỷ XX, mà đã là hữu sản, trong đó một số công nhân tri thức đã có sở hữu trí tuệ - một thứ sở hữu có thể tạo ra của cải làm giàu cho xã hội và cho bản thân mình; một số công nhân đã có cổ phần xí nghiệp, được hưởng lợi nhuận từ cổ phần góp vào theo đúng pháp luật nhà nước của chính giai cấp mình quy định; 4) Giai cấp công nhân vẫn đóng vai trò tiền phong, đang trên đà đưa “khoa học, kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”, đang đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nắm những vị trí then chốt về khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao và một lượng sản phẩm xã hội cao nhất trong nền kinh tế quốc dân; 5) Giai cấp công nhân Việt Nam đã có một vị thế quốc tế của một nước có nền kinh tế sánh vai được với 5 châu, một trong những nước tăng tiến nhanh về xuất khẩu, tăng trưởng nhanh về khoa học, công nghệ, kể cả về tin học; 6) Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam đang lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới của dân tộc. 3. Nguyễn Hòa Bình (Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam), Xây dựng, phát triển toàn diện giai cấp công nhân Việt Nam theo tinh thần Đại hội X của Đảng, website của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tác giả cho rằng “Xây dựng, phát triển toàn diện giai cấp công nhân luôn là mối quan tâm thường trực của Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta”. Tác giả đánh giá sự đổi mới tư duy của Đảng ta về vai trò, vị trí giai cấp công nhân từng bước được bổ sung, hoàn thiện trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, tạo nền tảng cho sự hoàn thiện đường lối, chủ trương xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân. Khẳng định đó được minh chứng bằng các quan điểm thể hiện qua các văn kiện của thời kỳ đổi mới. Nhờ những chủ trương, chính sách đúng đắn đó, giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh và ngày càng thể hiện vai trò đóng góp to lớn và quyết định sự nghiệp cách mạng Việt Nam. 4. Thạc sỹ Dương Thị Thanh Xuân, Giải pháp nâng cao ý thức chính trị cho công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạp chí Xây dựng Đảng, số 10/2005. Theo tác giả, đội ngũ công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (CVĐTNN) hình thành và không ngừng lớn mạnh. Bài nghiên cứu đề cập đến số lượng, chất lượng và vai trò ngày càng quan trọng của đội ngũ công nhân trong các doanh nghiệp này. Họ là một bộ phận không thể tách rời của giai cấp công nhân Việt Nam. Do đó, cần quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ công nhân này về mọi mặt, đặc biệt là giáo dục, nâng cao ý thức chính trị. * Sách tham khảo 1. PGS, TS Phan Thanh Khôi (chủ biên), Ý thức chính trị của công nhân trong một số doanh nghiệp ở Hà Nội hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003. Trên cơ sở luận giải ý thức chính trị của giai cấp công nhân và thực trạng ý thức chính trị của công nhân doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Hà Nội, tập thể tác giả đưa ra những dự báo xu hướng biến động về ý thức chính trị của công nhân trong 2 loại doanh nghiệp trên ở Hà Nội và đưa ra 6 giải pháp nhằm nâng cao ý thức chính trị của công nhân, trong đó có đề cập đến nội dung đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho công nhân của các cấp uỷ đảng, tổ chức công đoàn trên địa bàn và doanh nghiệp, đồng thời nhấn mạnh cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, giúp công nhân nhận thức rõ quyền lợi, nghĩa vụ của mình, nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật lao động, ý thức chấp hành pháp luật của nhà nước và những nội quy làm việc tại doanh nghiệp. 2. Cù Thị Hậu, Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, xứng đáng là giai cấp tiên phong, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), tham luận tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội). Tác giả chỉ rõ những thách thức đối với giai cấp công nhân Việt Nam trong tình hình hiện nay như việc làm, thời gian làm việc kéo dài và cường độ làm việc rất cao, điều kiện làm việc ít được cải thiện, tai nạn lao động gia tăng. Tiếp đó, chỉ rõ những hạn chế, yếu kém của giai cấp công nhân hiện nay (trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp của một bộ phận công nhân còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, ý thức chính trị, hiểu biết pháp luật còn rất hạn chế, có một bộ phận công nhân sống thiếu lý tưởng, niềm tin, sa vào các tệ nạn xã hội, dẫn đến tha hóa về phẩm chất lối sống, phai nhạt phẩm chất của GCCN, giảm lòng tin và sự gắn bó với Đảng và Công đoàn). Tình trạng tranh chấp lao động và đình công của công nhân xảy ra ngày càng nhiều phản ánh sự bức xúc về quyền lợi và thiếu am hiểu pháp luật của công nhân lao động, sự hạn chế của tổ chức Công đoàn và sự chưa quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với công nhân lao động. Tác giả nêu kiến nghị về cần xây dựng chiến lược tổng thể, toàn diện xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân trong giai đoạn mới. Đảng cần đẩy mạnh công tác xây dựng tổ chức Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong GCCN. Đồng thời, tăng cường lãnh đạo các cơ quan nghiên cứu của Đảng, Nhà nước, của các đoàn thể chính trị - xã hội, tập hợp trí tuệ của các nhà khoa học để nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tế về giai cấp công nhân. 3. Viện Công nhân và Công đoàn (2003), Nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Nxb Lao động, Hà Nội (do TS Dương Văn Sao chủ biên). Các tác giả phân tích thực trạng đội ngũ công nhân; thực trạng hoạt động của tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp này và đưa ra hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn. Tuy nhiên, do phạm vi, đối tượng nghiên cứu công trình, các tác giả mới chỉ dừng ở việc nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp này, chưa gắn nội dung nghiên cứu với việc xây dựng giai cấp công nhân trong loại hình doanh nghiệp đặc biệt này, chưa làm rõ sự cần thiết hình thành tổ chức đảng trong doanh nghiệp để lãnh đạo công đoàn, các tổ chức chính trị khác trong doanh nghiệp đối với việc xây dựng đội ngũ công nhân ở doanh nghiệp giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, có tinh thần yêu quê hương, đất nước, có tư tưởng, lập trường chính trị vững vàng, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. * Luận văn, luận án: 1. Võ Châu Thảo (2005), Công tác phát triển đảng viên trong công nhân các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong luận văn, tác giả chủ yếu tập trung khảo sát công tác phát triển đảng viên trong công nhân các DNNQD ở các KCN trên địa bàn tỉnh Bình Dương, Đồng Nai giai đoạn 1995 đến 2005 và đề xuất giải pháp cho nhiệm kỳ tiếp theo. 2. Bùi Thị Kim Hậu (2004), Trí thức hoá công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (qua thực tế của một số doanh nghiệp nhà nước), Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học. Luận văn xây dựng được khái niệm trí thức hoá công nhân và phân tích thực trạng quá trình trí thức hoá giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đổi mới, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện nhiệm vụ trí thức hoá giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong đó đề cập đến việc phát huy nội lực của giai cấp công nhân, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công nhân, hoàn thiện và thực hiện tốt hệ thống chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức vào quá trình trí thức hoá công nhân. Luận văn chưa đề cập đến vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng trong doanh nghiệp cũng như chưa làm sâu sắc vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quá trình trí thức hoá công nhân. 3. Phạm Thi Xuân Hương (2001), Vấn đề đình công của công nhân ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học. Luận án tập trung trình bày cơ sở lý luận, thực tiễn về các khía cạnh kinh tế - xã hội liên quan đến vấn đề đình công, phân tích thực trạng, nguyên nhân và dự báo xu hướng đình công của công nhân nước ta trong những năm tiếp theo và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phòng ngừa, giải quyết đình công ở nước ta. Dưới góc độ triết học, luận án không giải quyết những nội dung cụ thể liên quan đến việc lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với việc nâng cao ý thức, trách nhiệm của giai cấp công nhân đối với sự phát triển ổn định, bền vững của doanh nghiệp, của đất nước, nhất là những kiến nghị về chính sách vĩ mô nhằm giải quyết triệt để tình trạng đình công của công nhân. Các công trình nghiên cứu về giai cấp công nhân, xây dựng giai cấp công nhân và lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân nêu trên đã đề cập nhiều nội dung với các góc độ khác nhau, có những đóng góp quan trọng về vấn đề xây dựng giai cấp công nhân. Tuy nhiên, các công trình đó cũng còn một số hạn chế như: + Hầu hết các công trình nghiên cứu đề cập ở trên chưa trực tiếp đi sâu về phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với giai cấp công nhân, chưa chỉ rõ nội dung lãnh đạo gồm những vấn đề gì? trách nhiệm của các cấp uỷ đảng trong việc tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội triển khai chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với giai cấp công nhân. Trong đó, vai trò, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn, lãnh đạo các loại hình doanh nghiệp trong việc góp phần xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, hiện đại chưa được cụ thể hoá, thiếu sự tổng kết thực tiễn để chỉ đạo. + Còn quá ít các công trình nghiên cứu về bản chất giai cấp công nhân Việt Nam trên cơ sở kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội của Việt Nam, vì vậy mà chưa làm rõ được đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay để từ đó có các biện pháp nâng cao chất lượng của giai cấp công nhân phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới. + Các công trình nghiên cứu ít có sự khảo cứu thực chứng, việc nghiên cứu phần lớn còn mang tính suy luận. Nhiều công trình còn in dấu của chủ nghĩa kinh viện với những lập luận còn thiếu thuyết