BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Hiển
DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Chuyên ngành : Địa lí học
Mã số : 60 31 95
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM THỊ XUÂN THỌ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tác giả xin gửi lời cảm ơn tới TS. Phạm Thị Xuân Thọ -
người đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn t
110 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3402 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Dân số và phát triển kinh tế - Xã hội tỉnh Bình Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiện luận văn.
Tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy, cô giáo trường Đại học Sư phạm thành
phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề
tài.
Tác giả cũng trân trọng cảm ơn các cơ quan: Cục Tống kê tỉnh Bình Dương, Ủy ban Dân số - gia
đình và trẻ em tỉnh Bình Dương và các huyện thị, Sở Y tế Bình Dương, Sở Lao động – Thương binh –
Xã hội tỉnh Bình Dương đã giúp đỡ tác giả trong quá trình thu thập số liệu, tài liệu và thông tin có liên
quan đến nội dung nghiên cứu.
Cuối cùng, tác giả xin lời cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp và người thân đã giúp đỡ, tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn.
Bình Dương, ngày………tháng……….năm 2009
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hiển
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, được Trung ương xác định là một trong 4
tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, cùng với TP.HCM, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng
Tàu. Là tỉnh được tái lập năm 1997 với 7 huyện thị gồm 79 phường, xã, thị trấn; diện tích tự nhiên là
2.681km2 và mật độ dân số gần 300 người/km2.
Với lợi thế về vị trí địa lí, Bình Dương có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu kinh tế,
văn hoá, khoa học kĩ thuật với các tỉnh trong cả nước và quốc tế. Đây cũng là lợi thế thu hút các nhà
đầu tư, dân cư, lao động đến làm ăn, sinh sống. Chính điều này đã làm cho đặc điểm dân số và tình
hình phát triển kinh tế - xã hội của Bình Dương có nhiều biến động đặc biệt là từ năm 1997 đến nay.
Do nhu cầu tăng trưởng kinh tế, tỉnh đã thu hút rất nhiều lao động ngoại tỉnh đến làm việc làm cho quy
mô dân số Bình Dương ngày càng lớn và phần lớn là do gia tăng cơ học. Vấn đề dân số bao gồm cả
quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số và phân bố dân cư có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh và vẫn là thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống cả
trong hiện tại và tương lai.
Dân số và mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh là một vấn đề cần được
quan tâm, nhìn nhận, phân tích và đánh giá. Làm được điều này sẽ góp phần lớn vào việc thực hiện tốt
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian tới. Chính vì vậy, tác giả luận văn đã chọn
đề tài “Dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương” để làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
- Phân tích đặc điểm dân số và sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương từ 1997 – 2007.
- Phân tích mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương; định hướng
sự phát triển dân số của tỉnh trong tương lai, đưa ra giải pháp nhằm phát triển cân đối giữa dân số và
kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan cơ sở lí luận về dân số, phát triển; mối quan hệ giữa dân số và phát triển.
- Phân tích các đặc điểm về dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương. Từ đó rút ra
mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
- Căn cứ thực trạng dân số và tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh để định hướng sự phát triển dân
số của tỉnh trong tương lai đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm tạo sự cân đối hài hòa giữa phát
triển dân số và phát triển kinh tế - xã hội ở Bình Dương.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đi sâu vào nghiên cứu mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Bình Dương trên địa bàn toàn tỉnh theo ranh giới hành chính hiện nay (gồm 7 huyện, thị).
- Về thời gian: đề tài nghiên cứu tình hình phát triển dân số và kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương
từ năm 1997 đến nay (tức là từ khi Bình Dương chính thức tách ra khỏi tỉnh Sông Bé, tái thành lập vào
năm 1/1/1997). Đây là giai đoạn có những biến đổi sâu sắc và mạnh mẽ về tình hình kinh tế - xã hội và
những thay đổi rõ rệt về quy mô và đặc điểm dân số của tỉnh.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội là một trong những vấn đề được quan tâm
hàng đầu của nhiều nhà nghiên cứu về nhân khẩu, chính trị, kinh tế trên thế giới. Nó là một quá trình,
trong đó mỗi yếu tố phát triển theo những quy luật riêng và giữa chúng luôn tồn tại những mối quan hệ
chặt chẽ.
Ảnh hưởng của dân số tới phát triển kinh tế - xã hội đã được các nhà dân số, kinh tế và chính trị
trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Chẳng hạn như trong các tác phẩm của R.C. Sharma – Population
Resources Environment and Quality of Life; Frank T.Denton và Byron G.Spener – Population and the
Economy; Parks.s – Tăng trưởng và phát triển.
Ở Việt Nam, những năm cuối thập kỉ 80 đến nay đã có các công trình nghiên cứu của GS.TS.
Đặng Thu, PGS.TS. Nguyễn Minh Tuệ, GS. Đào Thế Tuấn…. về vấn đề mối quan hệ giữa dân số và
phát triển kinh tế - xã hội; tác phẩm “Dân số và phát triển ở Việt Nam” của Patrick Gubry, Nguyễn
Hữu Dũng, Phạm Thuý Hương. Ngoài ra còn có luận án tiến sĩ với đề tài “Phát triển dân số và mối
quan hệ của nó với phát triển kinh tế - xã hội TP.HCM” của PGS.TS. Nguyễn Kim Hồng – Trường Đại
học Sư phạm TP.HCM, luận án P.TS “Lượng hoá một số tương quan chủ yếu giữa các chỉ tiêu về dân
số và phát triển kinh tế tại TP.HCM” của Nguyễn Thuấn – Trường Đại học Kinh tế TP.HCM”…. Bên
cạnh đó còn có 2 cuộc hội thảo Quốc gia và Quốc tế về vấn đề dân số và phát triển kinh tế - xã hội
(năm 1987 và 1992). Các cuộc hội thảo nói trên đã đề cập đến nhiều lĩnh vực và biện pháp làm giảm áp
lực của gia tăng dân số, tận dụng mọi tiềm năng về tự nhiên và lao động để phát triển nhanh chóng nền
kinh tế - xã hội nước ta.
Bình Dương có một số đề tài nghiên cứu liên quan đến một số khía cạnh của dân số như “Chiến
lược dân số Bình Dương, giai đoạn 2001 – 2010” – UBND tỉnh Bình Dương, “Báo cáo 15 năm công
tác dân số, gia đình và trẻ em tỉnh Bình Dương 1990 – 2005” - Ủy ban dân số, gia đình và trẻ em tỉnh
Bình Dương, “Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện công tác dân số, gia đình và trẻ em năm 2006 và
nhiệm vụ công tác năm 2007” – Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em tỉnh Bình Dương, “Chương trình
giải quyết việc làm tỉnh Bình Dương giai đoạn 2001 – 2005” – Ban chỉ đạo xây dựng chương trình việc
làm - UBND tỉnh Bình Dương, “Đề án xúc tiến lao động” – Sở Lao động Thương binh - Xã hội tỉnh
Bình Dương…..
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách đầy đủ và chi tiết vấn đề mối
quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương. Các công trình nghiên cứu kể trên
sẽ là những tài liệu tham khảo quý giá cho tác giả nghiên cứu đề tài “Dân số và phát triển kinh tế - xã
hội tỉnh Bình Dương” được đầy đủ và hoàn chỉnh hơn.
4. Hệ quan điểm nghiên cứu
4.1. Quan điểm hệ thống
Dân số và phát triển kinh tế - xã hội là một bộ phận cấu thành của hệ thống kinh tế – xã hội. Sự
thay đổi về quy mô, đặc điểm dân số có thể chịu ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế - xã hội và ngược
lại. Vì vậy, phải coi các vấn đề dân số và phát triển như là một hệ thống nằm trong hệ thống kinh tế -
xã hội hoàn chỉnh, luôn luôn vận động và phát triển không ngừng.
4.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Việc nghiên cứu các vấn đề dân số và phát triển của tỉnh không thể tách rời vấn đề dân số và phát
triển của các tỉnh lân cận, của vùng Đông Nam Bộ và cả nước. Vì dân số và phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh Bình Dương cũng là một bộ phận của dân số và phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ
và cả nước.
4.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Sự phát triển dân số và kinh tế - xã hội trong quá khứ, tương lai ảnh hưởng rất lớn đến quy mô,
đặc điểm dân số và phát triển kinh tế - xã hội hiện tại. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề dân số và phát
triển kinh tế - xã hội trong mối liên hệ quá khứ - hiện tại – tương lai sẽ làm rõ được bản chất của vấn
đề theo một chuỗi thời gian, đảm bảo được tính logic, khoa học và chính xác khi nghiên cứu.
4.4. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Nghiên cứu những vấn đề dân số phải dựa trên quan điểm sinh thái và phát triển bền vững. Phát
triển dân số, kinh tế - xã hội phải đi đôi với sử dụng hợp lí, bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên,
chống gây ô nhiễm môi trường; kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội
nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp sưu tầm
Đây là một phương pháp rất quan trọng vì trên cơ sở sưu tầm được những số liệu có liên quan đến
nôi dung nghiên cứu, chúng ta mới rút ra được các đặc điểm về dân số tỉnh Bình Dương cũng như nhìn
nhận, đánh giá chính xác mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
5.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, việc vận dụng phương pháp phân tích – tổng hợp nhuần
nhuyễn mang lại nhiều lợi ích. Vì dựa trên việc phân tích tài liệu đã có cũng như thực tế, chúng ta mới
có cái nhìn toàn diện về vấn đề nghiên cứu. Từ đó, rút ra được những nội dung tổng hợp nhất, đầy đủ
nhất đáp ứng được những nhiệm vụ và mục tiêu mà vấn đề đã đặt ra.
5.3. Phương pháp bản đồ - biểu đồ
Đây là phương pháp đặc trưng của khoa học Địa lí. Sử dụng phương pháp này giúp cho các vấn
đề nghiên cứu được cụ thể, trực quan và toàn diện hơn. Các bản đồ trong đề tài được thành lập bằng
phần mềm Mapinfo 7.0, dựa trên cơ sở các dữ liệu đã thu thập và xử lý.
Ngoài ra, đề tài còn thể hiện các mối quan hệ địa lí thông qua hệ thống bảng số liệu và biểu đồ.
5.4. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa
Thực địa là phương pháp cần thiết trong quá trình nghiên cứu các vấn đề địa lí kinh tế - xã hội. Vì
vậy, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp này để kiểm tra độ chính xác, tin
cậy của các nguồn tài liệu đã thu thập được.
V.5. Phương pháp dự báo
Đề tài sử dụng phương pháp dự báo dựa trên cơ sở tính toán từ các số liệu đã thu thập được và sự
phát triển có tính quy luật của các sự vât, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
6. Các đóng góp chính của đề tài
- Tổng quan có chọn lọc một số vấn đề lí luận về dân số, phát triển và mối quan hệ giữa dân số và
phát triển.
- Phân tích các đặc điểm dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương.
- Phân tích mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội ở Bình Dương.
- Dự báo sự phát triển dân số của tỉnh trong tương lai và đề xuất những giải pháp nhằm phát triển
cân đối mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương.
7. Cấu trúc luận văn
Mở đầu
Chương 1 : Cơ sở lí luận
Chương 2 : Dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương
Chương 3 : Định hướng và các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương đến 2020
Kết luận
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN
1.1. Dân số và sự phát triển dân số
1.1.1. Các khái niệm dân số
Dân số là tổng số người dân sinh sống trên một lãnh thổ nhất định, được tính ở một thời điểm
nhất định.
1.1.1.1. Gia tăng dân số
a. Gia tăng tự nhiên: Sự biến động dân số trên thế giới (tăng lên hoặc giảm đi) là do hai nhân tố
chủ yếu quyết định: sinh đẻ và tử vong.
- Tỉ suất sinh thô (Crude Birth Rate)
CBR =
P
B
Trong đó:
CBR: tỉ suất sinh thô
B: Số trẻ em sinh ra trong năm của địa phương
P: Dân số trung bình của địa phương trong năm
Tỉ suất sinh thô biểu thị số trẻ em sinh ra tính trung bình so với 1000 người dân trong một năm.
Đơn vị tính là phần nghìn (0/00). Đây là thước đo được sử dụng rộng rãi để đánh giá mức sinh.
Tỉ suất sinh thay đổi theo không gian và thời gian. Có nhiều yếu tố tác động đến mức sinh trong
đó quan trọng nhất là các yếu tố tự nhiên – sinh học, phong tục tập quán và tâm lí xã hội, trình độ phát
triển kinh tế - xã hội và các chính sách phát triển dân số của từng nước.
Tỉ suất sinh thô trên toàn thế giới và 2 nhóm nước giảm theo thời gian. Trong nửa thế kỉ qua, tỉ
suất sinh ở các nhóm nước đều có xu hướng giảm mạnh (1,6 lần) nhưng các nước phát triển giảm
nhanh hơn (2 lần). Ở các nước đang phát triển, tỉ suất sinh thô thường cao hơn các nước phát triển. Tỉ
suất sinh thời kì 1950 – 1955 của các nước đang phát triển cao hơn các nước phát triển 190/00, đến năm
2004 – 2005 vẫn còn 130/00.
Hình 1.1. Tỉ suất sinh thô thời kì 1950 - 2005
31
27
23
21
36
1112
1517
23
42
36
31
26
24
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
1950 -
1955
1975 -
1980
1985 -
1990
1995 -
2000
2004 -
2005
Nhóm nước
phần ngàn
Toàn thế giới
Các nước phát triển
Các nước đang phát triển
- Tổng tỉ suất sinh (Total Fertility Rate TFR)
Tổng tỉ suất sinh là số con trung bình sinh ra còn sống của một phụ nữ (hay một nhóm phụ nữ
trong suốt cuộc đời mình [6, tr.47]
TFR =
1000
49
15
ASFRx
Trong đó:
ASFR: Tỉ suất sinh đặc trưng theo tuổi được tính bằng công thức
ASFR =
P
B
wx
fx
Với:
Bfx: số trẻ em sinh ra trong năm bởi số phụ nữ trong độ tuổi x
Pwx: Số phụ nữ trong độ tuổi x
- Tỉ suất tử thô (Crude Death Rate):
CDR =
P
D
Trong đó:
CDR: Tỉ suất tử thô
D: Số người chết trong năm của địa phương
P: Dân số trung bình trong năm của địa phương.
