TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA MÁC – LÊNIN
NGUYỄN VĂN NÒN
LỚP: ĐH5CT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGÀNH GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
ĐẢNG BỘ HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG LÃNH ĐẠO
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NAY
Giảng viên hướng dẫn
Ths. Nguyễn Thị Diệu Liêng
Long Xuyên, 5/2008
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu cùng các quý thầy cô, các cán
bộ, công nhân viên trường Đại học An Giang đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để
tôi hoàn thành khóa luận
55 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3405 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Đảng bộ huyện Chợ Mới tỉnh An Giang lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn từ năm 1996 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tốt nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô Nguyễn Thị Diệu Liêng – người
đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian tôi thực hiện
khóa luận tốt nghiệp.
Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn các cơ quan, ban ngành của
huyện Chợ Mới đã nhiệt tình cung cấp những tài liệu thiết thực và bổ ích, góp
phần thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Tác giả khóa luận
Nguyễn Văn Nòn
MỤC LỤC
Phần mở đầu 1
Phần nội dung 4
Chương 1: nông nghiệp, nông thôn và chủ trương phát triển nông nghiệp,
nông thôn của Đảng ta 5
1.1 Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển nông nghiệp,
nông thôn. 5
1.1.1 Thời kỳ 1975 – 1986. 5
1.1.2 Thời kỳ 1986 – 1996. 8
1.1.3 Thời kỳ từ năm 1996 đến nay. 9
1.2 Đảng bộ An Giang lãnh đạo phát triển nông nghiệp và nông thôn
An Giang. 17
1.2.1 Thực trạng nền nông nghiệp và nông thôn An Giang sau năm 1975. 17
1.2.2 Đảng bộ An Giang lãnh đạo phát triển nông nghiệp và nông thôn
An Giang. 20
Chương 2: Đảng bộ huyện Chợ Mới lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông
thôn từ năm 1996 đến nay. 24
2.1 Khát quát về vị trí địa lý, đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội huyện Chợ
Mới, tỉnh An Giang. 24
2.1.1 Khái quát về vị trí địa lý. 24
2.1.2 Khát quát về đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội. 26
2.2 Đảng bộ huyện Chợ Mới lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn từ
năm 1996 đến nay. 26
2.2.1 Thực trạng nền nông nghiệp và nông thôn Chợ Mới trước năm 1996. 26
2.2.2 Đảng bộ huyện Chợ Mới lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn
từ năm 1996 đến nay. 30
2.2.2.1 Thời kỳ 1996 – 2000. 30
2.2.2.2 Thời kỳ từ năm 2001 đến nay. 36
2.3 Một số kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển hơn nữa nông nghiệp và
nông thôn Chợ Mới trong thời gian tới. 44
Phần kết luận 48
Danh mục tài liệu tham khảo.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Nông nghiệp, nông thôn là một trong những lĩnh vực quan trọng của nền
kinh tế. Phát triển nông nghiệp, nông thôn đóng vai trò rất quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, đặc biệt là những nước nông nghiệp lạc hậu.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề phát triển nông nghiệp, nông
thôn, ngay sau khi nước ta vừa giành lại được độc lập và thống nhất, Đại hội đại
biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV chủ trương: “ Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta
từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ”.
Kế thừa quan điểm của Đại hội IV, Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần
thứ V khẳng định: Tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Vị trí hàng đầu của nông nghiệp được quy định bởi yêu cầu khách quan về
nông sản đối với việc thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong
chặng đường đầu tiên ở nước ta. Để nông nghiệp thực sự là mặt trận hàng đầu,
trước hết phải đổi mới cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp nhằm phá thế độc canh,
khai thác triệt để ưu thế của nông nghiệp nhiệt đới và mọi tiềm năng của các vùng
lãnh thổ.
Thực hiện chủ trương của Trung ương trong quá trình xây dựng và phát
triển nông nghiệp, nông thôn, Đảng bộ An Giang khẳng định: “Phát triển toàn
diện kinh tế nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ hàng đầu để ổn
định tình hình kinh tế - xã hội. Do vậy nếu có chủ trương, chính sách, cơ chế xây
dựng và phát triển nông thôn đúng đắn và phù hợp chắc chắn sẽ khơi dậy các
nguồn lực to lớn ở nông thôn, góp phần quyết định công cuộc đổi mới nền kinh tế
- xã hội của tỉnh với tốc độ nhanh. Nông thôn phát triển sẽ tạo điều kiện cho
thành thị phát triển. Xây dựng và phát triển nông thôn là yêu cầu bức thiết và
khách quan, là quá trình vận động đi lên toàn diện mà trung tâm là hướng tới lợi
ích chính đáng của người nông dân lao động, tất cả vì “dân giàu, nước mạnh”. Đó
Trang 1
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
cũng là cơ sở vững chắc để ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh”. [22, tr.71 - 72].
Chợ Mới là một huyện cù lao nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, phù sa bồi
đắp hàng năm, rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Quán triệt các Nghị quyết
của Trung ương và của Đảng bộ tỉnh An Giang về phát triển nông nghiệp, nông
thôn, trong thời gian dài, Đảng bộ huyện Chợ Mới đã tập trung sức lãnh đạo phát
triển nông nghiệp, nông thôn và đã thu được nhiều thành quả đáng kể: chuyển
dịch cơ cấu trong nông nghiệp được đẩy mạnh, sản phẩm nông nghiệp hết sức đa
dạng, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới, cơ sở hạ tầng nông thôn phát triển,
đời sống của nhân dân được nâng cao rõ rệt…Với những thành tựu đạt được trên
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, Chợ Mới đã có những đóng góp đáng kể vào sự
phát triển của nền nông nghiệp An Giang nói riêng và cả nước nói chung.
Đề tài về phát triển nông nghiệp, nông thôn theo đường lối đổi mới đã
được nghiên cứu và công bố nhiều, song những công trình lớn đều đề cập đến
những vấn đề trên tầm vĩ mô. Còn trên địa bàn huyện Chợ Mới thì chưa có một
công trình khoa học nào, có chăng chỉ là những bài viết mang tính chất báo cáo
hoặc trao đổi kinh nghiệm, do vậy, việc nghiên cứu sự lãnh đạo đúng đắn, sáng
tạo của Đảng bộ huyện Chợ Mới trong phát triển nông nghiệp, nông thôn từ năm
1996 đến nay chẳng những có ý nghĩa về khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn.
Đó là lý do để tôi chọn đề tài “Đảng bộ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang lãnh đạo
phát triển nông nghiệp, nông thôn từ năm 1996 đến nay” làm khóa luận tốt
nghiệp.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
2.1. Mục đích.
- Đề tài nhằm làm nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng bộ huyện Chợ Mới
trong phát triển nông nghiệp, nông thôn từ năm 1996 đến nay.
- Đề xuất một số các giải pháp để phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của
Đảng bộ huyện Chợ Mới trong phát triển nông nghiệp, nông thôn.
2.2. Nhiệm vụ.
- Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Chợ Mới trong phát triển
nông nghiệp, nông thôn từ năm 1996 đến nay.
- Tìm hiểu về sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn huyện
Chợ Mới từ năm 1996 đến nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Trang 2
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
Là một khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm chuyên ngành Lịch sử Đảng,
khóa luận chủ yếu nghiên cứu những chủ trương, chính sách và giải pháp nhằm
làm nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng bộ huyện Chợ Mới đối với nông nghiệp,
nông thôn từ năm 1996 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Khóa luận sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư
tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở phương pháp luận nghiên cứu.
- Khóa luận còn sử dụng các phương pháp phổ biến và đặc thù của chuyên
ngành Lịch sử Đảng như: Phương pháp lịch sử - lôgíc, phương pháp phân tích –
tổng hợp, phương pháp quy nạp – diễn dịch, phương pháp thống kê, so sánh,…
5. Đóng góp của khóa luận.
- Khóa luận nhằm làm nổi bật vai trò của Đảng bộ huyện Chợ Mới trong
lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn.
- Đề xuất một số các giải pháp để phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của
Đảng bộ huyện Chợ Mới trong phát triển nông nghiệp, nông thôn trong thời gian
tới.
- Khóa luận có thể là tài liệu tham khảo cho các cấp Đảng bộ huyện trong
lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn.
6. Kết cấu của khóa luận.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần
nội dung khóa luận gồm 2 chương 5 tiết.
CHƯƠNG 1: CHỦ TRƯƠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG
THÔN CỦA ĐẢNG TA
1.1 Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển nông
nghiệp, nông thôn.
1.1.1 Thời kỳ 1975 – 1996.
1.1.2 Thời kỳ từ năm 1996 đến nay.
1.2 Đảng bộ An Giang lãnh đạo phát triển nông nghiệp và nông thôn An
Giang.
1.2.1 Thực trạng nền nông nghiệp và nông thôn An Giang sau năm 1975.
1.2.2 Đảng bộ An Giang lãnh đạo phát triển nông nghiệp và nông thôn An
Giang.
Trang 3
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
CHƯƠNG 2: ĐẢNG BỘ HUYỆN CHỢ MỚI LÃNH ĐẠO PHÁT
TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TỪ NĂM 1996 ĐẾN NAY
2.1 Khát quát về vị trí địa lý, đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội huyện
Chợ Mới, tỉnh An Giang.
2.1.1 Khái quát về vị trí địa lý.
2.1.2 Khát quát về đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội.
2.2 Đảng bộ huyện Chợ Mới lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông
thôn từ năm 1996 đến nay.
2.2.1 Thực trạng nền nông nghiệp và nông thôn Chợ Mới trước năm
1996.
2.2.2 Đảng bộ huyện Chợ Mới lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông
thôn từ năm 1996 đến nay.
2.2.2.1 Thời kỳ 1996 – 2000.
2.2.2.2 Thời kỳ từ năm 2001 đến nay.
2.3 Một số kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển hơn nữa nông
nghiệp và nông thôn Chợ Mới trong thời gian tới.
Trang 4
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CHỦ TRƯƠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG
THÔN CỦA ĐẢNG TA
1.1 Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển nông nghiệp,
nông thôn.
1.1.1 Thời kỳ 1975 – 1996.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cách mạng nước ta đã chuyển sang thời
kỳ mới: cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với ba đặc điểm
lớn:
Thứ nhất, nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ phát triển tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, Tổ quốc ta đã hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ
nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của
chiến tranh và tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra.
Thứ ba, Cách mạng nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi,
song cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa các thế lực cách mạng và phản cách mạng
trên thế giới còn gay go, quyết liệt.
Từ những đặc điểm trên và xuất phát từ vai trò của ngành nông nghiệp - là
ngành sản xuất vật chất cơ bản, cung cấp cho xã hội những sản phẩm trồng trọt và
những sản phẩm chăn nuôi. Việc xây dựng nền nông nghiệp bền vững đóng vai
trò quan trọng trong việc góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế và đảm bảo nhu cầu
vật chất cơ bản cho xã hội - trong thời kỳ 10 năm đầu cả nước đi lên theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta khẳng định: nông nghiệp là cơ sở để phát triển
công nghiệp.
Nhiệm vụ hàng đầu trong thời kỳ này là phải tập trung cao độ sức của cả
nước, của các ngành, các cấp, phát huy mọi khả năng, tiềm năng về lao động, đất
đai và cơ sở vật chất – kỹ thuật, tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nông
nghiệp, lấy sản xuất lương thực, thực phẩm làm trọng tâm, đồng thời phát triển
Trang 5
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
nông nghiệp toàn diện nhằm giải quyết một cách cơ bản, vững chắc nhu cầu của
cả nước về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thông dụng.
Cần tận dụng tất cả những diện tích có thể trồng lương thực để phát triển
nhanh sản xuất lương thực, nhất là các vùng trọng điểm lúa ở các tỉnh đồng bằng
phía Bắc và phía Nam; ra sức thâm canh tăng vụ, tăng năng suất, đồng thời tích
cực phục hóa, khai hoang để mở rộng diện tích ở những nơi có điều kiện. Đặc
biệt chú trọng tập trung sức khai thác với nhịp độ nhanh những tiềm năng to lớn
về nông nghiệp của các tỉnh phía Nam, trong đó trọng điểm về lương thực, thực
phẩm là đồng bằng sông Cửu Long.