phục. Chính vì vậy mà chưa làm rõ hết được nội dung, bản chất và sự biến đổi nhanh chóng của giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay. Các biện pháp xây dựng giai cấp công nhân mới chỉ dừng lại ở tầm vĩ mô chứ ít quan tâm đến các biện pháp mang tính vi mô. + Các công trình nghiên cứu ít có sự tiếp cận với những quan niệm hiện đại về bản chất, nội dung của giai cấp công nhân, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cũng như các biện pháp xây dựng giai cấp công nhân hiện đại đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Còn thiếu những công trình so sánh, đối chiếu một cách có hệ thống vấn đề giai cấp công nhân ở Việt Nam với các nước trên thế giới. Vì sao giai cấp công nhân Việt Nam vẫn chưa rèn luyện được phong cách làm việc khoa học, tác phong công nghiệp như ở các nước đang phát triển khác, đấu tranh, đình công không đúng quy định của pháp luật? Do vậy, mà các kinh nghiệm và bài học xây dựng giai cấp công nhân hiện đại ở các nước chưa được khai thác triệt để. + Ở nước ta, việc xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong quá trình xây dựng giai cấp công nhân đã bỏ qua nghiên cứu và phân tích về môi trường sinh hoạt, học tập và làm việc cụ thể của giai cấp công nhân ở từng ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, chưa xây dựng được những dự báo khoa học về sự thay đổi trong giai cấp công nhân Việt Nam, làm cơ sở để hoạch định chủ trương, chính sách mới phù hợp với yêu cầu của sự phát triển. + Chưa đưa ra những chính sách cụ thể để khuyến khích, thúc đẩy người sử dụng lao động đóng góp kinh phí để không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động trong doanh nghiệp. Đồng thời, chậm sửa đổi, bổ sung chính sách về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, về tiền lương, bảo hiểm… để giải quyết những kiến nghị của một số công nhân dẫn đến đình công, bãi công bất hợp pháp ở một số doanh nghiệp liên doanh gây khó khăn cho chủ doanh nghiệp hoặc không bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp và chính đáng của công nhân ở những doanh nghiệp được cổ phần hoá… Qua tổng quan các công trình nghiên cứu trên đây, chúng tôi hy vọng, kết quả nghiên cứu của chúng tôi sẽ kế thừa những thành tựu của các công trình nghiên cứu trước, cung cấp thêm một số hệ thống luận cứ để đánh giá đúng thực trạng giai cấp công nhân, thực trạng sự lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân ở nước ta, chỉ rõ những ưu, khuyết điểm về chủ trương, chính sách hiện hành của Đảng và Nhà nước đối với giai cấp công nhân, dự báo những biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu của giai cấp công nhân trong những năm tiếp theo và đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Nhiệm vụ của đề tài - Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay, bao gồm: vai trò, đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, sự cần thiết, nội dung, phương thức lãnh đạo, trách nhiệm của các tổ chức đảng và đối tượng lãnh đạo. - Đánh giá đúng thực trạng Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân, rút ra nguyên nhân, kinh nghiệm (qua khảo sát trên một số địa bàn Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh). - Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở lý luận và khảo sát thực tiễn, đưa ra được những dự báo cần thiết về xu hướng phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam trong khoảng 10 năm tới, đề xuất phương hướng và hệ giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng giai cấp công nhân, cùng những kiến nghị cụ thể cho Đảng, Nhà nước, Công đoàn về xây dựng giai cấp công nhân. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân (qua khảo sát trên một số địa bàn Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh) từ 2001 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng ta về giai cấp công nhân và xây dựng giai cấp công nhân; và dựa trên thực tiễn xây dựng giai cấp công nhân trên một số địa bàn Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh hiện nay. - Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng Mác-xít; phương pháp nghiên cứu: lôgíc và lịch sử, phân tích, tổng hợp và tổng kết kinh nghiệm. 6. Đóng góp khoa học của đề tài - Quan niệm về Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam, nội dung, phương thức Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công trong giai đoạn hiện nay; - Những thời cơ và thách thức đối với giai cấp công nhân Việt nam trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động, tích cực hội nhập nền kinh tế thế giới. - Một số kinh nghiệm bước đầu rút ra từ thực trạng Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm qua. - Những giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả lãnh đạo xây dựng giai cấp công của Đảng trong giai đoạn hiện nay. 7. Kết cấu của tổng quan Ngoài phần mở đầu, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, tổng quan gồm 3 chương, 6 tiết. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHỦ YẾU VỀ ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM 1.1. Khái quát về giai cấp công nhân Việt Nam 1.1.1. Vai trò, đặc điểm và xu hướng biến đổi, phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam 1.1.1.1. Vai trò của giai cấp công nhân Tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là hơn 20 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, nghiên cứu kết quả của các công trình khoa học về giai cấp công nhân, tại Hội nghị Trung ương 6 khoá X, Đảng ta đã đưa ra khái niệm khoa học về giai cấp công nhân. Đây là cơ sở khoa học để xác định vị trí, vai trò, đánh giá thực trạng và đề ra giải pháp xây dựng giai cấp công nhân nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết chỉ rõ: “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng to lớn, đang phát triển bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp” Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết Hội nghị trung ương 6 khoá X, Nxb CTQG, H, tr. 43. . Từ khái niệm khoa học đó, thấy rằng: Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đem lại những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử: Đời sống của nhân dân được cải thiện; tình hình chính trị - xã hội ngày càng ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày một được nâng cao. Đây là kết quả tổng hợp của nhiều lực lượng, nhiều yếu tố dưới sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta, trong đó, có vai trò của giai cấp công nhân. Trong quá trình chủ động và tích cực hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đã đem lại cho giai cấp công nhân thời cơ lớn và những thử thách không nhỏ phải tận dụng và vượt qua. Đây thực sự là giai đoạn cách mạng đầy cam go đối với Đảng, với dân tộc, với các tầng lớp nhân dân ta, trong đó có giai cấp công nhân. Để có được những thành tựu nêu trên, giai cấp công nhân nước ta đã phát huy bản chất cách mạng của mình, đi đầu trong sự nghiệp đổi mới, góp phần tạo nên những thắng lợi, từng bước trưởng thành và phát triển toàn diện. Từ khái niệm khoa học nêu trên, có thể xem xét và khẳng định vai trò của giai cấp công nhân nước ta trong giai đoạn hiện nay qua các mối quan hệ chủ yếu sau đây: Một là, đối với phát triển kinh tế Giai cấp công nhân là lực lượng quan trọng hàng đầu trong phát triển kinh tế, thúc đẩy xã hội phát triển, là lực lượng nòng cốt trong thực hiện chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nên cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội đã có những biến đổi mới, làm cho giai cấp công nhân dần dần trở thành “giai cấp công nhân hiện đại” khác hẳn với giai cấp công nhân trong thế kỷ XIX về nhiều mặt. Tỉ lệ số người làm dịch vụ so với số người sản xuất trực tiếp tăng lên; trình độ văn hóa chung và tay nghề chuyên môn cao hơn; mức thu nhập khá hơn trước, làm cho nhiều người lao động trở thành “trung lưu”. Một bộ phận trong giai cấp công nhân đã mua cổ phần và được chia lợi nhuận với giai cấp tư sản. Tầng lớp quản lý ngày càng có vai trò quan trọng và kiêm nhiều chức năng phụ của giới chủ. Ngày nay trong điều kiện mới, khi lực lượng sản xuất đang trên đà phát triển mạnh, giai cấp công nhân không chỉ bao gồm những người lao động chân tay mà còn cả lao động trí óc thông qua các máy điện toán với những thành tựu của tin học. Giai cấp công nhân có sự phát triển về chất lượng để đảm đương nhiệm vụ trong điều kiện mới, hay nói cách khác “công nhân hóa trí thức” và “trí thức hóa công nhân” là xu thế tất yếu của nền đại công nghiệp, của quá trình tự động hóa, tin học hóa. Giai cấp công nhân đang lớn lên với đội ngũ trí thức của mình và giai cấp công nhân luôn luôn là người trực tiếp sản xuất, tham gia vào quá trình tạo ra những giá trị vật chất, những của cải to lớn cho xã hội. Về sản xuất, giai cấp công nhân là lực lượng cơ bản, chủ yếu, có vai trò to lớn trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù về số lượng giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số dân cư (khoảng 8 đến 10%) và khoảng trên 13% lao động xã hội nhưng lại nắm giữ những cơ sở vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của xã hội, quyết định phương hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế; giai cấp công nhân là lực lượng lao động đóng góp nhiều nhất vào ngân sách nhà nước. Hằng năm họ đóng góp khoảng 50% tổng sản phẩm xã hội bảo đảm trên 60% ngân sách nhà nước. Giai cấp công nhân đi đầu trong lao động sáng tạo xây dựng đất nước. Chúng ta tự hào về sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với những thành tựu kinh tế, văn hóa, cơ sở hạ tầng mà rất nhiều năm trước đây do nhiều nguyên nhân, chúng ta chưa làm được. Đó là những công trình đô thị hóa với các khu dân cư, nhà cao tầng, các siêu thị, đường giao thông, hệ thống điện nước, dịch vụ... tuy chúng còn những bất cập nhưng đã tạo nên diện mạo mới khang trang. Hệ thống đường giao thông quốc gia, đường xuyên Việt dọc dãy Trường Sơn hùng vĩ; đường điện 500KV xuyên quốc gia; hệ thống cầu cảng sân bay hiện đại vượt sông, vượt biển, vượt đại dương trước đây ít ai ngờ tới. Công nghiệp điện tử, tin học khai khoáng, hóa chất, khai thác dầu khí v.v.. tuy non trẻ nhưng rất