Tỉ suất tử thô là số người tử vong trong năm tính trung bình so với 1000 dân. Đơn vị tính là phần
nghìn (0/00).
Tỉ suất tử thô chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong đó những nguyên nhân dẫn đến tử suất tử
thô cao chủ yếu là do quy luật tự nhiên, kinh tế - xã hội (chiến tranh, đói nghèo, bệnh tật…) và thiên tai
(động đất, núi lửa, hạn hán…). Tỉ suất tử thô trên toàn thế giới cũng như các khu vực nói chung và
trong từng nước nói riêng có xu hướng giảm đi rõ rệt so với thời gian trước đây nhờ các tiến bộ về mặt
y tế, khoa học – kĩ thuật, đặc biệt là nhờ các điều kiện sống, mức sống và thu nhập ngày càng được cải
thiện.
Nhìn chung, tỉ suất sinh thô có xu hướng giảm dần nhờ những biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội
và cả trong mức sinh. Đầu thế kỉ XX, mức tử vong còn khá cao, nhưng từ sau chiến tranh thế giới thứ
hai đã giảm nhanh. Đối với các nước phát triển, mức chết giảm nhanh, nhưng sau đó chững lại và có
chiều hướng tăng lên (150/00 giai đoạn 1950 – 1995, 90/00 giai đoạn 1960 – 1965 và 1975 – 1980 rồi lại
tăng lên 100/00 từ năm 1985 đến nay) là do cơ cấu dân số già, tỉ lệ người lớn tuổi cao. Ngược lại, đối
với các nước đang phát triển, mức chết giảm chậm hơn (từ 280/00 giai đoạn 1950 – 1955 xuống 120/00
giai đoạn 1975 – 1980) nhưng hiện nay đã đạt mức thấp hơn so với các nước phát triển do cơ cấu dân
số trẻ.
- Tỉ suất tử vong trẻ em (Infant Mortality Rate – IMR)
Tỉ suất tử vong trẻ em là tỉ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi trong năm tính trên 1000 đứa trẻ sinh
ra trong năm. Đơn vị tính là phần nghìn ((0/00). [6, tr.54].
IMR =
B
D
0
0
Trong đó:
D0: Số trẻ tử vong dưới 1 tuổi trong năm
B0: Số trẻ sinh ra trong năm.
- Gia tăng tự nhiên (Natural Increase): Là hiệu số giữa số sinh và tử trong một thời gian nhất
định.
NI = B – D
Trong đó:
B: Số sinh
D: Số tử vong trong cùng thời kì.
Hình 1.2. Tỉ suất tử thô thời kì 1950 - 2005
15
11
9 9
25
101099
15
28
17
12
9
8
0
5
10
15
20
25
30
1950 -
1955
1975 -
1980
1985 -
1990
1995 -
2000
2004 -
2005
Nhóm nước
phần ngàn
Toàn thế giới
Các nước phát triển
Các nước đang phát triển
- Tỉ suất gia tăng tự nhiên (Rate of Natural Increase): là tỉ số giữa gia tăng tự nhiên và dân số
trung bình trong cùng thời kì [6, tr.60].
RNI =
P
DB
- Tỉ suất gia tăng tự nhiên còn được xác định bằng hiệu số giữa tỉ suất sinh thô và tỉ suất tử thô.
Đơn vị tính là phần trăm (%).
RNI = CBR – CDR
Tỉ suất gia tăng tự nhiên có ảnh hưởng rõ rệt đến tình hình biến động dân số và được coi là động
lực phát triển dân số.
Trong bất kì thời gian nào, mức chết và mức sinh có ảnh hưởng mạnh mẽ đến gia tăng dân số tự
nhiên và diễn ra theo một xu hướng nhất định. Trong giai đoạn đầu của xã hội loài người, do mức sinh
khá cao nhưng mức chết cũng rất lớn nên gia tăng dân số chậm, hàng trăm năm dân số chỉ tăng vài
phần trăm, thậm chí có khi không tăng. Đến cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, do trình độ phát triển
kinh tế - xã hội và những thành tựu y học đã đạt được nên tỉ suất tử giảm nhanh, trong khi tỉ suất sinh
giảm chậm hoặc có nơi vẫn tiếp tục tăng, làm cho dân số tăng nhanh. Khi mức tử đã đạt thấp, sẽ không
tiếp tục giảm nữa, trong khi mức sinh lại giảm nhanh, dân số tăng chậm. Đó là tính quy luật của gia
tăng dân số tự nhiên. Tuy nhiên trong cùng thời kì, giữa các nước có trình độ khác nhau, gia tăng tự
nhiên diễn ra không như nhau.
Bảng 1.1. Biến động tự nhiên dân số trên thế giới giai đoạn 1800 - 2005 (%)
Thời kì
Các vùng
1800 -
1850
1900 -
1950
1975 -
1980
1985 -
1990
1995
2005
Thế giới 0,5 0,8 1,9 1,7 1,5 1,2
Trong đó:
Châu Phi 0,1 1,0 2,7 3,0 2,8 2,3
Châu Á 0,5 0,8 2,0 1,8 1,7 1,3
Mỹ Latinh 0,9 1,6 2,7 2,2 1,9 1,6
Bắc Mỹ 2,7 1,4 1,0 0,8 0,7 0,6
Châu Âu 2 0,6 0,6 0,2 - 0,1 - 0,1
Châu Đại Dương - 1,6 1,9 1,4 1,2 1,0
Nguồn: World Population Data Sheet 2005
Nơi nào có tốc độ tăng tự nhiên dân số cao, nơi đó dân số tăng nhanh và thời gian dân số tăng gấp
đối rút ngắn lại. Hiện nay, tốc độ tăng dân số ở các nước đang phát triển cao hơn nhiều so với các nước
phát triển. Do đó, trong tương lai, dân số các nước đang phát triển chiếm tuyệt đại bộ phận dân số thế giới.
b. Gia tăng cơ học
Gia tăng cơ học liên quan đến hiện tượng chuyển cư của con người. Chuyển cư bao gồm 2 bộ
phận: xuất cư (những người rời khỏi nơi cư trú) và nhập cư (những người đến nơi cư trú mới). Trên
phạm vi toàn thế giới, gia tăng cơ học không ảnh hưởng đến số dân, nhưng đối với từng khu vực, từng
quốc gia và từng địa phương thì gia tăng cơ học nhiều khi lại có ý nghĩa quan trọng làm thay đổi số
lượng dân, thay đổi cấu trúc tuổi và các hiện tượng kinh tế - xã hội khác. Gia tăng cơ học được xác
định bằng các yếu tố sau:
- Tỉ suất nhập cư (Immigration Rate – IR) là tỉ số giữa số người nhập cư và dân số trung bình
năm. Đơn vị tính là phần trăm (%) [6, tr.58]
IR =
P
I
Trong đó:
I: Số người nhập cư trong năm
P: Dân số trung bình năm.
- Tỉ suất xuất cư (Emigration Rate – ER) là tỉ số giữa số người di chuyển khỏi nơi sinh sống trên
tổng số dân của vùng mà họ chuyển khỏi. Đơn vị tính là phần trăm (%) [6, tr.58].
ER =
P
E
Trong đó:
E: số người xuất cư trong năm
P: Dân số trung bình năm của vùng xuất cư.
- Chuyển cư thực (Gia tăng cơ học) (Net Migration): là hiệu số giữa số người nhập cư và số người
xuất cư [6, tr.59].
NI = I – E
Trong đó:
I: số người nhập cư trong năm
E: số người xuất cư trong năm.
- Tỉ suất chuyển cư thực (Tỉ suất gia tăng cơ học) (Net Migration Rate – NMR) là tỉ số giữa
chuyển cư thực với dân số trung bình của vùng [6, tr.59].
NMR =
P
EI = IR – ER
c. Gia tăng dân số (PGR: Population Growth Rate)
Đây là thước đo phản ánh đầy đủ và trung thực tình hình biến động dân số của một quốc gia, một
vùng. Nó được thể hiện bằng tổng số giữa tỉ suất gia tăng tự nhiên và tỉ suất chuyển cư thực.
PGR = RNI + NMR
Tỉ suất gia tăng dân số còn được tính theo công thức:
PGR =
Po
PoPt
Po: dân số ở thời điểm điều tra ban đầu
Pt: dân số ở thời điểm điều tra cuối.
Nếu thời điểm điều tra cách nhau một năm thì công thức trên cho biết tốc độ tăng trưởng dân số
trong một năm. Nếu tốc độ tăng trưởng dân số theo thời gian nhiều năm, các nhà dân số học thường sử
dụng công thức hàm mũ để dự báo dân số:
Pt = Po.ert
Trong đó:
Pt: dân số ở năm dự báo
Po: dân số ở năm gốc.
r: tỉ lệ tăng trưởng dân số
t: thời gian tính từ năm gốc đến năm dự báo.
Từ đó ta có:
Po
Pt
t
r
Po
Ptrt
Po
Ptee
Po
Pt rtrt ln*1lnlnln
1.1.1.2. Cơ cấu dân số
a. Cơ cấu theo tuổi và giới tính
- Cơ cấu theo tuổi:
Cơ cấu tuổi của dân số thể hiện tình hình sinh tử, khả năng phát triển dân số và nguồn lao động
của một quốc gia, một vùng.
Trong dân số học, người thường phân chia lớp tuổi cách nhau từ 5 – 10 năm. Ví du: 0 – 4, 5 – 9,
10 – 14, 15 – 19….
Các nhà dân số học còn chia 3 nhóm tuổi liên quan đến việc sử dụng lao động:
- Nhóm dưới tuổi lao động: 0 – 14 tuổi.
- Nhóm tuổi lao động: 15 – 59 tuổi (hoặc đến 64 tuổi)
- Nhóm trên tuổi lao động: trên 60 tuổi (hoặc trên 65 tuổi).
Số người trong nhóm tuổi lao động là nguồn nhân lực quan trọng, là vốn quý của quốc gia, cần
phải sử dụng số người trong nhóm tuổi này một cách tối ưu để tạo ra sức sản xuất cao nhất cho xã hội.
Dân số già và dân số trẻ:
- Dân số già là dân số có tỉ lệ người già (60 tuổi trở lên) chiếm trên 10% dân số, thể hiện tỉ suất
sinh rất thấp, tỉ suất tử rất thấp, trẻ em (0- 14 tuổi) dưới 30 – 35% và tuổi thọ trung bình (kì vọng sống)
cao.
- Dân số trẻ là dân số có tỉ suất sinh cao, tỉ suất tử thấp, số trẻ em từ 0 – 14 tuổi chiếm đến trên
35% dân số, số người già (từ 60 tuổi trở lên) chiếm dưới 10% dân số, tuổi thọ trung bình (kì vọng
sống) thấp.
- Tỉ số phụ thuộc: còn gọi là "gánh nặng phụ thuộc", là số người ngoài độ tuổi lao động tương ứng
với 100 người trong độ tuổi lao động.
Số trẻ em + Số người cao tuổi
Tỷ số phụ thuộc = ------------------------------------
Số người trong độ tuổi lao động
Bảng 1.2. Tỷ số phụ thuộc ở nước ta giai đoạn 1979 - 2005
Năm 1979 1989 1999 2005
Tỷ số phụ thuộc 95 86 69 55
Nguồn: Nguyễn Minh Tuệ - Giáo trình dân số - sức khỏe sinh sản
- Tỷ số phụ thuộc không ngừng giảm xuống: Năm 1979 là 95, năm 1989: là 86, năm 1999 là 69
và năm 2005 là 55. Như vậy, nếu năm 1979, cứ 100 người trong độ tuổi lao động phải nuôi 95 người
ngoài độ tuổi lao động (bình quân mỗi người phải nuôi 0,95 người phụ thuộc) thì con số này năm 2005
chỉ còn 55, giảm tới hơn 42%. Theo dự báo, tỷ lệ này đến năm 2014, chỉ còn khoảng 48, nghĩa là chỉ
còn bằng gần nửa năm 1979. Người ta nói rằng, đây là “cơ cấu dân số vàng”, hay “ Dư lợi dân số" tức
là mỗi người lao động gánh nhẹ dần số người ăn theo, tạo điều kiện tốt cho kinh tế quốc dân, kinh tế gia
đình có tiết kiệm để đầu tư phát triển. Điều này chắc chắn tác động lớn đến chất lượng cuộc sống.
Nghiên cứu chi tiết hơn về "gánh nặng phụ thuộc ", người ta tính: Tỷ số trẻ em phụ thuộc, và Tỷ số
người già phụ thuộc, bằng cách, trong công thức tính nói trên, ở tử số, tương ứng là số lượng "trẻ em" hoặc
"người già".
Tỷ số phụ thuộc trẻ em =
Tỷ số phụ thuộc người già =
- Cơ cấu theo giới tính:
Việc nghiên cứu cơ cấu dân số theo giới tính có một ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc phân công
lao động xã hội và áp dụng chính sách kinh tế - xã hội của một quốc gia.
Tỉ suất giới tính nam nữ thường chênh lệch nhau, tỉ suất này lại thay đổi theo các nhóm tuổi.
Cơ cấu dân số theo giới biểu thị tương quan giữa giới nam so với giới nữ hoặc so với tổng số dân.
Đơn vị tính là %.
P
Pm hoặc
P
Pf hoặc
Pf
Pm
Trong đó:
Pm: dân số nam
Pf: dân số nữ.
Dân số trên tuổi lao động
Dân số trong tuổi lao động
Dân số dưới tuổi lao động
Dân số trong tuổi lao động
Tháp tuổi hay tháp dân số: là sự biểu thị kết hợp cơ cấu tuổi và giới tính của dân số dưới
dạng hình học. Trục hoành thể hiện số lượng tuyệt đối (hoặc %) một bên là nam, một bên
là nữ, trục tung thể hiện độ tuổi [6, tr.121].