Để đưa nông nghiệp các tỉnh miền Nam tiến lên vượt bậc, một mặt cần giáo
dục nông dân nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, phát huy ưu điểm nhạy cảm
với cái mới, tiếp thu nhanh và vận dụng sáng tạo kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất,
khắc phục lối làm ăn cá thể, tự giác đi vào con đường làm ăn tập thể theo quy mô
ngày càng lớn, kết hợp ngay từ đầu hợp tác hóa với thủy lợi hóa và cơ giới hóa,
theo quy hoạch và kế hoạch của Nhà nước, lấy huyện làm địa bàn kết hợp nông –
công nghiệp. Mặt khác, trên những địa bàn kinh tế mới, cần dựa vào lực lượng có
tổ chức của quân đội làm kinh tế, vào số lao động đã được tổ chức lại từ những
nơi khác đưa tới để bắt tay ngay vào làm thủy lợi, khai phá thêm nhiều diện tích,
tạo nên những khu vực sản xuất mới theo quy hoạch và phương hướng sản xuất
được xác định hợp lý, lập ra những đơn vị kinh tế tập thể theo quy mô và hình
thức thích hợp, những nông trường quốc doanh quy mô vừa và lớn sớm đi vào
chuyên canh, thâm canh, tăng năng suất, kết hợp sử dụng cả lao động thủ công và
ngày càng nhiều lao động cơ giới, tùy tình hình cụ thể từng nơi mà kết hợp nông
nghiệp và công nghiệp; nông - lâm nghiệp và công nghiệp, hay nông - lâm -ngư
nghiệp và công nghiệp; kết hợp chặt chẽ việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật,
đưa “cách mạng xanh” vào nông nghiệp với việc tạo ra chế độ quản lý và chế độ
phân phối thích hợp.
Khẳng định tầm quan trọng của phát triển nông nghiệp, Đảng ta chủ trương:
“Cần tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức
đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp
nặng và quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công
nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý. Đó là những nội dung
Trang 6
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường trước mắt” [4,
tr.74-75].
Trong chặng đường đầu tiên của quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa, vấn đề gay gắt đặt ra là phải làm sao tăng được năng suất lao
động, tăng thu nhập quốc dân để vừa đảm bảo tiêu dùng xã hội, vừa có tích lũy;
mặt khác, làm sao tạo ra một cơ cấu sản phẩm mà tự nó hoặc thông qua xuất nhập
khẩu, có thể đáp ứng một phần quan trọng của nhu cầu tiêu dùng và tích lũy đó.
Để đạt được điều đó, phải xuất phát từ thực tiễn và tiềm năng của nước ta,
đó là lao động, đất đai, ngành nghề. Hiện chúng ta có 22 triệu lao động, trong đó,
số người chưa có công ăn việc làm chiếm tỉ lệ khá lớn, số lượng cán bộ kỹ thuật,
công nhân lành nghề khá đông. Chúng ta có 7 triệu ha đất nông nghiệp và có thể
khai phá thêm 3 triệu ha. Khả năng phát triển ngành nghề rất phong phú. Đó là
cái vốn ban đầu quý nhất của chúng ta. Bên cạnh đó, chúng ta còn có chế độ làm
chủ tập thể với cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Chế
độ làm chủ tập thể cho phép ta kết hợp lao động với đất đai, ngành, nghề, sớm tạo
ra một lực lượng sản xuất mới. Vì thế, việc có thể làm trước tiên là tập trung sức
phát triển nông nghiệp và coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, nhằm sử dụng
hợp lý và có hiệu quả lao động và đất đai, mở mang ngành nghề tại từng cơ sở,
từng huyện, trên từng địa phương và trong toàn quốc, làm cho mọi người lao
động đều có việc làm, mọi đất đai đều có thể khai thác, mọi ngành, mọi nghề đều
được phát triển. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy: không giải quyết được vấn đề
lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thì không thể thực hiện được sự phân
công, phân bố lại lao động trong toàn xã hội cũng như trong nông nghiệp. Không
tập trung sức phát triển nông nghiệp thì cũng không thể mở mang mạnh ngành
nghề, không đẩy mạnh được xuất khẩu, không làm cơ sở cho sự phát triển công
nghiệp. Tập trung sức phát triển nông nghiệp và coi nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu không có nghĩa là chỉ tập trung làm nông nghiệp. Bản thân nông nghiệp, tự
nó, không thể làm thay đổi bộ mặt của mình vì nó không thể tự trang bị kỹ thuật
cho mình được. Mặt khác, nông nghiệp muốn thực sự là cơ sở của sự phát triển
công nghiệp thì nó phải là một nền nông nghiệp sản xuất lớn. Cho nên, tập trung
sức phát triển nông nghiệp và coi nông nghiệp mặt trận hàng đầu, thực chất là
“đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong một cơ cấu
kết hợp chặt chẽ và đúng đắn nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công
nghiệp nặng”, xây dựng một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý.
Trang 7
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
Như vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu, trong nhận thức, Đảng ta đã nhận ra
được vai trò của nông nghiệp và chủ trương tập trung sức phát triển nông nghiệp.
Tuy nhiên, trên thực tế, Đảng chưa có những chủ trương, chính sách thúc đẩy
nông nghiệp phát triển, nên nông nghiệp nước ta tuy đã có chuyển biến, đạt được
một số thành tựu nhất định, nhất là về sản xuất lương thực; Nhưng, sản lượng
lương thực tăng chưa đều và chưa vững chắc; diện tích cây công nghiệp tăng
chậm, nhất là cây công nghiệp ngắn ngày; chưa gắn việc phát triển nông, lâm,
ngư nghiệp với công nghiệp chế biến; lao động, đất đai, rừng, biển chưa được sử
dụng tốt. Do đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội trong thời kỳ này nên Đảng tập
trung sức giải quyết vấn đề trước mắt là lương thực thực phẩm mà chưa có điều
kiện chú trọng phát triển nông thôn nên bộ mặt nông thôn vẫn chưa có sự thay
đổi, đời sống nông dân vẫn còn nhiều khó khăn.
Trong thời kỳ 10 năm đầu, mô hình chủ nghĩa xã hội cũ đã bộc lộ nhiều
khuyết điểm, yếu kém. Để khắc phục tình hình trên, Đại hội Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ VI (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện mà trọng tâm là
đổi mới tư duy kinh tế.
Trên lĩnh vực kinh tế, Đảng ta tiếp tục coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu,
phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn
diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Xây dựng phương án tổng
thể trên từng vùng, hình thành cơ cấu hợp lý về nông, lâm, ngư, công nghiệp phù
hợp với sinh thái vùng, gắn phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp với phát
triển ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp và công nghiệp chế biến bằng công nghệ
thích hợp; xây dựng các điểm kinh tế - kỹ thuật - dịch vụ ở từng vùng và tiểu
vùng; xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội ở nông thôn.
Trong sản xuất nông nghiệp toàn diện, đặt trọng tâm vào chương trình
lương thực - thực phẩm nhằm bảo đảm vững chắc nhu cầu trong nước và có khối
lượng xuất khẩu lớn, nhất là gạo và sản phẩm chăn nuôi.
Nông - lâm - ngư nghiệp phát triển theo hướng kinh tế hàng hoá, gắn với
công nghiệp chế biến, đáp ứng nhu cầu trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu, phát
huy lợi thế sinh thái, bảo vệ môi trường và tài nguyên.
Sản xuất nông nghiệp đi vào chuyên canh kết hợp với kinh doanh tổng hợp
nhằm đạt giá trị cao nhất trên một đơn vị diện tích. Thâm canh, tăng vụ là chính
và mở thêm diện tích ở những nơi có điều kiện. Tăng sản lượng lương thực đủ
Trang 8
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu. Tăng nhanh tỉ trọng thực phẩm và
chăn nuôi.
Phát triển và hoàn chỉnh hệ thống thuỷ lợi, giải quyết về căn bản vấn đề tưới
tiêu nước cho những vùng trọng điểm lương thực. Tận dụng phân hữu cơ, tăng
mức đáp ứng nhu cầu phân hoá học, tích cực phòng trừ sâu bệnh. Áp dụng rộng
rãi công nghệ và các biện pháp sinh học trong các khâu chính của quá trình sản
xuất nông nghiệp, hạn chế ô nhiễm môi trường và thoái hóa đất. Từng bước cơ
giới hoá có hiệu quả các khâu sản xuất chủ yếu.
Phát triển kinh tế gắn với xây dựng nông thôn mới. Phát huy tối đa tiềm
năng của kinh tế hộ nông dân, kết hợp với hoạt động có hiệu quả của các tổ chức
kinh tế hợp tác thu hút phần lớn số hộ ở nông thôn và liên kết bằng nhiều hình
thức với kinh tế quốc doanh.
Phát triển mạnh các ngành, nghề, đặc biệt là công nghiệp và dịch vụ ở
nông thôn; đưa nhanh kỹ thuật nông nghiệp và công nghệ mới đến tận hộ gia
đình; giải quyết việc làm và thay đổi cơ cấu lao động, giảm bớt số lao động sản
xuất nông nghiệp. Hình thành các điểm công thương nghiệp và văn hoá ở nông
thôn.
Nhà nước hỗ trợ xây dựng nông thôn mới chủ yếu là về xây dựng kết cấu
hạ tầng và dùng các chính sách tài chính, tín dụng, giá cả, đầu tư để khuyến
khích sản xuất, tăng thu nhập và sức mua của dân cư nông thôn.
Phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với xây dựng văn hoá mới, thực hiện
những tiến bộ xã hội, đặc biệt là về giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, thu hẹp diện
những gia đình thiếu đói và vùng thiếu đói. Kiến thiết nông thôn mới theo quy
hoạch.
Trong thời kỳ 10 đầu thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta tiếp tục đầu tư
cho phát triển nông nghiệp, đề ra chủ trương và biện pháp phát triển nông
nghiệp toàn diện. Bên cạnh đó, Đảng ta bước đầu đã có sự chú ý đến việc đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, bộ mặt nông thôn từng bước đã có sự thay
đổi.
1.1.2 Thời kỳ từ năm 1996 đến nay.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước đã đạt được những
thành tựu đáng kể, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, hoàn thành nhiệm vụ
cơ bản tạo tiền đề cho công nghiệp hóa. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần
thứ VIII (6/1996) chủ trương đưa nước ta chuyển sang thời kỳ mới – đẩy mạnh
Trang 9
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mà trọng tâm là công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Thực hiện tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần VIII,
từ năm 1996 đến nay, Đảng đã đề ra những chủ trương, chính sách lớn để phát
triển nông nghiệp:
Đẩy mạnh thâm canh lúa, từng bước hình thành các vùng tập trung sản xuất
lúa năng suất, chất lượng cao gắn với chế biến, bảo quản sau thu hoạch để nâng
cao hiệu quả sản xuất lúa gạo và đẩy mạnh xuất khẩu.
Khuyến khích kinh tế hộ, hợp tác xã và trang trại chăn nuôi quy mô vừa và
lớn, chú trọng khâu giống và công nghiệp chế biến, thị trường xuất khẩu sản
phẩm chăn nuôi; thực hiện các biện pháp để nâng cao năng suất và hạ giá thành,
đưa chăn nuôi thực sự trở thành ngành sản xuất chính trong nông nghiệp.
Có chính sách khuyến khích mạnh các nguồn vốn của dân cư, các doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, dành một tỉ lệ quan trọng các nguồn
vốn Nhà nước huy động để đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn; hình
thành các tổ hợp công – nông – dịch vụ ở những địa bàn có điều kiện.
Kinh tế hộ gia đình ở nông thôn (làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,
dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp…hoặc kết hợp làm nhiều ngành nghề) là loại hình
tổ chức sản xuất có hiệu quả về kinh tế - xã hội, tồn tại, phát triển lâu dài, có vị
trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn. Tiếp tục khuyến khích kinh tế hộ phát triển mạnh
để tạo ra lượng sản phẩm hàng hóa đa dạng có chất lượng, giá trị ngày càng cao,
tăng thu nhập cho mỗi gia đình nông dân, cải thiện đời sống mọi mặt ở nông
thôn, cung cấp sản phẩm cho đô thị, công nghiệp hóa và xuất khẩu, đồng thời
thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngay từ kinh tế hộ.
Sớm hoàn thành việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng
đất để ổn định lâu dài cho hộ nông dân; mở rộng việc cho nông dân vay vốn
bằng nhiều hình thức phù hợp với từng loại cây trồng, vật nuôi nhằm hỗ trợ
đúng lúc, đúng đối tượng thật sự có nhu cầu và khả năng sử dụng có hiệu quả
vốn vay, trước hết chú trọng nhu cầu giống, các vật tư thiết yếu, dịch vụ kỹ
thuật; gắn việc hình thành vùng nguyên liệu với các cơ sở chế biến; có cơ chế và
hình thức tổ chức thích hợp để tạo sự gắn bó về tổ chức và lợi ích giữa các cơ sở
chế biến với đơn vị sản xuất nguyên liệu. Đẩy mạnh công tác khuyến nông,
Trang 10
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
khuyến lâm, khuyến ngư, hỗ trợ nông dân vươn lên sản xuất hàng hóa với quy
mô ngày càng lớn, gắn với công nghiệp và dịch vụ.
