DÂN QUÂN TỰ VỆ
I. KHÁI QUÁT CHUNG.
Lực lượng vũ trang Việt Nam là quân đội gồm 3 bộ phận hợp thành với liên hệ chặt chẽ đó là: Bộ đội chủ lực, Bộ đội địa phương, và dân quân tự vệ. Bài thu hoạch này sẽ tập trung nghiên cứu về lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng đông đảo và rộng khắp nhất trong lực lượng vũ trang Việt Nam.
I.1. Khái niệm về dân quân tự vệ:
Theo điều 1 của Pháp lệnh dân quân tự vệ thì: Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát li sản xuất, công tác, là một bộ
7 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1978 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Dân quân tự vệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phận của lực lượng vũ trang nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lí và điều hành của Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp, sự chỉ đạo chỉ huy thống nhất của bộ trưởng Bộ quốc phòng và sự chỉ huy trực tiếp của cơ quan quân sự địa phương.
Lực lượng này được tổ chức ở xã phường, thị trấn thì gọi là Dân quân. Được tổ chức ở các cơ quan Nhà Nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức Chính trị- xã hội thì gọi là Tự vệ.
Lực lượng dân quân tự vệ bao gồm dân quân tự vệ nòng cốt và dân quân tự vệ rộng rãi.
I.2. Lịch sử hình thành và phát triển:
Trong những năm 1930 - 1931, trong phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh đã xuất hiện các đội Tự vệ đỏ, đó là mầm mống của các lực lượng vũ trang cách mạng sau này của nhân dân ta.
Ngày 28 tháng 3 năm 1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng được tổ chức tại Ma Cao (Trung Quốc) đã thông qua “Nghị quyết về Đội tự vệ”. Nghị quyết xác định bản chất giai cấp, bản chất cách mạng của đội tự vệ, một tổ chức có tính chất nửa quân sự của quần chúng nhân dân lao động, chủ yếu là của công nông, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Thành phần là những người lao động nhiệt tình, cương quyết, không phân biệt gái, trai, hoặc dân tộc, từ 18 tuổi trở lên. Ngày 28 tháng 3 năm 1935 đã được công nhận là ngày truyền thống lực lượng dân quân tự vệ Việt Nam.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, các đội du kích Bắc Sơn, du kích Ba Tơ cùng hàng ngàn đội tự vệ, tự vệ chiến đấu ở khắp các địa phương trên cả nước đã được thành lập và phát triển lên trong cao trào đấu tranh cách mạng chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền. Trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, lực lượng tự vệ và tự vệ chiến đấu khắp Trung - Nam - Bắc đã đóng vai trò xung kích đắc lực cùng với Việt Nam giải phóng quân kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị của hàng triệu quần chúng vùng lên dùng bạo lực cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân trong phạm vi cả nước.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dân quân tự vệ và du kích là lực lượng đông đảo nhất, không phân biệt nam, nữ, tôn giáo, đảng phái, xuất thân, được tổ chức ở các thôn, xã, làng, bản, không thoát ly sản xuất, luôn luôn bám đất, bám dân để đánh giặc giữ làng, chống địch càn quét khủng bố, làm thất bại âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của chúng. Dân quân tự vệ và du kích với những vũ khí thô sơ như giáo, mác, gậy gộc, cung nỏ, súng đạn tự chế, địa lôi, hầm chông với những cách đánh tài tình, linh hoạt đã khiến cho địch ăn không ngon, ngủ không yên, bị lọt vào một thứ “lưới thép” không tài nào thoát ra được. Những đóng góp của lực lượng dân quân tự vệ và du kích đã góp phần đắc lực vào thắng lợi chung của dân tộc năm 1954, đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược.
Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, trên miền Bắc, lực lượng dân quân tự vệ được tổ chức rộng khắp, bao gồm cả nông dân, công nhân, trí thức, học sinh, sinh viên; được trang bị từ thô sơ đến tương đối hiện đại đã chung sức, chung lòng tích cực tham gia kiến thiết miền Bắc xã hội chủ nghĩa, anh dũng chiến đấu bắn máy bay Mỹ, phục vụ chiến đấu, thực hiện công tác phòng không nhân dân, bảo đảm giao thông vận tải thời chiến, xung kích trong lao động sản xuất, bảo vệ trật tự trị an ở cơ sở, thực hiện nghĩa vụ của hậu phương đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Ở miền Nam, các đội tự vệ và du kích ở cả nông thôn, đồng bằng, rừng núi, đô thị đã hỗ trợ đắc lực cho phong trào đồng khởi góp phần làm thất bại âm mưu của đế quốc Mỹ nhằm thống trị miền Nam bằng các thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân mới. Bằng mọi thứ vũ khí kể cả thô sơ và hiện đại, anh dũng chiến đấu cùng với quân giải phóng và nhân dân lần lượt đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Đánh giá vai trò, vị trí chiến lược của lực lượng dân quân tự vệ và du kích đối với công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta, tháng 5 năm 1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân quân tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kẻ địch hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã”.