Tháp dân số bao gồm những thanh ngang thể hiện những nhóm tuổi liên tiếp nhau từ độ tuổi thấp
nhất ở đáy của tháp đến độ tuổi cao nhất ở đỉnh tháp. Tháp dân số được chia thành 2 phần bởi trục
thẳng đứng (trục tung) vuông góc với trục ngang (trục hoành) từ đáy lên đỉnh tháp. Phần bên trái của
tháp chỉ cơ cấu tuổi của nam giới, phần bên phải – nữ giới.
Các nhà dân số học chia ra 3 kiểu tháp tuổi:
- Kiểu mở rộng: là của những nước có cơ cấu dân số trẻ. Các nước đang phát triển phần lớn là
kiểu tháp tuổi mở rộng.
- Kiểu thu hẹp: Dân số tăng chậm, nhóm tuổi từ 0 – 14 chiếm tỉ lệ nhỏ. Những thế hệ sau mới sinh
thu hẹp dần, tạo nên một kiểu cấu trúc chuyển tiếp từ “mở rộng” sang “thu hẹp”.
- Kiểu ổn định: Dân số gần như không tăng, tỉ suất sinh rất thấp và tỉ suất tử vong cũng rất thấp ở
nhóm tuổi trẻ, nhưng ở nhóm tuổi già tỉ suất tử vong cao, dần dần thu hẹp lại ở nhóm tuổi già. Kiểu
tháp tuổi này phổ biến ở các nước phát triển.
b. Cơ cấu dân tộc và xã hội của dân số
- Cơ cấu dân tộc:
Dân tộc là một cộng đồng người ổn định, được hình thành trong quá trình lịch sử, có những quan
hệ chung về lãnh thổ cư trú, tâm lí dân tộc, ngôn ngữ, kinh tế và một số đặc trưng về văn hoá, hình
thành trên cơ sở phát triển của các bộ tộc.
Trên thế giới có nhiều chủng tộc. Những dấu hiệu để phân loại chủng tộc là các đặc điểm về hình
thái. Đặc điểm bề ngoài dễ nhận thấy nhất là màu da, mắt, dạng tóc, song quan trọng hơn cả là hình
dạng hộp sọ.
Hình 1.3. Tháp tuổi dân số Việt Nam, thời kì 1999 - 2004
8 6 4 2 0 0 2 4 6 8
0 - 4
5 - 9
10-14
15 -19
20-24
25-29
30-34
35-39
40-44
45-49
50-54
55-59
60-64
65-69
70-74
75-79
+ 80
NAM NỮ
% %
Năm 1999
6 4 2 0 0 2 4 6
0 - 4
5 - 9
10-14
15 -19
20-24
25-29
30-34
35-39
40-44
45-49
50-54
55-59
60-64
65-69
70-74
75-79
+ 80
NAM NỮ
% %
Năm 2004
Trong sự phát triển của các chủng tộc, điều kiện tự nhiên có vai trò đặc biệt. Việc cư trú của các
nhóm người ở các vùng với các điều kiện tự nhiên khác nhau là tiền đề cho việc hình thành các chủng
tộc. Vào thời kì sơ khai, nhiều hàng rào tự nhiên như núi cao khó vượt qua, sông sâu, biển rộng đã dần
ngăn cách các nhóm người. Sự tách biệt về mặt địa lí đã dẫn tới sự phân hoá mạnh mẽ giữa các chủng
tộc.
Do sự thay đổi các điều kiện tự nhiên, của các điều kiện sinh thái trên Trái Đất và các hoạt động
kinh tế xã hội của loài người đã dẫn đến các cuộc chuyển cư của con người. Dần dần, loài người cư trú
hầu hết các lãnh thổ thuận lợi cho việc sinh sống của con người.
Khi mật độ dân số tăng lên do có người từ nơi khác tới thì xảy ra sự tiếp xúc giữa nhóm người
này với nhóm người khác. Bằng cách này đã dẫn tới sự pha trộn giữa các chủng tộc và làm giảm bớt sự
phân hoá ban đầu. Quá trình này xảy ra lâu dài và liên tục.
Ngày nay, nhân loại càng phát triển, càng tiến tới văn minh hơn, nhân bản hơn, mối quan hệ giữa
con người càng trở nên phức tạp hơn. Bất cứ dân tộc, cá nhân nào cũng đều chịu sự tác động qua lại
trong mối quan hệ nhiều chiều giữa các cộng đồng khác nhau. Các mối quan hệ đó đan xen nhau,
chồng chéo nhau, tác động cả tích cực lẫn tiêu cực. Nhưng ý tưởng thường trực, trong đó cao hơn hết,
thiêng liêng hơn hết là họ thuộc về dân tộc và cộng đồng chính trị - xã hội nào. Đó là quê hương, là
nguồn cội, là ý nghĩa cuộc sống của họ. Vấn đề dân tộc, tộc người trong một quốc gia luôn luôn là một
vấn đề lâu dài nhưng đầy rẫy tính thời sự nóng bỏng.
Việt Nam có 54 dân tộc cùng chung sống, gắn bó với nhau trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất
nước. Mỗi dân tộc có những nét văn hóa riêng, thể hiện trong ngôn ngữ, trang phục, quần cư, phong
tục, tập quán… làm cho nền văn hóa Việt Nam thêm phong phú, giàu bản sắc.
Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, dân tộc Kinh có số dân đông nhất, chiếm khoảng 86%
dân số cả nước. Đây là dân tộc có nhiều kinh nghiệm trong thâm canh lúa nước, các nghề thủ công đạt
mức độ tinh xảo. Người Kinh là lực lượng lao động đông đảo trong các ngành nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ, khoa học – kĩ thuật.
Các dân tộc ít người có số dân và trình độ phát triển kinh tế khác nhau. Mỗi dân tộc có kinh
nghiệm riêng trong một dân số lĩnh vực như trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi, làm nghề
thủ công…. Các hoạt động công nghiệp, dịch vụ, văn hóa, khoa học – kĩ thuật… của nước ta đều có sự
tham gia của các dân tộc ít người.
- Cơ cấu xã hội
+ Cơ cấu dân số theo lao động:
Nguồn lao động:
Bao gồm bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. Nguồn lao động
gồm dân số hoạt động kinh tế và dân số không hoạt động kinh tế.
- Dân số hoạt động kinh tế: Dân số hoạt động kinh tế hay còn gọi là lực lượng lao động bao gồm
toàn bộ những người đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng đang có nhu
cầu tìm việc.
Dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động
(nam từ đủ 15 tuổi đến hết 60 tuổi, nữ từ đủ 15 tuổi đến hết 55 tuổi).
Dân số hoạt động kinh tế thường xuyên trong 12 tháng là những người từ 15 tuổi trở lên có tổng
số ngày làm việc và có nhu cầu làm thêm lớn hơn hoặc bằng 183 ngày và ngược lại là dân số không
hoạt động kinh tế thường xuyên.
Căn cứ vào hoạt động kinh tế thường xuyên trong 12 tháng của những người từ đủ 15 tuổi trở lên,
số người hoạt động kinh tế thường xuyên chia làm 2 loại:
+ Dân số có việc làm thường xuyên trong 12 tháng bao gồm những người từ đủ 15 tuổi trở lên có
tổng số ngày làm việc thực tế lớn hơn hoặc bằng tổng số ngày có nhu cầu làm thêm.
+ Dân số không có việc làm thường xuyên gồm những người từ đủ 15 tuổi trở lên có tổng số ngày
làm việc thực tế nhỏ hơn số ngày có nhu cầu làm thêm.
- Dân số không hoạt động kinh tế: Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ những người
từ đủ 15 tuổi trở lên không thuộc bộ phận có việc làm và không có việc làm. Những người này không
hoạt động kinh tế vì những lí do:
Đang đi học;
Hiện đang là nội trợ cho gia đình;
Già cả, ốm đau;
Tàn tật, không có khả năng lao động;
Hoặc ở tình trạng khác (gồm những người không muốn làm việc và những người nghỉ
hưu không làm việc).
- Người thất nghiệp: là những người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế mà
trong tuần lễ trước cuộc điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc:
+ Có hoạt động đi tìm việc trong 4 tuần qua; hoặc không có hoạt động đi tìm việc trong 4 tuần
qua vì lí do không biết tìm việc ở đâu hoặc tìm mãi mà không được.
+ Hoặc trong tuần lễ trước cuộc điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 8 giờ, muốn làm thêm
nhưng không tìm được việc.
Tỉ lệ dân số hoạt động kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố: tỉ lệ lớp tuổi trẻ và già trong tổ._.ng số
dân, số người đang đi học hoặc ở trong quân đội chiếm bao nhiêu phần trăm. Việc giải quyết công ăn,
việc làm hoặc đầu tư vốn để mở mang nền kinh tế quốc dân ở từng quốc gia như thế nào...
Dân số hoạt động chia theo khu vực hoạt động kinh tế:
Theo các nhà kinh tế, có 3 khu vực hoạt động kinh tế xã hội ứng với 3 khu vực có số lượng lao
động nhất định. Mỗi khu vực có tính chất sản xuất, chất lượng và giá trị sản phẩm, hiệu quả kinh tế
riêng, phản ánh sức sản xuất, trình độ sản xuất của xã hội.
- Khu vực I: bao gồm lao động trong các ngành nông - lâm - ngư nghiệp
- Khu vực II: lao động hoạt động trong ngành công nghiệp, xây dựng.
- Khu vực III: bao gồm lao động trong các ngành dịch vụ.
Các nước có nền kinh tế phát triển, tỉ trọng lao động trong khu vực III rất cao (chiếm khoảng 70%
dân số trở lên), ngược lại các nước đang phát triển còn thấp (chỉ chiếm khoảng 20% dân số). Trên bình
diện toàn cầu hiện nay, hơn 40% dân số hoạt động trong khu vực I, 30% khu vực II và gần 30% ở khu
vực III.
+ Cơ cấu dân số theo trình độ văn hoá:
Cơ cấu dân số theo trình độ văn hoá phản ánh trình độ dân trí và học vấn của dân cư, là một trong
những tiêu chí để đánh giá chất lượng cuộc sống ở mỗi quốc gia. Trình độ dân trí của dân cư cao là
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, thúc đẩy
các mặt khác của đời sống xã hội.
Để xác định cơ cấu dân số theo trình độ văn hoá, người ta thường dùng 2 tiêu chí: tỉ lệ biết chữ
(số % những người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết) và số năm đến trường (số năm bình quân đến
trường học của những người từ 25 tuổi trở lên).
Hiện nay, trên thế giới có trên 1 tỉ người mù chữ. Tỉ lệ người mù chữ cao nhất là ở các nước Châu
Phi, Nam Á và các nước Ả Rập. Trong khi đó, tại các nước có phát triển, tỉ lệ người biết chữ rất cao, từ
90 đến 100%. Số năm đi học của người dân ở các nước phát triển khá cao, từ 10 – 14 năm, trong khi đó
ở các nước đang phát triển, con số đó chỉ dao động từ 3 - 5 năm.
1.1.2. Các học thuyết dân số
1.1.2.1. Học thuyết quá độ dân số [6, tr.36]
Là học thuyết về sự biến đổi dân số từ tỉ suất gia tăng cao, tỉ suất sinh cao xuống tỉ suất gia tăng
thấp, tỉ suất tử thấp dẫn đến gia tăng dân số thấp.
Học thuyết quá độ dân số dựa trên cơ sở những biến đổi về dân số ở châu Âu vào lúc bắt đầu cuộc
cách mạng công nghiệp. Mô hình xây dựng là dựa trên việc quan sát các biến đổi dân số ở châu Âu là
một mô hình kinh điển về quá độ dân số. Hiện tượng biến đổi dân số được chia thành 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1: từ 1750 – 1800: tỉ suất sinh và tỉ suất tử tương đối cao, gia tăng tự nhiên thấp
(khoảng 0,5% mỗi năm).
Giai đoạn 2: Từ năm 1800 – 1875: tỉ suất sinh tiếp tục tăng cao nhưng tỉ suất chết ngày càng
giảm, dẫn đến tỉ suất gia tăng tự nhiên cao (2%/năm).
Giai đoạn 3: Từ năm 1875 – 1950: tỉ suất sinh giảm và tỉ suất tử tiếp tục giảm đến mức thấp nhất,
tỉ suất gia tăng tự nhiên bắt đầu giảm dần.
Giai đoạn 4: Từ năm 1950 – 1975: tỉ suất sinh và tỉ suất tử đều ở mức độ thấp: tỉ suất gia tăng tự
nhiên thấp và tạo nên ổn định dân số.
Giai đoạn 2 và giai đoạn 3 được gọi là giai đoạn quá độ dân số.
Học thuyết quá độ dân số đã chú ý đến sự thay đổi về tỉ suất sinh và tỉ suất tử ở các giai đoạn khác
nhau của những nước phát triển, khi mà các nước chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp truyền thống
sang nền kinh tế công nghiệp và dịch vụ, tức là trải qua thời kì tỉ suất sinh, tỉ suất tử cao sang thời kì tỉ
suất sinh, tỉ suất tử thấp.
Đánh giá về mối quan hệ giữa tiến trình phát triển kinh tế - xã hội với các biến động dân số, các
nhà nhân khẩu học đã rút ra nhận xét là “tất cả các dân tộc trong kỉ nguyên hiện đại đã chuyển từ nền
kinh tế truyền thống sang nền kinh tế công nghiệp lớn trên cơ sở đô thị hoá, hiện đại hoá đều chuyển từ
mức sinh và mức chết cao sang mức sinh và mức chết thấp”.
Như vậy, quá độ dân số là giai đoạn nhất thiết phải trải qua, mặc dù thời gian dài ngắn có thể khác
nhau. Theo lí thuyết này, việc giảm mức sinh là quá trình đi kèm của công nghiệp hoá và hiện đại hóa.
Tuy vậy, đối với các nước đang phát triển, dân số tăng rất nhanh, không thể chờ đợi công nghiệp hoá,
hiện đại hoá mà phải chấp nhận chương trình kế hoạch hoá gia đình nhằm tác động trực tiếp đến sự gia
tăng dân số.