cường tráng, tất cả đều đóng vai trò trụ cột của nền kinh tế quốc dân. Giai cấp công nhân có mặt trong các ngành kinh tế: công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải, trong đó công nhân công xưởng, nhà máy sản xuất công nghiệp hiện đại, tiên tiến là bộ phận nòng cốt, tiêu biểu. Cùng với quá trình phát triển của giai cấp công nhân, bộ phận trí thức gắn trực tiếp với lao động công nghiệp, với quy trình sản xuất công nghiệp tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Trong điều kiện hiện nay, cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại rất đa dạng, có nhiều trình độ khác nhau và không ngừng biến đổi theo hướng không thuần nhất: công nhân kỹ thuật ngày càng tăng, công nhân ngày càng được nâng cao về trình độ, đóng vai trò chính trong quá trình phát triển, công nhân truyền thống giảm dần. Giai cấp công nhân là giai cấp của những người làm ra của cải vật chất trong lĩnh vực công nghiệp với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện đại. Sản phẩm thặng dư do họ làm ra là nguồn gốc chủ yếu cho sự giàu có và sự phát triển của xã hội. Giai cấp công nhân vừa là người lãnh đạo, đồng thời cùng với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp lao động khác, hợp thành lực lượng tổng hợp của quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử đó. Giai cấp công nhân Việt Nam đã và đang là lực lượng xã hội đi đầu trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Trong điều kiện hiện nay phải xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam tiên tiến, hiện đại, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, mở cửa, hội nhập với bên ngoài nhằm phát huy tốt nhất bản chất và những đặc điểm của giai cấp công nhân. Hai là, đối với xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta Giai cấp công nhân là lực lượng nòng cốt trong liên minh công – nông – trí, là lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Lòng tin của giai cấp công nhân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp đổi mới ngày càng được củng cố vững chắc. Tham gia vào đủ các thành phần kinh tế rất phong phú, đa dạng và phức tạp, giai cấp công nhân luôn giữ vững bản chất cách mạng, bản lĩnh chính trị, lấy mục tiêu dân gi._.àu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh để phấn đấu; lấy việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế làm phương châm và nguyên tắc hoạt động. Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng chính trị - xã hội quan trọng bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Giai cấp công nhân có vai trò quan trọng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nhất là trong nền công nghiệp quốc phòng, yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân. Là lực lượng lao động tiến bộ đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, có tổ chức kỷ luật chặt chẽ, giai cấp công nhân Việt Nam rất nhạy cảm chính trị không hoang mang dao động, luôn cảnh giác với âm mưu thủ đoạn của kẻ địch, làm thất bại âm mưu "diễn biến hòa bình" giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Giai cấp công nhân nhận thức và có thái độ đúng đắn đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta do Đảng Cộng sản Việt nam lãnh đạo- con đường đó đã được lịch sử của Việt Nam công nhận và được đông đảo các giai cấp, tầng lớp nhân dân ủng hộ - không hoài nghi, dao động trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế và những mặt trái của cơ chế thị trường. Tham gia tích cực vào đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và những tệ nạn trong xã hội. Do đó, có thể nói, giai cấp công nhân là lực lượng quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Điều đó thể hiện thông qua một số hoạt động thiết thực như: 1) Giai cấp công nhân với bản chất cách mạng và khoa học của mình, cung cấp nguồn kết nạp đảng viên xuất thân từ công nhân cho Đảng góp phần giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng – đây là vấn đề đặc biệt quan trọng trong điều kiện hiện nay; 2) Giai cấp công nhân với bản chất, cách mạng của mình, là người hiện thực hoá sinh động nhất các chủ trương, đường lối của Đảng, là nhân tố dặc biệt quan trọng rèn luyện, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chiến lược cho Đảng, kiểm nghiệm và góp ý để Đảng xây dựng và hoàn thiện đường lối chủ trương của Đảng phù hợp với yêu cầu mới của cách mạng trong từng thời kỳ; 3) Với số lượng ngày càng đông đảo, chất lượng ngày tăng, giai cấp công nhân thực sự là nền tảng chính trị - xã hội quan trọng để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nói cách khác, việc xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là góp phần quan trọng vào công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, qua đó nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Ba là, trong mối quan hệ với nông dân và trí thức Gai cấp công nhân là một lực lượng nòng cốt xây dựng và củng cố vững chắc khối liên công - nông - trí – cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Nghị quyết Trung ương sáu, khoá X của Đảng khẳng định “Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Trong điều kiện tình hình trong nước và quốc tế có nhiều biến đổi phức tạp như, việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân có ý nghĩa chính trị rất to lớn đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta. Trong khối đại đoàn kết đó, liên minh công – nông – trí có vai trò là nòng cốt, với sự lớn mạnh và trưởng thành nhanh chóng của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân Việt Nam có mối quan hệ tự nhiên, máu thịt với giai cấp nông dân, với đội ngũ trí thức và nhân dân lao động. Họ là lực lượng nòng cốt xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là những cơ sở rất quan trọng xây dựng khối liên minh công nông, trí thức bền vững ở nước ta. Đó cũng là cơ sở vững chắc bảo đảm giữ vững vị trí lãnh đạo của Đảng cầm quyền trong điều kiện hiện nay. Từ nhận thức đúng đắn về chính bản thân mình - lực lượng đóng vai trò chủ chốt trong liên minh công nhân, nông dân, trí thức; lực lượng đi đầu trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng,dân chủ văn minh, giai cấp công nhân tích cực tham gia trực tiếp và là những người đi đầu trong các phong trào cách mạng của nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Giai cấp công nhân đã thể hiện rõ bản lĩnh chính trị của giai cấp lãnh đạo trong thời kỳ mới, đã và đang thực sự là nòng cốt của khối liên minh đó. Bốn là, đối với việc xây dựng tổ chức công đoàn trong sạch, vững mạnh. Mối quan hệ giữa công nhân và tổ chức công đoàn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tổ chức công đoàn các cấp, nhất là cấp cơ sở có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của giai cấp công nhân, mục đích chính của tổ chức công đoàn các cấp trong giai đoạn hiện nay là vận động, tập hợp, phát huy vai trò của giai cấp công nhân, viên chức lao động hăng hái tham gia lao động sản xuất, đáp ứng những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đang diễn ra mạnh mẽ ở nước ta. Công đoàn các cấp phải xây dựng, củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động xứng đáng là “mái ấm”, là chỗ dựa tin cậy của các đoàn viên. Đồng thời, giai cấp công nhân phát triển về số lượng và chất lượng là nền tảng vững chắc để xây dựng tổ chức công đoàn trong sạch, vững mạnh, để công đoàn thực sự là trường học xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân. Chỉ khi nào giai cấp công nhân nhận thức và phát huy được vai trò, vị trí của mình trong thời kỳ mới thì tổ chức công đoàn có nhiều điều kiện để củng cố, xây dựng, phát triển. Qua những vụ đình công, bãi công, lãn công trong những năm gần đây cho thấy, cần tăng cường vai trò của Công đoàn, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa trình độ giác ngộ giai cấp, ý thức chính trị của giai cấp công nhân với hiệu quả hoạt động của công đoàn cơ sở. Nơi nào, công đoàn chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của giai cấp công nhân, trở thành chỗ dựa tin cậy của công nhân, được công nhân tin cậy, gửi gắm, ủng hộ mọi phong trào phát động của công đoàn, giữ vững tình hình trật tự và mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ sử dụng lao động và công nhân, thì các mục tiêu hoạt động của công đoàn hầu hết đều đạt được. Ngược lại, ở những doanh nghiệp, cán bộ công đoàn không có bản lĩnh, không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, chỉ là “cái bóng” của chủ doanh nghiệp thì tổ chức công đoàn thiếu sức sống, không nhận được sự ủng hộ tham gia của đoàn viên; khi có xung đột về lợi ích giữa chủ doanh nghiệp và công nhân, tổ chức công đoàn không có vai trò gì để giải quyết xung đột đó. Khi đó, dưới con mắt của người lao động, tổ chức công đoàn không có vai trò gì và trở nên xa lạ đối với họ. 1.1.1.2. Đặc điểm của giai cấp công nhân Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, lớp công nhân đầu tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897) và thực sự trở thành giai cấp công nhân Việt nam từ thời kỳ khai thác thuộc địa của thực dân Pháp lần thứ hai (1924-1929). Cùng với quá trình phát triển của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhất là qua hơn 20 năm đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, giai cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành bộ phận của đội ngũ giai cấp công nhân quốc tế. Ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam còn có đặc điểm riêng: Thứ nhất, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp có truyền thống yêu nước và ý thức tự tôn dân tộc. Sinh ra và lớn lên trong lòng dân tộc vốn có truyền thống yêu nước và tư tôn dân tộc, giai cấp công nhân sớm tiếp thu và được thừa hưởng truyền thống qui báu đó. Mặc dù mới ra đời, còn non trẻ, nhỏ bé, song giai cấp công nhân đã sớm trở thành giai cấp duy nhất được lịch sử, dân tộc thừa nhận và giao phó sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam ngay sau khi các phong trào cứu nước theo lập trường Cần Vương, lập trường tư sản và tiểu tư sản thất bại. Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, truyền thống tốt đẹp ấy, đã hội tụ và kết tinh thành bản chất cách mạng của giai cấp công nhân. Yêu nước, tự tôn dân tộc trong thời đại mới là yêu chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân là người đi đầu và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh Thứ hai, giai cấp công nhân Việt Nam luôn có tinh thần và bản chất cách mạng triệt để. Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên, đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị tự giác và thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, đã sớm giác ngộ mục tiêu lý tưởng, chân lý của thời đại: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam luôn có tinh thần và bản chất cách mạng triệt để. Thông qua Đảng tiền phong của mình- Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện cuộc kháng chiến thần thánh hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà và đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội. Bước vào thời kỳ mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn, khó lường, một lần nữa, tinh thần và bản chất cách mạng triệt để của giai cấp công nhân Việt Nam lại được thể hiện và phát huy với tư cách là người đi đầu và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, giai cấp công nhân Việt Nam là thành viên và là lực lượng lãnh đạo khối liên minh công- nông - trí thức thông qua Đảng tiền phong của mình Xuất thân từ nông dân lao động, bị thực dân phong kiến bóc lột, bần cùng hóa, giai cấp công nhân có mối quan hệ máu thịt với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác. Qua thử thách của cách mạng, thông qua Đảng tiền phong của mình, giai cấp công nhân thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với cách mạng và sự nghiệp đổi mới, đồng thời là hạt nhân của khối liên minh giai cấp: công- nông- trí và khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Thứ tư, giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng đi đầu và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn liền với phát triển kinh tế tri thức Không chỉ là động lực chủ yếu trong cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, giai cấp công nhân thấm nhuần chủ nghĩa Mác- lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giác ngộ về mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chắc chắn bản chất cách mạng triệt để sẽ được phát huy mạnh mẽ trở thành lực lượng đi đầu và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Điều này đã được thực tiễn hơn 20 năm đổi mới chứng minh, được Đảng ta khẳng định. Thứ năm, cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, đội ngũ công nhân trí thức Việt Nam từng bước hình thành, phát triển Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa, hội nhập và phát triển kinh tế tri thức đã khách quan hoá quá trình “trí thức hoá” giai cấp công nhân. Với quá trình này, trong kết cấu giai cấp công nhân đã hình thành bộ phận “công nhân trí thức”. Quá trình trí thức hoá công nhân diễn ra mạnh mẽ tất yếu thúc đẩy bộ phận “công nhân trí thức” lớn lên nhanh chóng. Và, một kết quả tất yếu là đội ngũ công nhân trí thức Việt Nam sẽ từng bước hình thành và phát triển.Việc hình thành đội ngũ công nhân trí thức không có nghĩa chỉ là sự bổ sung vào lực lượng giai cấp công nhân những công nhân có trình độ cao mà còn làm cho giai cấp công nhân được nâng cao về trình độ và có sự thay đổi về tính chất lao động - lao động điều khiển những công nghệ tự động hoá của nền kinh tế tri thức. 1.1.1.3. Xu hướng biến đổi của giai cấp công nhân cấp Quá trình đổi mới, xây dựng đất nước, giai cấp công nhân không chỉ phát huy vai trò của mình, đóng góp vào sự nghiệp đổi mới mà còn là sản phẩm của quá trình đổi mới; dưới tác động của quá trình đổi mới giai cấp công nhân đã và đang có nhiều biến đổi và phát triển không ngừng như sự tăng nhanh về số lượng; đa dạng, phong phú về cơ cấu; trình độ chuyên môn của công nhân ngày càng được cải thiện; chuyển nghề nhiều lần và sớm ra khỏi dây chuyền sản xuất và xu hướng phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ giữa những bộ phận công nhân phổ thông với công nhân bậc cao; giữa công nhân của từng ngành nghề khác nhau: Tại Đại hội X Đảng ta đã tổng kết 20 năm đổi mới và đề ra mục tiêu phương hướng phát triển đất nước 5 năm 2006-2010, định hướng cho những năm tiếp theo và các chủ trương, giải pháp lớn để thực hiện. Trong đó, Đảng đã định hướng xây dựng giai cấp công nhân nước ta đáp ứng yêu cầu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước: "Đối với giai cấp công nhân, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ về bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Thực hiện chương trình công tác toàn khoá, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết Trung ương sáu về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết chỉ rõ: "Qua hơn 20 năm đổi mới... giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế...". Sự đánh giá khách quan, đúng đắn, khoa học của Đảng về giai cấp công nhân nước ta, đã bao hàm cả sự xem xét dự báo về sự biến đổi của giai cấp công nhân trong những năm tới. Những điều dự báo đó có cơ sở khoa học vững chắc. Đảng ta kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa - lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, kiên định và áp dụng phương pháp luận mác xít và phương pháp luận Hồ Chí Minh khi xem xét đánh giá giai cấp công nhân, cho phép Đảng xác định được xu hướng biến động của giai cấp công nhân nước ta. Đồng thời, Đảng bám chắc vào thực tiễn công cuộc đổi mới và những dự báo đúng đắn về sự biến đổi của tình hình thế giới và của công cuộc đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên đất nước ta trong nhiều năm tới. Đảng cũng đã tham khảo các tri thức liên quan đến vấn đề này. Bởi vậy, những dự báo lớn của Đảng về giai cấp công nhân nước ta nêu trên là có cơ sở khoa học. Đó là cơ sở rất quan trọng để đề tài dự báo một cách cụ thể hơn xu hướng biến đổi giai cấp công nhân nước ta trong những năm tới. Trong những năm tới, giai cấp công nhân nước ta sẽ biến đổi theo các xu hướng chính sau đây: Một là, số lượng công nhân tăng nhanh trong các thành phần kinh tế, và nhất ở thành phần kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài. Thực tế cho thấy, từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời, phát triển, giai cấp công nhân đã phát triển, tăng nhanh về số lượng cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đại công nghiệp. Điều này đã được C.Mác và Ph.Ăngghen luận chứng một cách khoa học trong tác phẩm nổi tiếng của mình - "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" - và trong nhiều tác phẩm khác. Trong những năm tới nền kinh tế thị trường ở nước ta sẽ ngày càng được xây dựng và dần dần hoàn thiện hơn, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ phát triển mạnh mẽ , đạt được những thành tựu lớn hơn với các ngành nghề đa dạng, phong phú. Hơn nữa, Đảng ta lại luôn nhất quán quan điểm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự bình đẳng của các thành phần kinh tế trước pháp luật nên các thành phần kinh tế có điều kiện thuận lợi để phát triển. Qua hơn 20 năm đổi mới, nhất là từ năm 1996, đất nước ta chính thức bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đến nay, Đảng đã tích luỹ được khá nhiều kinh nghiệm có giá trị về lãnh đạo, xử lý các vấn đề nảy sinh của nền kinh tế thị trường nước ta. Những kinh nghiệm ấy sẽ được Đảng phát huy trong những năm tới. Trong những năm qua chúng ta đã tạo dựng được những cơ sở rất quan trọng để thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những cơ sở ấy, sẽ phát huy tác dụng trong những năm tới. Đất nước ta lại chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), đây là điều kiện rất thuận lợi để chúng ta tiếp thu vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển vì sự phát triển của đất nước. Với một Đảng kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa và mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Đảng lại luôn tích cực đổi mới, tự chỉnh đốn... nên chắc chắn Đảng ta sẽ xử lý tốt những tác động tiêu cực của việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, sẽ tận dụng được thời cơ, vượt qua nguy cơ, thách thức. Và như vậy, chắc chắn sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước sẽ phát triển mạnh mẽ, đạt thành tựu to lớn hơn. Các thành phần kinh tế có điều kiện để phát triển mạnh và kéo theo, lực lượng công nhân trong các thành phần kinh tế cũng sẽ phát triển toàn diện hơn, trong đó có sự tăng nhanh về số lượng. Trong những năm tới, số lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước sẽ tiếp tục giảm mạnh (hiện nay đang giảm khá mạnh), do các doanh nghiệp này tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chủ trương của Đảng về sắp xếp, đổi mới theo hướng cổ phần hoá, và bán, khoán, cho thuê những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Cạnh đó, là xu hướng một số không nhỏ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật có chuyên môn giỏi và nhiều công nhân có tay nghề cao chuyển sang làm việc trong các thành phần kinh tế khác và nhiều nhất là sang các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vì ở đó có thu nhập cao, thường phát huy tốt hơn năng lực, tay nghề của họ. Khi thực hiện chủ trương sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả sẽ không tồn tại, và đương nhiên là, những người tuổi khá cao, năng lực, tay nghề không đáp ứng yêu cầu mới sẽ phải rời khỏi doanh nghiệp nhà nước. Cùng với quá trình giảm nhanh số lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước là sự tăng nhanh số lượng công nhân trong các thành phần kinh tế khác, nhất là thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Theo dự báo của một số công trình khoa học, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên đất nước ta trong những năm tới sẽ phát triển mạnh, đến năm 2010, số lượng lao động nông nghiệp sẽ giảm xuống còn khoảng 50%, tức là khoảng 28,4 triệu lao động và tỷ lệ lao động công nghiệp, dịch vụ sẽ tăng lên khoảng 23-24%, tức là khoảng gần 14 triệu người. Hai là, chất lượng công nhân sẽ tăng lên, hình thành ngày càng đông hơn đội ngũ công nhân trí thức, đội ngũ này sẽ đông đảo hơn ở thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới hiện nay đang phát triển rất mạnh mẽ, trong những năm tới sẽ càng phát triển mạnh mẽ hơn. Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế cũng đang phát triển rất mạnh. Nền kinh tế tri thức đã hình thành phát triển và sẽ phát triển, đạt thành tựu rất to lớn, chưa từng có trong những năm tới. Đó là những điều kiện thuận lợi để công nhân nâng cao trình độ mọi mặt và tay nghề. Chủ trương "trí thức hoá công nhân" được nhấn mạnh tại Đại hội IX, đó là chủ trương đúng đắn, được tổ chức thực hiện, thu được kết quả đáng khích lệ, nâng trình độ của phần lớn công nhân lên một bước mới. Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trước tiên là đảm bảo cuộc sống của bản thân và gia đình nên nhiều công nhân đã ý thức rằng, họ phải làm việc và làm việc có hiệu quả. Muốn vậy, không còn con đường nào khác là họ phải chủ động nâng cao trình độ, tay nghề. Đây là yếu tố rất quan trọng thúc đẩy công nhân trí thức hoá. Cạnh đó, việc thực hiện chiến lược giáo dục - đào tạo trong những năm tới sẽ đạt kết quả quan trọng bước đầu, sẽ bổ sung cho giai cấp công nhân những người có trí tuệ, bản lĩnh chính trị và nhân cách, sáng tạo làm chủ công nghệ tiên tiến, góp phần rất quan trọng làm tăng đội ngũ công nhân trí thức và trẻ hoá giai cấp công nhân. Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước sẽ còn lại các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả. Để tiếp tục tồn tại, phát triển, những cán bộ lãnh đạo, quản lý và công nhân trong các doanh nghiệp này cũng phải vươn lên mạnh mẽ nâng cao trình độ mọi mặt, làm cho trình độ mọi mặt, bản lĩnh chính trị, ý thức giai cấp, trách nhiệm với đất nước của công nhân được nâng lên, làm tăng chất lượng giai cấp công nhân. Từ phân tích trên có thể thấy, đội ngũ công nhân trí thức sẽ đông đảo trong các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước và nhất là trong thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, trong những năm tới số lượng công nhân trí thức sẽ đông đảo ở thành phần kinh tế tư nhân, nhất là thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, ở những nơi này, tổ chức đảng và các đoàn thể chính trị - xã hội, nhìn chung còn rất yếu, rất nhiều nơi chưa có tổ chức đảng, đây là thách thức rất lớn đối với Đảng về xây dựng giai cấp công nhân có chất lượng mới, nhất là về giáo dục tư tưởng chính trị, ý thức giai cấp và trách nhiệm và đất nước, dân tộc. Ba là, cơ cấu giai cấp công nhân sẽ đa dạng, nhiều công nhân sẽ luân chuyển ngành nghề nhiều lần; phần lớn công nhân sẽ tập trung trong các tập đoàn kinh tế mạnh và các ngành kinh tế trọng điểm; đồng thời, một bộ phận không nhỏ công nhân cũng sẽ làm việc ở những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Kinh tế thị trường và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước sẽ phát triển mạnh mẽ sẽ xuất hiện nhiều ngành nghề, nhiều thành phần kinh tế. Và như vậy, sẽ có nhiều loại công nhân, làm cho cơ cấu giai cấp công nhân rất da dạng và cũng xuất hiện những phức tạp nhất định. Do đòi hỏi gay gắt của sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, do trình độ, năng lực hiện đại của công nhân, nên để tồn tại đảm bảo cuộc sống bản thân và gia đình nhiều công nhân sẽ phải luân chuyển ngành nghề nhiều lần. Thực hiện chủ trương cổ phần hoá và chủ trương cho phép một số doanh nghiệp nhà nước đầu tư một phần vốn lập công ty mới, các tập đoàn kinh tế mạnh và ở những ngành kinh tế trọng điểm, công nhân sẽ tập trung vào những tập đoàn kinh tế đó và vào các ngành kinh tế trọng điểm. Tuy nhiên, trên thực tế, những doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện đại, trang bị công nghệ tiên tiến, có khả năng chuyển đổi nhanh công nghệ, lại thường hoạt động hiệu quả cao, ít bị rủi ro, dẫn tới thu nhập của công nhân cao hơn. Điều đó, làm xuất hiện xu hướng một bộ phận không nhỏ công nhân không làm việc trong các tập đoàn kinh tế mạnh, các ngành kinh tế trọng điểm mà làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, sự đa dạng các loại hình doanh nghiệp và các thành phần kinh tế, nên không thể có sự thu nhập ngang nhau một cách tương đối giữa các bộ phận công nhân và giữa các công nhân với nhau, mà sẽ diễn ra sự chênh lệch ngày càng lớn về thu nhập trong giai cấp công nhân, dẫn tới phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng trong giai cấp công nhân. Điều đó, cũng kéo théo theo những phức tạp khác trong công nhân đòi hỏi Đảng phải quan tâm giải quyết. Bốn là, giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng thể hiện rõ hơn tính quốc tế của mình trong điều kiện hiện nay. Tính chất quốc tế của giai cấp công nhân ở mỗi nước được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra và luận chứng một cách khoa học, được thực tiễn lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới từ khi ra đời chứng minh. Song, trong những năm qua, do nhiều nguyên nhân, tính chất ấy, có phần chưa được thể hiện rõ. Trong điều kiện hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam có điều kiện thuận lợi để thể hiện rõ tính chất quốc tế của mình. Điều này chủ yếu do: sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng trong quá trình thực hiện chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; do sự phát triển của kinh tế tri thức; do đường lối đối ngoại đúng đắn, cởi mở của Đảng; sự hợp tác trong giáo dục đào tạo và xuất khẩu lao động... Xu hướng này, tạo ra những điều kiện thuận lợi để Đảng phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa quốc tế vô sản trong thời đại ngày nay; về liên minh giữa giai cấp công nhân Việt Nam với giai cấp công nhân các nước vì chủ nghĩa xã hội ở nước ta và sự phát triển, tiến bộ của nhân loại. 1.1.2. Thời cơ và thách thức đối với xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giai cấp công nhân nước ta đang phát triển rất nhanh chóng, cả về số lượng, cơ cấu và giữ vai trò ngày càng quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước. Đặc biệt là trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, từ Đại hội VIII đến nay, giai cấp công nhân nước ta phát triển nhanh, có những chuyển biến tích cực về cả số lượng và chất lượng Tính đến đầu năm 2007, tổng số công nhân nước ta có khoảng 9,5 triệu người (chiếm tỷ lệ 11% dân số và 21% lực lượng lao động xã hội), bao gồm: số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, số lao động Việt Nam đang làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài, số lao động chân tay trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, đoàn thể. . Nghị quyết Trung ương 6 khoá X về Xây dựng giai cấp công nhân nêu rõ: “Qua hơn 20 năm đổi mới, cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức”. Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tích cực, chủ động hội nhập kinh tế thế giới, giai cấp công nhân Việt Nam đang đứng trước những thời cơ lớn và thách thức không nhỏ. - Thời cơ: Công cuộc đổi mới với chính sách kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, chủ trương, chính sách đúng đắn về mở cửa hội nhập kinh tế thế giới, đã và đang có tác động tích cực đối với sự phát triển giai cấp công nhân Việt Nam. Đường lối đổi mới của Đảng thúc đẩy kinh tế phát triển, làm cho kinh tế “bung ra” với sự phát triển nhanh chóng của các thành phần kinh tế, tạo cơ hội nhiều hơn về việc làm, thu nhập cho người lao động. Trong đó, chất lượng và số lượng công nhân tăng lên nhanh chóng. Công cuộc đổi mới bắt đầu từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng với “Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 47, Nxb. CTQG, H, 2006, tr. 728. ; “Với quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, các đơn vị kinh tế cơ sở chủ động tiếp cận nhu cầu của thị trường, khai thác mọi khả năng để phát triển sản xuất, kinh doanh” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 47, Nxb. CTQG, H, 2006, tr.749. . Chủ trương đó, tiếp tục được khẳng định nhất quán trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng. Điều này được ghi nhận trong Hiến pháp 1992. Với đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn đó, nền kinh tế nước ta có điều kiện phát triển tương đối nhanh. Nếu trước đổi mới, chỉ có 2 thành phần kinh tế cơ bản là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể thì sau năm 1986, nước ta có nhiều thành phần kinh tế, số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lên nhanh chóng, có thêm những loại hình doanh nghiệp mới: doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ như khách sạn, nhà hàng, phân phối sản phẩm… Đây là cơ hội lớn với nhiều việc làm phong phú đáp ứng nhu cầu đa dạng về trình độ của người lao động. Do đó, từng bước có sự chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Số lượng công nhân tăng lên đáng kể với sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Biểu hiện cụ thể là: giai cấp công nhân nước ta có mặt trong tất cả các thành phần kinh tế, các ngành nghề; là một lực lượng sản xuất cơ bản, đang trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh, vận hành và sử dụng các công cụ sản xuất, bao gồm cả các phương tiện sản xuất tiên tiến, hiện đại; có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa Trong tổng số công nhân khoảng 9,5 triệu người, số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế năm 2007 là 6.754.815 người, gồm: công nhân trong doanh nghiệp nhà nước chiếm khoảng 22%; doanh nghiệp của tư nhân và tập thể 61,5%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 16,5%. Năm 2006, công nhân trong các doanh nghiệp (chiếm 71% tổng số công nhân, 8,25% dân số và 15,75% tổng số lao động xã hội) đã tham gia tạo ra 70% sản phẩm trong nước. . Mặt khác, nền kinh tế nhiều thành phần có sự cạnh tranh gay gắt không chỉ về tư liệu sản xuất, hàng hoá đầu ra mà còn có sự canh tranh cả về nguồn lực lao động. Nhiều ngành nghề kinh doanh không chỉ đòi hỏi sự cần cù, chịu khó của lao động giản đơn mà ngày càng cần đội ngũ công nhân với tay nghề cao, tác phong công nghiệp, chịu được sức ép lớn của công việc, có khả năng làm việc độc lập, khả năng sử dụng ngoại ngữ tốt… Đây vừa là thách thức, vừa là động lực lớn thúc đẩy người công nhân phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn, tinh thần, thái độ làm việc nghiêm túc, trách nhiệm để có thể thích ứng với yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động. Trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của công nhân đã được nâng lên đáng kể. Đã hình thành một bộ phận công nhân trí thức năng động và tiế._., nâng cao trình độ trí tuệ, chuyên môn đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy nghề: Đào tạo lại giáo viên thích ứng với yêu cầu phát triển khoa học – công nghệ hiện đại dưới nhiều hình thức: dài hạn, ngắn hạn, tập huấn... Muốn vậy, phải chuẩn hóa chức danh theo mốc thời gian nhất định, để giáo viên tự phấn đấu. Đồng thời từng ngành, từng trường phải có quy hoạch, kế hoạch cụ thể trong đào tạo các chức danh cho đội ngũ giáo viên dạy nghề. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với đào tạo và đào tạo lại nghề cho công nhân phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bám sát chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Kế hoạch đào tạo nghề phải dựa trên căn cứ chiến lược phát triển kinh tế – xã hội mà trực tiếp là định hướng phát triển công nghiệp. Theo kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, quy hoạch vùng Đồng bằng Bắc bộ, bao gồm Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh và các chuỗi đô thị vệ tinh lân cận, đến 2010 cần 1 triệu công nhân nông – lâm – ngư nghiệp; gần 1,2 triệu công nhân công nghiệp, 1,5 triệu nhân viên du lịch, 1000 kỹ thuật viên trung cấp và 8000 kỹ sư. Muốn vậy, phải đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho công nhân, đặc biệt là công nhân trẻ, công nhân từ nông dân, công nhân nữ, nhằm phát triển về số lượng, bảo đảm về chất lượng, hợp lý về cơ cấu, để nước ta có một đội ngũ công nhân có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp ngày càng cao, có khả năng tiếp thu nhanh và làm chủ công nghệ mới, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đồng thời, căn cứ vào quy hoạch phát triển, ngành dạy nghề cần phân bổ các chỉ tiêu đào tạo và có sự điều chỉnh bổ sung, tạo ra sự phù hợp giữa đào tạo và sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Xây dựng chính sách huy động các cơ sở sản xuất thuộc tất cả các thành phần kinh tế đều có trách nhiệm đầu tư vào công tác đào tạo và bồi dưỡng công nhân là khâu quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất. Phải xã hội hóa công tác đào tạo, nâng cao trình độ học vấn và tay nghề cho công nhân, trí thức hóa đội ngũ công nhân. Nhanh chóng quy hoạch lại các trường dạy nghề, đào tạo công nhân theo chiến lược kinh tế - xã hội và cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý mới. Kế hoạch hóa dạy nghề một cách tổng hợp, đồng bộ nhằm thực hiện sự cân đối trong nội bộ hệ thống giáo dục, cũng như giữa hệ thống đào tạo và hệ thống kinh tế, giữa đào tạo và sử dụng. Nhanh chóng cải cách nội dung, phương pháp đào tạo theo hướng công nhân giỏi một nghề, biết thêm một vài nghề khác, lý luận gắn với thực hành, tạo điều kiện để học sinh làm quen với sản xuất công nghiệp, với đời sống công nhân, với các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước. Về đào tạo lại, trong khi đào tạo lại chưa thành ý thức tự giác của doanh nghiệp và cá nhân, cần có những biện pháp thúc đẩy hình thức này. Cụ thể là: + Nhà nước nên đặt vấn đề đào tạo lại trình độ chuyên môn và tay nghề cho công nhân trong chương trình giáo dục đào tạo chung của đất nước. Không nên chỉ xem vấn đề đào tạo lại là công việc của các doanh nghiệp hay chính bản thân người công nhân. + Nhà nước nên trích một phần trong các khoản đóng góp của doanh nghiệp làm kinh phí cho đào tạo lại, tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở các lớp đào tạo tại chỗ nâng cao tay nghề cho công nhân. Về tổ chức lao động nên bố trí những người có tay nghề khác nhau làm những công việc khác nhau. Nếu bố trí xen kẽ, những người có tay nghề thấp không cảm thấy mình tự phải nâng cao trình độ tay nghề. Đồng thời, thực hiện chế độ khen thưởng kịp thời, xứng đáng đối với những công nhân có tay nghề cao, phát huy sáng kiến trong sản xuất, thúc đẩy phong trào học tập, nâng cao tay nghề của công nhân. Giá trị của công nhân là tri thức và đôi bàn tay nghề nghiệp, vì thế phải tính giá trị đó bằng chất lượng lao động theo tiêu chuẩn công nghệ mới. Việc lãnh đạo nâng cao trình độ cho công nhân không chỉ bằng việc tổ chức học tập mà vấn đề ở chỗ phải đi đôi với đổi mới và nâng cao trang thiết bị công nghệ mới. Nếu duy trì thiết bị công nghệ lạc hậu thì cũng không có điều kiện thúc đẩy công nhân học tập nâng cao kiến thức, tay nghề. Trong điều kiện kinh phí hạn hẹp, mỗi cơ sở đào tạo cố gắng xây dựng cho được một cơ sở thực hành hiện đại. Tổ chức học tập theo ca kíp để khai thác hết công suất các thiết bị thực hành và tạo thói quen làm việc cho công nhân (phấn đấu tỷ lệ giờ lý thuyết và giờ thực hành tối thiếu 1-1). Hiện nay, một số cơ sở đào tạo đã kết hợp với tư nhân bỏ vốn đầu tư các trang thiết bị hiện đại cho học sinh thực hành và thu lệ phí (xây dựng phòng máy vi tính). Nhà nước nên cho phép và có quy định cụ thể để quản lý chặt chẽ và khai thác có hiệu quả, đảm bảo lợi ích cả hai bên. - Liên kết đào tạo với các trường đại học, các viện nghiên cứu và các doanh nghiệp, nhằm phát huy tiềm năng chất xám từ các cơ sở đào tạo và viện nghiên cứu. Đồng thời, tạo điều kiện cho người học được tiếp xúc với quy trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. - Để nâng cao chất lượng đầu vào của công nhân học nghề, cần có định nghiệp và hướng nghiệp, phân luồng cho học sinh ngay từ cấp học phổ thông. Bởi vì, tỷ lệ hướng nghiệp hiện nay mới đạt 25%, phấn đấu đạt 30% vào năm 2010. - Tiến hành sửa đổi các tiêu chí ngạch bậc cho đào tạo và đào tạo lại đối với từng ngành nghề chuyên môn nhất định, bám sát trình độ phát triển khoa học – công nghệ. Các định mức, tiêu chuẩn chính xác là căn cứ để phân phối thu nhập theo lao động và cũng là tiêu chí để người học phấn đấu mà không xa rời thực tiễn. - Từng bước xây dựng đội ngũ công nhân trí thức. Nước ta xác định 4 ngành kinh tế mũi nhọn (tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới và tự động hóa). Đây là nhiệm vụ rất lớn đối với ngành dạy nghề, đòi hỏi phải xây dựng kế hoạch và quy hoạch đào tạo, bám sát chiến lược phát triển từng ngành. Ngoài nỗ lực của Nhà nước, đối với loại hình đào tạo này, cần mở rộng liên kết nhằm huy động mọi nguồn lực cho đào tạo. Trong đó, chú trọng các hình thức liên kết đào tạo với nước ngoài: cử người đi học; mời chuyên gia giảng dạy; huy động vốn đầu tư phát triển giáo dục... Đổi mới đào tạo và đào tạo lại nghề cho công nhân, từng bước xây dựng đội ngũ công nhân đông về số lượng, mạnh về chất lượng, là lực lượng nòng cốt thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các cấp ủy đảng cần quan tâm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng những nhà kinh doanh có tài, có đức, các nhà quản lý giỏi và các cán bộ khoa học - kỹ thuật xuất thân từ công nhân có trình độ cao, có khả năng tiếp cận với công nghệ và phương thức kinh doanh hiện đại trong nền kinh tế thị trường, hội nhập. Quy hoạch nguồn nhân lực, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân có trình độ cao để đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành công nghiệp mới, hiện đại. Chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân trong các dân tộc thiểu số, ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục trình độ chính trị, ý thức giai cấp cho công nhân. Để thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, ý thức giai cấp cho công nhân nước ta trong thời kỳ mới, sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng cần tập trung vào một số nội dung sau: - Các tổ chức chính trị - xã hội, trước hết là tổ chức đảng, công đoàn trong các doanh nghiệp cần quan tâm hơn nữa và có các biện pháp, hình thức thích hợp để tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm cho công nhân hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với doanh nghiệp; hiểu rõ vị trí, vai trò của mình trong xã hội, đặc biệt trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở đó vận động công nhân thực hiện đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo vệ quyền lợi chính đáng của công nhân. - Cùng với việc có định hướng, giải pháp khả thi, đủ mạnh để không ngừng nâng cao đời sống vật chất cho công nhân, người lao động, cần lãnh đạo các cấp chính quyền, khuyến khích chủ doanh nghiệp cần có cơ chế, chính sách sát thực, kịp thời nhằm xây dựng và không ngừng nâng cao đời sống văn hóa - tinh thần cho giai cấp công nhân. Khi đời sống văn hóa - tinh thần của công nhân được nâng cao thì nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp và tích cực đến sự hình thành, phát triển ý thức chính rị của họ. Bởi vì, các phương tiện, hình thức sinh hoạt văn hóa, tinh thần như đọc sách, báo, xem ti-vi, biểu diễn văn hóa, nghệ thuật, phim ảnh… không chỉ là phương thức giải trí mà còn là phương thức chuyển tải thông tin, kiến thức, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước, và do đó, giúp cho việc nâng cao ý thức chính trị của người lao động. Nhà nước cùng với các doanh nghiệp nên có cơ chế, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để người lao động có được tương đối đầy đủ sách, báo, tài liệu, tranh ảnh có tính chất phổ thông và các phương tiện nghe, nhìn khác; đồng thời, đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa và các khu vui chơi, giải trí tại doanh nghiệp hoặc ở nơi trung tâm, giao điểm của các khu, cụm công nghiệp, như thư viện, câu lạc bộ, rạp chiếu phim, rạp hát, sân vận động, bể bơi, nhà thi đấu, luyện tập… - Tăng cường lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là tổ chức Công đoàn cần thường xuyên chăm lo việc giáo dục tư tưởng chính trị cho công nhân, người lao động. Quan tâm đổi mới công tác giáo dục chính trị nâng cao giác ngộ về giai cấp, giữ vững và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, làm cho công nhân lao động nhất trí và đi đầu trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đấu tranh làm thất bại âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch. Xây dựng các chuẩn mực sống và làm việc có văn hoá như chuẩn mực trong lao động, trong sản xuất, trong quản lý, trong giao tiếp. Rèn luyện cho công nhân tác phong công nghiệp, làm việc khoa học, năng động, sáng tạo, có tính tổ chức, tính kỷ luật cao. Đầu tư thoả đáng để thông qua các nhà văn hoá lao động, câu lạc bộ công nhân, hệ thống truyền thông đại chúng nhằm đẩy mạnh các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao. Đấu tranh chống các trào lưu văn hoá lai căng, đồi truỵ, phản động. Giữ gìn, phát huy truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc. Tăng mức hưởng thụ văn hoá nghệ thuật của công nhân, quan tâm đến đời sống tinh thần của nữ công nhân. Tổ chức các hoạt động nhân đạo, từ thiện, sống có tình nghĩa, đùm bọc lẫn nhau. Không ngừng đổi mới cách thức tuyên truyền, giáo dục giai cấp công nhân về vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình trong thời kỳ mới. Đồng thời, tăng cường tuyên truyền, giáo dục cho họ những nội dung cơ bản trong chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những chính sách, pháp luật liên quan trực tiếp đến nghĩa vụ, quyền lợi của người lao động. Bên cạnh đó, cần khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức tự hào dân tộc, tinh thần tự chủ, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh của công nhân. - Tiếp tục xây dựng, kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng và các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là tổ chức Công đoàn tại các doanh nghiệp ngoài nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành cần có biện pháp, cách thức để các tổ chức chính trị - xã hội này hoạt động có chất lượng, hiệu quả, tránh hình thức, hoặc bị giới chủ mua chuộc, lợi dụng. Vai trò và trách nhiệm của các tổ chức này trong giáo cục tư tưởng chính trị và ý thức giai cấp cho công nhân bị mờ nhạt. Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Đảng và Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ thu nhập hoặc tăng phần phụ cấp trách nhiệm cho các cán bộ, viên chức thuộc các tổ chức chính trị - xã hội, để góp phần giúp họ yên tâm công tác và hết sức, hết lòng với người lao động và thực hiện tốt việc giáo dục tư tưởng, chính trị, ý thức giai cấp cho công nhân. Nhà nước cần sớm xây dựng, ban hành Luật Đình công, nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu điều chỉnh và quản lý hoạt động đình công của người lao động - một dạng hoạt động đang trở thành vấn đề bức xúc hiện nay và ảnh hưởng không nhỏ đến tâm tư, tình cảm cũng như tư tưởng chính trị nói chung của người lao động. - Đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong các doanh nghiệp và trong công nhân. Cấp ủy, tổ chức đảng, các đoàn thể chính trị - xã hội cần tích cực chủ động tiến hành có hiệu quả cuộc vận động này. Cần chú ý hơn đến tư tưởng, việc làm của Hồ Chí Minh đối với công nhân, tổ chức học tập, quán triệt những điều đó và từng bước thực hiện trong doanh nghiệp. Cần sơ kết định kỳ cuộc vận động này, động viên mọi công nhân tham gia, trước hết, cán bộ, đảng viên phải gương mẫu thực hiện. 3.2.7. Đổi mới mạnh mẽ tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp, thực sự xứng đáng với vai trò quan trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng giai cấp công nhân ngày càng tiến tiến, hiện đại. Nghị quyết Trung ương Sáu khóa X về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã xác định vai trò rất to lớn của công đoàn trong xây dựng giai cấp công nhân nước ta. Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động Việt Nam tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam; là trường học chủ nghĩa xã hội của người lao động. Theo quy định của pháp luật hiện hành, công đoàn đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; có trách nhiệm tham gia với Nhà nước phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người lao động; đại diện và tổ chức người lao động tham gia quản lý cơ quan, đơn vị, tổ chức, quản lý kinh tế - xã hội, quản lý Nhà nước; trong phạm vi chức năng của mình, thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan, đơn vị, tổ chức theo quy định của pháp luật; có trách nhiệm tổ chức, giáo dục, động viên người lao động phát huy vai trò làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong sự nghiệp đổi mới, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, công đoàn đã khẳng định được vị trí, vai trò quan trọng góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng tiên tiến, hiện đại, xây dựng quan hệ hài hoà giữa người lao động và người sử dụng lao động. Nghị quyết HNTW 6 khoá X đánh giá “Công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác có nhiều đóng góp tích cực vào việc xây dựng giai cấp công nhân”. Tuy nhiên, trước những biến đổi phức tạp về cơ cấu giai cấp công nhân hiện nay, trước những bức xúc nảy sinh ngày càng phức tạp về tiền lương, nhà ở, tai nạn lao động, bảo hiểm xã hội, y tế… đòi hỏi tổ chức công đoàn phải thường xuyên đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của mình để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Để phát huy những thành tích đã đạt được và từng bước vượt qua những khó khăn, thách thức trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, Hội nghị Trung ương 6 khoá X chỉ rõ phải “Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức công đoàn các cấp”. Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá X, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phấn đấu đến năm 2013 có 70% trở lên số công đoàn cơ sở doanh nghiệp ký thỏa ước lao động tập thể, 100% cán bộ công đoàn các cấp được đào tạo bồi dưỡng, tập huấn về lý luận nghiệp vụ công đoàn; hàng năm có trên 80% công đoàn cơ sở ở các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước và 40% công đoàn cơ sở ở khu vực ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt tiêu chuẩn “công đoàn cơ sở vững mạnh”, có 10% đạt tiêu chuẩn “công đoàn cơ sở vững mạnh xuất sắc”; hàng năm có 100% cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp nhà nước tổ chức hội nghị cán bộ, công chức; giới thiệu mỗi năm ít nhất 30.000 công nhân ưu tú để các cấp ủy đảng xem xét, kết nạp… Thực hiện mục tiêu trên đòi hỏi các cấp công đoàn cần không ngừng đổi mới tổ chức và hoạt động của mình cả về nội dung và phương thức hướng mạnh hoạt động về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy công nhân, viên chức, lao động làm đối tượng vận động, lấy chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, người lao động, xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội làm mục tiêu hoạt động. Công đoàn cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tự lực, tự cường, tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa cho công nhân; tập hợp trí tuệ của công nhân để tham gia xây dựng, bổ sung, sửa đổi và thực hiện chính sách, pháp luật. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn cơ sở, nhất là chủ tịch công đoàn cơ sở ở doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, về trình độ chính trị, hiểu biết chính sách, pháp luật lao động và kỹ năng công tác. Cụ thể: 3.2.7.1. Về nội dung hoạt động: tổ chức công đoàn các cấp phải bám sát chức năng, nhiệm vụ để xác định nội dung hoạt động phù hợp với lĩnh vực và điều kiện thực tế của mỗi ngành, mỗi cấp. Nói chung, nội dung hoạt động của công đoàn cần tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau: - Xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động nhằm chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần thiết thực của công nhân. Với vai trò là đại diện và tổ chức người lao động tham gia với Nhà nước xây dựng và thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội, chính sách, cơ chế quản lý kinh tế, chủ trương, chính sách liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động; tham gia với cơ quan, đơn vị tổ chức hữu quan giải quyết việc làm, tổ chức dạy nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp, văn hoá, khoa học, kỹ thuật cho người lao động. Đồng thời, công đoàn có trách nhiệm chăm lo đời sống văn hoá, hoạt động thể dục thể thao, tổ chức nghỉ ngơi, du lịch cho người lao động. Hàng năm, công đoàn cơ sở phối hợp với các tổ chức đoàn thể khác trong đơn vị, doanh nghiệp phát động các hoạt động thể dục thể thao, văn hoá, văn nghệ, du lịch; tổ chức thăm hỏi, động viên và ủng hộ về vật chất đối với gia đình công đoàn viên có hoàn cảnh khó khăn, ốm đau, rủi ro do thiên tai… - Luôn quan tâm sát sao, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân: Chủ động phát hiện những sai phạm về việc thực hiện chính sách tiền lương (mức lương tối thiểu, nâng lương), phụ cấp, tiền thưởng của người sử dụng lao động và có kiến nghị, yêu cầu thực hiện đúng quy định của pháp luật, thoả ước tập thể, hợp đồng lao động đã được ký kết, bảo đảm lợi ích của người lao động. Thực hiện chức năng giám sát về vệ sinh, an toàn lao động trong doanh nghiệp, kịp thời phát hiện những vi phạm và kiến nghị thực hiện để bảo vệ sức khoẻ, tính mạng của người lao động (dụng cụ bảo hộ lao động, môi trường làm việc; khám sức khỏe định kỳ, nhất là môi trường làm việc trong các ngành độc hại, nặng nhọc. Luật Công đoàn năm 1990 quy định “Công đoàn kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo hộ lao động. Khi phát hiện nơi làm việc có dấu hiệu nguy hiểm đến tính mạng người lao động, công đoàn có quyền yêu cầu người có trách nhiệm thực hiện ngay các biện pháp bảo đảm an toàn lao động, kể cả trường hợp phải tạm ngừng hoạt động, nếu thấy cần thiết”. - Tổ chức cho công nhân, viên chức, lao động tham gia đóng góp ý kiến xây dựng, thực hiện và kiểm tra, giám sát các chế độ, chính sách, pháp luật có liên quan trực tiếp đến người lao động, mà trước hết là các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, chính sách hội nhập và phát triển kinh tế nhiều thành phần; khai thác các nguồn lực trong các thành phần kinh tế; tích cực tham gia sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. - Phối hợp với các cấp chính