Đáng giá thực trạng công tác thu Bảo hiểm xã hội bắt buộc tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Hải Dương

Tài liệu Đáng giá thực trạng công tác thu Bảo hiểm xã hội bắt buộc tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Hải Dương: MỤC LỤC DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Sơ đồ 1: Cơ cấu bộ máy tổ chức của BHXH tỉnh Hải Dương 33 Bảng 1: Kết quả công tác thu, cấp và quản lý sổ BHXH tại BHXH tỉnh Hải Dương (2005-2007) 36 Bảng 2: Kết quả thực hiện BHYT tự nguyện tại BHXH tỉnh Hải Dương (2005- 2007) 37 Bảng 3: Kết quả chi trả chế độ BHXH tại BHXH tỉnh Hải Dương năm 2005-2007 38 Bảng 4: Kết quả chi phí Khám chữa bệnh tại BHXH tỉnh Hải Dương (2005-2007) 39 Bảng 5: Kết quả thu BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Hải Dương 2003-2005 54 ... Ebook Đáng giá thực trạng công tác thu Bảo hiểm xã hội bắt buộc tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Hải Dương

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1925 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Đáng giá thực trạng công tác thu Bảo hiểm xã hội bắt buộc tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bảng 6: Mức tiền lương tối thiểu từ 2003-2007 55 Bảng 7: Số lượng lao động và số đơn vị tham gia BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Hải Dương (2003-2007) 57 Bảng 8: Cơ cấu số người lao động tham gia BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Hải Dương (2003-2007) 59 Bảng 9 : Cơ cấu số đơn vị tham gia BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Hải Dương (2003-2007) 61 Bảng10: Tình hình nợ đọng tiền thu BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Hải Dương (2003-2007) 65 LỜI MỞ ĐẦU BHXH là một chính sách xã hội lớn của Đảng, Nhà nước đối với người lao động có vai trò rất quan trọng đối với hàng triệu người lao động nhằm đảm bảo về mặt vật chất và về mặt tinh thần cho họ và gia đình khi người lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động; mất việc làm. Và trong điều kiện nền kinh tế đất nước luôn luôn thay đổi và ngày càng phát triển ở một mức độ cao hơn thì việc thực hiện tốt chính sách BHXH còn đảm bảo sự công bằng giữa những người lao động trong xã hội. Với vai trò như vậy nên ngay từ khi được thành lập đến bây giờ, ngành BHXH Việt Nam đã được Đảng, Nhà nước, Chính phủ ta quan tâm và tạo mọi điều kiện để phát triển. Công tác thu BHXH là khâu đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ hoạt động của hệ thống BHXH và quyết định sự thành bại của toàn ngành BHXH Việt Nam bởi vì có thu đúng, thu đủ thì người lao động sẽ được chi trả và hưởng BHXH một cách nhanh chóng và kịp thời khi có rủi ro xảy ra. Qua thời gian ra đời, tồn tại và phát triển, công tác quản lý thu BHXH ở cơ quan BHXH tỉnh Hải Dương đã đạt được nhiều thành tựu như: thu phí ngày càng nhiều, số người tham gia BHXH ngày càng tăng, tình trạng nợ đọng giảm thiểu…. Tuy nhiên trên thực tế, việc triển khai hoạt động thu của BHXH tỉnh Hải Dương vẫn còn nhiểu điểm tồn tại, bất cập như: chưa khai thác hết lực lượng lao động, tình trạng trốn đóng, nợ đóng vẫn còn tồn tại….Điều này đã làm cho hoạt động thu của BHXH tỉnh Hải Dương vẫn chưa đạt kết quả cao ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động và làm giảm nguồn thu cho quỹ BHXH. Nhận thấy những tồn tại yếu kém trên và qua quá trình thực tập tại cơ quan BHXH tỉnh Hải Dương, em đã chọn đề tài: “Đáng giá thực trạng công tác thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội tỉnh Hải Dương” để làm luận văn tốt nghiệp với mục đích: Làm rõ nội dung và vai trò của công tác thu BHXH Đánh giá thực trạng của công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Hải Dương từ năm 2003 đến năm 2007 Đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH bắt buộc Ngoài lời mở đầu và kết luận, bố cục luận văn gồm có: Chương I : Cơ sở lý luận chung về BHXH Chương II : Thực trạng công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Hải Dương từ năm 2003- 2007 Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Hải Dương Trong thời gian thực tập và viết luận văn, em vẫn còn có nhiều thiếu sót về nhận thức vì thế em rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo trong bộ môn. Em xin chân thành cảm ơn Giảng viên- Tiến sỹ Phạm Thị Định đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN VÀ BẢN CHẤT CỦA BHXH 1. Khái niệm và bản chất của BHXH Để tồn tại, phát triển và thỏa mãn những nhu cầu hàng ngày trong cuộc sống con người phải lao động, để lao động tốt con người cần phải có sức khỏe tốt. Tuy nhiên không phải trong cả quãng đời của mình ai cũng luôn khỏe mạnh, lao động tốt. Họ có thể gặp những rủi ro bất ngờ về sức khỏe như ốm đau, tai nạn lao động, mất khả năng lao động khi về già…Khi gặp phải những rủi ro đó thu nhập của họ bị giảm hoặc mất ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của chính bản thân họ và cả gia đình. Khi nền kinh tế hàng hóa ra đời và phát triển, việc thuê mướn lao động đã diễn ra phổ biến làm cho mối quan hệ kinh tế giữa người lao động và người chủ lao động đa dạng hơn và cũng phức tạp hơn rất nhiều. Một mặt thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, một mặt làm kìm hãm nền sản xuất. Giới thợ ngoài khoản thu nhập tự lao động làm công ăn lương thì họ không còn bất kỳ một khoản thu nhập nào khác... cuộc sống của họ chỉ phụ thuộc vào tiền công nhận được. Chính vì vậy khi không may bị ốm đau, tai nạn thai sản… họ gặp rất nhiều khó khăn, không thể trang trải được trong khi họ không nhận được tiền công tiền lương vào những ngày nghỉ ốm đó. Trước thực tế đó, giới thợ đã đấu tranh buộc giới chủ phải cam kết trả lương, trả công cho họ khi họ nghỉ việc vì ốm đau, tai nạn sinh đẻ và khi hết tuổi lao động về nghỉ hưu. Về phía giới chủ, phát sinh thêm một khoản chi phí – trả tiền cho người lao động khi người lao động gặp rủi ro là điều mà họ không mong muốn.Quan điểm trái ngược nhau đã làm mâu thuẫn giữa chủ và thợ ngày càng trở nên gay gắt. Giới thợ đã tiến hành rất nhiều cuộc đấu tranh quyết liệt và diễn ra rộng khắp buộc giới chủ phải thực hiện theo đúng cam kết đó nhằm thỏa mãn mong muốn và nhu cầu đó của họ, đã gây ra những tác động to lớn đối với đời sống kinh tế - xã hội lúc bấy giờ. Trước tình hình ngày càng trở nên căng thẳng, nhà nước đã có những biện pháp can thiệp nhằm ổn định tình hình xã hội và kinh tế trong đó phải kể đến biện pháp hình thành một quỹ tài chính tập trung do sự tham gia đóng góp của các bên. Theo đó Nhà nước quy định: - Cả giới chủ và giới thợ đều phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng, khoản tiền đó được tính toán dựa trên cơ sở xác xuất rủi ro của người lao động và tiền công, tiền lương mà giới chủ trả cho người lao động. - Số tiền đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung, quỹ này còn nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước - Khi người lao động gặp phải các rủi ro thì sẽ được hỗ trợ bởi quỹ tiền tệ đó. Nhờ vậy mà thu nhập của người lao động ổn định hơn, cuộc sống của bản thân và gia đình họ được đảm bảo. Người sử dụng lao động cũng nhận thấy được lợi ích mà quỹ tiền tệ đó mang lại như ổn định sản xuất kinh doanh, bảo vệ sức khỏe và đời sống cho người lao động và gia đình họ từ đó làm người lao động gắn bó với doanh nghiệp hơn, yên tâm làm việc và lao động tích cực hơn….. Từ đó mối quan hệ ba bên : người lao động – người sử dụng lao động – nhà nước được hình thành và xuất hiện khái niệm về BHXH. Vậy BHXH là gì? Theo nghĩa chung nhất, BHXH được hiểu là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội. Từ khái niệm trên, bản chất của BHXH được thể hiện ở các điểm sau: - Trong bất kỳ xã hội nào mà ở đó có sự thuê mướn lao động thì có BHXH. BHXH là nhu cầu khách quan, mang tính đa dạng phức tạp của xã hội. Khi nền kinh tế hàng hóa càng phát triển, mối quan hệ chủ thợ càng phát triển thì BHXH càng phong phú, đa dạng và hoàn thiện. Có thể nói kinh tế là nền tảng để BHXH phát triển, BHXH thể hiện trạng thái kinh tế của một nước. - Cơ sở phát sinh BHXH là quan hệ lao động thể hiện thông qua mối quan hệ ba bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. + Bên tham gia BHXH : người lao động và người sử dụng lao động + Bên BHXH : cơ quan BHXH do Nhà nước lập ra và bảo hộ + Bên hưởng BHXH : người lao động và gia đình họ khi người la không may gặp phải những rủi ro và có đủ điều kiện để được hưởng theo quy định của pháp luật - Điều kiện được hưởng BHXH là người lao động gặp những rủi ro những biến cố mang tính chất ngẫu nhiên, trái với ý muốn chủ quan của con người như ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, thai sản, hết tuổi lao động về nghỉ hưu. Những biến cố đó có thể xảy ra trong và ngoài quá trình lao động đã làm cho người lao động bị gảim hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. - Khi gặp những biến cố, phần thu nhập của người lao động sẽ bị mất hoặc bị giảm đi. Với sự hỗ trợ từ quỹ tiền tệ tập trung được hình thành từ các bên (người sử dụng lao động, người lao động, và Nhà nước ) đã bù đắp hoặc thay thế phần nào phần thu nhập bị mất đó. Qua bản chất của BHXH ta có thể thấy mục tiêu xuyên suốt của BHXH chính là nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị mất hoặc giảm thu nhập hàng tháng do mất việc làm, mất khả năng lao động bằng cách bù đắp cho người lao động những khoản thu nhập đó. Có BHXH thì điều kiện sống của người lao động và gia đình họ sẽ được đảm bảo và tốt hơn. 2. Vai trò của BHXH trong đời sống xã hội Trong xã hội, bất cứ một ngành kinh tế nào đều đóng một vai trò nhất định trong hệ thống kinh tế- xã hội – chính trị- văn hóa của đất nước. Với tư cách là một ngành kinh tế - xã hội, BHXH không phải là một ngoại lệ. Vai trò của BHXH được thể hiện trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Cụ thể đó là: 2.1. BHXH với kinh tế Trong cuộc sống, BHXH có vai trò to lớn tạo ra thu nhập cho người lao động. Nhờ có sự hỗ trợ từ quỹ BHXH mà thu nhập của người lao động ổn định hơn, đời sống vật chất trước mắt và lâu dài của người lao động trong và sau thời gian làm việc, công tác được đảm bảo, người lao động yên tâm lao động sản xuất, làm việc có hiệu quả hơn góp phần duy trì ổn định và phát triển sản xuất của từng doanh nghiệp nói riêng và đảm bảo an toàn xã hội. Quỹ BHXH được hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia, được dùng để hỗ trợ cho người lao động khi họ gặp những biến cố. Tuy nhiên không phải lúc nào tiền trong quỹ cũng được dùng hết mà vẫn có một lượng tiền nhàn rỗi trong quỹ. Chính vì vậy, huy động lượng tiền nhàn rỗi của quỹ BHXH để đầu tư vào việc kinh doanh, dịch vụ trên các lĩnh vực khác nhau sẽ tạo ra một nguồn thu lớn cho quỹ nhằm tạo tích lũy và sự tăng trưởng cho quỹ qua thời gian, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế -xã hội của đất nước. Mặt khác là một bộ phận trong hệ thống chính sách kinh tế -xã hội, BHXH còn góp phần vào sự bình ổn xã hội của một quốc gia. 2.2. BHXH với chính trị Một quốc gia muốn phát triển về mặt kinh tế thì trước hết cần phải có một hệ thống chính trị vững chắc, ổn định. Có ổn định về chính trị thì những chiến lược, sách lược mục tiêu để phát triển đất nước mới được thực hiện đúng và đầy đủ. BHXH là một trong các vấn đề xã hội, nó liên quan đến kinh tế, chính trị, có tác động đến tinh thần và quan hệ xã hội. Một giai cấp chính trị, một đảng phái chính trị hay một nhà nước nào nếu có ý thức đối với BHXH, coi đó là một công cụ điều tiết quan trọng trong xã hội, là một chương trình chính trị thì tức là giai cấp, đảng phái, nhà nước đó đã thực hiện tốt chức năng xã hội của mình, đã thực hiện tốt