1.1.2.2. Học thuyết dân số tối ưu [6, tr.40]
Hiện nay có nhiều quốc gia có dân số quá đông khiến việc làm và cuộc sống gặp nhiều khó khăn,
tình trạng đói ăn diễn ra thường xuyên, nạn suy dinh dưỡng trở nên phổ biến. Tuy nhiên, ở một số quốc
gia lại có mật độ dân số không cao, dân cư thưa thớt. Cả hai trường hợp trên đều dẫn đến những khó
khăn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Xuất phát từ những vấn đề trên, nhiều nhà nhân khẩu học đã đề xuất học thuyết “dân số tối ưu”.
Trước khi nghiên cứu dân số tối ưu, cần tìm hiểu thế nào là dân số tối đa.
Dân số tối đa của một quốc gia hay một địa phương là dân số đã đạt đến mức giới hạn không
được vượt qua mức đó, nếu vượt qua dân cư sẽ nhanh chóng lâm vào tình trạng bần cùng, đói khổ.
Hiện nay chỉ còn một vài nơi trên thế giới có dân số thưa thớt như ở Bắc cực, Nam cực…. Những
nơi này cũng không thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Từ hai hình ảnh tương phản trên, thuyết “dân số tối ưu” ra đời nhằm xây dựng một dân số hợp lí
để có thể phát triển kinh tế - xã hội thuận lợi.
Sự gia tăng dân số khác nhau sẽ kéo theo sự gia tăng nhu cầu tiêu thụ sản phẩm khác nhau. Có hai
cách để giải quyết: Một là phải tìm cách giảm sự gia tăng dân số, hai là phải đẩy mạnh nền sản xuất xã
hội nhằm tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu của dân số.
Nếu sự gia tăng dân số không đi đôi với sự gia tăng sản xuất thì kết quả sẽ vô cùng tồi tệ, bởi vì
mức sống của con người sẽ nhanh chóng giảm sút.
Sự gia tăng dân số của nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay không hợp lí. Bởi vì, sự gia tăng dân
số nhanh khiến cho ngân sách quốc gia phải gánh chịu nhiều tốn kém. Chẳng hạn ở Pháp cứ 1% dân số
tăng thêm thì chính phủ phải chi thêm 6,3 – 8% thu nhập quốc dân để đảm bảo mức sống không bị sụt
giảm; còn ở Mĩ cứ 1% dân số tăng thêm thì chính phủ phải chi 2 – 3% ngân sách quốc gia để ổn định
mức sống dân cư.
Đối với các quốc gia đang phát triển, do nền kinh tế kém phát triển, ngân sách quốc gia vốn đã eo
hẹp, sản xuất không có tích luỹ nên dân số tăng lên không hợp lí sẽ đẩy nền kinh tế vốn kém phát triển
vào tình trạng khó khăn hơn, tốc độ phát triển kinh tế có thể bằng 0 hoặc âm.
Như vậy, một quốc gia muốn phát triển kinh tế - xã hội một cách thuận lợi thì cần có một dân số
phù hợp, tức là “dân số tối ưu”.
1.2. Các khái niệm về phát triển và chỉ số đo sự phát triển
1.2.1. Khái niệm phát triển
- Tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên của tổng sản phẩm quốc dân và tổng sản phẩm quốc nội hoặc
mức tăng của tổng sản phẩm quốc dân hoặc tổng sản phẩm trong nước tính theo đầu người [2, tr.115].
- Phát triển kinh tế:
Theo các nhà kinh tế chính trị học thì sự phát triển là quá trình mà xã hội đạt đến thoả mãn các
nhu cầu về vật chất và tinh thần mà xã hội đó coi là cơ bản. khi nói đến nền kinh tế phát triển là muốn
nhấn mạnh mức độ lớn lên của nền kinh tế và mặt chất lượng [2, tr.115].
Phát triển không chỉ đơn thuần là sự tăng trưởng. Không phải mọi sự tăng trưởng đều dẫn đến sự
phát triển, nhưng không có một sự phát triển nào mà lại không bao hàm sự tăng trưởng. Ngoài tăng
trưởng, phát triển còn bao hàm nhiều yếu tố khác, trong đó phát triển phải đi kèm sự thay đổi về cơ cấu
kinh tế, lao động, nâng cao chất lượng cuộc sống…
Đặc trưng của sự phát triển kinh tế là sự thay đổi trong cơ cấu nền kinh tế, tức là tăng tỉ trọng
ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm tỉ trọng của ngành nông nghiệp trong cơ cấu tổng sản
phẩm quốc dân. Từ đó kéo theo việc tăng tỉ lệ người sống trong các đô thị và giảm tỉ lệ người sống ở
nông thôn.
Qua đó, chúng ta có thể thấy:
- Có một số quốc gia trên thực tế có sự tăng trưởng mà không có sự phát triển. Đó là những nước
chọn sự phát triển thuần tuý tức là chỉ chú trọng tới việc tăng thêm về số lượng.
- Ở một vài quốc gia khác tuy không đạt đến sự tăng trưởng nhưng lại thực hiện được công bằng
xã hội tốt hơn, giảm bớt lãng phí để mang lại lợi ích cho người dân.
Thông thường, tăng trưởng và phát triển thường đi đôi với nhau. Khi có sự gia tăng về thu nhập
và sản phẩm theo đầu người thì ít nhiều có sự gia tăng về phúc lợi xã hội. Vì thế không thể có sự phát
triển mà không có tăng trưởng. Như vậy, đã có phát triển thì chắc chắn có tăng trưởng nhưng có tăng
trưởng chưa chắc đã có phát triển.
1.2.2. Các chỉ số đo sự phát triển
1.2.2.1. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP hay GNI) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP): là tổng giá trị thị trường của tất cả hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng
cuối cùng được tạo ra do một quốc gia ở một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). GNP
không chỉ bao gồm tổng sản phẩm cuối cùng về hàng hoá và dịch vụ được tạo ra bên trong lãnh thổ
một quốc gia mà còn tính đến các khoản thu nhập do đầu tư ở nước ngoài và các khoản tiền của công
nhân từ nước ngoài gửi về, nhưng phải trừ đi giá trị sản phẩm mà nền kinh tế nước đó phải trả cho
người nước ngoài dưới dạng lợi nhuận do việc họ đã đầu tư vào nền kinh tế của nước mình [2, tr.34].
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): là tổng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng cuối cùng mà
một nền kinh tế tạo ra bên trong một quốc gia không phân biệt do người trong nước hay người nước
ngoài làm ra, ở một thời kì nhất định, thường là một năm [2, tr.35].
GDP thường dùng để phân tích cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, trình độ phát
triển và mức sống con người.
1.2.2.2. Kì vọng sống hay tuổi thọ trung bình (Life expectancy):
Kì vọng sống hay tuổi thọ trung bình là số năm trung bình của người sinh ra có khả năng sống
được. Tuổi thọ trung bình không tính tới những trường hợp chết không bình thường (chết tai nạn, chết
chiến tranh…) [6, tr.98].
Kì vọng sống là một trong những chỉ tiêu để đánh giá trình độ phát triển kinh tế, điều kiện sống,
mức thu nhập, điều kiện y tế, chăm sóc sức khoẻ của một quốc gia, một khu vực….
1.2.2.3. Chỉ số calo bình quân đầu người
Thức ăn là nguồn cung cấp năng lượng cho con người. Theo quy ước, người dùng đơn vị calo để
đo nhu cầu năng lượng và khả năng cung cấp năng lượng cho con người. Theo tổ chức lương thức thế
giới (FAO) thì chính lương thực thực phẩm là nguồn cung cấp năng lượng thiết yếu cho con người.
Những hoạt động sinh hoạt và sản xuất khác nhau đòi hỏi mức cung cấp năng lượng khác nhau. Nhu
cầu năng lượng còn thay đổi theo độ tuổi và giới tính, mức lao động và trọng lượng cơ thể.
Ở các nước công nghiệp phát triển, lượng calo cung cấp cho một người cao gấp 1,5 lần các nước
đang phát triển và vượt nhu cầu năng lượng của cơ thể (khoảng 3500 calo/người/ngày). Lượng calo
cung cấp thực tế ở các nước đang phát triển thấp hơn (khoảng 2600 calo/người/ngày). Ở các nước
chậm phát triển, lượng calo bình quân hàng ngày của một người khoảng 2100 và lại không được phân
phối đều nên số người thiếu dinh dưỡng ngày càng tăng. Hàng triệu trẻ em và người già ở châu Phi vẫn
bị nạn đói đe dọa hàng ngày.
Thiếu thức ăn, suy dinh dưỡng để lại nhiều hậu quả trong đời sống và phát triển của mỗi người,
mỗi quốc gia cũng như toàn thể nhân loại. Ở các nước có thu nhập thấp, 5% số trẻ em dưới 1 tuổi bị
thiếu máu. Tỉ lệ tử vong ở nhóm này rất cao. Thiếu dinh dưỡng thì năng suất lao động giảm, kì vọng
sống thấp.
1.2.2.4. Trình độ biết đọc, biết viết của dân cư
Trình độ học vấn của một nước phản ánh mức độ phát triển của một xã hội cũng như trình độ văn
minh của mỗi quốc gia. Trình độ học vấn cao là điều kiện rất quan trọng để con người phát triển toàn
diện, dễ thích ứng với những biến đổi của trong công nghệ sản xuất cũng như yêu cầu của xã hội. Nhu
cầu về học tập để hiểu biết và theo kịp đà phát triển của xã hội là nhu cầu chính đáng của mỗi cá nhân
và cần thiết cho xã hội.
Để đo trình độ học vấn của một quốc gia người ta thường dùng tỉ lệ phần trăm (%) người biết đọc,
biết viết của dân cư từ 15 tuổi trở lên hoặc dùng chỉ tiêu số năm học trung bình cho một người ở trong
độ tuổi đi học.
Đối với các nước đang phát triển, sản xuất trì trệ, dân số phát triển quá nhanh, chất lượng cuộc
sống còn thấp, cơ sở vật chất nghèo nàn nên việc đầu tư cho giáo dục còn thấp, tỉ lệ người mù chữ cao.
Ngược lại, đối với các nước phát triển, số lượng người mù chữ chiếm tỉ lệ rất thấp (bảng 1.3).
Bảng 1.3. Tỉ lệ biết chữ và số năm đến trường theo nhóm nước, năm 2005
Các nhóm nước Tỉ lệ người biết chữ (%) Số năm đi học
Các nước phát triển >90 11,0
Các nước đang phát triển 70 4,0
Các nước kém phát triển 48 1,9
Nguồn: World Development Indications, 2006
1.2.2.5. Cơ cấu nền kinh tế quốc dân
Cơ cấu nền kinh tế của một nước là một trong những chỉ tiêu đánh giá sự phát triển. Theo cách
phân loại tiêu chuẩn quốc tế của các hoạt động kinh tế thì nền kinh tế hiện đại được cấu thành từ 3 khu
vực sản xuất: nông – lâm – ngư nghiệp (khu vực I), công nghiệp – xây dựng (khu vực II) và dịch vụ
(khu vực III).
Theo số liệu thống kê của nhiều tổ chức trên thế giới thì chỉ tiêu về cơ cấu của nền sản xuất rất
khác nhau giữa các nhóm nước và phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế. Ở những nước công nghiệp hoá
có nền kinh tế phát triển cao, số người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp rất thấp. Đối với những
nước đang phát triển thì ngược lại, tỉ lệ lao động nông nghiệp khá cao, có thu nhập bình quân đầu
người thấp. Ở các nước này, nông nghiệp giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân.
Ở các nước đang phát triển hiện nay đang diễn ra sự thay đổi cơ cấu trong GDP. Nhiều nước chọn
chiến lược công nghiệp hoá và thu hút sức lao động ngày càng nhiều vào lĩnh vực công ngjiệp và dịch
vụ.
1.2.1.6. Một số chỉ tiêu đánh giá khác
Ngoài các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển đã trình bày ở trên, chúng ta có thể dùng một số chỉ tiêu
sau để đánh giá sự phát triển, đó là các chỉ tiêu về sự thay đổi trong cơ cấu dân cư; tỉ lệ trẻ em đến
trường trong tổng số trẻ em ở độ tuổi đi học; tỉ lệ dân cư đô thị; tốc độ đô thị hoá….
Cũng cần đưa thêm các chỉ số về y tế như số bác sĩ trung bình/vạn dân, số người khám và điều
trị/tổng số dân… để đánh giá trình độ phát triển.
1.3. Mối quan hệ giữa phát triển dân số với sự phát triển kinh tế - xã hội
1.3.1. Sự thống nhất biện chứng giữa sản xuất vật chất và tái sản xuất con người
Nền sản xuất xã hội bao gồm 2 mặt: sản xuất vật chất và tái sản xuất con người. Hai kiểu sản xuất
này có mối quan hệ mật thiết với nhau, có tác động lẫn nhau trong sự thống nhất biện chứng. Sản xuất
vật chất quyết định trực tiếp sự sống của con người, là cơ sở tái sản xuất con người. Sự phát triển sản
xuất vật chất tạo điều kiện đẩy mạnh sự phát triển dân số cả về số lượng cũng như chất lượng. Ngược
lại, tái sản xuất con người là tiền đề của tái sản xuất vật chất, có con người mới có sản xuất; nếu không
có tái sản xuất con người thì không có sự thay thế, đổi mới, tăng cường sức lao động. Sự phát triển về
số lượng và chất lượng dân số một cách hợp lí thúc đẩy sự phát triển của sản xuất vật chất, đáp ứng
nhu cầu của xã hội. Nếu số dân và tỉ lệ tăng dân số không cân đối với sản xuất vật chất thì sự phát triển
của nền sản xuất xã hội sẽ bị cản trở và kìm hãm.
Hai kiểu sản xuất vật chất và sản xuất bản thân con người trong một nền sản xuất xã hội thống
nhất bao giờ cũng ở thế cân bằng thì xã hội mới phát triển toàn diện và do đó chúng đòi hỏi một sự
điều khiển thống nhất.
1.3.2. Quan hệ giữa phát triển dân số và tăng trưởng kinh tế
1.3.2.1. Dân số với phát triển kinh tế
Gia tăng dân số và phát triển kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Sự
biến động dân số trong từng thời kì ở mỗi quốc gia đều tác động sâu sắc và toàn diện đến mọi lĩnh vực,
trước hết là các hoạt động kinh tế.