Từ sau khi đất nước được thống nhất đến nay, lực lượng Dân quân tự vệ đã cùng với các lực lượng khác vẫn luôn giữ vững và phát huy vị trí chiến lược của mình trong sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý, điều hành của chính quyền xung kích trong lao động sản xuất, tham gia giữ gìn anh ninh chính trị, trật tự an toàn ở địa phương, cơ sở, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tại, tìm kiếm cứu nạn; được cấp ủy, chính quyền và nhân dân tin cậy.
Để ghi nhận những công lao và thành tích Dân quân tự vệ qua các thời kỳ, đã có hàng trăm tập thể và cá nhân Dân quân tự vệ được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, huân chương, huy chương các loại; Cục Dân quân tự vệ được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Mỹ và Huân chương Hồ Chí Minh năm 2009.
II. VỊ TRÍ, CHỨC NĂNG, NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA DÂN QUÂN TỰ VỆ VIỆT NAM HIỆN NAY.
Với vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước những năm qua; trong giai đoạn cách mạng mới, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đồng thời bảo đảm tính pháp lý đối với chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của Dân quân tự vệ; Pháp lệnh Dân quân tự vệ đã được nâng lên thành Luật Dân quân tự vệ và ngày 23/11/2009 đã được Quốc hội khoá XII tại kỳ họp thứ 6 thông qua và có hiệu lực thi hành từ 01/7/2010; trong đó quy định:
II.1. Vị trí, chức năng:
Dân quân tự vệ Việt Nam là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác là thành phần của lực lượng vũ trang nhân dân Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; là lực lượng bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước, làm nòng cốt cùng toàn dân đánh giặc ở địa phương cơ sở khi có chiến tranh. Lực lượng này được tổ chức ở xã, phường, thị trấn gọi là Dân quân; được tổ chức ở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế gọi là Tự vệ.
II.2. Nguyên tắc tổ chức hoạt động:
1. Dân quân tự vệ Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý điều hành của Chính phủ mà trực tiếp là sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương các cấp; sự chỉ huy thống nhất của Bộ trưởng Bộ quốc phòng và sự chỉ huy trực tiếp của chỉ huy trưởng cơ quan quân sự địa phương.
2. Tổ chức và hoạt động của DQTV phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; dựa vào dân và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị để thực hiện nhiệm vụ.
3. Tổ chức biên chế của DQTV phải căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh gắn với địa bàn và nhiệm vụ của đơn vị sản xuất, công tác; bảo đảm cho thuận tiện cho chỉ đạo, quản lý, chỉ huy và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa phương.
II.3. Nhiệm vụ của Dân quân tự vệ gồm:
1. Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và phục vụ chiến đấu để bảo vệ địa phương, cơ sở, phối hợp với các đơn vị Bộ đội Biên phòng, Hải quân, Cảnh sát biển và các lực lượng khác bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia và chủ quyền, quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam.
2. Phối hợp với các đơn vị Quân đội nhân dân Công an nhân dân và các lực lượng khác trên địa bàn tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng thủ, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước.
3. Thực hiện nhiệm vụ phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm, cứu nạn, bảo vệ và phòng, chống cháy rừng, bảo vệ môi trường và một số nhiệm vụ phòng thủ dân sự khác theo quy định của pháp luật.
4. Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh, tham gia xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện; xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, cơ sở.
5. Học tập chính trị, pháp luật, huấn luyện quân sự và diễn tập.
6. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
III. KẾT LUẬN.
Hiện nay chúng ta đang được sống trong hòa bình nhưng các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ ý định phá hoại thành quả cách mạng. Tình hình thế giới diễn ra nhiều nơi vẫn diễn ra căng thẳng tiềm ẩn nguy cơ chiến tranh. Do đó việc xây dựng một lực lương dân quân, tự vệ vững mạnh rộng khắp là một chủ trương đúng đắn và sáng suốt của đảng và chính phủ ta.
Thực hiện chủ trương của đảng và chính phủ lực lượng dân quân tự vệ được chúng ta đã xây dựng được một lực lượng dân quân tự vệ từ thành thị đến nông thôn từ các nhà máy xí nghiệp đến các cơ quan và các trường cao đẳng đại học trong cả nước. Hàng năm các lực lượng này vẫn thường xuyên được tập trung để rèn luyện kỹ năng chiến đấu nhằm đáp ứng được nhiệm vụ mỗi khi tổ quốc lâm nguy.
Với chủtrương bám sát địa bàn dân cư chúng ta đã xây dựng được một lực lượng lớn dân quân, tự vệ. Theo đó mỗi xã, phường, nhà máy, xí nghiệp, trường cao đẳng, đại học đều có một đơn vị dân quân tự vệ tùy vào từng địa phương cơ quan mà quy định quy mô của từng đơn vị. Với chủ trương và biện pháp hợp lý chúng ta đã xây dựng được một lực lượng dân quân, tự vệ vững mạnh rộng khắp đáp ứng được chủ trương và chính sách của đảng trong thời kỳ mới .
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26827.doc