các chính sách xã hội đối với người dân; điều đó sẽ giúp cho giai cấp, đảng phái, nhà nước đó củng cố và giữ vững và thể hiện được quyền lực, thế lực của mình trên mặt trận chính trị. Người lao động khi tham gia vào quá trình sản xuất vật chất, dịch vụ có thể không may gặp tai nạn, rủi ro làm giảm sút hoặc mất nguồn thu nhập. Thông qua BHXH phần thu nhập bị mất đó sẽ được đền bù để đảm bảo cuộc sống cho họ và gia đình, điều đó thể hiện sự quan tâm của Nhà nước, của cộng đồng xã hội đối với người lao động góp phần tăng cường trật tự an tòan xã hội.Nếu không có sự trợ cấp từ quỹ BHXH thì đời sống vật chất và tinh thần của người lao động sẽ không được đảm bảo, sẽ đẩy người lao động và gia đình họ vào cảnh túng quẫn sẽ tất yếu gây bất an trong xã hội làm xuất hiện nhiều xung đột, tệ nạn, tội phạm … làm xã hội thiếu trật tự an toàn.Vì vậy, làm tốt BHXH sẽ góp phần ổn định chính trị, trật tự trong xã hội 2.3. BHXH đối với văn hóa, tinh thần xã hội BHXH là biểu hiện ý thức của xã hội đối với con người, giữa con người với con người. BHXH thể hiện đạo lý, trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà nước, giai cấp cầm quyền và cộng đồng xã hội với người dân- các thành viên trong xã hội khi họ đã hoàn thành nghĩa vụ lao động xã hội(VD: người lao động nghỉ hưu, người có công với đất nước ) hoặc vì một lý do bất khả kháng mà họ phải tạm ngừng hay vĩnh viễn ngừng lao động. Về nguyên tắc tất cả mọi người lao động đều có quyền tham gia và được hưởng quyền lợi BHXH về cả mặt vật chất lẫn tinh thần trong và sau thời gian lao động điều đó cho thấy BHXH vừa thể hiện tính nhân đạo xã hội, vừa thể hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động. BHXH là một cách xử sự là sự điều tiết những giá trị sống về vật chất và tinh thần, nó phản ánh sự cố gắng làm tốt hay không tốt, thái độ của Nhà nước và cộng đồng đối với người lao động đã cống hiến cho xã hội. Có thực hiện tốt các vấn đề về BHXH để có một xã hội ổn định và an toàn hay không được coi là một tiêu thức đánh giá xã hội đó có công bằng, văn minh, tiến bộ không. Hiện nay trên thế giới, BHXH đã trở thành một chính sách BHXH không thể thiếu trong đời sống xã hội. BHXH là một bộ phận quan trọng và khăng khít của chính sách xã hội, chịu sự tác động qua lại của các bộ phận khác của chính sách xã hội trên cơ sở tác động của tổng thể các mội quan hệ kinh tế - chính trị - xã hội và lịch sử đã góp phần đảm bảo an toàn xã hội, đáp ứng được nhu cầu an toàn xã hội của người dân. II. CÁC QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ BHXH Do tập quán, thể chế chính trị, khả năng kinh tế và định hướng phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia là khác nhau vì thế khi thực hiện BHXH các quốc gia đều phải lựa chọn hình thức, cơ chế và mức độ thỏa mãn các nhu cầu BHXH sao cho phù hợp. Bên cạnh đó cần phải có sự thống nhất trong nhận thức về BHXH. Có năm quan điểm cơ bản về BHXH được thể hiện như sau: 1. Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là bộ phận quan trọng nhất trong chính sách xã hội Mục đích chủ yếu của chính sách BHXH là nhằm đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động và gia đình họ khi thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Ở nước ta, BHXH nằm trong hệ thống chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước. Thông qua BHXH Đảng và Nhà nước đã đáp ứng được một phần nào đó quyền và nhu cầu thiết yếu của con người, đó là nhu cầu an toàn về việc làm, về lao động, về xã hội. Chính sách BHXH được thực hiện tốt hay không thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia, đồng thời thể hiện tính ưu việt của một chế độ xã hội. Nếu tổ chức và thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ là động lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của người lao động trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 2. Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm tham gia BHXH cho người lao động Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH và có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH cho người lao động làm việc cho mình. Vậy người sử dụng lao động bao gồm những ai? Đó là các tổ chức, các doanh nghiệp, các cá nhân có thuê mướn lao động. Bên cạnh việc đầu tư máy móc, trang thiết bị làm việc hiện đại thì muốn ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh thì người sử dụng lao động còn phải quan tâm đến đời sống cho người lao động của mình. Có như vậy người lao động sẽ yên tâm, tích cực lao động sản xuất, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật góp phần nâng cao năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh tế và gắn bó với doanh nghiệp hơn. 3. Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH Theo tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng bảo hiểm xã hội”. BHXH đã trở thành một trong những quyền con người theo đó mọi người lao động trong xã hội đều bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi trợ cấp BHXH. Một người lao động khi gặp rủi ro không mong muốn, nếu muốn được BHXH tức là muốn nhiều người khác hỗ trợ cho mình để giải quyết rủi ro thì trước hết họ phải tự mình tham gia BHXH cho chính bản thân mình. 4. Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố: - Tình trạng mất khả năng lao động - Tiền lương lúc đang đi đi làm - Ngành nghề công tác và thời gian công tác - Tuổi thọ bình quân của người lao động - Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ Mức trợ cấp BHXH cho người lao động sẽ được tính toán dựa vào các yếu tố trên nhưng về nguyên tắc mức trợ cấp đó phải thấp hơn mức lương lúc đang đi làm nhưng không thấp hơn mức sống tối thiểu. Nếu mức trợ cấp bằng hoặc cao hơn tiền lương thì sẽ tạo điều kiện cho người lao động ỷ lại vào tiền trợ cấp BHXH để sống mà không tích cực tìm kiếm việc làm, không tích cực làm việc, lao động sản xuất. Còn nếu mức trợ cấp mà quá thấp, thấp hơn mức sống tối thiểu thì đời sống vật chất của người lao động cũng không được đảm bảo và cũng sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc, năng suất lao động. Quan điểm này đã phản ánh được tính cộng đồng xã hội, vừa phản ánh ngưyên tắc phân phối lại quỹ BHXH cho người lao động tham gia BHXH. 5. Nhà nước quản lý thống nhất chính sách bảo hiểm xã hội, tổ chức bộ máy thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội. BHXH là một bộ phận cấu thành các chính sách xã hội, nó vừa là nhân tố tạo sự ổn định vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội cho nên vai trò của nhà nước là rất quan trọng. Trên thực tế, nếu không có sự can thiệp của nhà nước, nếu không có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước thì mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động sẽ không được duy trì bền vững, mối quan hệ ba bên trong BHXH sẽ bị phá vỡ. BHXH được thực hiện thông qua một quy trình: xây dựng và lập kế hoạch, xác định đối tượng và phạm vi bảo hiểm… cho nên cần phải có sự quản lý thống nhất và chặt chẽ của nhà nước. Đối với việc đảm bảo vật chất cho BHXH thì vai trò của Nhà nước phụ thuộc vào chính sách của BHXH do Nhà nước quy định. III. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ BHXH 1. Đối tượng của BHXH Như chúng ta đã biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu….Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là phần thu nhập bị giảm hoặc bị mất của người lao động do gặp phải các rủi ro trên. Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội của từng nước mà đối tượng tham gia BHXH có thể là tất cả hoặc chỉ là một bộ phận những người lao động. Người lao động và người sử dụng lao động có thể tham gia BHXH dưới hai hình thức: - BHXH bắt buộc - BHXH tự nguyện Hiện nay trên thế giới, các nước có nền kinh tế phát triển, có chính sách bảo đảm an toàn xã hội tốt đều đã thực hiện cả hai loại BHXH trên.Ở nước ta hiện nay chỉ đang thực hiện triển khai loại BHXH bắt buộc còn BHXH tự nguyện đã được chính phủ thông qua tại các cuộc họp nhưng tới nay vẫn chưa được đưa vào thực tế.Ngành BHXH Việt Nam hướng tới năm 2010 sẽ đưa BHXH tự nguyện vào đời sống nhân dân để đáp ứng nhu cầu tham gia BHXH đang càng ngày càng tăng của người dân Việt Nam. BHXH thể hiện mối quan hệ ràng buộc giữa người lao động, người sử dụng lao động, cơ quan BHXH và sự hỗ trợ của Nhà nước. Người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm mà họ phải thực hiện đối với người lao động của mình. Còn cơ quan BHXH nhận sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động phải có trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với người lao động. Mối quan hệ này chính là đặc trưng riêng có của BHXH và nó quyết định sự tồn tại, phát triển của ngành BHXH. 2. Hệ thống các chế độ BHXH Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của mỗi quốc gia. Nó là những quy định chung rất khái quát về cả đối tượng, phạm vi, các mối quan hệ và những giải pháp lớn nhằm đạt được mục tiêu chung mà Nhà nước đã đề ra cho BHXH. Chính sách BHXH được cụ thể hóa thông qua các chế độ BHXH. Tùy vào điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội riêng biệt của mỗi quốc gia mà xây dựng những chế độ, chính sách BHXH sao cho phù hợp. Trên cơ sở đó, để các nước thành viên có thể xây dựng được hệ thống BHXH của mình cho phù hợp, ILO ( Tổ chức lao động quốc tế) đã đề ra các chế độ BHXH khung. Chế độ BHXH là chế độ pháp lý trong đó quy định cụ thể đối tượng, trường hợp được hưởng BHXH, mức hưởng và thời gian hưởng BHXH … Mục tiêu của hệ thống chế độ BHXH khung mà ILO đưa ra đó là: - Tạo lập được hệ thống bảo hiểm thống nhất, nhất quán cho người tham gia BHXH. Đây là mục tiêu cơ bản, chủ đạo. - Phòng chống tai nạn, bệnh tật nâng cao sức khỏe cho người dân - Đảm bảo sự công bằng xã hội Theo công ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ, ILO đã đưa ra hệ thống các chế độ BHXH bao gồm: 2.1. Chăm sóc y tế Mục đích của chăm sóc y tế là duy trì, phục hồi hay nâng cao sức khỏe của những người được bảo trợ…, phục hồi và nâng cao khả năng làm việc, khả năng tham gia các nhu cầu cá nhân của họ Chăm sóc y tế có thể được tổ chức trực tiếp hay gián tiếp tại các cơ sở y tế của đơn vị sử dụng lao động hoặc tại các bệnh viện, cơ sở y tế của tư nhân, Nhà nước thông qua các hợp đồng được ký giữa cơ quan BHXH với có cơ sở y tế, bệnh viện đó. 2.2. Chế độ trợ cấp ốm đau Chế độ ốm đau được chi trả khi người được bảo hiểm bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau hay tai nạn không liên quan đến nghề nghiệp đã được giám định. Tỷ lệ hưởng trợ cấp ốm đau được tính dựa trên mức tiền công, tiền lương nhận được trước khi bị ốm hay tai nạn và thời gian tham gia đóng BHXH. Thời gian hưởng chế độ tùy vào quy định từng nước 2.3. Trợ cấp thất nghiệp Theo ILO: “ Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi lao động, muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức lương thịnh hành.” Trợ cấp thất nghiệp nhằm mục đích trợ giúp cho người lao động bị thất nghiệp một khoản tiền để họ ổn định, đảm bảo cuộc sống ở mức nhất định từ đó tạo điều kiện cho họ tham gia vào thị trường lao động để có thể tìm được một việc làm mới. Trợ cấp thất nghiệp là một trong những chế độ BHXH nhưng hiện nay đã được tách ra và trở thành Bảo hiểm thất nghiệp và hình thành quỹ bảo hiểm thất nghiệp độc lập với quỹ BHXH Mức trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp phải thấp hơn thu nhập của người lao động khi đang làm việc, được xác định dựa vào các yếu tố: - Mức lương tối thiểu - Mức lương bình quân cá nhân - Mức lương tháng cuối cùng trước khi bị thất nghiệp Để được hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp, người lao động phải đáp ứng được các điều kiện sau: - Phải tham gia nộp phí bảo hiểm thất nghiệp đầy đủ trong một thời gian nhất định - Thất nghiệp không phải là do lỗi của người lao động - Phải đăng ký thất nghiệp, đăng ký tìm kiếm việc làm tại cơ quan lao động có thẩm quyền do Nhà nước quy định - Phải sẵn sàng làm việc - Có sổ bảo hiểm thất nghiệp để chứng nhận có tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ thời hạn quy định. 2.4. Chế độ thai sản Chế độ thai sản là bảo vệ sức khỏe của những bà mẹ đang lao động và con họ bằng cách cung cấp: Chăm sóc y tế trước khi sinh, trong và sau khi sinh Nghỉ phép hưởng lương trong thời gian quy định Chế độ thai sản phụ thuộc chặt chẽ vào thời gian tham gia bảo hiểm định lượng nhiều hơn so với chế độ ốm đau ( tham gia đóng BHXH đủ 12 tháng mới được hưởng) 2.5. Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp bao gồm sự mất khả năng lao động trong thời gian ngắn, tàn tật và các chế độ tử tuất. Trong quá trình thực hiện chế độ này phải được xác định rõ ràng cụ thể về những trường hợp nào là tai nạn lao động, trường hợp nào là bệnh nghề nghiệp để phân biệt được với các chế độ bảo hiểm tương tự từ đó để xác định mức hưởng trợ cấp cho đúng. Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp liên quan chặt chẽ đến phòng, chống tai nạn và phục hồi sức khỏe cho người lao động. 2.6.Các chế độ dài hạn Theo công ước Giơnever, chế độ dài hạn bảo gồm: chế độ hưu trí, mất sức lao động và tử tuất. 2.6.1. Chế độ hưu trí Điều kiện để được hưởng trợ cấp: - Đến tuổi về hưu - Tham gia đóng BHXH đầy đủ, đúng thời gian quy định Chế độ hưu trí là cung cấp thu nhập thay thế cho người lao động khi họ đến tuổi về hưu, ngừng tham gia vào thị trường lao động để đảm bảo cuộc sống cho họ và gia đình khi về già. 2.6.2. Mất sức lao động vĩnh viễn Mất sức lao động vĩnh viễn thường là đối với những người mất từ 2/3 khả năng lao động, đã được giám định 2.6.3. Chế độ tử tuất Nhằm cung cấp thu nhập thay thế cho thành viên gia đình của người lao động được bảo hiểm hoặc của người hưởng hưu trí dài hạn khi người lao động đó bị chết. Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tùy điều kiện kinh tế - chính trị- xã hội của mình mà mỗi nước thực hiện các chế độ khác nhau cho phù hợp, tuy nhiên ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ. Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau: - Các chế độ được xây dựng theo luật pháp mỗi nước - Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính. - Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham gia BHXH và quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định - Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ và đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán. Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH. - Các chế độ BHXH thường được điều chỉnh định kỳ để phản ánh sự thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội Hiện nay, BHXH nước ta thực hiện 5 chế độ: chế độ trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. 3. Quỹ bảo hiểm xã hội 3.1. Khái niệm và nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội 3.1.1. Khái niệm Trong đời sống kinh tế xã hội, người ta sử dụng rất nhiều loại quỹ khác nhau như quỹ tiêu dùng, quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ bảo trợ…. Tất cả các quỹ đều có đặc điểm chung là: -Các quỹ là tập hợp các phương tiện tài chính hoặc vật chất khác chon những hoạt động nào đó theo định mức định trước - Dù quy mô của quỹ lớn hay nhỏ nhưng đều biểu thị khả năng về phương tiện, vật chất để thực hiện mục đích lập ra quỹ đó - Tất cả các quỹ đều luôn vận động theo quy trình: tăng lên ở đầu vào(nguồn thu quỹ), giảm đi ở đầu ra( các khoản chi phí của quỹ). Và quỹ bảo hiểm xã hội cũng không phải là ngoại lệ. Theo đó, quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung được lập ra bởi sự đóng góp của những người tham gia bảo hiểm nhằm mục đích chi trả cho những người tham gia bảo hiểm khi họ, gia đình họ bị giảm hoặc mất khả năng thi nhập do bị giảm, bị mất khả năng lao động, mất việc làm. Quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng. Nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, cần phân biệt quỹ BHXH và ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước là tổng thể các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình nhà nước dùng quyền lực chính trị của mình để tập trung một phần thu nhập của quốc gia nhằm tạo lập quỹ tiền tệ của Nhà nước và phân phối sử dụng nó cho việc trang trải các chi phí bộ máy Nhà nước và thực hiện các chức năng kinh tế xã hội theo kế hoạch của Nhà nước. Từ khái niệm về ngân sách nhà nước ta có thể nhận thấy những điểm giống và khác nhau của ngân sách nhà nước và quỹ BHXH. + Sự giống nhau giữa quỹ BHXH và ngân sách nhà nước - Việc tạo lập và sử dụng mỗi nguồn quỹ đều được biểu thị dưới hình thái tiền tệ. Quá trình lập và sử dụng các quỹ này cũng đều được thực thi theo các quy định của pháp luật và việc quản lý được tiến hành theo nguyên tắc cân bằng thu chi. - Quỹ bảo hiểm xã hội và ngân sách nhà nước là những khâu tài chính độc lập trong hệ thống tài chính quốc, chức năng của ngân sách nhà nước mang tính rộng rãi hơn so với quỹ bảo hiểm xã hội. - Hoạt động của cả hai quỹ đều không nhằm mục đích kinh doanh, kiếm lời mà mang đậm tính xã hội, tính cộng đồng và tính nhân văn. + Sự khác nhau của quỹ BHXH và ngân sách nhà nước - Điều kiện tồn tại và phát triển của ngân sách nhà nước gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước và quá trình thực hiện các chức năng kinh tế xã hội của Nhà nước. Còn sự ra đời, tồn tại và phát triển của quỹ BHXH gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa với quan hệ thuê mướn công nhân. Khi nền kinh tế hàng hóa càng phát triển, thu nhập của người lao động càng cao thì phạm vi các chế độ BHXH càng mở rộng, mức độ thỏa mãn của người lao động khi tham gia bảo hiểm xã hội càng cao. - Tính chất pháp lý của ngân sách nhà nước cao hơn so với qũy BHXH.Quá trình phân phối của ngân sách nhà nước chủ yếu dựa vào quyền lực kinh tế, chính trị của nhà nước. Nhà nước ban hành các luật để thực hiện việc thu chi quỹ ngân sách nhà nước và quá trình này đuwocj sự giám sát và quản lý chặt chẽ của quốc hội. Còn đối với quỹ BHXH thì hoạt động thu chi quỹ cũng được thực hiện dựa váo vác văn bản pháp luật nhưng xhủ yếu dựavào quan hệ kinh tế, quan hệ lợi iứch của nghững người tham gia theo nguyên tắc có đóng có hưởng. - Quan hệ phân phối của ngân sách Nhà nước chủ yếu là phân phối lại và không mang tính hoàn trả, chủ thể đóng góp và hưởng thụ ngân sách nhà nước là tách rời nhau. Còn quan hệ phân phối của quỹ BHXH vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính không hoàn trả. - Quan hệ phân phối của ngân sách nhà nước phản ánh quan hệ lợi ích của xã hội, lợi ích quốc gia và chi phối các quan hệ lợi ích bộ phận, lợi ích cá nhân nhằm đảm bảo cho sự ổn định của nền kinh tế xã hội. Quan hệ phân phối trong quỹ BHXH trước hết là thỏa mãn nhu cầu cá nhân rồi mới đến lợi ích đơn vị, xã hội. 3.1.2. Nguồn hình thành quỹ BHXH Theo Luật BHXH hiện hành thì quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau: a,Từ phía người tham gia bảo hiểm xã hội bao gồm: - Người sử dụng lao động - Người lao động b, Nhà nước đóng góp và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ đối với người lao động dưới các hình thức: - Bù thiếu - Tài trợ hoàn toàn cho một hoặc một vài chế độ - Nhà nước cũng đóng góp nhất định cho quỹ với tư cách là ngừoi sử dụng lao động đối với công nhân viên chức. c, Các nguồn khác. Hàng tháng người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng BHXH theo quy định. Tiền lương tháng căn cứ đóng BHXH gồm: - Lương theo ngạch bậc - Chức vụ thâm niên - Hệ số chênh lệch bảo lưu ( nếu có) Nhà nước trích từ ngân sách nhà nước số tiền chuyển vào quỹ BHXH đủ chi các ché độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, tai nạn lao đ._.ộng, bệnh nghề nghiệp, tử tuất và hỗ trợ chi lương hưu cho ngừoi lao động thuộc khu vực Nhà nước trước ngày thi hành điều lệ này. Việc tổ chức thu BHXH do tổ chức BHXH Việt Nam thực hiện. Quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và nhà nước bảo hộ. Quỹ BHXH được sử dụng để chi trả cho năm chế độ mà luật BHXH đã quy định. Đồng thời được sử dụng để trả cho chi phí sự nghiệp quản lý BHXH ở các cấp, ngành. Phần quỹ nhàn rổi được phép mang đi đầu tư thu lợi nhuận để tồn tích giá trị và tăng trưởng theo thời gian. 3.2. Đặc điểm của quỹ BHXH Theo khái niệm ở trên, ta thấy quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung, giữ vị trí là khâu tài chính trung gian trong hệ thống tài chính quốc gia. Là tổ chức tài chính nhằm giao hòa giữa ngân sách Nhà nước với các tổ chức tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp và tài chính của dân cư; quỹ BHXH có các đặc điểm chủ yếu sau: - Quỹ ra đời, tồn tại và phát triển gắn với mục đích bảo đảm ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp các biến cố, rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động. Hoạt động của quỹ không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. Nguyên tắc quản lý của quỹ BHXH là : Cân bằng thu – chi. - Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính chất không hoàn trả. - Quá trình tích lũy để bảo tồn giá trị và bảo đảm an toàn về tài chính đối với quỹ BHXH là một vấn đề mang tính nguyên tắc. Nguồn quỹ này được đóng góp và tích lũy trong suốt quá trình lao động. - Quỹ BHXH là hạt nhân, là nội dung vật chất của tài chính BHXH. Nó là khâu tài hính trung gian cùng với ngân sách nhà nước và tài chính doanh nghiệp hình thành nên hệ thống tài chính quốc gia. - Sự ra đời, tồn tại và phát triển của quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước. Kinh tế - xã hội càng phát triển thì càng có điều kiện thực hiện BHXH rộng khắp với đầy đủ các chế độ BHXH. 3.3. Mục đích sử dụng quỹ BHXH Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu để chi trả cho các mục đích sau: - Chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH - Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH ở các cấp ngành - Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH Quỹ này được quản lý theo cơ chế cân bằng thu – chi, phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đầu tư sinh lợi. Để tạo lập được quỹ và sử dụng đúng mục đích vấn đề đặt ra là phải xác định được mức phí BHXH phải nộp Công thức tính mức phí BHXH khái quát như sau: P= f1+f2+f3 Trong đó: f1: phí thuần – được dùng để chi trả trợ cấp cho BHXH. Là khoản chi lớn nhất và quan trọng nhất f2: là phí dự phòng, dự trữ được dùng khi có những biến động lớn như đồng tiền mất giá, lạm phát… f3: Phí quản lý Để xác định mức phí phải đóng và mức hưởng BHXH phải dựa vào nhiều yếu tố và nhiều thông tin khác nhau về nguồn lao động, cơ cấu nguồn lao động theo độ tuổi, giới tính, ngành nghề....Ngoài ra còn phải xác định và dự báo được tuổi thọ bình quân của quốc gia; xác suất ốm đau, tai nạn, tử vong của người lao động ... Theo ILO, quỹ BHXH được sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH, nhằm ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình họ khi đối tượng tham gia BHXH gặp rủi ro. IV. CÔNG TÁC THU BẢO HIỄM XÃ HỘI 1. Đặc điểm và vai trò của công tác thu BHXH 1.1. Đặc điểm của công tác thu BHXH Là khâu đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ hoạt động của hệ thống BHXH ở Việt nam, công tác thu có một số đặc điểm cụ thể sau: - Công tác thu là khâu đầu tiên trong hoạt động BHXH, có tính chu kỳ, lặp đi lặp lại. Các cán bộ, công chức viên chức làm công tác thu phải