quyền và các thành viên của Mặt trận Tổ quốc triển khai xây dựng và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, tổ chức đại hội công nhân, viên chức trong doanh nghiệp nhà nước, hội nghị cán bộ công chức trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Hội đồng hòa giải lao động tại cơ sở. Xây dựng quan hệ lao động hài hòa trong các loại hình doanh nghiệp, tham gia giải quyết tranh chấp lao động và đình công thông qua đối thoại, hòa giải, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động và doanh nghiệp. - Công đoàn cơ sở đại diện cho người lao động ký thoả ước lao động tập thể với giám đốc xí nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; giám sát việc ký kết và thực hiện hợp đồng lao động. Công đoàn tham gia với cơ quan Nhà nước giải quyết khiếu nại, tố cáo của người lao động theo pháp luật. Đồng thời, công đoàn đại diện cho người lao động thương lượng với thủ trưởng cơ quan, đơn vị, tổ chức để giải quyết các tranh chấp lao động xảy ra trong cơ quan, đơn vị, tổ chức mình. - Tổ chức các phong trào thi đua yêu nước trong công nhân, viên chức, lao động, trọng tâm là thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, cải tiến mẫu mã. Mục tiêu thi đua là nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tạo việc làm, đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động. Phát triển và nâng cao hiệu quả phong trào thi đua Giỏi việc nước, đảm việc nhà trong nữ công nhân, viên chức, lao động; phong trào thi đua phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; phong trào học tập, nâng cao tay nghề, trình độ học vấn đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển. Tiếp tục cuộc vận động thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, chống lãng phí. - Mở rộng phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở và cuộc vận động Xây dựng nếp sống văn hóa công nghiệp, phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm và đại dịch HIV/AIDS, phấn đấu có nhiều cơ quan, doanh nghiệp không có người nghiện ma túy và các tệ nạn xã hội, tổ chức tốt các hoạt động văn hóa thể thao, góp phần nâng cao đời sống tinh thần trong công nhân, viên chức, lao động. - Vận động công nhân, viên chức, lao động tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh; tham gia công cuộc cải cách hành chính. Chăm lo bồi dưỡng cho công nhân, viên chức, lao động để giới thiệu với Đảng xem xét kết nạp; phát hiện, giới thiệu những người ưu tú để Đảng bồi dưỡng đưa vào cấp ủy và bộ máy lãnh đạo chính quyền các cấp; tham gia phát triển cơ sở Đảng trong các loại hình doanh nghiệp. 3.2.7.2. Về đổi mới phương thức hoạt động Thực hiện những nội dung hoạt động trên cần phải có những cách thức, biện pháp phù hợp, có thể nội dung không mới nhưng cần phải có cách làm mới để phát huy tính tích cực, chủ động của công nhân, trách nhiệm cao của người sử dụng lao động, của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong xây dựng giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế thế giới. + Bám sát cơ sở, lắng nghe thấu đáo những nguyện vọng, bức xúc của công nhân, thực sự là chỗ dựa tinh thần và là người bảo vệ quyền lợi của công nhân từ cơ sở… Cán bộ công đoàn nên trưởng thành từ thực tiễn, từ công nhân trực tiếp sản xuất. + Bám sát định hướng chỉ đạo của cấp uỷ cơ sở để xây dựng quy chế hoạt động, chương trình hoạt động toàn khoá và từng năm, lấy ý kiến đóng góp của công nhân, ý kiến của cấp uỷ cơ sở và công đoàn cấp trên – chú ý đến kế hoạch xây dựng giai cấp công nhân trong phạm vi thẩm quyền, trách nhiệm của công đoàn cơ sở (phát hiện, lựa chọn, giới thiệu, đề nghị gửi đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, chính trị; kế hoạch phát triển đảng viên; phổ biến học tập chủ trương, chính sách mới, nghe thời sự… ) + Phối hợp với chủ doanh nghiệp kịp thời giải quyết những yêu cầu, bức xúc của công nhân; phấn đấu giải quyết bãi công, đình công, lãn công từ cơ sở. + Tăng cường trao đổi, học tập kinh nghiệm giữa các tổ chức công đoàn cơ sở. Trong cơ chế thị trường, công nhân năng động, công đoàn sáng tạo và ở mỗi ngành, mỗi lĩnh vực đều có những kinh nghiệm quý về nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của công đoàn. Do đó, công đoàn cần tổ chức các hội nghị khu vực, hội nghị của ngành để trao đổi kinh nghiệm, học tập kinh nghiệm lẫn nhau. Cùng với các hoạt động trên, trong xu thế hội nhập và phát triển, Công đoàn Việt Nam mở rộng hoạt động đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, đẩy mạnh đối thoại, trao đổi kinh nghiệm, tăng cường đoàn kết, hữu nghị, hợp tác với công nhân, lao động và công đoàn các nước trên tinh thần xây dựng, bình đẳng, hữu nghị và cùng có lợi, góp phần vào cuộc đấu tranh chung nhằm xây dựng một thế giới vì hòa bình, phát triển, tiến bộ, vì quyền và lợi ích của người lao động. + Xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn cơ sở có bản lĩnh chính trị vững vàng, lập trường kiên định, năng đông, sáng tạo, nhiệt tình, phong cách làm việc dân chủ, khoa học, trí tuệ, nắm vững quy định của pháp luật - trước hết là pháp luật về lao động, dân sự, hình sự để kịp thời bảo vệ lợi ích của công nhân; biết cách đàm phán với công nhân, đấu tranh với người sử dụng lao động một cách hiệu quả, xây dựng mối quan hệ chân tình, trách nhiệm và văn minh giữa người lao động và người sử dụng lao động, bảo đảm sự phát triển chung của doanh nghiệp và giữ vững trật tự, trị an, nếp sống và lao động văn minh, đúng pháp luật, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam. KẾT LUẬN Xây dựng giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ rất cần thiết, to lớn và nặng nề, đòi hỏi quyết tâm chính trị cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, toàn dân. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ này phải ®æi míi và t¨ng c­êng sự l·nh ®¹o của §¶ng ®èi víi việc xây dựng giai cấp công nhân. Trong thêi gian qua, §¶ng ta ®· cã chó träng viÖc x©y dùng giai cÊp c«ng nh©n, ®Ò ra nhiÒu chñ tr­¬ng x©y dùng giai cÊp c«ng nh©n. Qua kh¶o s¸t t¹i 3 ®Þa ph­¬ng: Hµ Néi, H¶i Phßng, Qu¶ng Ninh cho thÊy c¸c TØnh uû, Thµnh uû ë ®©y th­êng xuyªn cã chñ tr­¬ng chØ ®¹o c¸c ngµnh c¸c cÊp ch¨m lo, x©y dùng giai cÊp c«ng nh©n ë ®Þa ph­¬ng. Mét sè n¬i ®· tæ chøc héi nghÞ chuyªn ®Ò, ra chØ thÞ, nghÞ quyÕt chuyªn ®Ò vÒ nh÷ng vÊn ®Ò liªn quan ®Õn x©y dùng giai cÊp c«ng nh©n, nh­ vÊn ®Ò ®æi míi tæ chøc, ho¹t ®éng cña tæ chøc c«ng ®oµn, vÊn ®Ò an sinh x· héi ®èi víi c«ng nh©n, vÊn ®Ò tranh chÊp lao ®éng... Nh÷ng cè g¾ng ®ã ®· gióp c¸c ®Þa ph­¬ng nµy ph¸t triÓn m¹nh mÏ lùc l­îng c«ng nh©n ®¸p øng ®­îc c¬ b¶n yªu cÇu ph¸t triÓn kinh tÕ. Tuy nhiªn, sù chó träng cña c¸c cÊp uû, c¸c tæ chøc ®¶ng ®èi víi x©y dùng giai cÊp c«ng nh©n ch­a ®Çy ®ñ, ch­a ngang tÇm víi vÞ trÝ, vai trß cña giai cÊp c«ng nh©n trong thêi kú míi. Công tác giáo dục, bồi dưỡng chính trị, tư tưởng cho đội ngũ công nhân mới chỉ tập trung cho đội ngũ công nhân, lao động trong các doanh nghiệp nhà nước. Sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trong thời gian vừa qua còn một số yếu kém về chủ trương, chính sách. Việc tập trung lãnh đạo giải quyết các vấn đề bức xúc trong công nhân lao động như: nhà ở, việc làm, thu nhập, đi lại, điều kiện khám, chữa bệnh, hoạt động văn hoá, thể dục thể thao còn nhiều hạn chế, có nơi còn né tránh, đùn đẩy trách nhiệm; việc lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra về thi hành bộ Luật Lao động, Luật Công đoàn; Luật BHXH... còn nhiều thiếu sót, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế liên doanh vối nước ngoài. công tác xây dựng Đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài còn nhiều lúng túng, hiệu quả thấp. Công tác đào tạo, quy hoạch cán bộ chủ chốt xuất thân từ công nhân còn nhiều khó khăn, hạn chế. Việc lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ về thực hiện nhiệm vụ phát triển tổ chức công đoàn và nâng cao chất lượng hoạt động của công đoàn trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước, tuy có chuyển biến về số lượng nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu, chất lượng hoạt đọng còn nhiều yếu kém, hoạt động thụ động, kém hiệu quả... Nh÷ng khuyÕt ®iÓm, h¹n chÕ ®ã lµ nguyªn nh©n chñ quan dÉn ®Õn t×nh tr¹ng giai cÊp c«ng nh©n ph¸t triÓn ch­a ®¸p øng yªu cÇu t×nh h×nh, nhiÖm vô c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ hiÖn nay. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng giai cấp công nhân cần thùc hiÖn c¸c giải pháp chñ yÕu: - Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp uû, tổ chức đảng cán bộ, đảng viên và các nhà doanh nghiệp về xây dựng giai cấp công nhân - Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân - Tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng trong các doanh nghiệp - Lãnh đạo giải quyết kịp thời, đúng đắn những bức xúc của công nhân - Tăng cường sự lãnh đạo đối với Nhà nước trong việc bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân - Lãnh đạo đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức hoá giai cấp công nhân, đồng thời quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc cho công nhân. - Đổi mới mạnh mẽ tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp, thực sự xứng đáng với vai trò quan trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng giai cấp công nhân ngày càng tiến tiến, hiện đại Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng giai cấp công nhân là vấn đề lớn, cấp bách và rất khó, đòi hỏi phải t¨ng cường tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận. Kết quả nghiên cứu của đề tài chỉ là một phần rất nhỏ của vấn đề lớn, khó và cấp bách đó. Song, Ban Chủ nhiệm đề tài và các cộng tác viên hy vọng kết quả ấy, sẽ góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương sáu khóa X của Đảng về “tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, góp phần xây dựng giai cấp công nhân nước ta đáp ứng với yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng, cùng toàn Đảng, toàn dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội đưa đất nước ta tiến đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDTKH014.doc
Tài liệu liên quan