Kinh tế hộ phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa là cơ sở để hình thành
và phát triển kinh tế hợp tác liên kết với kinh tế hộ theo yêu cầu mới nhằm tạo ra
năng suất, chất lượng cao hơn, đem lại lợi ích thiết thực cho nông dân và xã hội.
Hoạt động của các hợp tác xã gắn với kinh tế hộ vừa có tác dụng hỗ trợ, tạo
điều kiện để kinh tế hộ phát triển, vừa góp phần phát huy hiệu quả đầu tư của
nhà nước trên từng địa bàn (nhất là về thủy lợi và khoa học kỹ thuật…). Khuyến
khích các hợp tác xã, hộ gia đình, các thành phần kinh tế, phát triển các hình
thức liên kết, hợp tác trên cơ sở tự nguyện, theo quy định của pháp luật.
Tổng kết, đánh giá đầy đủ hơn tình hình phát triển kinh tế hợp tác và thực
hiện Luật hợp tác xã để định hướng và thúc đẩy kinh tế hợp tác và hợp tác xã
phát triển theo định hướng đa dạng, trên cơ sở tự nguyện của nông dân và sự hỗ
trợ của nhà nước.
Tập trung chỉ đạo thực hiện với bước đi vững chắc và phù hợp việc chuyển
đổi các hợp tác xã nông nghiệp theo Luật hợp tác xã. Đối với các hợp tác xã khá
và trung bình, tiếp tục hỗ trợ giải quyết các vướng mắc về tài sản, vốn quỹ, cho
vay vốn, đào tạo cán bộ chuyên môn, quản lý… để chuyển đổi thành hợp tác xã
mới. Đối với những hợp tác xã yếu kém, đã có nhiều biện pháp hỗ trợ vẫn không
khắc phục được, nếu xã viên có nguyện vọng thì xem xét từng trường hợp, có
thể giải thể hoặc hướng dẫn và giúp đỡ nông dân hình thành tổ chức kinh tế hợp
tác phù hợp. Xem xét giải quyết dứt điểm công nợ tồn đọng để tạo điều kiện tổ
chức lại các hợp tác xã.
Khuyến khích các hợp tác xã nông nghiệp chuyển dịch cơ cấu ngành nghề,
phát triển thành các hợp tác xã nông nghiệp sản xuất, kinh doanh dịch vụ tổng
hợp.
Ở những nơi chưa có hợp tác xã nông nghiệp, cần làm tốt công tác tuyên
truyền, hỗ trợ, khuyến khích hình thành các loại hợp tác hướng vào dịch vụ sản
xuất và đời sống theo nhu cầu nông dân.
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho kinh tế hợp tác và hợp tác xã.
Có cơ chế để nhân dân lựa chọn bầu những người có năng lực, kinh nghiệm,
phẩm chất tốt tham gia quản lý các tổ chức kinh tế hợp tác.
Hoạt động kinh tế nhà nước trong nông nghiệp hướng vào việc làm dịch vụ
đầu vào, đầu ra; đầu tư vào các lĩnh vực, các địa bàn mà các thành phần khác
Trang 11
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
không đủ sức hoặc không muốn đầu tư; hoặc để hỗ trợ cho các thành phần kinh
tế khác cùng phát triển, trước hết là các lĩnh vực: thủy lợi, cơ khí, điện, xây dựng
cơ sở hạ tầng; khoa học – công nghệ; công nghiệp chế biến và kinh doanh xuất
nhập khẩu các mặt hàng nông, lâm, hải sản.
Sắp xếp lại những doanh nghiệp yếu kém và chọn lọc tổ chức thêm một số
doanh nghiệp quốc doanh mới đủ mạnh để đảm bảo vai trò chủ đạo trong các
khâu cung cấp giống, vật tư, hướng dẫn kỹ thuật, chế biến và tiêu thụ nông sản.
Khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước hợp đồng dài hạn với nông dân, với
các hợp tác xã để cung ứng vật tư, nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm, tạo mối liên
kết, ổn định lâu dài với nông dân.
Củng cố các tổ chức thương nghiệp nhà nước kinh doanh các mặt hàng
quan trọng và thiết yếu trên địa bàn nông thôn. Đa dạng hóa các hình thức liên
kết giữa thương nghiệp nhà nước với hợp tác xã và các thành phần kinh tế khác,
bám sát thị trường, giải quyết tốt đầu ra, có lực lượng dự trữ đủ sức can thiệp thị
trường khi cần thiết bằng các biện pháp kinh tế nhằm hạn chế cao nhất sự đột
biến giá cả. Chống đầu cơ, không để nông dân bị ép cấp, ép giá khi mua vật tư
và bán sản phẩm.
Hiến pháp, Luật đất đai năm 1993 và các nghị quyết của Đảng đã khẳng
định đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai
theo quy hoạch, kế hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích, có hiệu
quả. Nhà nước giao đất, cho thuê đất để các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân ổn
định sử dụng lâu dài. Nhà nước định giá đất một cách công khai, căn cứ vào
từng loại đất, từng vùng và mức đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng… làm cơ sở để
xây dựng chính sách chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mức đền bù khi thu hồi
đất, thế chấp khi vay vốn…
Về tích tụ ruộng đất: Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất là hiện tượng
sẽ diễn ra trong quá trình phát triển nông nghiệp lên sản suất hàng hóa lớn, thực
hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lao động xã hội trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc tích tụ và tập trung ruộng đất phải
được kiểm soát, quản lý chặt chẽ của Nhà nước, phù hợp với quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và trình độ phát triển của công nghiệp, dịch vụ, từng bước
chuyển dần từ lao động nông nghiệp sang công nghiệp, ngành nghề, dịch vụ và
xu hướng phát triển các hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, không để
quá trình này diễn ra tự phát làm cho người nông dân mất ruộng mà không tìm
Trang 12
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
được việc làm, trở thành bần cùng hóa. Bằng nhiều biện pháp thiết thực tạo điều
kiện để mọi người nông dân chủ yếu sống bằng nghề nông có đất để sản xuất.
Đẩy mạnh việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định
lâu dài cho nông dân, giải quyết những tranh chấp và khiếu kiện về đất đai; đảm
bảo mỗi khoảnh đất, khoảnh rừng đều có chủ quản lý hợp pháp, cụ thể.
Phát triển thủy lợi là biện pháp hàng đầu để thâm canh, tăng vụ và khai
thác các vùng đất mới.
Đầu tư đúng mức cho việc phát triển khoa học, công nghệ trong lĩnh vực
nông nghiệp và nông thôn, nhất là áp dụng các thành tựu của sinh học hiện đại.
Ưu tiên đầu tư nghiên cứu và áp dụng giống mới, nhất là các giống lúa chất
lượng cao phục vụ xuất khẩu, lúa cạn, các loại rau quả, cây nguyên liệu, vật
nuôi, tạo ra khâu đột phá về năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của
sản phẩm nông nghiệp trên thị trường khu vực và thế giới.
Chú trọng việc chấn chỉnh tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ
thống viện nghiên cứu, các trung tâm, tổ chức sự nghiệp khoa học trong nông,
lâm, ngư nghiệp.
Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích phát triển công nghệ chế biến, bảo
quản để giảm tổn thất sau thu hoạch, nâng cao chất lượng sản phẩm; hỗ trợ và
tạo điều kiện để đẩy mạnh việc nghiên cứu, sản xuất các loại máy móc, thiết bị,
công cụ phục vụ sản xuất chế biến nông, lâm, thủy, hải sản.
Từng bước tăng đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn. Trước hết tập trung
đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng (đường, thủy lợi, điện, trường học,
trạm xá…) ở nông thôn, chú ý các vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Khuyến khích
nhân dân, các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia ._.đầu tư vào các lĩnh vực
trực tiếp phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nghiên cứu phương án để
đạt tỉ lệ thỏa đáng các nguồn thu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp cho ngân sách
xã và huyện (nhất là xã) để đầu tư lại cho nông nghiệp, nông thôn. Có chính
sách và quy định cụ thể để huy động hợp lý sự đóng góp của nhân dân vào việc
xây dựng nông thôn. Rà soát, xóa bỏ các loại phí, các khoản đóng góp đặt ra tùy
tiện, trái pháp luật.
Mở rộng tín dụng, tăng dần vốn vay trung và dài hạn, đáp ứng yêu cầu vốn
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; thực hiện chính sách
ưu đãi về lãi suất và có thời hạn trả nợ riêng đối với tín dụng cho các chương
trình ưu tiên về phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Trang 13
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
Chuyển đổi nhanh chóng cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông
thôn; xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh phù hợp với tiềm
năng và lợi thế về khí hậu, đất đai và lao động của từng vùng, từng địa phương.
Ứng dụng nhanh khoa học và công nghệ vào sản xuất, nhất là ứng dụng công
nghệ sinh học; gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến; gắn sản xuất với thị
trường tiêu thụ; hình thành sự liên kết nông - công nghiệp - dịch vụ ngay trên
địa bàn nông thôn.
Tích cực khai hoang mở rộng diện tích canh tác ở những nơi còn đất hoang
hoá chưa được sử dụng, phân bố lại lao động dân cư; giảm nhẹ tác động của
thiên tai đối với sản xuất.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X (tháng 4/2006) khẳng định: hiện
nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn vẫn có
tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải luôn luôn coi trọng đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền
nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất,
chất lượng và khả năng cạnh tranh cao; bảo đảm vững chắc an ninh lương thực và
tạo điều kiện từng bước hình thành nền nông nghiệp sạch; phấn đấu giá trị tăng
thêm trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng 3 - 3,2%/năm. Tốc độ phát triển
công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn không thấp hơn tốc độ bình quân cả nước.
Gắn phát triển kinh tế với xây dựng nông thôn mới, giải quyết tốt hơn mối quan
hệ giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền, góp phần giữ vững ổn định
chính trị xã hội.
Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông
thôn, chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả
kinh tế cao; đẩy mạnh thâm canh các loại cây trồng trên cơ sở áp dụng các quy
trình sản xuất đồng bộ và tiên tiến; quy hoạch diện tích sản xuất lương thực ổn
định; phát triển mạnh chăn nuôi theo hướng quy mô lớn, an toàn dịch bệnh và
bền vững về môi trường. Xây dựng các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập
trung gắn với việc chuyển giao công nghệ sản xuất và chế biến, khắc phục tình
trạng sản xuất manh mún, tự phát.
Cùng với chủ trương về phát triển nông nghiệp, Đảng ta cũng đề ra nhiều
chủ trương, chính sách để xây dựng và phát triển nông thôn:
Thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, phát triển công nghiệp
chế biến và dịch vụ để thu hút nhiều lao động, giải quyết việc làm cho lao động
Trang 14
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
nông thôn. Đồng thời, có quy hoạch phân bố lại lao động, dân cư trong từng địa
phương và trên phạm vi cả nước.
Thực hiện tốt chính sách, chương trình quốc gia về xóa đói, giảm nghèo ở
nông thôn. Tổng kết, có biện pháp cụ thể để hạn chế mức chênh lệch về thu nhập
và đời sống giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng
trong phạm vi cả nước, trước hết cần tập trung xóa đói, giảm nghèo cho trên
1700 xã đặc biệt khó khăn.
Thực hiện tốt các chủ trương, chính sách về phát triển giáo dục đào tạo, y
tế, văn hóa và sinh đẻ có kế hoạch trên địa bàn nông thôn, nâng cao dân trí, nâng
cao trình độ khoa học kỹ thuật, tư tưởng, đạo đức, văn hóa, lối sống, sức khỏe
dân cư, phát triển nguồn nhân lực được đào tạo để đẩy mạnh công cuộc đổi mới
và phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn.
Phát triển mạnh ngành, nghề và kết cấu hạ tầng ở nông thôn, tạo thêm
việc làm mới để chuyển lao động nông nghiệp sang làm ngành, nghề phi nông
nghiệp, nâng cao đời sống của dân cư nông thôn.
Mở mang các làng nghề, phát triển các điểm công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, đưa công nghiệp sơ chế và chế biến về
nông thôn và vùng nguyên liệu; phát triển lĩnh vực dịch vụ cung ứng vật tư kỹ
thuật, trao đổi nông sản hàng hoá ở nông thôn,... tăng nhanh việc làm cho khu
vực phi nông nghiệp. Tiếp tục chương trình xoá đói, giảm nghèo, chú trọng phát
triển các đô thị nhỏ, các điểm bưu điện, văn hoá ở làng, xã, các trung tâm văn
hoá cụm xã. Đảm bảo an toàn xã hội, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở nông thôn.
Đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, nhất là những
ngành nghề sử dụng nhiều lao động, coi đây là hướng chính để tạo ra nhiều việc
làm mới, góp phần tăng nhanh thu nhập cho nông dân. Phát triển mạnh công
nghệ bảo quản, chế biến, giảm nhanh tổn thất sau thu hoạch, đồng thời nâng cao
nhanh giá trị gia tăng cho các loại nông, lâm, thủy sản, nhất là sản phẩm xuất
khẩu chủ lực.
Thực hiện các giải pháp đồng bộ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, nhất là đưa nhanh
khoa học và công nghệ vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp; có chính sách đủ
mạnh để khuyến khích phát triển nhanh các doanh nghiệp và hoạt động dịch vụ
ở nông thôn; tiếp tục đầu tư phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội ở
Trang 15
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
nông thôn; tập trung giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc và xây dựng nông
thôn mới.
Tạo điều kiện thuận lợi hơn để giúp nông dân chuyển sang làm ngành nghề
và dịch vụ. Phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp
nhỏ và vừa trong công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; phát triển các làng nghề.
Khuyến khích nông dân bằng đóng góp quyền sử dụng đất và lao động của mình
hợp tác với các doanh nghiệp, hợp tác xã, các chủ trang trại để phát triển sản
xuất hàng hoá, ổn định và cải thiện đời sống. Khuyến khích hơn nữa đầu tư nước
ngoài vào nông nghiệp, nông thôn.
Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước và đa dạng các nguồn vốn để phát triển
mạnh kết cấu hạ tầng nông thôn; thúc đẩy cơ giới hoá, hiện đại hoá nông thôn.
Ưu tiên nâng cấp và xây dựng mới các hệ thống thuỷ lợi đồng bộ đi đôi với đổi
mới và nâng cao hiệu quả quản lý để khai thác có hiệu quả các công trình đã đưa
vào sử dụng, đáp ứng nhu cầu về nước cho nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản,
cho công nghiệp, dịch vụ và nước cho sinh hoạt ở nông thôn. Củng cố hệ thống
hồ, đập, đê, kè ven sông, ven biển; nâng cấp các hệ thống cảnh báo, chủ động
phòng chống lụt bão và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường nước.
Đẩy nhanh việc đầu tư xây dựng để hoàn thành có chất lượng chương trình cụm
tuyến dân cư vùng ngập lũ ở đồng bằng Sông Cửu Long. Tiếp tục đầu tư phát
triển giao thông nông thôn, bảo đảm các xã đều có đường ô tô tới khu trung tâm,
từng bước phát triển đường ô tô tới thôn, bản. Phấn đấu đến năm 2010, trên 90%
hộ dân cư nông thôn có điện sinh hoạt, trên 75% dân cư nông thôn có nước sạch.
Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân và cho lao động nông
thôn, nhất là các vùng Nhà nước thu hồi đất để xây dựng kết cấu hạ tầng và phát
triển các cơ sở phi nông nghiệp. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông
thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng
lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Nhà nước đầu tư nhiều hơn và phát huy
khả năng trợ giúp của xã hội để thực hiện tốt xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn,
đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa. Giải quyết ổn định vấn đề lương thực cho các
hộ thuộc diện nghèo, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số.
Xây dựng hoàn chỉnh các quy hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Tổ chức chương trình xây dựng nông thôn mới nhằm xây dựng các làng, xã, ấp,
bản có cuộc sống văn minh, sạch đẹp, gắn với việc hình thành các khu dân cư đô
thị hoá. Phát huy dân chủ đi đôi với xây dựng nếp sống văn hoá, bài trừ các tệ nạn
Trang 16
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
xã hội ở nông thôn; gìn giữ và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của
các dân tộc.
Thời kỳ từ năm 1996 đến nay, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước mà trọng tâm là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn, nâng cao chất lượng sản phẩm hướng đến sản xuất
hàng hóa lớn và một nền nông nghiệp sạch. Song song với đầu tư phát triển nông
nghiệp, Đảng ta chú trọng đầu tư đồng bộ xây dựng nông thôn mới.
Như vậy, qua 30 năm xây dựng và phát triển đất nước, xuất phát từ đặc điểm
nước ta, Đảng đã sớm nhận thức được sự cần thiết phải phát triển nông nghiệp,
nông thôn. Tuy vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu cả nước đi lên theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, do vấn đề lương thực trở thành vấn đề gay gắt, nóng bỏng nên
Đảng tập trung sức phát triển nông nghiệp và do vậy vấn đề phát triển nông thôn
chưa được quan tâm giải quyết một cách thỏa đáng. Từ năm 1996 đến nay, với
những thành tựu đạt được sau 10 năm đổi mới, Đảng đã tập trung sức đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn bằng nhiều chính sách lớn.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng nền nông nghiệp nước ta đã phát triển vượt bậc và bộ
mặt nông thôn Việt Nam có nhiều thay đổi đáng kể.
1.2 Đảng bộ An Giang lãnh đạo phát triển nông nghiệp và nông thôn An
Giang.
1.2.1 Thực trạng nền nông nghiệp và nông thôn An Giang sau 1975.
An Giang là tỉnh nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long, có 68% diện
tích thuộc vùng tứ giác Long Xuyên. Thời tiết tuy có mặt thuận lợi, nhưng cũng
rất khắc nghiệt vì An Giang chịu ảnh hưởng của chế độ lũ sông Cửu Long.
Khoảng 5 – 7 năm thường có một trận lũ lớn. Dân cư phân bố tự nhiên không hợp
lý, tập trung ở các huyện cù lao như Chợ Mới, Phú Tân, Tân Châu và thưa thớt ở
Thoại Sơn, Tri Tôn, Tịnh Biên; Do vậy, tập quán xâm canh và quảng canh ảnh
hưởng lớn đến tập quán canh tác của người nông dân An Giang.
Cho đến năm 1975, An Giang có hơn 34% dân phi nông nghiệp, với tập
quán canh tác hơn 180.000 ha lúa nổi một vụ năng suất thấp. Sản lượng lúa hàng
năm chỉ trên dưới 300.000 tấn (trước 1976). Nạn đói giáp hạt thường xuyên đe
dọa cuộc sống của người nông dân. Ngay năm 1975, Trung ương phải chi viện
cứu đói 5000 tấn lương thực và vài năm sau đó hàng năm phải cứu đói cho hơn
3000 hộ.
Trang 17
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
Cũng như các tỉnh khác của đồng bằng sông Cửu Long, từ năm 1976 đến
năm 1980 là thời kỳ An Giang tập trung giải quyết các hậu quả nặng nề do chiến
tranh để lại, vừa lo phát triển kinh tế, vừa lo ổn định chính trị. Trên lĩnh vực kinh
tế và đời sống, An Giang tập trung phát triển nông nghiệp, đặc biệt là tập trung
cho việc chuyển đổi lúa một vụ thành hai vụ lúa cao sản ngắn ngày. Thủy lợi
được xem là biện pháp hàng đầu trong phát triển nông nghiệp, chuyển vụ và thâm
canh.
Đây cũng là thời kỳ An Giang gặp rất nhiều khó khăn, do thiên tai, do địch
họa, do cơ chế chính sách tập trung quan liêu bao cấp và do yếu kém về mặt tổ
chức.
Năm 1977, hạn hán kéo dài, năm 1978 - 1979 là 2 năm An Giang liên tiếp bị
lũ lớn và phải đối phó với chiến tranh biên giới Tây Nam. Tất cả đã ảnh hưởng
nặng nề đến sản xuất và đời sống của người dân An Giang. Hơn 300.000 dân phải
sơ tán và hơn 70.000 ha ruộng bị bỏ hóa.
Trong tình hình phức tạp đó, An Giang vừa lo phát triển sản xuất, ổn định
đời sống dân cư, giữ gìn an ninh chính trị, vừa lo khắc phục hậu quả của chiến
tranh biên giới, của thiên tai, lại vừa phải bắt đầu tiến hành việc cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với nông nghiệp.
Quá trình cải tạo nông nghiệp ở An Giang đã gắn với điều chỉnh ruộng đất.
Đến năm 1985, Ban chỉ đạo vận động điều chỉnh ruộng đất đã thu hồi, điều chỉnh
chia cấp 60.255 ha cho 75.588 hộ nông dân không có đất hoặc thiếu đất sản xuất.
Quá trình điều chỉnh và phân chia ruộng đất đã mang lại cho nhiều nông dân
nghèo có đất để sản xuất. Song, thực chất đó là quá trình chia bình quân ruộng đất
cho mọi người theo kiểu “cào bằng”: lấy ruộng của trung nông đem chia mà
không tính đến việc bồi hoàn. Khi chia, không những chia cho dân nghèo, mà còn
chia cho cả những người không biết làm ruộng, chỉ quen sống ở thành thị; Có
người nhận được đất nhưng lén lút cầm cố sang nhượng vì không quen hoặc
không đủ vốn sản xuất; Có trường hợp cán bộ lợi dụng bao chiếm đất đai hoặc
làm ăn theo kiểu phát canh thu tô.
Các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất được tổ chức dựa trên tập thể hóa về
ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác, ban quản lý trực tiếp điều hành toàn bộ
quá trình sản xuất, ăn chia, phân phối, làm cả chức năng của chính quyền ấp và
những chức năng xã hội ở nông thôn. Sản phẩm làm ra một phần để nộp thuế cho
Nhà nước, lập các loại quỹ của tập thể, phần còn lại phân phối theo định lượng
Trang 18
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
cho mỗi người, còn thừa phải bán lại cho Nhà nước với giá quy định. Công tác tổ
chức, quản lý và phân phối của hợp tác xã vừa cào bằng, vừa không đúng tính
chất là tổ chức kinh tế hợp tác.
Mô hình hợp tác hóa lúc bấy giờ đã góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp
phát triển và làm cho một bộ phận nông dân nghèo có đất sản xuất, tuy vậy, mô
hình trên cũng bộc lộ nhiều nhược điểm:
Tập thể hóa ruộng đất và chia đều ruộng đất cho mọi người đã hạn chế phát
triển kinh tế hộ - đơn vị sản xuất có hiệu quả nhất ở nông thôn, đặc biệt là đã
đánh giá không đúng vị trí của trung nông và kinh tế trung nông, nhân tố cơ bản
trong phát triển kinh tế nông thôn: Người có kinh nghiệm, có vốn, làm ruộng có
hiệu quả lại không đủ ruộng để sản xuất, còn người xưa nay không làm ruộng,
không biết làm ruộng lại được giao ruộng để sản xuất.
Tập thể hóa đã tách người lao động khỏi tư liệu sản xuất: Ruộng đất, máy
móc là nguồn sống của nông dân, nhưng lại giao cho ban quản lý điều hành. Song
những tư liệu sản xuất ấy cũng không thuộc về người quản lý, do đó trở thành vô
chủ, vì vậy, tư liệu sản xuất bị lạm dụng, bị hủy hoại. Sản xuất trên ruộng khoán,
nông dân không quý trọng ruộng đất, không muốn đầu tư, bồi bổ để tăng độ phì
nhiêu của đất, một số người bỏ đất hoang. Cán bộ thì lợi dụng, chiếm dụng đất
đai.
Hình thức tổ chức nói trên đã làm cho người lao động trở thành bị động,
phụ thuộc vào người quản lý, mất tính sáng tạo. Mọi biến động của thiên nhiên,
thời tiết ảnh hưởng đến cây trồng, vật nuôi, việc phòng trừ sâu bệnh không được
phát hiện và diệt trừ kịp thời.
Cơ chế kinh tế như trên đã làm tha hóa con người. Người lao động bị tha
hóa và người quản lý cũng tha hóa. Việc tập thể hóa tư liệu sản xuất đã làm cho
người lao động thờ ơ, không quan tâm và hủy hoại chúng. Từ người lao động cần
cù, một nắng hai sương với đồng ruộng, yêu mến cây trồng, vật nuôi đã trở thành
người lao động lười biếng, thụ động, xa lánh đồng ruộng. Người quản lý thì quan
liêu, tham nhũng, lợi dụng chức quyền… Kết quả là năng suất và sản lượng tăng
chậm, đặc biệt là trong nông nghiệp, từ năm 1982 đến 1987, sản xuất nông nghiệp
toàn tỉnh chỉ tăng 4%/năm. Sản lượng lương thực năm 1986 giảm hơn so với năm
1985, trên 10.000 ha bị hoang hóa, máy móc nông nghiệp bị giảm sút nghiêm
trọng, lao động thất nghiệp và số người sống dưới mức trung bình còn nhiều. Đời
sống của người dân An Giang nói chung, của nông dân An Giang nói riêng gặp
Trang 19
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
nhiều khó khăn, xã hội phát sinh nhiều tiêu cực, lòng tin của nhân dân đối với sự
lãnh đạo của Đảng bị giảm sút.
1.2.2 Đảng bộ An Giang lãnh đạo phát triển nông nghiệp và nông thôn
An Giang.