theo dõi kết quả thu nộp BHXH của từng cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động theo từng tháng, từng quý, từng năm, từng thời ký để kịp thời nắm bắt được tình hình đóng BHXH của từng cá nhân, từng đơn vị và của toàn ngành, từ đó làm cơ sở để lập báo cáo kết quả lên cơ quan BHXH cấp trên. Có thể nói, công tác thu là một công việc vất vả, khối lượng công việc rất lớn, cần một nguồn nhân lực lớn đủ năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ để làm tốt công việc; cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại để có thể phục vụ và làm tốt công tác thu. - Công tác quản lý thu rất phức tạp và đa dạng thể hiện ở một số điểm như: + Là một bộ phận trong hoạt động BHXH, công tác thu BHXH liên quan trực tiếp đến cả người lao động và người sử dụng lao động. + Số lượng lao động, số đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH ngày càng tăng đòi hỏi công tác quản lý phải chặt chẽ, kịp thời năm bắt thông tin về các đối tượng thuộc diện tham gia. + Mức thu BHXH được xác định dựa trên mức lương mà người lao động trả cho người lao động cho nên việc xác định tổng quỹ lương của doanh nghiệp, đơn vị tham gia phải được thực hiện đồng thời với việc xác định mức thu bảo hiểm. Các cán bộ làm công tác thu BHXH có nhiều hình thức để thu nhưng hiện nay chủ yếu là thu thông qua người sử dụng lao động. Công việc này đòi hỏi phải có sự giám sát chặt chẽ, đôn đốc của cán bộ thu để tránh tình trạng người sử dụng lao động sử dụng tiền đóng BHXH sai mục đích. + Đối với người lao động các cán bộ BHXH cần phải theo dõi đầy đủ, chính xác về hồ sơ, thời gian, những biến động về tiền lương, về nơi làm việc…trong suốt thời gian quá trình tham gia BHXH của người lao động để có cơ sở để thực hiện tốt công tác chi trả sau này. + Hiện nay, chính sách BHXH được thực hiện trên toàn quốc, phạm vi hoạt động rộng khắp cho nên công tác quản lý tiền thu gặp rất nhiều khó khăn dễ phát sinh tiêu cực ảnh hưởng tới quỹ BHXH. 1.2. Vai trò của công tác thu BHXH Trên thế giới, BHXH là một trong những quyền con người, do vậy tham gia BHXH là quyền lợi của người lao động. Tham gia BHXH cũng là nghĩa vụ của các đơn vị sử dụng lao động và người lao động. Ở Việt Nam hiện nay, chính sách BHXH đang hướng tới mục tiêu tạo lập một quỹ BHXH độc lập với NSNN, thực hiện đảm bảo về tài chính để cân đối thu – chi, thực hiện chi trả các chế độ cho người lao động tham gia BHXH. Tuy nhiên muốn chi thì phải thu, có thu mới có chi. - Thu có đủ, đúng, kịp thời thì chi trả mới nhanh chóng, kịp thời. - Thu đúng, thu đủ góp phần đảm bảo quyền lợi cho người lao động được tham gia đầy đủ. - Thu đúng, thu đủ nhằm đảm bảo cân đối quỹ BHXH - Thu đúng, thu đủ đảm bảo sự công bằng giữa những người lao động, đảm bảo công bằng trong xã hội. Như vậy có thể nói công tác thu BHXH đóng vai trò rất quan trọng, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của qũy BHXH và hoạt động của ngành BHXH 2. Phương thức thu phí BHXH Để thu BHXH, cơ quan BHXH có thể tiến hành thu bằng một số phương thức sau: - Thu phí trực tiếp từ người lao động: Phương thức này thường được áp dụng ở các nước mà chế độ BHXH đã được phổ cập rộng rãi và người dân sử dụng phổ biến tài khoản các nhân để chi tiêu, chi trả các khoản trong cuộc sống. - Thu phí BHXH thông qua hệ thống thuế: phương thức này áp dụng rộng rãi ở các nước có hệ thống BHXH phát triển và có chế độ thuế thu nhập phổ biến. Bằng phương thức này khi mọi người trong xã hội đóng thuế thu nhập cũng tức là đã đóng BHXH. Phương thức này có ưu điểm là: hiệu quả thu phí BHXH là tối đa, không có tình trạng trốn đóng BHXH, chi phí cho công tác thu BHXH rất nhỏ… nhưng nhược điểm của nó lại là làm sai lệch bản chất của việc đóng BHXH. - Thu phí gián tiếp thông qua đơn vị sử dụng lao động: Đây là phương thức thu phí phổ biến ở nhiều nước trên thế giới hiện nay. Với hình thức nay, hàng tháng các đơn vị sử dụng lao động phải có trách nhiệm đóng đầy đủ và đúng thời gian quy định cho cơ quan BHXH. Kết quả thu có tốt hay không phụ thuộc phần lớn vào ý thức tự giác của người sử dụng lao động . Nhược điểm của phương thức này là phí BHXH có thể bị sử dụng sai mục đích, tình trạng trốn đóng hoặc kéo dài thời gian đóng diễn ra phổ biến, quyền lợi của người lao động bị đe dọa. Ngoài ra còn có thể thu phí BHXH thông qua hệ thống các đại lý thu cấp dưới. 3. Phương pháp và căn cứ xác định phí BHXH Mức đóng BHXH chính là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi cho quỹ BHXH, do vậy để quỹ BHXH cân đối cần phải có sự tính toán kỹ càng. Trong thực tế, việc xác định phí BHXH là một nghiệp vụ khó, phức tạp đòi hỏi có nhiều phương pháp mới có thể đưa ra một mức phí phù hợp. Với những phương pháp và căn cứ tính phí khác nhau sẽ thu được những nhóm mức phí khác nhau. 3.1. Nhóm phương pháp không căn cứ vào thu nhập Phương pháp này còn gọi là phương pháp xác định phí đồng đều, mọi đối tượng đều đóng một mức phí BHXH như nhau, mức phí đó được các cơ quan BHXH tính toán và xác định từ trước. Theo phương pháp này, cơ quan BHXH sẽ phân chia người lao động thành từng nhóm dựa trên độ tuổi, giới tính, sức khỏe, ngành nghề lao động để từ đó đưa ra mỗi mức phí phù hợp với từng nhóm người lao động. Phương pháp này rất hiệu quả đối với những đối tượng lao động mà thu nhập của họ khó xác định, không cụ thể. Việc thu phí BHXH dựa trên một mức phí cụ thể đã được ấn định từ trước đối với từng nhóm người lao động , không căn cứ vào thu nhập của họ rất đơn giản, không gặp trở ngại gì nhưng lại không đáp ứng được nhu cầu tham gia BHXH đa dạng của người lao động. khó khăn trong việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH nên hiệu quả thu về mặt xã hội không cao. 3.2. Nhóm phương pháp lấy thu nhập làm căn cứ để xác định phí Khi căn cứ vào thu nhập của người lao động để xác định phí BHXH có 2 phương pháp chủ yếu: - Một là xác định phí đồng đều cho từng mức thu nhập: Theo đó mức thu nhập được chia thành nhiều nhóm khác nhau, với mỗi nhóm phải xác định mức thu nhập tối đa và tối thiểu. Dựa vào các nhóm thu nhập đó, người lao động có mức thu nhập thuộc nhóm nào sẽ đóng mức phí BHXH ứng với mức thu nhập của nhóm ấy. Phương pháp này đơn giản nhưng lại mất công bằng giữa các mức thu nhập thuộc các nhóm thu nhập khác nhau vì thu nhập của người lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố. - Hai là xác định mức phí BHXH tỷ lệ với mức thu nhập của người lao động: với phương pháp này, người lao động nào có mức tiền lương, tiền công cao hơn thì sẽ đóng một mức phí BHXH lớn hơn được tính bằng tỷ lệ phần trăm tiền lương, tiền công mà người lao động nhận được cuối tháng. Việt Nam hiện nay đang sử dụng phương pháp này để xác định mức đóng BHXH cho người lao động. Trong phương pháp này, tiền lương làm căn cứ đóng BHXH là tiền lương cấp bậc, chức vụ, hợp động và các khoản phụ cấp (phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ, phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên, phụ cấp tái cử, hệ số bảo lưu nếu có) của từng người. Các khoản phụ cấp ngoài quy định trên không thuộc diện phải đóng BHXH và cũng không tính vào tiền lương hưởng BHXH. Đối với các đơn vị kinh doanh đạt hiệu quả thấp, tiền lương tháng trả cho người lao động không đủ mức lương cấp bậc, chức vụ của từng người để đăng ký đóng BHXH thì phải đóng BHXH theo mức tiền lương đơn vị thực trả nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu hiện hành. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THU BHXH TẠI BHXH TỈNH HẢI DƯƠNG NĂM 2003-2007 I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BHXH VIỆT NAM VÀ BHXH TỈNH HẢI DƯƠNG 1. Sự ra đời và phát triển của BHXH Việt Nam Cũng như ở các nước trên thế giới, tại Việt Nam BHXH ra đời là một bước ngoặt tác động tới mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước. Ngay từ khi ra đời, BHXH đã tỏ rõ tác dụng lớn lao của mình trong cuộc sống. Trên thực tế thì BHXH Việt Nam ra đời từ thời kỳ Pháp thuộc, nhưng phải đến sau Cách Mạng Tháng Tám dựa trên Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ đã ban hành hàng loạt các sắc lệnh qua đó quy định về các chế độ trợ cấp, ốm đau, tai nạn hưu trí cho công nhân viên chức Nhà nước. Ngày 14/03/1947 và 22/05/1950 chính phủ đã ban hành hai sắc lệnh 105/SL và 77/SL quy định các chế độ ốm đau, tai nạn lao động, hưu trí và thai sản cho công nhân viện chức Nhà nước. Sự ra đời của hai sắc lệnh này có thể được coi là những văn bản pháp luật đầu tiên về BHXH có ý nghĩa quan trọng làm cơ sở để ban hành Điều lệ BHXH sau này.Trong điều kiện đất nước còn gặp rất nhiều khó khăn, nhưng sự ra đời của hành loạt các sắc lệnh đã chứng tỏ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước và của Bác Hồ đối với người lao động. Hiến pháp năm 1959 của nước ta đã thừa nhận công nhân viên chức có quyền được hưởng trợ cấp BHXH. Quyền này đã được cụ thể hóa trong Điều lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước, được ban hành kèm theo nghị định 218/CP ngày 27/12/1961. Bên cạnh đó cùng với nghị định 161/CP vào ngày 30/10/1964 Điều lệ đãi ngộ quân nhân cũng ra đời. Đây được coi là các văn bản luật đầy đủ và toàn diện nhất về BHXH lúc bấy giờ quy định các quyền lợi BHXH của người lao động. Nền kinh tế chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một tác động vô cùng lớn tác động đến hoạt động của ngành lao động – thương binh và xã hội nói chung và của lĩnh vực BHXH nói riêng. Dựa trên Hiến pháp năm 1992, cùng với sự chỉ đạo của Chính phủ bộ lao động thương binh và xã hội đã cho triển khai cải cách hệ thống BHXH. Ngày 22/6/1993 nghị định 43/CP của chính phủ ra đời quy định về chế độ BHXH đối với người lao động trong các thành phần kinh tế.Điểm nổi bật trong thời gian nay là đến ngày 16/2/1995 chính phủ đã ban hành nghị định 19/CP quy định về việc thành lập BHXH. Từ đây, BHXH đã có vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội đã góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Ngay sau khi bộ luật lao động chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/1995 Chính phủ đã ban hành nghị định12/CP(26/1/1995) về điều lệ BHXH đối với người lao động trong các thành phần kinh tế trong xã hội. Đến nghị định 45/CP (15/7/1995) Điều lệ BHXH với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân dân. BHXH Việt Nam được thành lập theo nghị định 19/CP đã trở thành một cơ quan có tư cách pháp nhân trực thuộc Chính phủ, được tổ chức theo ngành dọc từ Trung Ương đến địa phương để thực hiện tất cả các nghiệp vụ về BHXH. Đến 29/6/2006 căn cứ vào Điều 103 và Điều 106 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi bổ sung, chính phủ đã ban hành luật BHXH. Kể từ đây ngành BHXH đã có đủ căn cứ cơ sở pháp lý để hoạt động và pháp triển. Luật BHXH ra đời đã giúp các cơ quan BHXH trong cả nước phát triển góp phần ổn định về mặt thu nhập, ổn định về cuộc sống cho công nhân viên chức, quân nhân, người lao động trong các thành phần kinh tế và gia đình họ, góp phần rất lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Chiến lược phát triển BHXH Việt Nam giai đoạn từ nay đến năm 2010 có những mục tiêu chủ yếu sau: -Các quy định, chính sách về BHXH phải thể hiện rõ ràng BHXH là một hệ thống các chế độ trợ cấp góp phần thay thế bù đắp một phần thu nhập bị mất đi của người lao động( cán bộ, công chức, viên chức, quân nhân, người lao động) khi học bị ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất nhằm bảo đảm và ổn định cuộc sống của họ và gia đình họ thông qua một quỹ tài chính trợ cấp, quỹ này do các người lao động và người sử dụng cùng nhau đóng góp. Bên cạnh đó, BHXH phải phục vụ vì lợi ích vật chất