Chúng ta biết rằng khi dân số tăng lên thì lực lượng lao động cũng tăng lên với tốc độ thường cao
hơn tốc độ gia tăng dân số. Các nguồn tài nguyên như đất đai, mặt nước, khoáng sản… đều có hạn. Vì
thế, số lao động trên một đơn vị diện tích đất đai tăng lên. Điều này có thể làm cho tổng sản phẩm tăng
lên nhưng sản phẩm bình quân đầu người, thậm chí là bình quân cho một lao động cũng có thể giảm đi.
Trong quá trình sản xuất, nếu số lao động tăng nhanh hơn nhiều so với số vốn vật chất thì lượng
vốn đó phải dàn trải ra cho nhiều lao động, dẫn đến tỉ lệ vốn/lao động giảm xuống. Khi dân số tăng
nhanh có thể làm cho chất lượng vốn con người giảm xuống hoặc ở mức thấp và khó cải thiện được.
Điều này trước hết liên quan đến việc cung cấp không đầy đủ chất dinh dưỡng và chăm sóc y tế cho trẻ
em và cho cả người lao động; trình độ học vấn thấp và phần lớn lao động không được đào tạo. Do đó,
năng suất lao động không cao, khiến cho tổng sản phẩm quốc dân tăng chậm.
Đối với yếu tố công nghệ, có nhiều lập luận cho rằng quy mô dân số lớn và tăng trưởng nhanh có
thể là sức ép làm nảy sinh các phát minh khoa học và đẩy nhanh tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, tiến bộ
công nghệ cũng cần có thời gian và cần có những đầu tư lớn mà các nước nghèo chưa thể đáp ứng
ngay được.
Từ những lập luận trên có thể thấy rằng: Tăng nhanh dân số ở các nước nghèo là bất lợi cho nền
kinh tế.
Kết luận này có thể được chứng minh cụ thể thông qua mối quan hệ sau:
Tỉ lệ gia tăng GNP/người = tỉ lệ tăng GNP – tỉ suất gia tăng dân số [2, tr.116].
Như vậy để tăng GNP/người thì tỉ lệ tăng GNP phải cao hơn tỉ suất gia tăng dân số. Và việc hạ
thấp tỉ suất gia tăng dân số bao giờ cũng sẽ làm tăng GNP/người. Nếu gia tăng dân số quá nhanh so với
mức tăng trưởng kinh tế sẽ làm giảm mức sống người dân, đồng thời hạ thấp vai trò của nhân tố con
người đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, huỷ hoại môi trường thiên nhiên, hệ sinh thái và điều kiện
sống của con người.
Để cuộc sống của mỗi người dân ngày càng được nâng cao cần phải có sự phát triển hài hoà giữa
dân số và phát triển kinh tế - xã hội. Theo tính toán của tổ chức lương thực và nông nghiệp Liên Hiệp
Quốc (FAO): nếu dân số tăng 1% thì thu nhập quốc dân tăng ít nhất là 4% thì mới đảm bảo việc làm
cho số lao động tăng thêm và giữ mức sống như cũ của dân cư. Khi nền kinh tế phát triển, của cải vật
chất được sản xuất ngày càng nhiều hơn, cuộc sống của con người ngày càng sung túc hơn và lúc đó tỉ
suất gia tăng dân số tự nhiên giảm xuống. Đây là tác động ngược lại của phát triển kinh tế với sự gia
tăng dân số.
Bảng 1.4. Mức tăng dân số trung bình hàng năm ở các nhóm nước (%)
Các nước 1950 - 1960 1960 - 1970 1970 - 1980 1995 - 2000 2002-2005
Thu nhập cao 1,2 1,0 0,7 0,3 0,3
Thu nhập trung bình 2,4 2,5 2,3 1,6 1,3
Thu nhập thấp 1,9 2,5 2,3 2,7 2,5
Nguồn: Nguyễn Minh Tuệ - Giáo trình giáo dục dân số - sức khỏe sinh sản
Có thể thấy rằng ở các nước đang phát triển, gia tăng dân số hàng năm tăng gấp 2 – 3 lần các
nước phát triển, song thu nhập bình quân đầu người kém hàng chục lần thậm chí hàng trăm lần. Năm
1960, mức chênh lệch về GDP/ người ở các nước giàu so với các nước nghèo là 23 lần, đến năm 2005,
khoảng cách này tăng lên 63 lần (bảng 1.4 và 1.5).
Bảng 1.5. GDP bình quân đầu người hàng năm theo nhóm nước (USD)
Các nhóm nước 1950 1960 1980 1990 2000 2005
Thu nhập cao 3.841 5.197 9.864 19.790 25.710 32.000
Thu nhập trung bình 625 802 1.521 1.940 1.970 2200
Thu nhập thấp 164 174 245 320 420 510
Nguồn: Nguyễn Minh Tuệ - Giáo trình giáo dục dân số - sức khỏe sinh sản
Ở Việt Nam, mối quan hệ giữa gia tăng dân số và tăng trưởng kinh tế thể hiện rất rõ qua bảng sau:
Bảng 1.6. Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỉ suất gia tăng dân số Việt Nam
giai đoạn 1995 - 2005
1995 1997 1999 2000 2005
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%) 9,5 8,2 4,8 6,8 8,4
- Tỉ suất gia tăng dân số (%) 1,65 1,57 1,51 1,36 1,30
GDP/người thực tế (USD/người) 1010 1208 1630 1860 3071
Tốc độ tăng trưởng (%) 100 119,6 161,4 184,2 304,1
Nguồn: Điều tra biến động dân số 1/4/2004, Tính toán từ Niên giám Thống kê năm 2005.
Bảng 1.7. Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỉ suất gia tăng dân số Việt Nam
phân theo vùng năm 2005
Tốc độ tăng
trưởng
kinh tế 2001 –
2005
(%)
Thu nhập
bình quân
đầu
người/năm
(triệu
đồng)
Tỉ lệ bình
quân đầu
người so
với cả
nước (%)
Tỉ suất
gia tăng
dân số
(%)
Toàn quốc 7,5 5,5 100 1,30
Đông Nam Bộ 9,1 10,0 181,8 1,32
Đồng bằng sông Hồng 8,6 6,3 114,5 1,27
Đồng bằng sông Cửu Long 6,8 5,7 103,6 1,40
Duyên hải Nam Trung Bộ 7,8 5,0 90,9 1,34
Tây Nguyên 6,1 4,7 85,4 1,85
Đông Bắc 6,0 4,6 83,6 1,32
Bắc Trung Bộ 7,8 3,8 69,1 1,33
Tây Bắc 6,0 3,2 58,2 1,60
Nguồn: Điều tra biến động dân số 1/4/2004, Tính toán từ Niên giám Thống kê năm 2005.
Ở nước ta, trong suốt hơn thập kỉ vừa qua, việc giảm tỉ suất gia tăng tự nhiên dân số đã góp phần
không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh tế và nhờ vậy bình quân thu nhập đầu người ngày càng được
nâng cao (bảng 1.6).
Giữa các vùng kinh tế, mức gia tăng dân số không giống nhau và mức tăng trưởng kinh tế, thu
nhập bình quân đầu người theo các vùng cũng khác nhau. Hai vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông
Hồng dân số tăng chậm (1,27% và 1,32%) đã góp phần làm cho tăng trưởng kinh tế tương đối cao
(8,6% và 9,1%) và thu nhập bình quân đầu người cao hơn mức trung bình của cả nước. Các vùng Tây
Bắc, Tây Nguyên, mặc dù đã có tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, song do tỉ suất gia tăng tự
nhiên còn cao (1,6% và 1,85%) nên bình quân thu nhập đầu người chỉ bằng 58% và 85% so với cả
nước (bảng 1.7).
1.3.2.2. Dân số với lao động, việc làm
Nguồn lao động là vốn quý, là nhân tố của sản xuất ngay cả trong điều kiện sản xuất tự động hoá.
Vì thế, người lao động được xem là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất xã hội. Ngày nay,
khi mà trình độ khoa học kĩ thuật phát triển mạnh, ở các nước tiên tiến đều sử dụng máy móc tự động,
robot làm việc thay thế cho người… nhưng con người vẫn là yếu tố quan trọng nhất trong sản xuất.
Quy mô, cơ cấu và tốc độ phát triển dân số quyết định quy mô, cơ cấu và tốc độ tăng nguồn lao
động. Nếu dân số nhóm tuổi 14 – 59 chiếm tỉ lệ lớn và tăng hàng năm thì sức ép về nhu cầu việc làm
của dân số đối với xã hội ngày càng lớn. Vì vậy, mối quan hệ dân số - việc làm chính là mối quan hệ
dân số - nguồn lao động. Dân số tăng nhanh gây sức ép cho vấn đề việc làm của địa phương. Khi giải
quyết tốt các nhu cầu việc làm của nguồn lao động sẽ có tác dụng tăng thu nhập cá nhân, gia đình và
địa phương, thúc đẩy kinh tế phát triển; từ đó góp phần ổn định xã hội, phát triển văn hoá, giáo dục và
bảo vệ môi trường.
1.3.2.3. Dân số với giáo dục
- Ảnh hưởng của dân số đến giáo dục
Sự thay đổi về quy mô và chất lượng dân số sẽ ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng của hệ
thống giáo dục. Ở các nước đang phát triển, khi tỉ lệ tăng dân số cao, cơ cấu dân số trẻ trong khi kinh tế
chậm phát triển, vốn đầu tư cho giáo dục ít sẽ dẫn đến gánh nặng cho sự phát triển của nền giáo dục.
Dân số đông và tăng nhanh thì số dân đi học cũng đông và đòi hỏi phải mở thêm nhiều trường
lớp, phải đầu tư nhiều và nhanh, cung cấp sách giáo khoa, đồ dùng dạy học, giấy bút và các học phẩm
khác nhiều hơn, nhanh hơn, đào tạo giáo viên và bồi dưỡng cán bộ giáo dục cũng phải tăng lên.
Mặt khác, dân số đông và tăng nhanh sẽ tác động đến quy mô và chất lượng giáo dục thông qua
chất lượng cuộc sống. Thí dụ, tỉ lệ tăng dân số trên 1% hàng năm trở lên, nhưng sản xuất lương thực
chỉ tăng dưới 2,5% và tổng thu nhập quốc nội chỉ tăng dưới 4% hàng năm, thì mức sống vật chất sẽ
thấp, đời sống sẽ khó khăn, nhiều trẻ em không được tới trường, chất lượng dạy và học sẽ giảm sút, trẻ
em phải bỏ học, nạn mù chữ tăng lên, trường sở không được tu bổ kịp thời.
Dân số tác động đến giáo dục một cách tích cực hoặc tiêu cực là do chiều hướng và tính chất của sự
biến động dân số.
+ Dân số nếu phát triển hợp lí, cân đối thì sẽ trở thành điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển
giáo dục cả về chất lượng cũng như số lượng. Vì dân số phát triển cân đối với của cải do xã hội làm ra, tức
là tái sản xuất con người phù hợp với sản xuất ra của cải vật chất, chất lượng cuộc sống ngày một cao hơn,
giáo dục được đầu tư thích đáng.
+ Nếu dân số tăng quá nhanh sẽ dẫn đến sự gia tăng tỉ trọng dân số trong độ tuổi đi học. Hậu
quả là chất lượng và quy mô phát triển của giáo dục đều sút kém do tác động tiêu cực trực tiếp và gián
tiếp của dân số. Chất lượng giáo dục là một bộ phận của chất lượng cuộc sống xã hội nói chung. Chất
lượng giáo dục sẽ giảm sút một cách tất yếu nếu như chất lượng cuộc sống giảm sút do mất cân đối
giữa sản xuất của cải vật chất với tái sản xuất con người.
Ở nước ta do quy mô dân số tăng nhanh nên số lượng học sinh cũng không ngừng tăng, nhưng
những năm gần đây có xu hướng giảm do tỉ suất sinh giảm dần (bảng 1.8).
Bảng 1.8. Sự phát triển dân số và số lượng học sinh ở Việt Nam, thời kì 1995 – 2007
1995 – 1996
1997
– 1998
1999
– 2000
2001
– 2002
2003
– 2004
2005
– 2006
2006
– 2007
Số lượng HS (nghìn
HS) 15561,0 16970,2 17685,3 17875,6 17505,4 16650,6 16256,6
Dân số (nghìn
người) 72576 74882 77116 79207 81467,1 82569 84155,8
% số HS /tổng số
dân 21,44 22,66 22,93 22,56 21,48 20,16 19,31
Nguồn: Niên giám Thống kê, 2006.
Tác động gián tiếp của quy mô và tốc độ tăng dân số thể hiện thông qua ảnh hưởng của sự gia
tăng dân số nhanh đến chất lượng cuộc sống, mức thu nhập, từ đó ảnh hưởng đến đầu tư cho giáo dục,
ảnh hưởng đến quy mô, chất lượng giáo dục và sự bình đẳng trong giáo dục.
+ Cơ cấu dân số theo tuổi cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của giáo dục
Cơ cấu dân số trẻ dẫn đến số người trong độ tuổi đi học đông, nhu cầu giáo dục lớn và ngược lại.
Ở hầu hết các nước đang phát triển, do mức sinh cao nên cơ cấu dân số trẻ. Do đó, quy mô của nền
giáo dục tương ứng với dân số này thông thường có số học sinh cấp I (tiểu học) > cấp II (THCS) > cấp
III (THPT). Ngược lại, những nước có cơ cấu dân số già, cấu trúc của nền giáo dục tương ứng sẽ có số
lượng học sinh cấp I < cấp II < cấp III. Điều này cũng đúng với Việt Nam (bảng 1.9).
Bảng 1.9. Số lượng học sinh các cấp của Việt Nam, thời kì 1995 – 2007
Số HS (nghìn
HS)
1995 –
1996
1999 –
2000
2003 –
2004
2006 –
2007
Tỉ lệ HS
năm học
2006 – 2007
(%)
Số HS tiểu học 10228,8 10033,5 8346,0 7029,4 43,24
Số HS THCS 4312,7 5694,8 6569,8 6152,0 37,84
Số HS THPT 1019,5 1957,0 2589,6 3075,2 18,92
Tổng số 15561 17685,3 17505,4 16256,6 100,0
Nguồn: Niên giám Thống kê, 2006.