Khắc phục những hạn chế của nền nông nghiệp trong thời kỳ 10 năm đầu,
Đại hội Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ IV( tháng 10/1986) đã nghiêm túc đánh
giá tình hình và đề ra các chủ trương giải pháp để tháo gỡ ách tắc trong quá trình
phát triển kinh tế-xã hội. Đảng bộ đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, đổi mới cách
nghĩ và cách làm, xác định những chủ trương, giải pháp để chỉ đạo về sản xuất,
chấn chỉnh những vấn đề không phù hợp về cải tạo quan hệ sản xuất đối với nông
nghiệp.
Năm 1987 là thời điểm Đảng bộ tỉnh An Giang tập trung đổi mới tư duy về
các vấn đề kinh tế - xã hội. Quán triệt quan điểm của Đại hội đại biểu Đảng toàn
quốc lần thứ VI và Đại hội tỉnh Đảng bộ An Giang lần thứ IV, ngay trong những
năm đầu, An Giang đã tập trung cố gắng tháo gỡ mọi trở lực, đề ra các giải pháp
để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích lũy; trong đó,
nông nghiệp được xác định là nền tảng và là mặt trận hàng đầu, nông dân là chủ
thể của quá trình đổi mới và nông thôn là địa bàn chiến lược. Nhiều người gọi tắt
đó là: “Tư tưởng tam nông” hay “Chính sách tam nông” của An Giang.
Nghị quyết về nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế - xã hội năm 1987 khẳng định:
“…Phải tạo ra một sự chuyển biến mạnh mẽ về đổi mới tư duy toàn diện nhất là
đổi mới tư duy kinh tế, đi đôi với kiên quyết xóa bỏ cơ chế hành chính tập trung
quan liêu bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ
nghĩa; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động, thật sự “lấy dân làm gốc”, lấy chăm lo phát triển sản xuất,
cuộc sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu…”.
Về sản xuất nông nghiệp, An Giang chủ trương: Thực hiện chính sách giao
đất ruộng và đất núi hoang hóa cho gia đình và tập thể, xóa khái niệm “xâm
canh”, cho phép nông dân trong tỉnh được khai hoang, phục hóa rộng rãi và miễn
thuế theo chính sách. Ai có vốn, lao động thì cho nhận đất để sản xuất, trồng
tràm, trồng cây công nghiệp dài ngày có giá trị xuất khẩu và cây lấy gỗ với diện
tích rộng và thời gian dài.
Đầu năm 1988, Tỉnh ủy An Giang ra Nghị quyết 06/NQTU chủ trương:
khuyến khích người có vốn mua sắm phương tiện, máy móc nông nghiệp để kinh
Trang 20
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
doanh dịch vụ và được quyền bán lại. Chủ phương tiện chỉ đóng lệ phí hoạt động
một lần tại nơi cư trú. Với chủ trương trên, trang thiết bị máy móc trong ngành
nông nghiệp tăng lên đáng kể, cũng từ đó, chấm dứt tình trạng sạ chay, chấm dứt
tình trạng khô ruộng, diện tích đất được cày xới và tưới tiêu hoàn chỉnh tăng lên.
Tốc độ cơ giới hóa trong nông nghiệp tăng nhanh và An Giang là một trong
những tỉnh ở miền Nam có tỉ trọng cơ giới hóa cao.
Khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân như Luật Đất đai quy định nhưng
phải giao cho nông dân quyền sử dụng lâu dài; được phép sang nhượng, kế thừa
huê lợi và thành quả lao động trên đất đó; song không được bao chiếm hoặc cho
mướn theo kiểu bóc lột. Việc giải quyết đất đai phải ổn định theo hướng phát
triển sản xuất hàng hóa, thúc đẩy quá trình sản xuất nông nghiệp trong tỉnh đi lên
bằng nhiều biện pháp: kinh tế, giáo dục vận động và hành chính, đảm bảo sử
dụng đất có hiệu quả, giữ vững đoàn kết nông thôn.
Ngay từ năm 1988, An Giang chủ trương đẩy mạnh việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho nông dân một cách ổn định và lâu dài. Đến cuối năm
1997, An Giang đã cơ bản hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Đây là một trong những nhân tố giải phóng sức sản xuất, tạo tiền đề và điều
kiện để sản xuất nông nghiệp phát triển.
Về phương thức cung ứng vật tư, mua lương thực và nông sản… Nhà nước
bán vật tư cho nông dân theo giá kinh doanh, nguồn nào hạch toán đúng và đủ
theo nguồn đó. Đồng thời, mua lại lương thực nông sản của nông dân theo giá
thỏa thuận. Chấm dứt việc cung ứng vật tư bằng phương pháp hợp đồng trước
(gọi là hợp đồng B).
Ủy ban nhân dân tỉnh điều hành và quản lý thống nhất ngân sách tỉnh. Đồng
thời tỉnh điều động, bổ sung cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kinh
nghiệm và nghiệp vụ kinh doanh về củng cố và tăng cường các công ty cấp tỉnh
như lương thực, thương nghiệp, xuất khẩu nông thủy sản, vật tư nông nghiệp,
dịch vụ kỹ thuật…để những công ty này có đủ khả năng và sức cạnh tranh trên thị
trường không chỉ trong tỉnh mà còn vươn ra ngoài tỉnh. Nhiệm vụ của những
công ty này là thông qua kinh doanh dịch vụ đáp ứng tốt nhất yêu cầu đầu vào và
đầu ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân nhằm mục tiêu chung của
tỉnh là phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Thực hiện Quyết định 99/TTg (9/2/1996) của Thủ tướng Chính phủ về định
hướng dài hạn và kế hoạch 5 năm 1996 – 2000 đối với việc phát triển thủy lợi,
Trang 21
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
giao thông và xây dựng nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long, An Giang
tiếp tục đầu tư cho các công trình thủy lợi, nạo vét kênh mương bị bồi lắng, phát
triển giao thông nông thôn, tôn nền nhà vượt lũ…
Trên cơ sở phát triển thủy lợi, tỉnh cũng quan tâm đầu tư phát triển mạng
lưới giao thông nông thôn và xây dựng các cơ sở hạ tầng khác như trường học,
trạm y tế, chợ, phát triển mạng lưới cung cấp điện, nước sinh hoạt nông thôn.
Những chủ trương và giải pháp trên lĩnh vực nông nghiệp đã tạo điều kiện
thuận lợi để nông nghiệp An Giang tiếp tục phát triển. Điều đáng lưu ý là có sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, sản phẩm kinh tế nông nghiệp và nông
thôn được đa dạng hóa, đã xuất hiện những ngành nghề mới với xu hướng liên kết
nhau. Thành phần và sở hữu cũng bắt đầu đa dạng hóa và đang theo xu hướng
hợp tác liên doanh, nền kinh tế nông nghiệp An Giang đã và đang chuyển dần từ
nền kinh tế mang tính chất tự cung tự cấp sang nền kinh tế mang tính chất hàng
hóa hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Coi trọng công tác tìm kiếm, khai thác và có cơ chế, chính sách tổ chức tốt
thị trường trong và ngoài nước; xem đây là mũi đột phá và có ý nghĩa quyết định
cho sự phát triển kinh tế của tỉnh.
Chú trọng việc ứng dụng thành tựu khoa học vào sản xuất và đời sống, tăng
hàm lượng chất xám kết tinh trong các sản phẩm và phục vụ yêu cầu chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao giá trị khu vực I, tăng nhanh tỷ trọng khu vực
II, III. Phát triển mạnh ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ du lịch, xuất khẩu
và kinh tế biên giới.
Tập trung đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực trên các mặt trí tuệ, kỹ năng,
đạo đức và thể lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ
mới; chú trọng cán bộ quản lý khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ, lực lượng lao động,
những chuyên gia và doanh nhân giỏi. Tiếp cận và triển khai nhanh các điều kiện
cần thiết để đưa hoạt động công nghệ thông tin vào sản xuất và đời sống xã hội.
Tăng trưởng kinh tế đi liền với từng bước cải thiện đời sống vật chất và văn
hóa, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, giải quyết việc làm và xóa đói giảm
nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội. Đầu tư xây dựng nông thôn mới, đẩy mạnh đô
thị hóa gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lại lao động xã hội.
Mục tiêu về xây dựng và phát triển nông thôn của An Giang là: xây dựng
một xã hội nông thôn ấm no hạnh phúc và phát triển toàn diện. Đó là một cơ cấu
Trang 22
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
xã hội có cơ cấu kinh tế đa dạng, các thành phần kinh tế hợp tác đan xen nhau,
sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự
quản lý của Nhà nước. Giải quyết cơ bản việc làm cho người lao động với mức
thu nhập đảm bảo đời sống ngày càng cao, số người làm giàu chính đáng không
ngừng tăng lên đi đôi với tích cực phấn đấu thu hẹp dần các hộ nghèo. Đời sống
chính trị, văn hóa, tinh thần, y tế, giáo dục ngày càng phát triển tương xứng với
sự tăng trưởng của nền kinh tế. Mọi đối tượng chính sách, trẻ em, phụ nữ, người
già được quan tâm đúng mức. Truyền thống tốt đẹp của dân tộc và xóm ấp được
kế thừa và phát huy. Bộ mặt nông thôn từng bước đổi mới theo hướng hạnh phúc,
văn minh, hiện đại mang bản sắc và truyền thống của làng quê Việt Nam trù phú.
Trên lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục đưa Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VIII thấm sâu vào đời sống xã hội, đáp ứng yêu cầu xây dựng con người mới; xây
dựng gia đình văn hóa gắn với văn hóa cộng đồng. từng bước nâng cao các hoạt
động văn hóa, văn nghệ, báo chí, phát thanh, truyền hình để phục vụ tốt hơn nhu
cầu văn hóa tinh thần ngày càng đa dạng, phong phú của nhân dân. Duy trì và
nâng chất cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” phù
hợp với đặc điểm của từng cộng đồng dân cư. Củng cố, phát huy, xây dựng mới
các thiết chế văn hóa ở cơ sở xã, phường, trước hết là nông thôn, vùng núi, vùng
căn cứ cách mạng. Hướng dẫn và phát huy nét đẹp của các lễ hội truyền thống;
giữ gìn và tôn tạo các di tích văn hóa, lịch sử dân tộc và kháng chiến. Đưa nhiều
hoạt động văn nghệ, thể thao về địa bàn dân cư, nhất là ở nông thôn. Tăng cường
công tác quản lý để giữ vững trật tự, lành mạnh các hoạt động văn hóa, dịch vụ,
thúc đẩy xã hội hóa các hoạt động văn hóa.
Như vậy, trong một thời gian dài Đảng bộ An Giang đã xác định đúng
hướng và đầu tư đúng mức. Nhờ vậy, An Giang có bước phát triển về nhiều mặt,
nhất là phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa gắn với xây dựng
nông thôn mới.
Cơ cấu nông nghiệp hết sức đa dạng cung cấp cho xã hội đầy đủ những sản
phẩm trồng trọt và chăn nuôi với sản lượng tăng ngày càng cao chẳng những
trong nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu. Tổng sản lượng lương thực từ 902.635
tấn (1987) lên 2.999.179 tấn (2006). Bình quân lương thực đầu người từ 520 kg
(1987) lên 1.357 kg (2006). Diện tích các loại hoa màu, cây công nghiệp giữ ở
mức ổn định gần 45.000 ha. Sản lượng thịt xuất chuồng hàng năm trên dưới
Trang 23
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
28.000 tấn, sản lượng cá nuôi tăng rất nhanh từ 7000 tấn (1987) lên 235.000 tấn
(2006). Năm 2007, giá trị xuất khẩu nông sản gần 500 triệu USD.
Bộ mặt nông thôn không ngừng được đổi mới, cơ sở hạ tầng phục vụ cho
sản xuất và sinh hoạt người dân ngày càng được nâng cao, đời sống chính trị - xã
hội, văn hóa, tinh thần, y tế, giáo dục, giao thông vận tải, thông tin liên lạc ngày
càng phát triển tương xứng và đồng bộ với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Năm
2005, có 65% hộ sử dụng nước sạch, 95% hộ sử dụng điện; 58% số xã phường
hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, hầu hết các hộ gia đình đều có tivi, xe máy,
cassette, số hộ được xem truyền hình đạt 98%, có gần 160.000 máy điện thoại,
internet rất phát triển, nối mạng toàn cầu, truy cập Internet có 6.100 máy, 100%
xã phường đã có trạm y tế, quỹ thuốc thiết yếu đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh
cho nhân dân được đảm bảo,…
An ninh trật tự nông thôn được đảm bảo: Nông thôn An Giang vốn là địa
bàn hoạt động cách mạng trước đây, những truyền thống tập quán tốt của cha ông
vẫn còn được duy trì; do đó việc xâm nhập của văn hóa đồi trụy, ngoại lai cũng
như bọn phản động lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống phá cách mạng đều bị
phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời.