và tinh thần của mọi người, vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước Việt Nam. - Ngày càng chú trọng tới việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH đến mọi lao động nhằm đảm bảo cho mọi người lao động đều có quyền hưởng BHXH khi rủi ro xảy ra, mọi người đều được bảo vệ, bình đẳng, yên tâm sống và làm việc tốt. - Nâng cao chất lượng quản lý của bộ máy BHXH Việt Nam từ trung ương đến địa phương trên tất cả các nghiệp vụ như thu, chi, quản lý đối tượng chính sách, quản lý và cấp sổ thẻ, tiếp nhận hồ sơ, tiếp dân… đảm bảo phục vụ tốt nhất cho các đối tượng tham gia. - Triển khai và thực hiện tốt cơ chế “ một cửa”, giảm bớt nạn hách dịch, nhiễu dân, tham nhũng của cán bộ làm bảo hiểm. 2. BHXH tỉnh Hải Dương 1.1. Lịch sử ra đời và phát triển Bảo hiểm xã hội (BHXH ) là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, góp phần đảm bảo đời sống cho người lao động, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Từ khi thành lập nhà nước đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm đến các chế độ chính sách BHXH cho người lao động thông qua các sắc lệnh điều lệ chủ trương. Hòa nhập với sự phát triển của thế giới nước ta cũng ngày càng phát triển trên tất cả các mặt của đời sống xã hội kinh tế , từ năm 1993 cho đến nay trải qua hơn hai chục năm phát triển BHXH đã có nhiều cải cách đổi mới rất cơ bản và ngày càng phù hợp với điều kiện kinh tế nước ta. Ngày 13/12/1995, Chính phủ đã có nghị định số 19/CP thành lập BHXH Việt Nam để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác quản lý thu BHXH và thực hiện chế độ chính sách BHXH theo pháp luật của nhà nước.Từ ngày 01/01/1995 công tác BHXH ở nước ta đã chuyển sang một cơ chế quản lý và hoạt động hoàn toàn mới. Cũng như các tỉnh khác, BHXH tỉnh Hải Hưng cũng được thành lập và bắt đầu hoạt động từ ngày 15/06/1995 theo Quyết định số 20/QD-TCCB của BHXH Việt Nam. Sau 2 năm hoạt động , thực hiện nghị quyết của Quốc hội về việc chia tách địa giới các tỉnh, BHXH Hải Hưng được chia thành BHXH tỉnh Hải Dương và BHXH tỉnh Hưng Yên. Ngày 16/9/1997 BHXH tỉnh Hải Dương được thành lập theo QĐ số 1599/QĐ-TCCB của BHXH Việt Nam. Lúc mới thành lập hết sức khó khăn về địa điểm và phương tiện làm việc, biên chế ít, công việc mới song qua hơn 20 năm xây dựng và phát triển hiện nay BHXH tỉnh Hải Dương đã có cơ sở vật chất đầy đủ, địa điểm làm viêc khang trang thuận lợi.Để có được những cơ sở vật chất như hiện nay, trong 20 năm qua các thế hệ cán bộ công chức viên chức đã sánh vai bên cạnh ban giám đốc giúp cơ quan vượt qua bao nhiêu khó khăn thử thách, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, năm sau cao hơn năm trước.Hiện nay BHXH tỉnh Hải Dương được đặt tại số 7 Đường Thanh Niên- TP Hải Dương 2.2. Cơ cấu tổ chức BHXH tỉnh Hải Dương là cơ quan trực thuộc BHXH Việt Nam có chức năng giúp Tổng giám đốc thực hiện các chính sách, chế độ BHXH và quản lý quỹ BHXH trên địa bàn tỉnh Hải Dương BHXH tỉnh Hải Dương chịu sự quản lý của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương BHXH tỉnh Hải Dương có con dấu, tài khoản riêng. Hệ thống tổ chức của BHXH tỉnh Hải Dương là: BHXH thành phố Hải Dương BHXH huyện Thanh hà BHXH huyện Chí linh BHXH huyện Cẩm Giàng BHXH huyện Thanh Miện BHXH huyện Kim Thành BHXH huyện Ninh Giang BHXH huyện Kinh Môn BHXH huyện Gia Lộc BHXH huyện Bình Giang BHXH huyện Nam Sách BHXH huyện Tứ Kỳ Cơ cấu tổ chức bộ máy giúp việc cho giám đốc BHXH tỉnh Hải Dương: Phòng chế độ, chính sách Phòng Kế hoạch –tài chính Phòng thu Phòng bảo hiểm tự nguyện Phòng giám định y tế Phòng tổ chức hành chính Phòng công nghệ thông tin Phòng Kiểm tra Phòng Tiếp nhận –quản lý hồ sơ Phòng cấp và quản lý sổ,thẻ Cơ cấu tổ chức, bộ máy làm việc của cơ quan BHXH tỉnh Hải Dương được thể hiện ở sơ đồ 2.1 Sơ đồ 2.1: Cơ cấu bộ máy tổ chức của BHXH tỉnh Hải Dương Giám đốc BHXH tỉnh Phó Giám đốc Phó Giám đốc Phó Giám đốc Phòng chế độ, chính sách Phòng Kế hoạch –tài chính Phòng thu Phòng bảo hiểm tự nguyện Phòng giám định y tế Phòng tổ chức hành chính Phòng công nghệ thông tin Phòng Kiểm tra Phòng Tiếp nhận –quản lý hồ sơ Phòng cấp và quản lý sổ,thẻ BHXH tỉnh Hải Dương BHXH các huyện (11 huyện) BHXH thành phố Hải Dương Trong đó: - Giám đốc BHXH tỉnh Hải Dương là người có vị trí cao nhất trong cơ quan BHXH tỉnh Hải Dương, là người trực tiếp lãnh đạo cán bộ công chức viên chức của cơ quan - Các Phó giám đốc là những cán bộ trực tiếp giúp việc cho giám đốc BHXH tỉnh đồng thời chỉ đạo các phòng nghiệp vụ thực hiện nhiệm vụ chuyên môn đã được ban giám đốc giao. - Các Phòng chức năng nghiệp vụ giúp giám đốc BHXH tỉnh hướng dẫn việc thực hiện các chế độ BHXH và trực tiếp thẩm định các chế độ BHXH, thu, chi quỹ BHXH, cấp và quản lý sổ thẻ; đồng thời tham mưu cho giám đốc BHXH tỉnh về công tác tổ chức cán bộ, công chức, viên chức để hoàn thiện bộ máy tổ chức.Hiện nay cơ quan BHXH tỉnh Hải Dương có 10 phòng chức năng nghiệp vụ đã tăng gấp đôi so với thời gian đầu mới thành lập.Phòng không có tư cách pháp nhân đầy đủ, không có dấu, tài khoản riêng. Các phòng chức năng do Trưởng phòng quản lý và điều hành theo chế độ thủ trưởng. Giúp Trưởng phòng có phó trưởng phòng.Trưởng phòng, phó phòng do Giám đốc BHXH tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, thuyên chuyển, khen thưởng và kỷ luật sau khi có ý kiến phê duyệt bằng văn bả của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam. - BHXH thành phố Hải Dương trực thuộc BHXH tỉnh Hải Dương có nhiệm vụ giúp ban giám đốc BHXH tỉnh và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chuyên môn được phân cấp. - Hiện nay trực thuộc BHXH tỉnh Hải Dương có 11cơ quan BHXH huyện thực hiện nhiệm vụ chuyên môn được phân cấp. Thông qua sơ đồ cơ cấu tổ chức của cơ quan BHXH tỉnh Hải Dương ta thấy có một mối liên kết chặt chẽ giữa các phòng ban, các cá nhân trong cơ quan.Mỗi phòng ban là một mắt xích quan trọng không thể thiếu trong bộ máy đó, góp phần tạo nên một đơn vị vững mạnh và phát triển như hiện nay. 3. Kết quả hoạt động chung trong những năm qua. 3.1. Công tác quản lý thu BHXH, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT bắt buộc Căn cứ chỉ tiêu kế hoạch BHXH Việt Nam giao cho và tình hình kinh tế xã hội thực tế tại địa phương, BHXH tỉnh Hải Dương đã chỉ đạo tốt công tác BHXH, BHYT bắt buộc, cấp và quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT bằng nhiều biện pháp tích cực như: xây dựng và giao kế hoạch kịp thời, thực hiện phân cấp thu BHXH, BHYT một cách rõ ràng và mạnh mẽ cho BHXH các cấp huyện – thành phố; chủ động tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn chế độ chính sách, các quy định về thực hiện BHXH – BHYT bắt buộc theo luật BHXH; đông thời có văn bản hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động thực hiện thu BHXH, BHYT bắt buộc, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT theo luật BHXH cho người lao động; ban hành quy trình, thời gian thực hiện nghiệp vụ thu, cấp thẻ BHYT, cấp sổ BHXH cho người lao động trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Tăng cường phối hợp với các cơ quan, đơn vị sử dụng lao động triển khai, hướng dẫn, đôn đốc việc thu nộp BHXH – BHYT bắt buộc như phối hợp với sở Kế hoạch & đầu tư, sở Công nghiệp, Liên minh các hợp tác xã để nắm bắt số lượng các đơn vị doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đôn đốc các đơn vị sử dụng lao động lập danh sách tham gia BHXH, BHYT cho người lao động, cấp kịp thời đúng tiến độ thẻ cho các đối tượng tham gia BHXH – BHYT trong năm. Duyệt bổ sung thời gian tham gia BHXH chưa được xác nhận trên sổ BHXH cho người lao động ở các đơn vị sủ dụng lao động. Ký hợp đồng với một số loại hình BHYT. Tổng hợp số đầu thẻ đăng ký KCB ban đầu hàng quý ở các đơn vị sử dụng lao động để làm cơ sở ứng với kinh phí KCB theo đúng quy định. BHXH các huyện – thành phố đã tích cực tuyên truyền, vận động, khai thác thu BHXH - BHYT bắt buộc nhất là đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Với những biện pháp cụ thể và hiệu quả trên thì kết quả mà BHXH tỉnh Hải Dương thu được thể hiện ở bảng 1 Bảng 1: Kết quả công tác thu, cấp và quản lý sổ BHXH tại BHXH tỉnh Hải Dương (2005-2007) Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số đơn vị tham gia BHXH –BHYT (đơn vị) 2161 2507 2846 Số người tham gia BHXH-BHYT(người) 211.822 387.374 408.497 Số thu BHXH,BHYT (đồng) 187.469.417.183 287.075.637.850 145.642.245.593 Chốt sổ BHXH các loại (sổ) 5.046 5.964 3.841 Thẩm định ký bổ sung sổ BHXH (sổ) 1.058 1.627 1.078 (Nguồn: Phòng thu- BHXH tỉnh Hải Dương ) 3.2 .Công tác Bảo hiểm y tế tự nguyện Từ khi triển khai loại hình BHYT tự nguyện từ năm 2003 đến nay, BHXH tỉnh Hải Dương đã tuyên truyền và triển khai kịp thời sâu rộng đến nhân dân, hội đoàn thể, học sinh,sinh viên về chính sách BHYT tự nguyện theo thông tử 06/TTLT-BYT-BTC, công văn 1302/BHXH-TN ngày 20/4/2007 của BHXH Việt Nam, giải thích rõ về đối tượng, điều kiện, quyền lợi, mức phí, cách tổ chức thực hiện BHYT để nhân dân thấy được sự cần thiết và hợp lý của BHYT tự nguyện của chính phủ. BHXH tỉnh đã tham mưu cho Chủ tịch UBND tỉnh có công văn chỉ đạo các huyện, thành phố thực hiện công tác BHYT tự nguyện, đồng thời ban hành các văn bản hướng dẫn các đơn vị thực hiện BHYT tự nguyện. Chỉ đạo BHXH cac huyện tham mưu cho UBND tỉnh tổ chức các hội nghị triển khai BHYT tự nguyện tới các hội đoàn thể, trường học. Kết quả thực hiện BHYT tự nguyện thể hiện ở bảng 2 Bảng 2: Kết quả thực hiện BHYT tự nguyện tại BHXH tỉnh Hải Dương (2005- 2007) Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số thẻ BHYT tự nguyện đã phát 133.941 133.184 120.000 Số thu BHYT tự nguyện 5.734.193.522 6.828.605.568 Trên 7 tỷ đồng (Nguồn: Phòng kế hoạch- tài chính- BHXH tỉnh Hải Dương ) 3.3 Kết quả chi trả các chế độ BHXH Trong các năm qua công tác chi trả các chế độ BHXH bắt buộc đã được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả: đảm bảo chi hoạt động thường xuyên, tiết kiệm, bám sát kế hoạch, chi đúng mục đích, đúng quy định; phối hợp chặt chẽ với ngân hàng Nhà nước&PTNT tổ chức chi trả BHXH kịp thời, an toàn, không để tiền qua đêm, không ảnh hưởng đến quyền lợi của đối tượng. Triển khai thực hiện quyết định số 845/QĐ-BHXH ngày 18/06/2007 về việc ban hành quy định quản lý, chi trả các chế độ BHXH. Phân cấp quản lý công tác thanh toán KCB BHYT; kiểm tra và chuyển hồ sơ thanh toán lại cho BHXH các huyện – thành phố; kiểm tra việc chi trả BHXH tại các các đại lý chi trả xã, phường thị trấn; tạm ứng kịp thời kinh phí KCB BHYT cho các bệnh viện, bệnh xá của các doanh nghiệp. Trong năm 2006, BHXH các huyện- thành phố đã tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện công tác chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH ; tiếp tục áp dụng hình thức chi trả qua các đại lý xã, phường, thị trấn, và chi trả cho các đơn vị tham gia BHXH –BHYT đảm bảo an toàn đến tận tay đối tượng, đúng thời gian quy định Trong năm 2007 đã hoàn thiện công trình trụ sỏ BHXH tỉnh, đi vào hoạt động 01/10/2007; hoàn thiện thủ tục xây dựng trụ sở các huyện Thanh Hà, Thanh Miện, Cẩm Giàng, Tứ Kỳ. Đến cuối năm 2007 kết quả chi các chế độ BHXH được thể hiện ở bảng sau: Bảng 3: Kết quả chi trả chế độ BHXH tại BHXH tỉnh Hải Dương (2005-2007) Năm Tổng chi BHXH(tr.đ) Số người được chi(người) Chi từ quỹ BHXH(tr.đ) Chi từ NSNN (tr.