+ Sự phân bố dân số cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của giáo dục
Ở thành thị và các vùng đông dân, kinh tế phát triển mạnh và cơ sở hạ tầng khá tốt. Vì vậy, những
nơi này hệ thống giáo dục thường phát triển hơn nên trẻ em có nhiều cơ hội đến trường hơn những
vùng nông thôn kinh tế kém phát triển, dân cư thưa thớt. Mật độ dân số quá lớn, số trẻ em đi học cao
gây nên sự quá tải, học sinh phải học cả ca 3. Ngược lại, ở nơi dân cư thưa thớt, số trẻ em trong độ tuổi
đi học không nhiều, khoảng cách từ nhà đến trường lớn cũng là một yếu tố gây khó khăn cho ngành
giáo dục.
- Ảnh hưởng của giáo dục đến dân số
+ Ảnh hưởng của giáo dục đến quá trình hôn nhân
Ảnh hưởng của giáo dục đến quá trình hôn nhân thể hiện qua quyền lựa chọn bạn đời; tuổi kết
hôn lần đầu và li hôn. Thanh niên nam nữ có trình độ học vấn cao, đặc biệt là phụ nữ có quyền tự do
lựa chọn người bạn đời mà mình sẽ chung sống, lựa chọn thời điểm kết hôn và li hôn khi cần thiết.
+ Ảnh hưởng của giáo dục đến mức sinh
Trên thế giới có rất nhiều công trình nghiên cứu ảnh hưởng của giáo dục đến mức sinh. Hầu hết
các công trình nghiên cứu đều khẳng định rằng giáo dục có vai trò quyết định trong việc giảm mức
sinh. Ảnh hưởng của giáo dục đến mức sinh được thể hiện như sau: trình độ học vấn cao sẽ làm thay
đổi nhận thức và phương pháp sinh đẻ, về số con và thời điểm sinh con. Điều đó thúc đẩy sự tự nguyện
sử dụng các biện pháp tránh thai, làm giảm mức sinh. Số lượng trẻ em sinh ra lại tạo điều kiện cho phụ
nữ nâng cao trình độ học vấn. Trình độ học vấn cao lại là tiền đề làm giảm mức sinh.
Tuy nhiên, không phải khi phụ nữ có trình độ học vấn cao thì họ thôi không sinh con nữa. Nhiều
công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng để giáo dục có ảnh hưởng đến việc giảm sinh thì trình độ
của dân số phải đạt đến một mức gọi là “ngưỡng” và đến một “ngưỡng” nhất định thì mức sinh không
giảm nữa. Ngưỡng học vấn có ảnh hưởng đến mức sinh ở các nước khác nhau thì khác nhau, tuỳ thuộc
vào điều kiện kinh tế - xã hội của nước đó.
+ Giáo dục có ảnh hưởng đến mức chết
Trình độ giáo dục có ảnh hưởng đến mức chết, đặc biệt mức chết trẻ em. Hầu hết các công trình
nghiên cứu về mức chết trẻ em ở các nước đang phát triển đều cho rằng trình độ giáo dục, đặc biệt là
trình độ giáo dục của người phụ nữ là “chìa khoá” để giảm mức chết trẻ em. Phụ nữ có trình độ học
vấn thấp thường sinh nhiều con hơn, khoảng cách giữa 2 lần sinh thường ngắn hơn 24 tháng. Đồng thời
những phụ nữ có trình độ học vấn thấp thường ít hiểu biết về cách nuôi con và phòng chống các bệnh
tật, họ cũng thường là những người có thu nhập thấp nên ít có điều kiện để chăm sóc con tốt hơn khi
ốm đau. (bảng 1.10)
Bảng 1.10. Mối quan hệ giữa giáo dục và mức chết của trẻ em năm 2005
Nhóm nước Tỉ lệ người lớn biết chữ (%)
Tỉ lệ phụ nữ
biết chữ (%)
Tỉ suất chết
dưới 5 tuổi (‰)
Thế giới 78,6 68 84
Thu nhập thấp 60,2 51 119
Thu nhập trung bình 90,0 80 40
Thu nhập cao 91,0 98 7
Nguồn: Nguyễn Minh Tuệ - Giáo trình dân số - sức khỏe sinh sản
Tóm lại, giáo dục có ảnh hưởng đến mức sinh và mức chết của dân số. Tuy nhiên, giáo dục là một
trong các nhân tố thuộc yếu tố kinh tế - xã hội, tác động đến sinh và._.và xử lý
trước khi thải ra môi trường.
Đến 2010, tỉnh tập trung thực hiện quy hoạch thoát nước và vệ sinh môi trường ở khu vực Nam
Bình Dương, ở các khu đô thị và khu đông dân cư trong phạm vi 592km2; các khu công nghiệp đã có
và đang xây dựng. Tổng vốn đầu tư thực hiện cho quy hoạch này khoảng 118 triệu USD.
- Bảo vệ môi trường
Với giải pháp chung là tăng trưởng kinh tế kết hợp với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường,
tỉnh yêu cầu các dự án đầu tư phải thực hiện đúng quy hoạch được duyệt, có hệ thống xử lý chất thải và
bảo vệ môi trường; 100,0% các khu công nghiệp đi vào hoạt động phải có hệ thống xử lý nước thải đạt
tiêu chuẩn môi trường.
Đến năm 2010 tỉnh cố gắng thu gom được 90% tổng lượng chất thải rắn; cơ bản hoàn thành, cải
tạo, nâng cấp hệ thống tiêu thoát nước và xử lý nước thải theo quy hoạch; đảm bảo 50% các khu dân
cư, cụm công nghiệp có hệ thống thoát nước, xử lý nước thải, thu gom rác thải đúng quy định.
Tỉnh thành lập ban chỉ đạo chương trình, với sự kết hợp chặt chẽ của các sở: Tài nguyên – Môi
trường, Kế hoạch – Đầu tư, Tài Chính, Công thương và tổ chức chỉ đạo và thanh tra, kiểm tra hoạt
động bảo vệ môi trường theo đúng Luật Môi trường.
3.3. Các giải pháp phát triển dân số và kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương đến 2020
3.3.1. Về dân số
Tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên của tỉnh đã giảm do giảm mạnh tỉ lệ sinh. Tuy nhiên, tỉ lệ gia tăng
dân số vẫn còn cao do nhập cư. Vì vậy, tỉnh cần có chính sách thu hút người lao động phù hợp để hạn
chế việc nhập cư ồ ạt nhưng vẫn đảm bảo nguồn lao động đáp ứng cho nhu cầu phát triển công nghiệp
hiện nay và trong tương lai.
Bên cạnh đó tỉnh cần tiếp tục phát huy những chính sách đãi ngộ để thu hút nguồn lao động chất
lượng cao từ các địa phương khác.
Sự phân bố dân cư không đồng đều giữa các địa phương trong tỉnh. Vì vậy, tỉnh cần quy hoạch,
phân bố dân cư và phát triển kinh tế phù hợp nhằm cân đối dân số giữa các địa phương. Cụ thể là tiếp
tục phát triển mạnh về công nghiệp ở các địa phương phía bắc nhằm giảm áp lực về dân số cho các địa
phương phía nam Bình Dương.
Nâng cao chất lượng dân số bằng cách chú trọng phát triển về y tế, giáo dục. Đảm bảo hệ thống
bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân rộng khắp cho đến ấp, xã, phường. Khống chế các bệnh gây
dịch, hạn chế các bệnh do phát triển công nghiệp, chủ động phòng chống AIDS, cải thiện môi trường
sống, xây dựng gia đình quy mô nhỏ từ 1 – 2 con.
Bình Dương chú ý phát triển vượt bậc giáo dục – đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn lao động
của tỉnh trong giai đoạn tới. Cụ thể là:
- Tỉnh chủ trương phổ cập giáo dục ở các cấp.
- Ưu tiên phát triển giáo dục ở những vùng kém phát triển của tỉnh.
- Tỉnh cần tăng quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp, mở rộng quy mô đào tạo Cao đẳng và
Đại học một cách hợp lí nhằm từng bước đáp ứng nhu cầu nhân lực khoa học cho tỉnh. Phấn đấu đến
năm 2010 có 35% lao động qua đào tạo, năm 2015 đạt 40%, năm 2020 đạt 45 – 50%. Phát triển hệ
thống đào tạo nghề với nhiều hình thức: tại chức, ngắn hạn, dài hạn; quan tâm đến đào tạo nghề cho lao
động nông nghiệp, vùng nông thôn, chú trọng những nơi chuyển đổi sản xuất từ nông nghiệp sang
công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều cơ hội cho người lao động tiếp cận được việc làm. Công tác dạy
nghề cần tập trung 3 cấp độ: sơ cấp, trung cấp và cao đẳng nghề phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ
cấu lao động; đồng thời có cơ chế liên thông thích hợp.
- Tỉnh cũng cần có kế hoạch đào tạo đội ngũ quản lí có trình độ cao trên cơ sở lựa chọn những lao
động đã qua thực tế ở địa phương.
- Có chương trình giáo dục hướng nghiệp trong các trường phổ thông để học sinh có thể tiếp cận
với đào tạo nghề ngay từ những năm cuối của bậc trung học phổ thông, tăng cường xây dựng các
trường vừa dạy nghề vừa dạy chương trình phổ thông để học sinh sau khi tốt nghiệp THPT có thể tham
gia làm việc ngay trong các xí nghiệp.
3.3.2. Về kinh tế - xã hội
3.3.2.1. Kinh tế
- Công nghiệp:
Để đạt được tốc độ cao và phát triển bền vững, nền công nghiệp của tỉnh phát triển theo hướng:
tăng về lượng, chú trọng về chất bằng cách đa dạng hoá sản xuất công nghiệp, hình thành nhiều ngành
công nghiệp trên cơ sở sử dụng nguồn nguyên liệu trong và ngoài nước.
Tỉnh tập trung xây dựng ngành công nghiệp đạt trình độ tiên tiến và hiện đại, nhằm tạo ra nhiều
sản phẩm công nghiệp chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước;
nâng cao tỉ trọng hàng hoá công nghiệp xuất khẩu.
Ngoài ra, tỉnh cũng cần phát triển công nghiệp vừa và nhỏ, chú trọng phát triển các ngành nghề
tiểu thủ công nghiệp truyền thống ở các địa phương.
Phát triển công nghiệp gắn liền đẩy mạnh đô thị hoá, hình thành mạng lưới đô thị công nghiệp và
dịch vụ, cơ cấu hạ tầng hiện đại.
Hình thành các tổ chức sản xuất đa dạng, thu hút lao động xã hội, giải quyết việc làm.
Củng cố hoạt động và nâng cao hiệu quả của khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập trung, đảm
bảo cơ cấu hạ tầng tốt, kết nối tốt giữa các hệ thống cơ cấu hạ tầng trong tỉnh, trong vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam và cả nước.
Phát triển công nghiệp gắn với bảo vệ môi trường, đồng thời đảm bảo an ninh trong công nghiệp.
- Giải pháp phát triển ngành công nghiệp: Tỉnh cần chú trọng phát triển các ngành công nghiệp
chủ lực và xác định các sản phẩm chủ yếu của các ngành này. Trong thời gian tới, các ngành chủ lực
của tỉnh là công nghiệp vật liệu xây dựng (sản phẩm là sứ vệ sinh, gạch men, kính, thủy tinh, đá ốp lát
granit, gạch ngói, bê tông công nghiệp...); công nghiệp điện – điện tử, cơ khí chính xác (mặt hàng chủ
yếu là thiết bị điện – điện tử - tin học, máy xây dựng, phương tiện giao thông, sản phẩm cơ khí tiêu
dùng...); công nghiệp hóa chất (sản phẩm phục vụ chăn nuôi, vệ sinh cá nhân và tẩy rửa, các loại hạt
nhựa, túi nhựa, thuốc diệt côn trùng gia dụng, sơn các loại, keo dán tổng hợp...); công nghiệp dệt may
(chú ý đến công nghiệp tạo mẫu, thời trang, giảm dần may gia công xuất khẩu, tăng sản xuất nguyên
phụ liệu...); công nghiệp da – giày (tập trung sản xuất nguyên phụ liệu, chuyển tù gia công sang sản
xuất bán thành phẩm và thành phẩm; sản xuất da – giày theo hướng nhập công nghệ, cải tiến mẫu mã,
chất lượng...); công nghiệp chế biến thực phẩm - đồ uống (tập trung vào các sản phẩm: chế biến hạt
điều, cà phê, hoa quả, nước giải khát, dầu thực vật... đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu).
- Giải pháp phát triển khu, cụm công nghiệp: phát triển khu công nghiệp theo hướng tập trung,
hoàn thiện hệ thống cơ cấu hạ tầng, củng cố ngành chức năng trong từng khu công nghiệp, đầu tư đồng
bộ về sản xuất, dịch vụ và nhà ở trong và ngoài khu công nghiệp. Tỉnh chú ý phân bố các khu công
nghiệp tập trung và cụm công nghiệp ở các huyện: Bến Cát, Tân Uyên, Phú Giáo, Dầu Tiếng.
+ Các khu công nghiệp: củng cố, nghiên cứu kĩ khi mở rộng các khu công nghiệp mới và hoàn
chỉnh các khu công nghiệp, nâng cao hiệu quả đầu tư, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản
phẩm trong các khu công nghiệp.
+ Các cụm công nghiệp: các cụm công nghiệp của tỉnh được phát triển bên ngoài khu công
nghiệp là điều kiện để phát triển công nghiệp hóa và đô thị hóa nông thôn. Do đó, bên cạnh các khu
công nghiệp cần định hướng phát triển các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh, nhất là ở các huyện
nông nghiệp như Phú Giáo, Dầu Tiếng.