Có thể khẳng định rằng: qua hơn 20 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ An Giang, nền kinh tế nông nghiệp An Giang đã có bước chuyển biến
quan trọng và rõ nét, vượt qua nhiều khó khăn trong bối cảnh của một nước
khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng và hiệu quả kinh tế cao, chuyển
sang sản xuất hàng hóa đa dạng và đang đứng đầu cả nước về sản xuất và chế
biến các sản phẩm nông nghiệp. Đời sống nông dân được tăng lên rõ rệt, bộ mặt
nông thôn đã có nhiều đổi mới đáng kể, nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng và tương lai của đất nước.
Trang 24
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
CHƯƠNG 2: ĐẢNG BỘ HUYỆN CHỢ MỚI LÃNH ĐẠO PHÁT
TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TỪ NĂM 1996 ĐẾN NAY
2.1 Khát quát về vị trí địa lý, đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội huyện Chợ
Mới, tỉnh An Giang.
2.1.1 Đặc điểm về vị trí địa lý.
Chợ Mới là một huyện cù lao nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, về phía
Đông nam của tỉnh An Giang. Phía Bắc giáp Phú Tân, phía Tây bắc giáp Châu
Phú, phía Tây giáp Châu Thành, phía Tây nam giáp thành phố Long xuyên, Nam
và Đông nam giáp với tỉnh Đồng Tháp.
Là cù lao có dạng như một chiếc thuyền lật úp, cao ở giữa và thấp dần ra hai
bờ sông. Độ cao trung bình ở giữa là 3 – 4m, còn hai bên bờ sông là 1,5 – 3m.
Địa hình Chợ Mới chia thành nhiều ô bởi những đê bao khép kín nên hạn chế
được ngập lụt vào mùa lũ.
Chợ Mới là huyện cù lao nên đất đai màu mỡ do được phù sa bồi đắp hàng
năm, giàu chất dinh dưỡng rất thích hợp nhiều loại cây trồng, đặc biệt là lúa, hoa
màu, cây ăn trái… Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện tính đến năm 2006 là
36.929 ha, trong đó đất sử dụng cho nông nghiệp là 27.681 ha, chiếm 74,9% diện
tích. Đất trồng lúa chiếm diện tích khá lớn là 21.335 ha, chiếm 77% diện tích đất
sử dụng trong nông nghiệp.
Tuy nhiên, do địa hình cù lao được bao bọc bởi các sông lớn nên bên cạnh
thuận lợi cũng phần nào gây ảnh hưởng không nhỏ đến giao thông cũng như lưu
thông hàng hóa của huyện (nhất là các sản phẩm nông nghiệp) đến các vùng lân
cận.
Mạng lưới sông ngòi dày đặc, kênh rạch chằng chịt nên Chợ Mới có nguồn
nước ngọt dồi dào, chất lượng nước tốt thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp,
đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Việc khai thác và sử dụng nguồn nước càng có
hiệu quả hơn khi huyện xây dựng được hệ thống đê bao kiểm soát lũ kết hợp hệ
thống giao thông thủy lợi tương đối hoàn chỉnh.
Là nơi tập trung dân cư đông nhất tỉnh, nhưng đất ít, nên từ lâu người dân
Chợ Mới phải chịu thương chịu khó khai hoang mở đất không chỉ trong huyện mà
còn ở các huyện khác, nhất là vùng Tứ giác Long Xuyên.
Trang 25
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
Chợ Mới nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, khí hậu tương đối đồng nhất, ít
thay đổi giữa các ._.u tư xây cơ sở vật chất và trang thiết bị cho lĩnh vực giáo
dục, y tế, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, thúc đẩy các lĩnh vực này phát triển
đáp ứng nhu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Bằng
nhiều nguồn vốn Trung ương, tỉnh, huyện, xã và vận động nhân dân đóng góp,
trong thời kỳ 2001 – 2005 huyện tập trung thực hiện các công việc sau:
Đầu tư trang thiết bị cho bệnh viện huyện, nâng cấp các bệnh viện khu vực
và trạm y tế xã, thị trấn để đảm bảo yêu cầu khám và trị bệnh cho nhân dân. Xây
dựng thêm trường lớp mới đảm bảo khang trang đáp ứng nhu cầu dạy và học. Xây
dựng hoàn chỉnh sân vận động huyện, nhà thi đấu đa năng, nhà truyền thống
huyện. Xây dựng trung tâm huyện, kiến thiết trung tâm xã, xây dựng trụ sở các
xã, thị trấn, văn phòng, ban nhân dân ấp đảm bảo tiêu chuẩn cơ quan văn minh.
Trang 38
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
Các chợ trung tâm xã, thị trấn, thị tứ phải đạt tiêu chuẩn văn minh. Bằng phương
thức Nhà nước và nhân dân cùng làm, đến năm 2003, các tuyến lộ liên xã phải
được nâng cấp, tráng nhựa hoặc trải bê tông, sau khi hoàn thành cầu vượt sông
Ông Chưởng, đề nghị tỉnh đầu tư xây dựng thêm cầu vượt sông huyện Lấp Vò
(Đồng Tháp) qua xã Hòa An (Chợ Mới) và hai cầu vượt sông Ông Chưởng mới:
một là đoạn xã Long Điền B qua xã Long Giang, hai là đoạn ngã ba Tam Hiệp xã
Long Kiến qua xã Long Giang. Cải tạo và phát triển mạng lưới điện trung và hạ
thế đảm bảo yêu cầu cung cấp điện cho nhân dân. Đẩy mạnh thực hiện chương
trình “nước sạch ở nông thôn”, hoàn thành hệ thống thông tin lạc.
Phát triển dịch vụ, thương mại trong huyện, trên cơ sở kinh tế và giao thông
phát triển, thương mại dịch vụ phải được mở rộng đến địa bàn nông thôn, hướng
dẫn sản xuất kinh doanh có hiệu quả, khai tốt thị trường nội địa, tiêu thụ ngày
càng nhiều nông sản hàng hóa trong nhân dân đi đôi với việc cung ứng vật tư
phục vụ sản xuất và tiêu dùng của nông dân. Phát triển đa dạng các loại dịch vụ
phục vụ nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp. Phổ biến công nghệ
mới, thông tin kinh tế, dịch vụ cung ứng vốn, vật tư, tiêu thụ sản phẩm hàng hóa,
giao thông vận tải, xây dựng cơ bản, bưu chính viễn thông, các loại dịch vụ phục
vụ sức khỏe và đời sống tinh thần của nhân dân.
Khai thác và nâng cấp một số điểm du lịch hiện có như khu du lịch văn hóa
chùa Bà Lê xã Hội An, Cột Dây Thép xã Long Điền A, chùa Thành Hoa xã Tấn
Mỹ, đền thờ Nguyễn Trung Trực xã Long Giang,…
Trong lĩnh vực giáo dục đẩy mạnh phong trào xã hội hóa giáo dục, tăng
cường trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhà trường đối
với sự nghiệp Giáo dục – Đào tạo. Mở rộng quy mô, đa dạng hóa loại hình trường
lớp, từng bước xóa dần các điểm lẻ, xây dựng cơ sở vật chất trường học đảm bảo
yêu cầu phát triển giáo dục. Hằng năm, kiểm tra phổ cập giáo dục tiểu học, chống
mù chữ và tiến tới đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập
trung học cơ sở đạt chuẩn quốc gia vào cuối năm 2005. Huy động đạt 100% trẻ
trong độ tuổi đến trường, giữ vững sĩ số học sinh các cấp học. Thành lập 2 trường
trung học phổ thông xã Mỹ Hội Đông và Hòa Bình. Phấn đấu tỷ lệ học sinh tốt
nghiệp tiểu học hàng năm đạt trên 95%, trung học cơ sở trên 90% và trung học
phổ thông trên 80%, giảm tỷ lệ lưu ban bỏ học dưới 4%, tăng cường giáo dục đạo
đức học sinh.
Trang 39
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
Trong lĩnh vực y tế, nâng cao y đức của người thầy thuốc, chăm sóc tốt sức
khỏe nhân dân. Thực hiện các chương trình y tế quốc gia tiêm chủng mở rộng đạt
chỉ tiêu hàng năm. Thực hiện tốt chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình,
phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, chủ động ngăn ngừa dịch bệnh kịp thời,
không để lây lan. Bằng nhiều biện pháp tích cực, có hiệu quả ngăn chặn lây
nhiễm HIV/AIDS, Nhà nước có chính sách hỗ trợ dân nghèo khám điều trị bệnh.
Khuyến khích hoạt động đông y và kết hợp đông - tây y trong khám chữa bệnh,
tiếp tục thực hiện Chỉ thị 200/TTg của Thủ tướng Chính phủ về “nước sạch và vệ
sinh môi trường”.
Trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, tiếp tục thực hiện cuộc
vận động toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư để đời sống
văn hóa của nhân dân không ngừng được nâng lên trên nền tảng của văn hóa dân
tộc, phù hợp với cuộc sống mới. Tiếp tục xây dựng các thiết chế văn hóa mới ở
nông thôn, hướng dẫn, phát huy nét đẹp của các lễ hội truyền thống, quản lý, duy
tu, nâng cấp các di tích văn hóa, di tích lịch sử truyền thống cách mạng, bảo tồn
bảo tàng, đồng thời chống lại văn hóa phẩm đồi trụy, độc hại làm băng hoại văn
hóa truyền thống dân tộc.
Phát huy các loại hình văn học nghệ thuật, thể dục thể thao theo hướng xã
hội hóa, nâng chất các câu lạc bộ xã, thị trấn. Củng cố mạng lưới truyền thanh
đến tận địa bàn dân cư, từng bước mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả của
hoạt động này.
Với những nhiệm vụ và giải pháp đề ra cho thời kỳ 2001 đến nay, Đảng bộ
và nhân dân Chợ Mới thu được nhiều kết quả đáng kể:
GDP tăng bình quân hàng năm 11%, thu nhập bình quân đầu người từ 5,06
triệu đồng năm 2000 lên 12,3 triệu đồng năm 2007. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng tiến bộ, nông nghiệp giảm từ 39,9% năm 2000 còn 27,4% năm 2006;
công nghiệp, xây dựng từ 19,8% lên 24,1%; thương mại, dịch vụ từ 40,3% lên
48,5%.
Sản xuất nông nghiệp đạt nhiều kết quả nổi bật và tăng trưởng hàng năm,
chủ yếu là do làm tốt công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi và đẩy
mạnh các chương trình khuyến nông, hệ số sử dụng đất từ 2,92 vòng/năm lên
3,22 vòng/năm, giá trị sản xuất từ 41,4 triệu đồng lên 65 triệu đồng/ha/năm.
Lĩnh vực thương mại, dịch vụ tăng bình quân 15,8%/năm. Các loại hình dịch
vụ được đa dạng hóa như cung ứng vật tư, vận tải, tín dụng, y tế, bưu chính viễn
Trang 40
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
thông… Các chợ nông thôn được sắp xếp, mở rộng, hình thành những nơi trung
chuyển hàng hóa, bảo đảm được nhu cầu kinh doanh và mua sắm của nhân dân.
Kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội được tập trung đầu
tư, bao gồm các công trình phục vụ sản xuất nông nghiệp, giao thông, các công
trình cụm, tuyến dân cư, cải tạo kênh mương nội đồng, kiên cố hóa trường lớp,…
Từ năm 2002 đến nay, huyện Chợ Mới được tỉnh đầu tư xây dựng 12 công
trình cụm, tuyến dân cư vượt lũ. Đến cuối năm 2005 đã khởi công xây dựng và
hoàn thành 12 cụm tuyến dân cư (9 cụm và 3 tuyến) với tổng diện tích san lấp
mặt bằng là 41,5 ha, đã xét duyệt được 1.690 hộ được bố trí vào ở; trong đó có
1.215 hộ mua với giá cơ bản, 475 hộ mua với giá linh hoạt. Tổng vốn đầu tư 39 tỷ
838 triệu đồng, nguồn vốn do ngân sách Trung ương hỗ trợ.
Ngành điện lực đã tập trung đầu tư đưa lưới điện về nông thôn, nhờ đó tỷ lệ
hộ nông dân sử dụng điện tăng nhanh, góp phần quan trọng thúc đẩy sản xuất
hàng hóa phát triển và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của dân cư vùng nông thôn.
Năm 2006, số hộ sử dụng điện đạt 92%, hộ sử dụng nước sạch đạt 95,8%.
Ngành bưu điện đã tập trung đầu tư đưa bưu chính viễn thông và công nghệ
thông tin về đến nông thôn. Năm 2007, toàn huyện có 13/18 xã có bưu cục III, có
100% số xã, thị trấn có điện thoại với 23 điểm tổng đài, mật độ điện thoại bình
quân năm 2006 đạt 4,2 máy/100 dân.