đ) 2005 585037 69584 182000 403037 2006 748516 74880 229037 519479 2007 943639 75273 324697 618942 (Nguồn: Phòng tổ chức hành chính- BHXH tỉnh Hải Dương ) Tại BHXH tỉnh Hải Dương, hoạt động chi trả BHXH bao gồm: - Chi trả trợ cấp cho người khi đã hội tụ đầy đủ những yếu tố được hưởng trợ cấp BHXH theo đúng các quy định của pháp luật thì được chi trả trợ cấp BHXH, đây là quyền lợi của người lao động khi tham gia BHXH. Năm chế độ được chi trả là: ốm đau, thai sản, hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Đây là nguồn chi thường xuyên và cơ bản, nguồn chi này khá lớn ảnh hưởng tới sự thành công của hoạt động BHXH. Có thể lấy chi phí khám chữa bệnh (KCB) để làm ví dụ minh họa: Bảng 4: Kết quả chi phí Khám chữa bệnh tại BHXH tỉnh Hải Dương (2005-2007) (Đơn vị tính: đồng) Chi KCB Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Chi KCB trong tỉnh 40.151.130.673 59.801.305.534 68.199.425.726 Chi phí thanh toán trực tiếp 452.817.550 602.739.027 460.441.701 Chi phí đa tuyến 11.081.131.953 19.987.021.247 24.471.889 Tổng cộng 51.685.080.176 80.391.065.808 93.131.281.316 (Nguồn: Phòng tổ chức hành chính- BHXH tỉnh Hải Dương ) Từ bảng số liệu ta thấy, số tiền dành cho công tác Khám chữa bệnh cho người lao động ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước. Khám chữa bệnh là một công việc quan trọng trong khâu giám định để làm cơ sở cho việc chi trả các chế độ BHXH. Chi phí khám chữa bệnh ngày càng tăng chứng tỏ số người lao động được khám, chăm sóc sức khỏe… ngày càng tăng đồng thời có thể nói số người gặp những biến cố trong quá trình lao động cũng tăng lên. Điều đó góp phần làm tăng chi phí mà quỹ BHXH phải chi, có thể dẫn tới hiện tượng thu không đủ chi, lạm chi ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan. Trước tình hình đó đòi hỏi phải có những biện pháp phòng chống tai nạn, rủi ro cho người lao động. - Chi cho hoạt động quản lý để duy trì hoạt động của các tổ chức cơ quan BHXH như chi lương cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong ngành, chi cho văn phòng phẩm. - Chi cho các hoạt động nghiên cứu khoa học trong ngành BHXH - Chi khác: tiếp khách, thẩm tra điều tra hồ sơ, chi cho những hoạt động văn hóa thể thao của ngành Giảm thiểu chi phí là mục tiêu của ngành BHXH tỉnh Hải Dương để hoạt động của ngành có hiệu quả cao. II. CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ CÔNG TÁC THU BHXH Ở VIỆT NAM 1. Đối tượng thu BHXH Dựa vào những quy định của luật BHXH và các văn bản hướng dẫn thi hành thì đối tượng thu BHXH bắt buộc là những người lao động và sử dụng lao động theo pháp luật BHXH bao gồm a, Người lao động Việt Nam đang làm việc theo chỉ tiêu biên chế nhà nước hoặc theo hình thức hợp đồng lao động có thời hạn từ 3 tháng trở lên, bao gồm cả người làm việc theo hình thức hợp đồng lao động dưới ba thang nhưng sau đố lại tiếp tục làm việc hoặc ký kết hợp đồng mới, những người được cử đi học, thực tập, điều dưỡng, công tác ở trong và ngoài nước nhưng vẫn nhận tiền lương, tiền công trong các doanh nghiệp, đơn vị, cơ quan, tổ chức sau: - Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật Doanh nghiệp - Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị - xã hội - Hợp tác xã, hộ sản xuất kinh doanh cá thể - Các cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác, lực lượng vũ trang, và các tổ chức đơn vị được phép hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thuộc các cơ quan hành chính sự nghiệp, Đảng, đoàn thể, các hội quần chúng tự trang trải về tài chính. - Các cơ sở bán công, dân lập, tư nhân thuộc các ngành văn hóa, y tế, giáo dục đào tạo, khoa học, thể dục thể thao và các ngành sự nghiệp khác. - Trạm y tế xã, phường, thị trấn. - Các cơ quan, tổ chức của nước ngoài hoặc các tổ chức quốc tế tại Việt Nam nhưng ngoại trừ các tổ chức được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam có tham gia hoặc ký kết có quy định khác. - Các tổ chức khác có sử dụng lao động. b, Cán bộ, công chức, viên chức được quy định theo ph._. nâng cao hiệu quả cho công tác quản lý thu để bảo vệ quyền lợi cho người lao động trong quá trình làm việc, tránh tình trạng các chủ sử dụng lao động vi phạm quyền lao động, đáp ứng được những yêu cầu nhiệm vụ của ngành trong giai đoạn mới; toàn bộ cán bộ công chức viên chức làm công tác thu luôn đặt ra cho bản thân mình những kế hoạch cụ thể trong từng tháng, từng quý, từng năm và từng thời kỳ. Các cán bộ công chức viên chức của phòng thu nói riêng và của các phòng nghiệp vụ khác cam kết sẽ hoàn thành nhiệm vụ được giao.Bên cạnh đó phải tiếp tục tuyên truyền Luật BHXH, các nghị định thông tư hướng dẫn tói toàn thể các đơn vị sử dụng lao động, người lao động. Giao kế hoạch thu BHXH, năm 2008 cho các đơn vị; hoàn thiện phần mềm quản lý thu; tiếp tục tuyên truyền, khai thác, đôn đốc các đơn vị tham gia BHXH –BHYT; thực hiện nhiệm vụ kiểm tra đối chiếu, ký xác nhận bổ sung thời gian công tác còn thiếu chứng lý trên sổ BHXH. Triển khai kịp thời các văn bản của Chính phủ, các Bộ, BHXH Việt Nam đến các cán bộ làm công tác Thu trong toàn ngành và các đơn vị sử dụng lao động để thực hiện đúng quy định. Phối hợp với các ngành chức năng mở rộng khai thác thu BHXH, BHYT các đơn vị ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thực hiện làm thủ tục nhanh gọn, kịp thời cho các đơn vị mới tham gia BHXH 2. Công tác tổ chức hành chính: Tiếp tục tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho CB, CCVC, yên tâm phấn khởi, phấn đấu rèn luyện nâng cao trình độ, nâng cao nhận thức, chấp hành tốt chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, nội quy, quy chế cơ quan, quy trình nghiệp vụ chuyên môn. Tiếp tục thực hiện việc kiện toàn bộ mnáy tổ chức cán bội, bố trí sắp xếp, luân chuyển cán bộ, CCVC cho phù hợp với điều kiện thực tế, pháp huy tốt năng lực CB, CCVC. Tăng cường công tác đào tạo, tự đào tạo bằng nhiều hình thức phù hợp với nhu cầu, trình độ, năng lực của cán bộ, CCVC hiện nay của đơn vị. Thực hiện kịp thời công tác hành chính văn phòng để duy trì hoạt động của đơn vị. Tiếp tục thực hiện chương trình cải cách hành chính theo chỉ đạo của BHXH Việt Nam, của UBND tỉnh Hải Dương; đặc biệt chú trọng đầu tư về con người, về CNTT và cơ sở vật chất để triển khai có hiệu quả cơ chế “ một cửa ” và chương trình quản lý theo tiêu chuẩn ISO 2001:9000. Thực hiện tốt công tác thông tin tuyên truyền bằng việc phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng tuyên truyền về luật BHXH, chính sách BHYT.Cải tiến các hình thức tuyên truyền, chú trọng hơn đến việc tuyên truyền miệng trực tiếp với đối tượng, in tờ gấp tuyên truyền theo hình thức mới phù hợp hơn, tránh tình trạng sao chép văn bản để thực hiện tuyên truyền; bổ sung nội dung bảng hướng dẫn và tuyên truyền tại cơ sở. 3.Công tác Tiếp nhận – quản lý hồ sơ Thực hiện nghiêm túc, đúng quy định về việc tiếp nhận hồ sơ và thời gian thực hiện BHXH, BHYT; việc đón tiếp, hướng dẫn các đơn vị và cá nhân đến giao dịch. Đảm bảo việc lưu trữ, tìm kiếm hồ sơ thuận tiện, khoa học và kịp thời. Tăng cường công tác đào tạo nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, và phong cách, thái độ phục vụ cho cán bộ, CCVC làm nhiệm vụ tiếp nhận hồ sơ để công tác Tiếp nhận – quản lý hồ sơ thật sự đóng vai trò quan trọng nhằm thực hiện thành công mô hình cơ chế “một cửa” tại BHXH tỉnh Hải Dương. 4. Công tác Cấp và quản lý sổ, thẻ Triển khai thực hiện kịp thời sổ BHXH cho người lao động, thẻ BHYT cho người tham gia BHYT (bắt buộc, tự nguyện); Xây dựng quy trình cấp sổ BHXH, thẻ BHYT; thực hiện kịp thời nghiêm túc việc chốt sổ BHXH; phối hợp tốt giữa các phòng chức năng nhằm đảm bảo thời gian cấp sổ, thẻ và thời gian chốt sổ theo đúng quy định. 5. Công tác Bảo hiểm y tế tự nguyện: Tham mưu tích cực với UBND tỉnh sơm phê duyệt để triển khai đề án BHYT toàn dân. Giao chỉ tiêu kế hoạch năm 2008 cho BHXH các huyện – TP. Triển khai thực hiện Thông tư 14/TTLT- BYT-BTC về công tác BHYT tự nguyện kịp thời, hiệu quả; đồng thời có kế hoạch hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ chuyên trách làm công tác thu BHYT tự nguyện ngay từ đầu năm 2008. Thực hiện tốt việc quyết toán thu, chi quỹ BHYT tự nguyện năm 2007. Tiếp nhận, kiểm tra danh sách tham gia BHYT tự nguyện, đảm bảo in cấp kịp thời trả đối tượng. Tiếp tục đôn đốc BHXH các huyện – TP thực hiện BHYT tự nguyện cho đối tượng đã có thẻ BHYT tự nguyện hết hạn và sắp hết hạn. BHXH các huyện và Thành phố tích cực tham mưu với các cấp chính quyền triển khai công tác tự nguyện, chủ động phối hợp với các xã, phường, thị trấn tuyên truyền vận động phát triển BHYT tự nguyện. 6. Công tác Kế hoạch – tài chính Chỉ đạo thực hiện công tác chi trả thường xuyên đảm bảo chi sớm, kịp thời ; tăng cường công tác kiểm tra quản lý chi trả BHXH; thực hiện việc chi trả BHXH qua thẻ ATM; tăng cường công tác thẩm kế tại các đơn vị để uốn nắn công tác tài chính kịp thời. Thực hiện chi quảy lý bộ máy đảm bảo tiết kiệm nhất; bố trí các ngân sách phí để lập thu chi cho BHXH – BHYT kịp thời chính xác nhất. Giám sát chặt chẽ công tác thi công các công trình cải tạo và xây dựng mới các trụ sở BHXH huyện; 7. Công tác chế độ chính sách: Tổ chức xét duyệt các chế độ BHXH theo Luật BHXH và các văn bản hướng dẫn chính xác, kịp thời. Thẩm định kịp thời các chế độ ốm đau, thai sản cho các đơn vị sử dụng lao động theo quy định tại Quyết định số 815/QĐ- BHXH của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Tổ chức kiểm tra thực hiện chế độ chính sách của BHXH các huyện – Thành phố trong công tác quản lý đối tượng, tiếp nhận hồ sơ giải quyết hưởng các chế độ BHXH theo phân cấp; tổ chức sinh hoạt chuyên môn rút kinh nghiệm những điểm yếu khắc phục tồn tại; tuyên truyền cho người lao động hiểu được trách nhiệm và quyền lợi trong việc tham gia BHXH. 8. Công tác Giám định – chi Phổ biến kịp thời các văn bản của Nhà nước, các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của ngành BHXH về công tác khám chữa bệnh BHYT; tích cực hướng dẫn, giải thích quyền lợi, nghĩa vụ, các thủ tục hành chính trong KCB và thanh toán chi phí KCB cho người bệnh có thẻ BHYT; thực hiện nghiêm túc các quy định về công tác giám định do BHXH Việt Nam chỉ đạo bảo đảm nguyên tắc đúng người, đúng thẻ, áp giá thuốc chính xác, vừa an toàn quỹ vừa bảo vệ được quyền lợi cho người có thẻ. Hoàn thiện hệ thống các bảng hướng dẫn quyền lợi đặt tại các bệnh viện và cơ sở KCB trong toàn tỉnh; tiếp tục triển khai khoán định suất tại 02 bệnh viện tuyến huyện. Tăng cường kiểm tra định kỳ và đột xuất công tác KCB BHYT tại các cơ sở KCB, đề xuất thêm biện pháp kiểm tra chéo giữa BHXH các huyện – Thành phố để đánh giá đúng chất lượng công tác quản lý KCB BHYT. 9.Công tác Công nghệ thông tin Tiếp nhận, ứng dụng các phần mềm để triển khai thực hiện đồng bộ cơ chế “ một cửa”. Tăng cường sự phối hợp công tác giữa các phòng chức năng, BHXH huyện, thành phố, các cơ sở KCB nhằm triển khai ứng dụng triệt để CNTT vào việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của ngành. Xây dựng kế hoạch đào tạo, tập huấn ứng dụng CNTT trong toàn ngành. Đảm bảo công tác nhập tăng, giảm, in danh sách chi trả kịp thời, chính xác cho các đối tượng hưởng BHXH. 10. Công tác Kiểm tra: Kế hoạch năm 2008: kiểm tra 03 huyện- Thành phố; 08 doanh nghiệp; 04 cơ sở KCB. Phối kết hợp với thanh tra Nhà nước tỉnh Hải Dương, kiểm tra 05 đơn vị doanh nghiệp. Thực hiện tốt công tác tiếp dân; tiếp nhận và trả lời đơn thư đúng chế độ chính sách và luật định; tổ chức kiểm tra thường xuyên theo kế hoạch; chỉ đạo BHXH các huyện – thành phổ,các phòng nghiệp vụ tự kiểm tra, mở sổ sách theo dõi tiếp dân và trả lời đơn thư khiếu nại, tố cáo của đối tượng theo luật định. Trên đây là một số phương hướng mục tiêu mà ngành BHXH tỉnh Hải Dương đã để ra trong năm tới. II. GIẢI PHÁP BHXH là một chính sách quan trọng trong hệ thống các chính sách xã hội của quốc gia, có ảnh hưởng