Như vậy, các giải pháp phát triển công nghiệp không những phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh
tế mà còn góp phần lớn vào việc giải quyết việc làm cho người lao động – kể cả lao động phổ thông;
đồng thời tạo sức hút để thu hút lao động có kĩ thuật. Bên cạnh đó cũng góp phần phân bố lại dân cư và
lao động một cách phù hợp giữa các địa phương trong tỉnh.
- Nông nghiệp
Các giải pháp về phát triển nông nghiệp của tỉnh cũng không nằm ngoài mục tiêu phát triển hài
hòa về kinh tế giữa các địa phương trong tỉnh, góp phần nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất
nông nghiệp đồng thời giải phóng bớt lao động nông nghiệp để họ chuyển sang làm việc trong ngành
công nghiệp và dịch vụ.
- Nông nghiệp của tỉnh tập trung phát triển cây con có hiệu quả, phù hợp với điều kiện sinh thái,
điều kiện tự nhiên của tỉnh nhằm nâng cao năng suất sinh học, tăng giá trị trên một đơn vị diện tích.
+ Trồng trọt: xu hướng là phát triển cây công nghiệp, cây ăn trái, rau sạch an toàn, hoa, cây
kiểng.
Các cây công nghiệp được tỉnh chú trọng phát triển là: cao su, điều, phân bố ở các huyện phía Bắc
của tỉnh như Bắc Tân Uyên, Phú Giáo, Dầu Tiếng, Bến Cát.
Cây ăn quả: Đẩy mạnh cải tạo vườn tạp, áp dụng kĩ thuật lai tạo giống,, ghép mô để tạo ra các loại
cây ăn quả chất lượng cao; tập trung phát triển các loại cây đặc sản như sầu riêng, măng cụt, dâu...,
trồng tập trung ở các huyện phía Bắc và khu vực ven sông Đồng Nai, sông Sài Gòn.
Cây rau đậu: phát triển các giống rau, đậu có chất lượng cao, sạch cung cấp cho đô thị và các khu
công nghiệp, kể cả các đô thị lân cận như TP. HCM, Biên Hòa....
+ Chăn nuôi: các sản phẩm chủ lực của ngành chăn nuôi trong tỉnh là thịt bò, lợn, gia cầm.
- Tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, sạch đáp ứng nhu cầu trong tỉnh và thành phố Hồ Chí
Minh.
- Chú trọng phát triển nông nghiệp gắn với bảo vệ môi trường, hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu,
thuốc bảo vệ thực vật... gây ô nhiễm đất và nguồn nước.
- Phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại cho nông nghiệp, nông
thôn: phát triển thủy lợi, phát triển công nghệ bảo quản sau thu hoạch, xây dựng hệ thống dịch vụ
khuyến nông (như mở rộng hệ thống tín dụng nông nghiệp, tổ chức tốt cung ứng vật tư nông nghiệp,
mở rộng thị trường tiêu thụ...), gắn sản xuất nông nghiệp với công nghiệp chế biến...
- Về phân bố không gian: xây dựng các vùng chuyên canh, các vùng nông nghiệp trọng điểm để
nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp như:
+ Vùng chuyên canh cao su: Tân Uyên, Bến Cát, Phú Giáo, Dầu Tiếng
+ Vùng chuyên canh điều: ở Bến Cát, Tân Uyên
+ Vùng cây ăn quả: Tân Uyên, Bến Cát, Thuận An
+ Vùng rau đặc sản: Tân Uyên
+ Vùng rau quả: Thuận An
+ Vùng cây cảnh, hoa kiểng: Thủ Dầu Một, Thuận An
+ Vùng chăn nuôi bò, bò sữa: Tân Uyên
+ Vùng chăn nuôi heo: Tân Uyên, Bến Cát
+ Vùng nuôi gà công nghiệp: Tân Uyên, Bến Cát
- Dịch vụ
Các ngành dịch vụ của tỉnh cần phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tới nhằm khai thác
những lợi thế của Bình Dương như dịch vụ nhà ở, đào tạo nghề, du lịch sinh thái, dịch vụ tài chính
ngân hàng, công nghệ thông tin....
Nâng cao tỉ trọng của ngành dịch vụ trong cơ cấu GDP bằng cách phát triển đi trước một số
ngành dịch vụ như thương mại, vận tải, ngân hàng; hình thành một số ngành dịch vụ mũi nhọn như
ngành dịch vụ nhà ở, nhà ở - nhà nghỉ mát sinh thái; dịch vụ du lịch tiên tiến.
+ Thương mại
- Phát triển thương mại nội địa theo hướng:
Xây dựng trung tâm thương mại cấp liên khu vực tại TX. Thủ Dầu Một và cấp khu vực tại
huyện Thuận An;
Xây dựng trung tâm thương mại cấp huyện ở Tân Uyên, Phú Giáo, Bến Cát, Dầu Tiếng;
Hình thành các siêu thị;
Sữa chữa, nâng cấp các chợ hiện có và xây dựng thêm chợ mới ở khu dân cư, nông thôn;
Mở chi nhánh và các đại lí tiêu thụ, thu mua sản phẩm ở những nơi đông dân cư và sản
xuất
- Xuất nhập khẩu: đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Tập
trung vào các bạn hàng: Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc, ASEAN, , Hàn Quốc, Đài Loan, EU, Úc...
+ Du lịch
Tỉnh chủ trương xây dựng du lịch thành ngành kinh tế có đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng
kinh tế theo hướng mở rộng du lịch quốc tế, phát triển đa dạng hóa các loại hình du lịch, mở rộng địa
bàn hoạt động du lịch. Để đạt được các mục tiêu nói trên, tỉnh cần:
- Chú ý xây dựng và nâng cao chất lượng các khách sạn, nhà nghỉ. Đảm bảo các điều kiện phục
vụ như nhà hàng, ngân hàng, y tế, bưu điện, kết hợp hội nghị, hội thảo...
- Đào tạo đội ngũ cán bộ du lịch chuyên nghiệp, có trình độ hiểu biết văn hóa – lịch sử, thông
thạo ngoại ngữ, văn minh, lịch sự.
- Căn cứ vào tiềm năng du lịch trên địa bàn, tỉnh tập trung phát triển các loại hình du lịch sau: du
lịch sinh thái; du lịch kết hợp hội thảo, hội nghị, triển lãm, bán hàng và nghỉ ngơi...; du lịch văn hóa,
vui chơi, giải trí; du lịch thể thao, rừng núi; du lịch tham quan các thắng cảnh, di tích lịch sử, cách
mạng, làng nghề truyền thống.
- Hình thành các cụm du lịch:
Cụm 1: Cụm du lịch Nam Bình Dương, gồm khu du lịch Bình An, suối Lồ Ô, núi Châu Thới.
Cụm 2: Cụm du lịch ở Dầu Tiếng, gắn liền với du lịch hồ, núi, phát triển loại hình du lịch nghỉ
dưỡng, cắm trại, bơi thuyền, câu cá, leo núi...
Cụm 3: TX. Thủ Dầu Một và vùng lân cận, có các công trình văn hóa: chùa Hội Khánh, chùa Bà,
chùa Ông...; các làng nghề: gốm, sơn mài...; di tích cách mạng: nhà tù Phú Lợi...; khu du lịch Đại
Nam....
Cụm 4: Cụm du lịch rừng tại Tân Uyên, ven sông Đồng Nai; phát triển du lịch sinh thái, di tích
lịch sử.
Cụm 5: Vườn cây ăn trái và nhà nghỉ cuối tuần ở vườn Lái Thiêu – Cầu Ngang.
Như vậy, các giải pháp phát triển về dịch vụ phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế - đặc biệt là
công nghiệp trong thời gian tới, đồng thời cũng góp phần thu hút nguồn lao động có kĩ thuật và làm
giảm sức ép về vấn đề việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, việc phát triển mạnh mẽ các hoạt
động dịch vụ ở hầu hết các địa phương nhất là du lịch sẽ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho
dân cư và qua đó cũng khai thác hết tiềm năng về thị trường tiêu thụ cũng như tiềm năng về du lịch ở
tất cả các huyện thị trong tỉnh. Từ đó góp phần đạt được sự phát triển hiệu quả trên cả 3 mặt: kinh tế -
xã hội – môi trường.
3.3.2.2. Xã hội
Các giải pháp về mặt xã hội tập trung vào việc nâng cao chất lượng nguồn lao động trong tỉnh để
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong tương lai.
- Giáo dục:
- Bình Dương phát triển sự nghiệp giáo dục theo hướng xã hội hóa giáo dục: thu hút phần lớn các
cháu trong độ tuổi vào các lớp học mầm non, giữ vững chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học
đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ sở toàn tỉnh đến năm 2020.
- Tỉnh tập trung xây dựng hệ thống trường lớp và cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ cho công tác
giáo dục – đào tạo:
+ Thành lập và xây dựng các trường thuộc bậc học mầm non, tiểu học tại tất cả các xã, phường,
thị trấn.
+ Tách riêng cấp 2 (bậc THCS) ra khỏi tất cả các trường cấp 2 – 3; đảm bảo mỗi xã có 1 trường
THCS vào năm 2010.
+ Thành lập và xây dựng các trung tâm kĩ thuật – hướng nghiệp tại các huyện chưa có trung tâm.
+ Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật cho các trường học, nhằm đưa tất cả các trường
trở thành trường chuẩn quốc gia.
+ Nâng cấp, xây dựng và cải tạo các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp công
lập:
Một trường đại học đa ngành (phát triển từ CĐSP).
Một trường cao đẳng y dược khu vực miền Đông (phát triển từ Trung học y tế).
Một trường cao đẳng nông nghiệp và phát triển nông thôn (phát triển từ Trung học nông
lâm).
Ba trường trung học chuuyên nghiệp: Trung học kinh tế, Trung học Kĩ thuật, trung học
Văn hoá nghệ thuật.
Phát triển thêm mô hình trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp ngoài công
lập; chú ý khuyến khích các loại hình trường đào tạo kĩ thuật cao, công nghệ cao.
- Chú trọng nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ giáo viên bằng nhiều hình thức. Chẳng hạn
như tỉnh triển khai chương trình đưa cán bộ, công chức, viên chức đang làm việc trong tỉnh đi đào tạo
Sau Đại học (Thạc sĩ, Tiến sĩ) cả trong nước và ngoài nước.
- Y tế
+ Bình Dương xây dựng mạng lưới khám chữa bệnh của tỉnh:
Ở tuyến tỉnh
- Nâng cấp các bệnh viện tuyến tỉnh như bệnh viện đa khoa, bệnh viện y học dân tộc, bệnh viện
phục hồi chức năng trẻ em dị tật, trung tâm bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em và kế hoạch hóa gia đình.
- Thành lập các bệnh viện chuyên khoa nhi, lao, tâm thần; bệnh viện đa khoa khu vực cho các khu
công nghiệp...
- Tỉnh cũng cho phép mở một số bệnh viện theo hình thức xã hội hóa đầu tư phát triển y tế nhằm
đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho dântrong tỉnh, trong vùng...
Ở tuyến huyện, thị xã: thành lập các trung tâm y tế đa khoa tuyến huyện. Cải tạo, nâng cấp
và xây dựng mới các trung tâm y tế huyện Thuận An, Tân Uyên, Bến Cát.
Ở tuyến khu vực: xây dựng các phòng khám đa khoa khu vực
Ở tuyến xã, phường: Đảm bảo tất cả xã phường có trạm y tế.
+ Tỉnh tiếp tục tăng cường đội ngũ cán bộ y tế, phân bổ đều ở các địa phương. Hoàn thành
chương trình đưa bác sĩ về xã, phường.
+ Xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho các bệnh viện, trung tâm y tế, có hệ thống xử lý chất thải
bệnh viện đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường.
+ Bổ sung đầy đủ các trang thiết bị phục vụ y tế.
+ Tỉnh cũng chú ý tăng ngân sách đầu tư cho y tế. Cụ thể, chi ngân sách cho y tế của tỉnh sẽ tăng
lên 9,0% năm 2010, 12,0% năm 2015 và 15% năm 2020.
+ Ngoài ra, tỉnh cần kết hợp bảo hiểm y tế, y tế từ thiện, miễn phí cho các đối tượng chính sách và
người nghèo.
- Phát triển cơ sở hạ tầng
Nhằm tạo ra các mối liên hệ về kinh tế - xã hội giữa các địa phương trong tỉnh cũng như ngoài
tỉnh, tạo điều kiện để thu hút đầu tư cũng như nguồn lao động chất lượng cao và thay đổi bức tranh
phân bố dân cư, lao động giữa các địa phương trong tỉnh, Bình Dương tập trung các giải pháp về cơ sở
hạ tầng như sau:
+ Giao thông
Bình Dương đặt mục tiêu giao thông phải đi trước một bước nhằm tạo ra một mạng lưới giao
thông hợp lí, làm động lực thu hút đầu tư và phát triển kinh tế. Vì vậy, tỉnh cần phát triển hệ thống giao
thông kết nối với sân bay Tân Sơn Nhất và Long Thành, với cụm cảng Sài Gòn, cụm cảng nước sâu
Vũng Tàu – Thị Vải....
Để làm được điều này, tỉnh Bình Dương phát triển các loại hình giao thông:
Đường bộ
- Tỉnh tập trung hoàn thành bốn đại lộ hiện đại của tỉnh:
Đại lộ Bình Dương 1 đi cửa khẩu Hoa Lư, đoạn phía Nam từ TP. HCM đến Chơn Thành, quy mô
8 làn xe.
Đại lộ Bình Dương 2 đi Đồng Xoài.
Đại lộ Bình Dương đi Dầu Tiếng
Đại lộ Mỹ Phước đi Tân Vạn
Đồng thời tỉnh xây dựng 3 đại lộ cắt ngang các trung tâm đô thị: An Tây – Hội Nghĩa (Tân
Uyên), Bàu Bàng – Phước Vĩnh, Thường Tân – Tân Hưng – Hưng Hòa.
- Nâng cấp các tuyến quốc lộ đi qua tỉnh: 1A, 13, 14, 1K
- Chú ý xây dựng các tuyến vành đai:
Tuyến vành đai từ ngã ba Tân Vạn – Lái Thiêu – Hóc Môn – Bình Chánh dài 60km, quy mô 4 – 6
làn xe, hoàn thành trước 2010.