Công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở được các cấp ủy Đảng, chính
quyền địa phương và các cấp đặc biệt quan tâm tập trung chỉ đạo. Do đó đã có
chuyển biến tích cực trong các phong trào văn nghệ quần chúng, các lễ hội truyền
thống, dân gian, văn hóa – lịch sử truyền thống. Toàn huyện hiện có 19 đội văn
nghệ, 138 câu lạc bộ đờn ca tài tử, 42 tụ điểm hát với nhau.
Thiết chế văn hóa ở cơ sở không ngừng được đầu tư xây dựng, củng cố và
nâng chất; toàn huyện hiện có 4 xã có nhà văn hóa, 100% số xã có phòng đọc
sách, có 13/18 xã có bưu điện văn hóa xã phục vụ các nhu cầu về thông tin liên
lạc cho người dân, 100% số xã có đài truyền thanh được trang bị tương đối đầy
đủ và truyền thanh đến khắp các địa bàn dân cư.
Phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư” được
đa số nhân dân hưởng ứng giúp nâng cao nhận thức của người dân, đẩy lùi các tập
quán lạc hậu, mê tín dị đoan, lãng phí tiền của và thời gian trong các lễ hội, cưới
xin, ma chay. Năm 2007, có 68.090 hộ gia đình văn hóa, đạt 87% tổng số hộ; 125
Trang 41
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
ấp văn hóa, đạt 90,5% tổng số ấp; 3 xã văn hóa, đạt 16,6% tổng số xã; 60 cơ
quan, đơn vị văn hóa; 52 trường học văn hóa.
Phong trào thể dục thể thao ở cơ sở ngày càng phát triển rộng khắp, được
nhiều người tham gia tập luyện thường xuyên (khoảng 77.380 người), đạt 20,9%
dân số, 121 câu lạc bộ thể thao được hình thành, phong trào xã hội hóa thể dục
thể thao ngày càng phát triển, huyện đã tổ chức giải bóng đá nông dân lần đầu
tiên (trong cả nước) vào năm 1993, có 73 đội và vẫn duy trì tổ chức hàng năm.
Toàn huyện có 49 sân bóng đá mi ni, 22 sân bóng đá, 138 sân bóng chuyền, 40
sân cầu lông đã góp phần vào việc tăng cường sức khỏe cho người dân và phục
vụ vui chơi giải trí cho người dân nông thôn.
Về giáo dục, cơ sở vật chất trường lớp xây dựng ngày càng tốt hơn, chất
lượng giảng dạy và học tập được nâng lên. Công tác phổ cập giáo dục, chống mù
chữ 8 năm liền đạt chuẩn quốc gia, tỷ lệ người biết chữ đạt 96,5%. Cuối năm
2005, huyện được công nhận đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Đội ngũ giáo
viên thường xuyên được bồi dưỡng về nhận thức chính trị, chuẩn hóa chuyên
môn, đảm bảo yêu cầu giảng dạy. Công tác xã hội hóa giáo dục có bước phát
triển. Năm 2007, toàn huyện có 2 trường mầm non, 17 trường mẫu giáo, 57
trường tiểu học, 19 trường trung học cơ sở, 9 trường THPT, 2 trung tâm giáo dục
thường xuyên, 1 trung tâm dạy nghề và 18 trung tâm học tập cộng đồng.
Về y tế, trung tâm y tế huyện được xây dựng mới đưa vào hoạt động với 100
giường bệnh, cơ bản đáp ứng yêu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân. Mạng lưới
y tế cơ sở gồm 2 phòng khám khu vực và 16 trạm y tế xã từng bước nâng cấp
nhằm đạt chuẩn quốc gia. Nguồn nhân lực ngành y tế được bổ sung hàng năm,
năm 2006, có 336 cán bộ, tỷ lệ bác sĩ 1,35% và tỷ lệ giường bệnh 8,93% trên
10.000 dân, tỷ lệ bác sĩ về công tác xã đạt 83,3%. Các chương trình mục tiêu
quốc gia, y tế dự phòng được thực hiện khá tốt, tiêm chủng mở rộng đạt tỷ lệ cao,
đã thanh toán được bệnh bại liệt, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1%, tỷ lệ sinh con
thứ 3 trở lên giảm còn 6%, tỷ lệ suy dinh dưỡng còn 23,3%.
Thực hiện chính sách xã hội, huyện đã tăng cường đầu tư, đồng thời vận
động các cá nhân và tổ chức xã hội tham gia cứu trợ người nghèo, cất nhà tình
thương, xóa nhà siêu vẹo. Đến nay, các đối tượng chính sách và hộ nghèo cơ bản
đều có nhà ở ổn định, số lao động có việc làm mới ngày càng tăng, tỷ lệ hộ nghèo
giảm từ 3,88% xuống còn 1,47% năm 2004 (năm 2006 giảm xuống 6,7%, theo
tiêu chí mới), thấp hơn tỷ lệ hộ nghèo chung của tỉnh (năm 2006: 10,8%).
Trang 42
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
Tóm lại, ngay trong 10 năm đầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn (1996 – 2006), Chợ Mới đã đạt được những
thành tựu rất quan trọng. Thành tựu trên có được trước tiên là nhờ Đảng bộ huyện
Chợ Mới đã sớm xác định mục tiêu hàng đầu của huyện trong phát triển kinh tế -
xã hội ổn định và nâng cao đời sống nhân dân là tập trung chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và đầu tư xây dựng công trình đê bao điều tiết lũ, nâng cấp lộ nông thôn.
Đây là chủ trương đúng đắn và phù hợp với tâm tư nguyện vọng của nhân dân.
Song, đây là công trình lớn không dễ thực hiện và không phải một sớm một chiều
có thể làm được. Để đạt được hiệu quả đòi hỏi phải có quyết tâm cao trong toàn
Đảng và nhân dân, đòi hỏi phải sáng tạo và tích cực, phải kết hợp các hình thức
tuyên truyền, vận động để tạo ra sự đồng tình ủng hộ và tham gia thực hiện của
toàn dân. Nhờ vậy, từ năm 1996 đến nay, nhân dân trong huyện đã đóng góp trên
86 tỷ đồng, thực hiện hoàn thành công trình đê bao điều tiết lũ và nâng cấp giao
thông nông thôn. Đây là công trình có ý nghĩa lịch sử mà Đảng bộ huyện Chợ
Mới đã lãnh đạo thực hiện thành công, tạo ra bước ngoặt trong phát triển kinh tế -
xã hội của huyện.
Trong quá trình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị địa phương, Đảng bộ
huyện Chợ Mới đã xây dựng tốt khối đoàn kết, nhất trí trong toàn Đảng bộ, biết
kế thừa và phát huy truyền thống cách mạng, xây dựng mối quan hệ gắn bó nối
tiếp các thế hệ, giữa cán bộ đương chức với các đồng chí lão thành cách mạng,
các đồng chí nghỉ hưu. Sự phối hợp đồng bộ trong hệ thống chính trị; sự đồng
tình ủng hộ của quần chúng nhân dân đã tạo nên động lực mạnh mẽ cho sự phát
triển kinh tế - xã hội ở Chợ Mới.
Trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ, Đảng bộ luôn quán triệt quan điểm “lấy
dân làm gốc”. Thường xuyên xuống cơ sở, nắm bắt thực tiễn và giải quyết vấn đề
từ cuộc sống đặt ra. Đẩy mạnh thực hiện dân chủ ở cơ sở theo cơ chế “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, luôn lấy việc chăm lo tốt lợi ích vật chất và tinh
thần cho nhân dân làm mục tiêu. Thực hiện tốt chính sách xã hội, kịp thời rút kinh
nghiệm, biểu dương khen thưởng các phong trào cách mạng địa phương, các điển
hình tiên tiến, người tốt việc tốt nhằm ra động lực thúc đẩy các phong trào quần
chúng, khơi dậy khí thế lao động, sản xuất và chiến đấu bảo vệ tốt an ninh chính
trị địa phương.
Bên cạnh những mặt làm được, từ năm 1996 đến nay, trong quá trình lãnh
đạo Đảng bộ huyện Chợ Mới còn bộc lộ những khuyết điểm, yếu kém:
Trang 43
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
Trong quản lý điều hành Nhà nước có lúc, có nơi hiệu quả chưa cao, vẫn còn
tình trạng cấp dưới chấp hành chưa nghiêm chỉ đạo của cấp trên. Công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật, việc thực hiện dân chủ ở cơ sở một số nơi còn thực
hiệc chưa tốt.
Một số cấp ủy viên chưa thể hiện vai trò tiên phong gương mẫu, một bộ
phận cán bộ đảng viên chưa thực sự gần dân, sát dân nên chưa nắm được tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân.
Do một số cấp ủy thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê
bình chưa nghiêm, phân công trách nhiệm chưa rõ ràng, vai trò cá nhân phụ trách
chưa được đề cao. Trình độ, năng lực, tính chấp hành nghị quyết của một bộ phận
cán bộ, đảng viên còn hạn chế, nể nang, ngại đụng chạm. Một số cán bộ lãnh đạo,
quản lý nhận thức và điều hành còn hụt hẫng, nhất là trong đổi mới tư duy về
kinh tế.
2.3 Một số kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển hơn nữa nông nghiệp
và nông thôn Chợ Mới trong thời gian tới.
Từ năm 1996 đến nay Đảng bộ huyện Chợ Mới đã tập trung sức lãnh đạo
phát triển nông nghiệp, nông thôn và đã thu được nhiều thành quả đáng kể:
chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp được đẩy mạnh, sản phẩm nông nghiệp hết
sức đa dạng, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới, cơ sở hạ tầng nông thôn phát
triển, đời sống của nhân dân được nâng cao rõ rệt. Qua thực trạng nông nghiệp,
nông thôn Chợ Mới, tác giả có một vài kiến nghị sau.
Trong thời gian tới để có thể tiếp tục phát triển thành quả trên lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn, Đảng bộ huyện Chợ Mới phải có tầm nhìn chiến lược cho mô
hình nông nghiệp, nông thôn. Đó là phát triển sản xuất phù hợp với quy luật tự
nhiên, cần xác định đê bao nhằm hạn chế sự thiệt hại do lũ gây ra, nhằm phát
triển giao thông nông thôn, nhưng nếu khép kín mãi sẽ làm giảm tiềm năng của
đất, vì vậy cần phải có chiến lược xả lũ phù hợp để đảm bảo cho đất được nghỉ
ngơi và bồi bổ thêm nguồn phù sa do lũ đem đến, bên cạnh đó, cần tận dụng
nguồn lợi từ mùa nước nổi để tăng thêm thu nhập cho nông dân, đồng thời tạo
nên bản sắc văn hóa mùa nước nổi mang đậm dấu ấn vùng sông nước nhằm thu
hút khách du lịch.
Tiếp tục phát huy thế mạnh của huyện về sản xuất lương thực và rau màu,
chú trọng các loại giống có chất lượng để huyện Chợ Mới trở thành vùng cung
Trang 44
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
cấp giống và sản lượng lương thực và rau màu cho các huyện trong tỉnh và các
tỉnh lân cận. Hình thành và phát triển các vùng chuyên canh màu, các loại cây ăn
quả ; ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn, tạo và nhân giống, kết hợp với
nhập khẩu giống và công nghệ để sản xuất giống cây trồng có năng suất chất
lượng cao.
Đối với chăn nuôi: cần khuyến khích phát triển chăn nuôi theo hướng công
nghiệp, chủ yếu theo hình thức trang trại với quy mô phù hợp và an toàn dịch
bệnh. Nâng cấp và đầu tư xây dựng các cơ sở giết mổ, chế biến sản phẩm chăn
nuôi có trang bị hiện đại và đạt yêu cầu về chất lượng và vệ sinh an toàn thực
phẩm, phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Tiếp tục thực hiện nâng cấp giao thông nông thôn, nhựa hóa và bê tông hóa
mặt đường nhằm phục vụ cho sản xuất và lưu thông hàng hóa thuận tiện, đặc biệt
là phục vụ đi lại, học hành của nhân dân theo phương châm “Nhà nước và nhân
dân cùng làm”. Hình thành các khu công nghiệp ở nông thôn, khuyến khích và hỗ
trợ các cơ sở ngành nghề ở nông thôn sử dụng máy móc, công cụ cải tiến, thực
hiện cơ giới hóa các khâu sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và
khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường; hỗ trợ các thành phần kinh tế
phát triển nhiều loại hình dịch vụ ở nông thôn, trước hết là dịch vụ kỹ thuật, tín
dụng, thương mại, đời sống… để tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cho
nông dân.