trực tiếp đến số đông người lao động trong xã hội. Chính vì vậy, để BHXH thực hiện tốt vai trò của mình đối với cuộc sống của người lao động và gia đình họ thì việc xây dựng, hoàn thiện và đổi mới các chế độ BHXH trong quá trình phát triển là điều cần thiết và cấp bách nhất hiện nay. Hiện nay, công tác thu BHXH tại bất cứ cơ quan BHXH nào trên đất nước Việt Nam nói chung và tại cơ quan BHXH tỉnh Hải Dương nói riêng vẫn còn rất rất nhiều vấn đề vướng mắc cần phải được sửa đổi bổ sung hoàn thiện để phù hợp với tình hình xã hội hiện nay. Sau một thời gian thực tập tại cơ quan BHXH tỉnh Hải Dương, được tiếp cận với những công việc hàng ngày của phòng thu thì em nhận thấy bên canh những thành tích đạt được thì vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, thiếu xót.Do đó em xin đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thu trong những năm tới. 1. Hoàn thiện các văn bản pháp luật quy định về công tác thu BHXH: Bất cứ một chế độ chính sách nào của Đảng, Chính phủ, Nhà nước muốn được thực hiện tốt thì đều phải có những văn bản pháp luật đầy đủ làm căn cứ để thực hiện. Và ngành BHXH cũng vậy.Tuy luật BHXH đã được chính phủ thông qua vào năm 2006 nhưng trong thực tế những quy định được đề cập đến trong luật về công tác quản lý thu vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa phù hợp với tình hình kinh tế xã hội hiện tại của đất nước. Do những thay đổi của chính sách tiền lương, chính sách giá cả của Chính phủ mà có những quy định về công tác thu BHXH không còn phù hợp nữa. Đặc biệt trong thời gian này, Việt nam đã gia nhập tổ chức thế giới WTO nên trong thời gian tới sẽ có rất nhiều các doanh nhân nước ngoài đầu tư vốn vào Việt Nam, số lượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ tăng nhanh thu hút một số lượng lớn lao động vào làm việc; do đó để đảm bảo việc tham gia BHXH một cách hoàn toàn tự nguyện, đóng BHXH đầy đủ thì luật BHXH phải có những quy định cụ thể và rõ ràng hơn. Chính vì vậy, ngành BHXH các cấp phải luôn chú trọng đến việc phát hiện những điểm thiếu xót chưa phù hợp của luật BHXH đối với công tác thu nói riêng và hoạt động của ngành BHXH nói chung để tham mưu cho chính phủ sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cho phù hợp. 2. Giải pháp đối với vấn đề nợ, trốn đóng BHXH Như đã phân tích ở trên, tình trạng nợ đọng, trốn đóng BHXH là vấn đề nan giải của tất cả các cơ quan BHXH trên toàn quốc. Tình trạng này ngày càng diễn ra phổ biến hơn tinh vi hơn với nhiều hình thức khác nhau như khai giảm số lao động, khai lương thấp hơn thực tế, trây lỳ không chịu đóng BHXH. Số tiền nợ đọng BHXH lớn đã ảnh hưởng rất nhiều đến nguồn thu quỹ BHXH làm quỹ BHXH mất cân đối trong công tác thu – chi ảnh hưởng đến uy tín của ngành BHXH. Chính vì vậy, để giải quyết tình trạng nợ đọng, trốn đóng BHXH có hiệu quả cơ quan BHXH tỉnh Hải Dương cần tập trung vào một số biện pháp cụ thể sau: 2.1. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền sâu rộng đến người sử dụng lao động, người lao động, cơ quan quản lý nhà nước các cấp,chính quyền địa phương để các đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc tự ý thức được quyền lợi và trách nhiệm của mình. 2.2. Quy định các chế độ xử phạt nghiêm minh đối với những trường hợp vi phạm Thực tế cho thấy,tình trạng hiện nay là một số doanh nghiệp cố tình không đóng BHXH cho người lao động mà chấp nhận chịu phạt với cơ quan BHXH. Tại sao lại vậy??? Đó là do chế tài xử phạt, mức xử phạt của luật quy định còn quá thấp, chưa mang tính chất xử phạt mà chỉ là răn đe. Chính vì thế một trong những biện pháp làm giảm tình trạng nợ đọng là có một chế tài xử phạt đúng mức, càng nghiêm trọng càng phải phạt nặng. 2.3. Tăng cường phối kết hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành cơ quan đoàn thể có liên quan đến việc thu nộp BHXH trên địa bàn như thuế, ngành lao động – thương binh và xã hội, liên đoàn lao động tỉnh, kế hoạch đầu tư, công an, thanh tra nhà nước… - Phối hợp với phòng kế hoạch đầu tư, chi cục thuế để biết được những thông tin về các đơn vị mới đăng ký kinh doanh, được cấp mã số thuế để có thể tiếp cận tổ chức thu BHXH kịp thời hạn chế bỏ sót đối tượng. - Cùng với phòng lao động thương binh xã hội thực hiện các quy định về luật lao động như giám sát ký kết hợp đồng lao động, đóng BHXH cho người lao động… - Phối hợp với ngân hàng, kho bạc trong thu nôp BHXH. Đối với những đối tượng nộp chậm hoặc cố tình trì hoãn việc đóng BHXH thì nhờ ngân hàng, kho bạc trừ trực tiếp vào tài khoản của các đơn vị đó. - Cùng với liên đoàn lao động tỉnh bảo vệ quyền lợi của người lao động 3. Tạo điều kiện cho các đối tượng thuộc diện bắt buộc tham gia được hưởng, chi trả kịp thời nhanh chóng đầy đủ khi có rủi ro xảy ra. Đồng thời triển khai thực hiện loại hình BHXH tự nguyện trên diện rộng. 3.1. Tạo điều kiện cho các đối tượng thuộc diện bắt buộc tham được hưởng, chi trả kịp thời nhanh chóng đầy đủ khi có rủi ro xảy ra. Mục tiêu đến năm 2010 phải có 12.5 triệu người tham gia BHXH của chính phủ đặt ra đối với ngành BHXH Việt Nam có phải là khó không? Phải làm gì để đạt được mục tiêu này? Đây là một câu hỏi luôn làm đau đầu những người làm công tác BHXH. Vậy với tình hình hiện nay chúng ta phải làm gì? Tạo điều kiện và khuyến khích người lao động tham gia nhiều hơn là một trong những giải pháp vô cùng quan trọng và cần thiết hiện nay đối với ngành BHXH nói chung và ngành BHXH tỉnh Hải Dương nói riêng. Tạo điều kiện cho người lao động tham gia BHXH, được đóng, được hưởng các chế độ BHXH theo quy định của pháp luật bằng cách giải quyết chi trả chế độ kịp thời, thủ tục hành chính nhanh gọn, không gây phiền hà quấy nhiễu… Đây là giải pháp quyết định trực tiếp đến công tác thu BHXH, đến quỹ BHXH giúp cho việc cân đối quỹ BHXH. 3.2. Triển khai thực hiện BHXH tự nguyện trên diện rộng Như chúng ta đã biết, kế hoạch thực hiện BHXH tự nguyện, BHYT toàn dân làm những chủ trương lớn của nhà nước đối với ngành BHXH . Từ năm 2003 đến này, Việt Nam đã triển khai được loại hình BHYT tự nguyện nhưng phạm vi thực hiện và số lượng người tham gia còn thấp. Theo kế hoặch mà chính phủ đề ra đến năm 2010 ngành BHXH phải đạt con số có 12.5 triệu người tham gia BHXH. Nếu chỉ áp dụng loại hình BHXH bắt buộc thì dù cố gắng đến đâu, dù số đơn vị sử dụng lao động và số người lao động có tăng lên thì vẫn không thể đạt được mục tiêu đó. Chính vì vậy việc thực hiện BHXH tự nguyện là một giải pháp hàng đầu mà ngành BHXH cần quan tâm đến. Cùng với bộ Luật lao động, việc quy định triển khai BHXH tự nguyện cũng đã được chính phủ đưa ra nhưng từ đó đến nay nước ta vẫn chưa thực hiện được. Thực tế cho thấy có nhiều đối tượng không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc nhưng lại có nhu cầu và khả năng tham gia BHXH tự nguyện vẫn chưa được phép tham gia vì nhiều lý do. Do đó đến nay việc đạt mục tiêu 12.5 triệu người tham gia BHXH khó có khả năng đạt được. Trước tình hình như hiện nay, viêc nhanh chóng thực hiện BHXH tự nguyện là một giải pháp hết sức quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng số người tham gia BHXH trong giai đoạn từ nay đến 2010. Với mục tiêu mỗi năm tăng khoảng 90-100 vạn người tham gia BHXH trong đó có ½ là BHXH tự nguyện thì các cơ quan BHXH trên toàn quốc cần phải thực hiện một số biện pháp cụ thể như: - Xác định đúng đối tượng được quyền tham gia BHXH tự nguyện.Đó là: những người lao động tự tạo việc làm, lao động tự do, xã viên HTX nông nghiệp có thu nhập bằng tiển, những người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc nhưng muốn tham gia thêm BHXH tự nguyện để khi họ về hưu có thêm thu nhập để ổn định cuộc sống. - Xác định, nghiên cứu, xây dựng và đưa ra những nội dung liên quan đến việc tham gia BHXH tự nguyện như mức đóng, mức hưởng, cơ chế quản lý sao cho phù hợp nhất nhằm thu hút được nhiều người tham gia. - Các cơ quan có trách nhiệm và liên quan phải tham mưư giúp chính phủ xây dựng các văn bản pháp luật cụ thể làm hành lang pháp lý hướng dẫn thi hành triển khai nhanh, thực hiện kịp thời loại hình này. - Tổ chức tuyền truyền rộng khắp tới tất cả người dân, người lao động các thành phần kinh tế trong xã hội. Có thể nói đây là một giải pháp mang tính cấp thiết có tác động tích cực đến việc tăng số người tham gia BHXH trên toàn quốc. 4.Một số giải pháp khác để hoàn thiện công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Hải Dương 4.1. Công tác tổ chức cán bộ, nhân sự: - BHXH tỉnh Hải Dương luôn luôn phải chú trọng đến công tác bồi dưỡng bố trí cán bộ làm công tác thu BHXH sao cho đảm bảo đủ số lượng, các cán bộ thu phải có năng lực chuyên môn cao, am hiểu về các chính sách BHXH, luật BHXH, luật lao động; phải có phẩm chất đạo đức chính trị vững vàng có sức khỏe tốt để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao - Xây dựng các tiêu chuẩn rõ ràng cụ thể về công tác tuyển dụng cán bộ mới, bố trí cán bộ làm công tác thu từ cấp trung ương tới cấp địa phương, từ tỉnh tới các huyện, thành phố. - Tổ chức các kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại cả về chuyên môn nghiệp vụ lẫn tư các đạo đức, tác phong làm việc nhằm tạo cho các cán bộ chuyên thu có thể phát huy tính năng động, khả năng sáng tạo ở mỗi người - Tạo cơ sở vật chất thuận lợi cho cán bộ chuyên thu làm việc. Trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện đi lại, công tác phí phù hợp nhằm tạo động lực cho họ. Đồng thời có cơ chế động viên, khen thưởng, khuyến khích bằng cả mặt vật chất lẫn tinh thần đối với các cán bộ làm việc tốt có hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ. 4.2. Về công tác thông tin tuyên truyền Đây là một trong những giải pháp mang lại hiệu quả tốt, tác động trực tiếp đến ý thức của người sử dụng lao động, người lao động. Để nâng cao sự hiểu biết của người tham gia BHXH và ý thức tự giác đóng nộp tiền BHXH thì cơ quan BHXH tỉnh Hải Dương nói chung, BHXH các huyện thành phố nói riêng cần phải thực hiện một số biện pháp sau: - Tiến hành tuyên truyền thông tin về BHXH thông qua các loại hình khác nhau như: truyền hình, đài phát thành trung ương, địa phương. Tăng cường tuyên truyền đối với đối tượng là các cán bộ xã phường – là những người nẵm vững số lượng, loại hình doanh nghiệp trên địa bàn, từ đó giúp cho ngành BHXH có những thông tin đầy đủ, chính xác nhất về những đơn vị, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. - Tổ chức các cuộc thi, tìm hiểu chính sách, chế độ BHXH bằng nhiều hình thức khác nhau, có sự tham gia của các bên: cán bộ chuyên thu, người sử dụng lao động, người lao động. - Các cán bộ chuyên thu phải thường xuyên trực tiếp xuống các đơn vị, các cơ sở mà mình phụ trạc để gặp gỡ, bám sát, đôn đốc, tuyên truyền vân động giúp cho chủ sử dụng lao động, người lao động hiều được những quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện; hướng dẫn nghiệp vụ thu – nộp BHXH đúng kỳ theo quy định của pháp luật, giảm thiểu tình trạng nợ đọng tiền BHXH của các đơn vị gây ảnh hưởng đến kết quả thu của toàn ngành. 