Tuyến vành đai Biên Hòa – Thủ Dầu Một – Bến Lức: xây mới với quy mô 6 làn xe.
Tuyến vành đai cầu Thủ Biên (Đồng Nai) – Bến Cát – Củ Chi (TP. HCM) -Đông Tân An (Long
An), dài 120 km, quy mô 4 - 6 làn xe.
Mạng lưới đường tỉnh và đường huyện của tỉnh sẽ kết nối với các trục giao thông vành đai, trở
thành hệ thống giao thông xuyên suốt tới các khu công nghiệp, đô thị, các vùng sản xuất nông nghiệp
tập trung.
Đường thủy
Tỉnh cần nạo vét luồng lạch sông Sài Gòn, Đồng Nai và Thị Tính phục vụ giao thông. Ngoài ra,
tỉnh cũng cần nâng cấp và xây dựng hệ thống cảng: cảng Bà Lụa, cảng An Sơn, cảng tổng hợp Bình
An; xây cảng mới Thường Tân, An Tây, Dầu Tiếng, bến Bạch Đằng, bến Cầu Ngang...
Đường sắt
Tỉnh chú ý phát huy các tuyến đường sắt trên địa bàn:
- Đường sắt Bắc – Nam chạy vào ga Dĩ An.
- Đường sắt từ ga An Bình đi TP. HCM
- Đường sắt chạy qua Tam Bình, Hóc Môn vòng về phía đông TP. HCM
- Đường sắt đi Lộc Ninh có một số ga thuộc địa phận Bình Dương.
Bên cạnh đó tỉnh còn cần tiếp tục phát triển vận tải hành khách bằng xe buýt ở các đô thị và khu
công nghiệp.
+ Cung cấp điện: Để nâng cao chất lượng cuộc sống người dân trong tỉnh, từ nay đến 2020, Bình
Dương phải xây dựng, chuyển đổi điện áp của 7 vùng phụ tải, từng bước chuyển đổi của lưới trung thế
từ 15 KV lên 22 KV nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng điện đến 2010 là 6.687 GWh và 2015 là 12.405
GWh.
+ Hệ thống cung cấp nước: Để đảm bảo nhu cầu sử dụng ngày càng tăng của dân dụng và sản
xuất, tỉnh cần đầu tư cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới 06 nhà máy nước chính: Dĩ An, Thủ Dầu Một,
Hiệp An, Tân Hiệp, Uyên Hưng, Mỹ Phước và một số trạm lẻ.
- Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên
Để giảm thiểu ô nhiễm và tăng cường bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên, qua đó duy trì
thế mạnh về phát triển kinh tế và tạo môi trường sống trong lành cho dân cư, Bình Dương cần chú ý
đến những giải pháp sau:
- Xây dựng phương án bảo vệ môi trường toàn tỉnh
- Xây dựng phương án phòng chống sự cố môi trường đe dọa
- Xem xét khía cạnh môi trường của các dự án phát triển kinh tế - xã hội và thẩm định các văn bản
đánh giá tác động môi trường của các dự án khi cấp phép đầu tư.
- Tổ chức việc thực hiện luật môi trường quốc gia và quy định bảo vệ môi trường của tỉnh.
- Biện pháp và quy định bảo vệ môi trường phải phù hợp với từng không gian trên địa bàn tỉnh:
+ Vùng đô thị: gồm phần trung tâm TX. Thủ Dầu Một và một số thị trấn lân cận. Tại đây chất
lượng không khí, nước cần đạt được tiêu chuẩn về chất lượng môi trường với khu dân cư. Nước thải
của khu vực cần được tập trung xử lý theo quy hoạch thoát và xử lý nước thải được xây dựng. Ngoài
ra, tỉnh cũng cần chú ý phát triển ngành công nghiệp sạch, hàm lượng khoa học – kĩ thuật cao nhằm
giảm thiểu tác động của sản xuất đến môi trường.
+ Vùng công nghiệp: Xây dựng các công trình xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn, nghiêm ngặt giám
sát vấn đề thực hiện bảo vệ môi trường của các nhà máy sản xuất, hạn chế đến mức thấp nhất việc thải
nước thảo chưa qua xử lý ra môi trường dẫn đến ô nhiễm nguồn nước sông Đồng Nai – Sài Gòn làm
ảnh hưởng đến cuộc sống dân cư.
+ Vùng nông nghiệp: bao gồm các vùng nông thôn của tỉnh, nơi tập trung phát triển các cây lương
thực, thực phẩm, cây công nghiệp và chăn nuôi của tỉnh nên cần chú ý về việc sử dụng thuốc trừ sâu,
bảo vệ thực vật... theo quy định; xây dựng hệ thống chuồng trại chăn nuôi có hệ thống xử lý chất thải
tốt.
- Tỉnh cũng cần chú trọng khôi phục rừng phòng hộ; ngăn chặn việc phá rừng; tổ chức trồng rừng
và trồng cây trên các dải đất trống ở các thị xã, thị trấn, ven đường giao thông; xây dựng thêm công
viên và trồng thêm cây xanh trên các đường phố, đô thị, khu dân cư.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài “Dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương” đã đạt được một số
kết quả sau:
1. Tổng hợp được những lí luận liên quan đến dân số, phát triển kinh tế - xã hội, mối quan hệ giữa
dân số và phát triển kinh tế - xã hội.
2. Nghiên cứu các vấn đề về dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương giai đoạn 1997
- 2007, qua đó rút ra được mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương.
Các đặc điểm về dân số của tỉnh Bình Dương có liên quan đến tình hình phát triển kinh tế mà nhất
là sự phát triển công nghiệp của tỉnh trong thời gian qua. Trong giai đoạn từ 1997 – 2007, tỉnh đã đẩy
mạnh phát triển công nghiệp dẫn đến sự hình thành nhiều khu công nghiệp trên địa bàn các huyện phía
nam của tỉnh, thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như nguồn lao động từ các địa
phương khác trong cả nước đến làm việc làm cho dân số của tỉnh liên tục tăng, chủ yếu là gia tăng cơ
học. Tỉ lệ gia tăng cơ học của tỉnh năm 1997 là 1,43%, sau đó liên tục tăng nhanh, năm 2005 là 10,3%.
Bên cạnh đó, lao động nhập cư đông cũng làm cho dân số trong độ tuổi lao động và số lao động làm
việc trong ngành công nghiệp ngày càng tăng, tập trung ở các huyện thị như Thuận An, Dĩ An, TX.
Thủ Dầu Một và gần đây là Bến Cát, Tân Uyên.
Sự chênh lệch trong cơ cấu lao động, phân bố nguồn lao động tương quan với sự chênh lệch trong
cơ cấu kinh tế theo ngành và theo lãnh thổ. Ngành công nghiệp chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu GDP,
tập trung chủ yếu ở phía nam tỉnh trong khi ngành nông nghiệp lại chiếm tỉ trọng nhỏ và phát triển chủ
yếu ở các huyện phía bắc. Vì vậy, trong thời gian tới, tỉnh cần chú trọng phát triển dịch vụ nhằm nâng
cao tỉ trọng của ngành trong cơ cấu GDP đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp sang các huyện
phía bắc. Điều này cũng sẽ làm giảm áp lực về dân số, việc làm và các vấn đề xã hội khác ở các huyện
thị phía nam.
Về mặt xã hội, tỉnh cũng đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong lĩnh vực y tế và giáo
dục. Điều này thể hiện qua việc giảm tỉ lệ gia tăng tự nhiên do giảm tỉ lệ sinh làm cho tỉ lệ dân số dưới
tuổi lao động ngày càng giảm. Bên cạnh đó, chất lượng lao động ngày càng được nâng cao phần nào
phản ánh được các thành quả của ngành giáo dục tỉnh. Trong tương lai, các ngành này cần được đầu tư
phát triển nhiều hơn nữa vì đây là nhân tố quyết định chất lượng con người và chất lượng nguồn lao
động của tỉnh.
Sự phát triển mạnh mẽ về dân số và kinh tế đã gây ra những vấn đề đáng lo ngại về môi trường
trong tỉnh. Vì vậy, môi trường là vấn đề đáng quan tâm của tỉnh trong thời gian tới.
3. Trên cơ sở nghiên cứu về dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương từ 1997 – 2007,
tác giả đã đưa ra những định hướng, dự báo về phát triển dân số và kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm
2020.
Các định hướng tập trung vào vấn đề phát triển dân số, kinh tế và đô thị của tỉnh đến 2020. Về
dân số, phát triển dân số nhằm đạt được quy mô dân số của đô thị loại I vào năm 2020; đáp ứng yêu
cầu về nguồn nhân lực phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế bằng cách thu hút lao động nhập cư nhất là
lao động có kĩ thuật, nâng cao chất lượng nguồn lao động thông qua phát triển giáo dục và y tế. Về
kinh tế, tập trung phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ. Theo đó, ngành công nghiệp và dịch vụ có
xu hướng chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong cơ cấu kinh tế, đặc biệt là chú trọng tăng tỉ trọng ngành
dịch vụ. Về đô thị, nâng cao tỉ lệ thị dân và đạt mục tiêu 75% dân số đô thị vào năm 2020.
Để đạt được những mục tiêu trên, tác giả cũng đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển hài hòa
giữa dân số và kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian tới. Các giải pháp tập trung vào việc gắn phát
triển kinh tế - xã hội với nâng cao chất lượng cuộc sống, nâng cao chất lượng lao động; phát triển kinh
tế - xã hội đồng đều giữa các địa phương nhằm thay đổi bức tranh phân bố dân cư và lao động trong
tỉnh.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do hạn chế về thời gian, nguồn số liệu thu thập được và trình độ
nghiên cứu của tác giả nên một số vấn đề nghiên cứu mới dừng lại ở mức độ tổng quát; các nội dung
về dự báo, định hướng phát triển dân số và kinh tế - xã hội theo địa phương chưa đi sâu phân tích và
nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cục Thống kê tỉnh Bình Dương, Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương từ năm 1997 - 2007.
2. Tống Văn Đường (1997), Giáo trình dân số và phát triển, Dự án VIE/97/P.3, Bộ Giáo dục và Đào
tạo.
3. Phạm Xuân Hậu, Nguyễn Kim Hồng, Đặng Văn phan (1995), Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam (tập
1), Nxb Giáo dục.
4. Nguyễn Kim Hồng (chủ biên), Phạm Xuân Hậu, Đào Ngọc Cảnh, Phạm Thị Xuân Thọ (1997),
Giáo trình Địa lý kinh tế xã hội đại cương, Trường Đại học Sư phạm TP. HCM.
5. Nguyễn Kim Hồng (1994), Sự phát triển dân số và mối quan hệ của nó với sự phát triển kinh tế -
xã hội TP. HCM, Luận án Tiến sĩ Địa lí – địa chất, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1.
6. Nguyễn Kim Hồng (2001), Dân số học đại cương, Nxb Giáo dục.
7. Chu Viết Luân (2003)– Bình Dương - Thế và lực mới trong thế kỉ XXI, Nxb Chính trị quốc gia.
8. Sở Lao động – Thương binh – Xã hội tỉnh Bình Dương (2007), Báo cáo năm 2007 và kế hoạch
năm 2008 ngành lao động – Thương binh – Xã hội.
9. Sở Lao động – Thương binh – Xã hội tỉnh Bình Dương (2006), Đề án xúc tiến lao động giai đoạn
2006 – 2010.
10. Phạm Thị Xuân Thọ (2008), Địa lí Đô thị, Nxb Giáo dục.
11. Tổng cục Thống kê (2008), Điều tra biến động dân số năm 2007, Nxb Thống kê.
12. Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê năm 2006, 2007.
13. Nguyễn Minh Tuệ (2008), Giáo trình giáo dục dân số - sức khỏe sinh sản, Quỹ dân số LHQ thông
qua dự án VNM 7PG009 – Bộ Giáo dục – Đào tạo.
14. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em tỉnh Bình Dương (2001), Chiến lược dân số Bình Dương giai
đoạn 2001 – 2010.
15. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em tỉnh Bình Dương (2007), Báo cáo Tổng kết công tác dân số -
gia đình và trẻ em tỉnh Bình Dương năm 2007; Nhiệm vụ công tác năm 2008.
16. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em tỉnh Bình Dương (2005), Báo cáo 15 năm công tác dân số - gia
đình và trẻ em tỉnh Bình Dương 1997 – 2005.
17. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em tỉnh Bình Dương (2005), Tình hình thực hiện công tác dân số
tỉnh Bình Dương 1997 – 2004.
18. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em tỉnh Bình Dương (2006), Báo cáo tình hình thực hiện chiến
lược dân số tỉnh Bình Dương 2001 – 2006.
19. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em huyện Bến Cát, Kết quả thực hiện công tác dân số - KHHGĐ
giai đoạn 2000 – 2007 và kế hoạch đến 2010.
20. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em huyện Dầu Tiếng, Chỉ tiêu dân số 2001 – 2007, kế hoạch năm
2008 – 2010.
21. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em huyện Dĩ An, Dân số và biến động dân số 2001 – 2007.
22. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em huyện Phú Giáo, Bảng tổng hợp các chỉ tiêu dân số 1999 –
2010.
23. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em huyện Tân Uyên, Dân số và biến động dân số 1999 – 2007.
24. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em huyện Thuận An, Dân số và biến động dân số 1997 – 2007.
25. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em TX. Thủ Dầu Một, Kết quả thực hiện công tác dân số -
KHHGĐ giai đoạn 2000 – 2007 và kế hoạch đến 2010.
26. Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Dương (2006), Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế
- xã hội tỉnh Bình Dương đến năm 2020.
27. Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Dương (2007), Nội dung báo cáo Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân
về tình hình hoạt động và định hướng công tác đào tạo của tỉnh Bình Dương.
28. World Development Indications ( 2006)
Hình 3.2. Sơ đồ định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị và khu dân cư nông thôn
tỉnh Bình Dương đến 2020
Nguồn: Sở Kế hoạch – Đầu tư tỉnh Bình Dương
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7396.pdf