Tiếp tục thực hiện chương trình đưa điện, nước về nông thôn nhằm cung cấp
có hiệu quả, chất lượng cao điện, nước cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của
nông thôn. Phấn đấu đến năm 2010 hầu hết các hộ dân trong huyện đều sử dụng
điện và nước sạch.
Phát triển các dịch vụ bưu chính viễn thông và các nhà văn hóa đến tất cả
các xã. Có chính sách đầu tư phát triển hệ thống thông tin nông nghiệp hiện đại,
từng bước ứng dụng công nghệ thông tin trong nông nghiệp và nông thôn.
Tiếp tục đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, xã văn hóa, phục hồi và phát
triển văn hóa truyền thống Chợ Mới anh hùng, phát huy tình làng, nghĩa xóm, sự
giúp đỡ và hỗ trợ nhau phát triển trong cộng đồng dân cư nông thôn.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả các thiết chế văn hóa, bảo vệ và tôn tạo các di
tích lịch sử, di sản văn hóa, danh lam thắng cảnh, đáp ứng yêu cầu hưởng thụ và
phát huy tiềm năng sáng tạo của nhân dân.
Trang 45
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
Phát triển công tác thông tin đại chúng và các hoạt động văn hóa, khuyến
khích, động viên những nhân tố mới, kịp thời phê phán các hiện tượng tiêu cực
trong xã hội, xây dựng lối sống lành mạnh, bảo vệ thuần phong mỹ tục ở nông
thôn.
Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục, y tế phục vụ sự nghiệp
phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở
nông thôn.
Tăng đầu tư cho giáo dục – đào tạo để người nghèo được học tập, phát triển
toàn diện cá nhân. Có chính sách tuyển chọn người giỏi để đào tạo cán bộ, công
nhân phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Một số giải pháp để phát triển hơn nữa nông nghiệp, nông thôn Chợ Mới
trong thời gian tới.
Thứ nhất, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách về phát triển Giáo dục –
Đào tạo, y tế, văn hóa và sinh đẻ có kế hoạch trên địa bàn nông thôn, nâng cao
dân trí, nâng cao trình độ khoa học kỷ thuật, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sức khỏe
dân cư, phát triển nguồn nhân lực được đào tạo để phát triển kinh tế xã hội nông
thôn.
Thứ hai, huy động vốn đầu tư cho phát triển. Đây cũng là một yếu tố đảm
bảo cho sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Muốn vậy trước hết cần ra sức
khai thác sử dụng một cách tối ưu mọi nguồn lực nội tại trong huyện là nhân tố
quyết định. Nguồn vốn quý báu đó chính là lực lượng lao động dồi dào, đất đai
màu mỡ, kể cả lợi thế và cơ hội mà chưa được khai thác tốt, hiệu quả chưa cao.
Đặc biệt trong dân hiện còn một khối lượng vốn khá lớn chưa đưa vào đầu tư phát
triển. Vì vậy quá trình chăm lo bồi dưỡng sức dân phải đi đôi với động viên sức
dân một cách hợp lý để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội vì lợi ích của nhân
dân.
Do hiệu quả sản xuất và tích lũy nội tại còn thấp, chưa đủ đáp ứng nhu cầu
vốn để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nên cần phải huy
động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Đó là nguồn vốn từ mở rộng hợp tác với các
địa phương khác trong tỉnh, các tỉnh lân cận, vốn tài trợ của tỉnh, Chính phủ, đầu
tư từ các bộ ngành Trung ương, vốn hỗ trợ phát triển chính thức của Chính phủ
các nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế; các nguồn vốn nước ngoài hợp
tác đầu tư, trực tiếp đầu tư…
Trang 46
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
Thứ ba, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công
nghệ vào sản xuất nông nghiệp, có chính sách đẩy mạnh để khuyến khích phát
triển nhanh các doanh nghiệp và hoạt động dịch vụ ở nông thôn; tiếp tục đầu tư
phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn, tập trung giải
quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc nhằm thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Coi đây là khâu đột phá quan trọng
nhất để thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; trước hết cần tập
trung vào công nghệ sinh học, chương trình giống, cây trồng, vật nuôi, công nghệ
bảo quản và công nghệ chế biến nông sản, thủy sản. Ứng dụng công nghệ quy
hoạch vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp an toàn (đặc biệt là rau màu, cây
ăn quả), hướng đến một nền “nông nghiệp sạch”, chất lượng cao nhằm đảm bảo
sức khỏe người tiêu dùng. Đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học đủ năng lực nghiên
cứu và tiếp thu khoa học công nghệ tiến tiến, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
của nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ tư, phát triển sản xuất phải phù hợp với quy luật của tự nhiên nhằm đảm
bảo cho nền nông nghiệp phát triển bền vững, có kế hoạch xả lũ phù hợp vừa đảm
bảo cung cấp đầy đủ nguồn dinh dưỡng và khả năng chịu đựng của đất vừa đảm
bảo tăng năng suất, sản lượng lương thực của huyện. Đồng thời tận dụng mùa
nước nổi để đánh bắt nuôi trồng thủy sản, tăng thu nhập cho nông dân.
Xây dựng thêm các khu dân cư có hệ thống cơ sở hạ tầng như ở đô thị, từng
bước đô thị hóa nông thôn. Di dời các hộ dân vùng sạt lở và nhà trên sông rạch
vào các khu dân cư, bảo vệ môi trường sinh thái ở nông thôn.
Thứ năm, tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, trực tiếp là huyện ủy.
Kiện toàn bộ máy Nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính, giữ nghiêm pháp
luật, đấu tranh đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng; bảo đảm cho bộ máy chính
quyền trong sạch vững mạnh, đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ đủ trình
độ chuyên môn nghiệp vụ để quản lý kinh tế - xã hội nói chung và sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn nói riêng ngày càng hiệu quả cao.
Trang 47
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
KẾT LUẬN
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Chợ Mới, trong suốt 30 năm qua, đặc
biệt là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn, nền kinh tế nông nghiệp và nông thôn Chợ Mới đã phát triển vượt bậc và
thu được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền
nông nghiệp An Giang nói riêng và của cả nước nói chung.
Trong mỗi thời kỳ, Đảng bộ huyện Chợ Mới đã đề ra những chủ trương, giải
pháp phù hợp để thúc đẩy sản xuất phát triển. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến
theo chiều hướng tích cực, giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành
công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Cơ cấu nội ngành nông nghiệp có sự chuyển
biến theo hướng đa canh, đa dạng hóa sản phẩm, chuyển dịch cơ cấu cây trồng
phát triển, giảm diện tích trồng lúa, tăng diện tích trồng màu.
Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là nông dân từng bước được
cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo hàng năm giảm do huyện tập trung thực hiện các chính
sách và có những giải pháp đồng bộ, trong đó thực hiện có hiệu quả chương trình
xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm: Số hộ khá giàu ngày càng tăng, hộ
nghèo giảm, các thiết chế văn hóa được đầu tư xây dựng, trình độ dân trí ngày
được nâng cao, hệ thống chính trị cơ sở được củng cố, dân chủ được phát huy, an
ninh chính trị, trật tự xã hội được ổn định.
Từ năm 1996 đến năm 2006, bộ mặt nông thôn Chợ Mới đã có sự thay đổi
tích cực, hệ thống cầu đường, các tuyến giao thông liên xã được đầu tư xây dựng
khá hoàn chỉnh; hệ thống bưu điện, điện, nước ngày càng được mở rộng, kinh tế
nông thôn tăng ở mức cao, các loại ngành nghề công nghiệp – tiểu thủ công
nghiệp, dịch vụ phát triển đa dạng, nhiều cụm tuyến dân cư, chợ nông thôn được
hình thành.
Thành tựu trên là kết quả của sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân Chợ Mới
dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện. Xuất phát từ đặc thù của Chợ Mới, ngay từ
đầu Đảng bộ huyện Chợ Mới đã khẳng định: mục tiêu hàng đầu của huyện là lấy
nông nghiệp làm nền tảng để phát triển kinh tế - xã hội, ổn định an ninh chính trị,
Trang 48
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
nâng cao đời sống nông dân. Từ đó, huyện tập trung xây dựng công trình đê bao
kiểm soát lũ và nâng cấp giao thông nông thôn nhằm thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp và xây dựng hạ tầng nông thôn. Đây là chủ trương vừa phù hợp với điều
kiện cụ thể của Chợ Mới, vừa phù hợp với tâm tư nguyện vọng của nhân dân,
được đông đảo nhân dân tham gia hưởng ứng.
Để biến chủ trương thành hiện thực, Đảng bộ huyện Chợ Mới coi trọng việc
dựa vào dân, phát huy sức mạnh của nhân dân. Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện
dân chủ cơ sở, thực hiện cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển Chợ Mới, Đảng bộ huyện
luôn nắm vững chủ trương, chính sách của Trung ương và của tỉnh, biết vận dụng
phù hợp vào tình hình thực tiễn của địa phương: biết khắc phục những khó khăn
về điều kiện về tự nhiên và xã hội của huyện; đồng thời, biết tận dụng, phát huy
những mặt thuận lợi để đề ra những chủ trương, chính sách, bước đi, biện pháp và
cách làm phù hợp. Tiêu biểu là chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành hệ thống
bao đê kiểm soát lũ, nâng cấp hạ tầng giao thông nông thôn,… đưa nông nghiệp,
nông thôn Chợ Mới lên tầm cao mới.
Hiện nay, đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà trọng
tâm là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; Chủ động tham gia
hội nhập kinh tế quốc tế, …trong bối cảnh đó, Việt Nam nói chung, Chợ Mới nói
riêng vừa đứng trước nhiều thời cơ, thuận lợi lớn, đồng thời, cũng phải đối mặt
với những nguy cơ thách thức lớn. Để có thể tiếp tục phát huy những thành tựu
đạt được trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, trong thời gian tới, đòi hỏi Đảng
bộ Chợ Mới phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo, phải không ngừng năng động,
sáng tạo, củng cố tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh để đáp ứng được yêu cầu
của tình hình mới, phải đề ra được những chủ trương, những bước đi và giải pháp
phù hợp để nền nông nghiệp Chợ Mới ngày càng phát triển theo chiều sâu, sản
phẩm nông nghiệp đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế; để
nông thôn Chợ Mới ngày càng được khởi sắc, rút ngắn khoảng cách giữa thành
thị với nông thôn.
Trang 49
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Nguyễn Văn Nòn
Trang 50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
--------
[1]. Angiang.gov.vn - nông nghiệp An Giang.
[2].Báo Sài Gòn Giải Phóng - số ra ngày 1 – 5 – 2008.
[3]. Bộ Chính Trị - Nghị quyết về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông
thôn, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 1998.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam - Tài liệu hướng dẫn học tập Nghị quyết Đại hội lần
thứ V của Đảng, tập I, Nxb sách giáo khoa Mác - Lênin, HN, 1982.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam - Báo cáo chính trị ĐHĐCSVN lần VI, Nxb Chính
trị quốc gia, HN, 1986.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam - Các Nghị quyết của Trung ương Đảng 2001 –
2004, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2004.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam - Tham luận tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IV của Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Sự Thật, HN, 1977.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự Thật, HN, 1991.
[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Sự Thật, HN, 1996.
[10]. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2001.
[11]. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2006.
[12]. Đảng bộ An Giang - Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ An Giang lần thứ VI,
nhiệm kỳ 1996 – 2000.
[13]. Đảng bộ An Giang - Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ An Giang lần thứ
VII, nhiệm kỳ 2001 – 2005.
[14]. Đảng bộ An Giang - Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ An Giang lần thứ
VIII, nhiệm kỳ 2005-2010.
[15]. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa
học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh - Giáo trình Lịch Sử Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2001.
[16]. Huyện ủy Chợ Mới - Chuyên đề Tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ thực tiễn đổi mới của huyện Chợ Mới,
2003.
[17]. Huyện ủy Chợ Mới - Văn kiện đại hội Đảng bộ huyện Chợ Mới khóa VII
1996 – 2000.
[18]. Huyện ủy Chợ Mới - Văn kiện đại hội Đảng bộ huyện Chợ Mới khóa VIII
nhiệm kỳ 2001– 2005.
[19]. Huyện ủy Chợ Mới - Văn kiện đại hội Đảng bộ huyện Chợ Mới khóa IX
nhiệm kỳ 2006 – 2010.
[20]. Phòng Thống Kê Chợ Mới - Niên giám thống kê Chợ Mới 2005.
[21]. Phòng Thống Kê Chợ Mới - Niên giám thống kê Chợ Mới 2006.
[22]. Tổng kết khoa học - Phát triển tổng hợp kinh tế xã hội nông thôn qua 7 năm
xây dựng và phát triển tỉnh An Giang, 1994.
[23]. Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang - Địa chí An Giang, 2003.
[24]. Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang - Kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội
An Giang 1996 – 2010.
[25]. WWW.cpv.org.vn – Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- XT1239.pdf