4.3. Công tác nghiệp vụ: - Đưa công nghệ thông tin ứng dụng vào quá trình làm việc. Giải pháp này sẽ giúp cho việc thực hiện công việc một cách khoa học và đạt hiệu quả cao hơn. Hiện nay, cơ quan BHXH tỉnh Hải Dương đã trang bị cho mỗi cán bộ chuyên thu một máy vi tính nhằm hỗ trợ cho các cán bộ chuyên thu trong công việc cảu mình. Tuy nhiên để có một kết quả làm việc tốt nhất, BHXH tỉnh Hải Dương cần phải áp dụng các ứng dụng phần mềm quản lý đồng thời nâng cao trình độ sử dụng vi tính cho các cán bộ chuyên thu. - Tăng cường công tác điều tra, khai thác đối tượng tham gia BHXH để nắm vững tình hình biến động về số đơn vị lao động, số lao động của các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Theo dõi chặt chẽ số doanh nghiệp mới thành lập, số doanh nghiệp giải thể, chuyển đến chuyển đi trên địa bàn, số lao động của từng doanh nghiệp để biết được số lượng người tham gia BHXH từ đó tiến hành thu, truy thu, thoái thu BHXH cho đúng với quỹ tiền lương. - Tăng cường công tác kiểm tra trên diện rộng và thường xuyên đối với tất cả các đối tượng tham gia BHXH để tránh tình trạng khai giảm số lao động tham gia BHXH, nợ hoặc trốn đóng BHXH. - Giải quyết đúng, đủ, kịp thời các chế độ cho người lao động từ đó tạo niềm tin cho người lao động vào chính sách BHXH của Đảng, Chính phủ và Nhà nước. - Thực hiện tốt cơ chế một cửa, xóa bỏ tệ nan quan liêu, tham nhũng cửa quyền của các cán bộ chuyên thu. III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 1. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước . - Ban hành và hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến BHXH một cách đồng bộ và kịp thời . Chính sách BHXH càng hoàn thiện thì việc triển khai và thực hiện công tác nói riêng cà hoạt động hệ thống BH nói chung sẽ được thống nhất và có hiệu quả hơn .Bên cạnh việc áp dụng luật BHXH cần phải có những văn bản hướng dẫn thực hiện cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay ở Việt Nam . Mở rộng điều kiện hình thức tham gia BHXH cho các đối tượng để thu hút tất cá mọi người lao động đều tham gia bảo hiểm .Đây là chủ trương lớn với mục tiêu tất cả mọi người đều được tham gia bảo hiểm .Mở rộng đối tượng lao động sẽ đảm bảo tính công bằng trong bảo hiểm tăng quỹ cho BHXH quyền lợi của người lao động sẽ được đảm bảo hơn ngay cả khi .BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện là hai hình thức tham gia BHXH chủ yếu . -Nhà nước ta có những văn bản pháp luật quy định cụ thể về mức thu BHXH ,BHYT đối với từng đối tượng lao động từng mức lương mà người lao động được hưởng (không dựa mức lương ghi trên HĐ mà dựa vào mức tiền lương thực tế của người lao động ) - Phối hợp các cơ quan ,ban ngành cơ quan trong việc hướng dẫn ,kiểm tra và thực hiện các biện pháp sử phạt về hành chính đối với đơn vị sử dụng lao động ,trốn đóng bảo hiểm xã hội cần có sự ràng buộc của việc thành lập DN và việc thực hiện nghĩa vụ thu BHXH ,BHYT để hạn chế tình trạng nợ đọng tiền BHXH 2 . Đối với BHXH Việt Nam + Thực hiện tốt công quản lý thu BHXH ngay từ việc quản lý đối tượng tham gia phải nắm vững một số đơn vị trên địa bàn, số lao động thuộc diện điều tra, quỹ tiền lương của đơn vị ,những biến động trong tháng ,quý ,năm của đơn vị như tăng lương, giảm lương, giảm lao động , lao động nghỉ ốm, di chuyển lao động … Xây dựng quá trình thu BHXH ngày càng hoàn thiện và phù hơp hơn. Theo quy định ở pháp luật ,quá trình thu bảo hiểm gồm 3 khâu : Khâu đăng ký Khâu thực hiện Khâu kiểm tra xác nhận Ở mỗi khâu cần phải phân công nhiệm vụ cụ thể rõ ràng đối với từng bên tránh để tình trạng chừa việc cho nhau . - Khâu đăng ký :Do đơn vị sử dụng lao động đảm nhận sau đó chuyển lên để cán bộ các cơ quan kiểm tra đối chiếu danh sách đăng ký của đơn vị - Khâu thực hiện: Hàng kì đơn vị sử dụng lao động cùng với cán bộ thu BHXH đối chiếu công nợ ,bổ sung các yếu tố phát sinh thay đổi về tiền lương tham gia bảo hiểm nơi làm việc thời gian làm việc từ đó bổ sung BHXH kịp thời cho người lao động và thu đủ tiền BHXH tránh tình trạng nợ đọng truy thu hoặc thất thu vào kì sau Theo quy định hiện nay quy trình quản lý thu BHXH được áp dụng cho tất cả các loại đối tượng tham gia BHXH. Tuy nhiên đối với những đối tượng lao động thuộc khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì vấn còn nhiều hạn chế. Có rất nhiều doanh nghiệp ngoài quốc mới thành lập với số lượng lao động phổ thông rất lớn song cơ quan BHXH vẫn chưa nắm bắt bám sát được tình hình, chưa theo dõi được tình hình của những doanh nghiệp ngoài quốc doanh đó để triển khai và tiến hành thực hiện BHXH cho người lao động.Do đó, cơ quan BHXH cần đưa thêm khâu khai thác các đơn vị mới tham gia BHXH. Có như vậy sẽ làm tăng thêm số đơn vị, số lao động mới tham gia BHXH tăng nguồn thu cho quỹ BHXH. Bên cạnh đó, cơ quan BHXH nên hỗ trợ cho UBND các xã, phường, thị trấn, các phòng chức năng của quận huyện, các cán bộ làm công tác bảo hiểm cấp dưới về phương tiện, kinh phí hỗ trợ thu, phối hợp cùng với các cơ quan BHXH cấp dưới nắm tình hình và thu BHXH tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sao cho thu đúng, thu đủ, không bỏ sót đối tượng; linh hoạt trong công tác thu nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Cùng với việc làm tốt công tác thu BHXH thì cần phải kết hợp với việc thực hiện tốt công tác chi trả các chế độ BHXH cho người lao động ở các đơn vị, quản lý và theo dõi chặt chẽ hồ sơ của người lao động. Tuy nhiên cần chú ý đến số tiền bảo hiểm mà các đơn vị đã thu nộp trước khi thực hiện chi trả: nộp đủ tiền bảo hiểm mới thực hiện chi trả; như vậy mới đảm bảo thu – chi cho quỹ BHXH, tránh tình trạng nợ đọng BHXH từ kỳ này sang kỳ khác. + Để việc thu bảo hiểm được thuận lợi và đạt kết quả tốt thì điều quan trọng nhất là phải dựa vào ý thức tự giác của người sử dụng lao động và người lao động. Khi các bên tham gia đều hiểu, nhận thức đúng đắn về quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia BHXH thì việc mở rộng đối tượng và thu BHXH càng trở nên dễ dàng. Nhưng để có được điều đó thì việc tuyên truyền, cung cấp thông tin về BHXH đến người lao động, người sử dụng lao động cần phải được quan tâm đặc biệt. Ngoài việc tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, truyền thanh, thì cần phải cử các cán bộ làm công tác bảo hiểm trực tiếp xuống các đơn vị để tuyên truyền,phổ biến giải thích về các chế độ, chính sách của BHXH, BHYT, về quyền lợi và nghĩa vụ của họ để họ hiểu và thực hiện tốt. Để tuyên truyền hiệu quả cần phải chú trọng đến nội dung và hình thức tuyên truyền: nội dung phải tùy vào từng đối tượng, hình thức thì phải phong phú đa dạng, dễ hiểu, dễ nhớ. + Một cán bộ thu am hiểu chuyên môn, có năng lực sẽ làm việc hiệu quả hơn. Đó cũng là định hướng phát triển về nhân sự của các cơ quan BHXH. Thường xuyên mở các lớp huấn luyện, bồi duỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác thu từ trung ương đến địa phương, từ cấp tỉnh tới cấp địa phương. Bên cạnh việc bồi dưỡng về nghiệp vụ thì cũng cần phải chú trọng đến cả công tác bồi dưỡng tư tưởng đạo đức, lấy mục tiêu phục vụ lợi ích người lao đông là nòng cốt. + Trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ thì việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình quản lý thu cần phải được chú trọng đến. Việc ứng dụng các phần mềm quản lý vào trong việc thực hiện quản lý đối tựong tham gia,đối tượng hưởng, quản lý thu – chi, tài chính sẽ giúp cho ngành BHXH giảm bớt chi phí, việc quản lý dễ dàng và hiệu quả hơn, tạo phong các làm việc khoa học, năng động hơn. 3. Đối với BHXH tỉnh Hải Dương - Tiếp tục thực hiện tốt cơ chế làm việc “ một cửa” - Tiến hành rà soát khắc phục sớm những vướng mắc tồn tại trong công tác thu BHXH. - Tích cực hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động lập danh sách đăng ký tham gia BHXH bắt buộc kịp thòi -Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động về BHXH cho mọi người trong các đơn vị, doanh nghiệp - Nhanh chóng chuyển đổi tác phong làm việc hành chính của các cán bộ, công chức, viên chức sao cho chủ động hơn, lấy mục tiêu phục vụ người lao động là mục đích chính. - Sắp xếp tổ chức nhân sự trong cơ quan cho hợp lý. Cần chú trọng việc bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ trong ngành nhất là các cán bộ làm chuyên môn thu, mở các lớp tập huấn nghiệp vụ cho các cán bộ thu ở các huyện, các đơn vị trong toàn tỉnh. - Đưa các ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình làm việc, xây dựng các phần mềm quản lý thu phù hợp và chính xác để giảm bớt những công việc làm thủ công, tránh được những sai sót không đáng có. - Tranh thủ sự lãnh đạo, giúp đỡ của các cấp Đảng ủy, UBND, chính quyền địa phương, của BHXH Việt Nam về tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật. - Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị, các doanh nghiệp, cơ quan có liên quan trong việc thực hiện thu BHXH để công tác thu đạt kết quả tốt nhất. - Tăng cường công tác thanh kiểm tra của các cơ quan nhà nước, công tác giám sát của HĐND các cấp tại các doanh nghiệpvề việc thực hiện các chế độ BHXH cho người lao động - Cần có những biện pháp xử lý vi phạm nghiêm khắc đối với các doanh nghiệp cố tình vi phạm về việc thực hiện chế độ BHXH theo quy định đối với người lao động. - Triển khai thực hiện BHXH tự nguyện, BHYT toàn dân đến năm 2010 Ngoài ra: - Nhà nước cần có chính sách đào tạo trình độ làm việc cho người lao động để học có thể tìm được những công việc phù hợp, nâng cao được nhận thức về quyền lợi của mình khi làm việc ở các doanh nghiệp đó. - UBND tỉnh phải có những biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp về vốn, công nghệ, cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, thông tin thị trường để các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, phát triển bền vững, từ đó nâng cao ý thức nộp BHXH cho người lao động để người lao động yên tâm làm việc tại doanh nghiệp. - Các cơ quan, đơn vị có liên quan đến công tác thu BHXH như Cục thuế, phòng lao động thương binh – xã hội, cấn hợp tác giúp đỡ cho cơ quan BHXH làm tốt nhiệm vụ của mình. -Hỗ trợ cho cán bộ làm công tác thu nguồn kinh phí thu bằng sự kêu gọi ủng hộ của các ban ngành các cấp KẾT LUẬN Trải qua 15 năm ra đời và phát triển, cơ quan BHXH tỉnh Hải Dương đã trở thành một trong những cơ quan BHXH có thành tích hoạt động tốt nhất trong ngành BHXH Việt nam hiện nay. Với những thành tích đạt được, năm 2007 vừa qua BHXH tỉnh Hải Dương đã được BHXH Việt Nam phong tặng danh hiệu cao qúy : Đơn vị anh hùng. Có rất nhiều yếu tố tạo nên những thành tích đáng trân trọng như vậy của ngành BHXH tỉnh Hải Dương nhưng có thể nói một trong những yếu tố quan trọng nhất đó là BHXH tỉnh Hải Dương đã làm tốt công tác quản lý thu BHXH. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác quản lý thu BHXH, ban giám đốc và các cán bộ thu đã có những biện pháp nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong công việc như: nâng cao nhận thức của người tham gia BHXH, thu hút số lượng lao động tham gia BHXH càng nhiều hơn, nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ thu. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn có một số tồn tại, hạn chế cần phải được xem xét sửa đổi. Vì vậy, dựa trên cơ sở những kiến thức đã được học và quá trình thực tập tại cơ quan BHXH, qua tìm hiểu và nắm bắt được tình hình công tác quản lý thu ở phòng thu BHXH tỉnh Hải Dương, em chọn đề tài này xin đề xuất một số giải pháp, kiến nghị mang tính chất tham khảo để cơ quan hoàn thiện hơn về công tác quản lý thu BHXH bắt buộc. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ban giám đốc và các cán bộ tại phòng thu BHXH tỉnh Hải Dương và đặc biệt là sự chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của Tiến sỹ Phạm thị Định đã tạo điều kiện cho em hoàn thành luận văn tốt nghiệp. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình kinh tế bảo hiểm – Trường đại học Kinh tế quốc dân- Nhà xuất bản Thống kê, năm 2005 2. Tạp chí Bảo hiểm xã hội. 3. Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2005, 2006, 2007 của cơ quan BHXH tỉnh Hải Dương. 4. Trang web: www.tapchibaohiem.com NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10436.doc
Tài liệu liên quan