Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động tư pháp (HĐTP) là hoạt động thực hiện quyền tư pháp của quyền lực nhà nước. Đây là lĩnh vực hoạt động nhằm đảm bảo nền an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Cho nên, HĐTP và đảm bảo quyền con người (QCN) trong HĐTP là những vấn đề quan trọng được các quốc gia, cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm, nhất là trong việc củng cố và xây dựng nhà nước pháp quyền. Ở Việt Nam, việc đảm bảo QCN trong HĐ

doc189 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2976 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TP đã được Đảng và Nhà nước ta đặt ra từ những ngày đầu giành được nền độc lập dân tộc và luôn được xác định như một yêu cầu có tính nguyên tắc của nền tư pháp kiểu mới - nền tư pháp của dân, do dân và vì dân. Cùng với các giai đoạn cách cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vấn đề đảm bảo QCN nói chung và đảm bảo QCN trong HĐTP ở nước ta đã và đang từng bước được củng cố về mặt lý luận và tôn trọng trong hoạt động thực tiễn, nên đã trở thành một trong những tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá về sự công bằng, dân chủ và bình đẳng trong xã hội. Tuy vậy, trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, vấn đề đảm bảo QCN trong HĐTP vẫn còn bộc lộ những bất cập cả về lý luận cũng như hoạt động thực tiễn. Những bất cập này đã ít nhiều gây thiệt hại đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; vi phạm đến các vấn đề về dân chủ, công bằng, bình đẳng trong xã hội; làm ảnh hưởng đến bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa; làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa... Đó là nguyên cớ để các thế lực thù địch tìm cách chống phá lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Thực trạng trên đang là sự bức xúc lớn, mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đặc biệt quan tâm. Vì thế, đã có nhiều chủ trương, chính sách lớn được Đảng và Nhà nước đề ra, nhằm từng bước làm rõ nguyên nhân, tìm ra giải pháp khắc phục. Một trong những chủ trương, chính sách lớn vừa mang tính cấp bách và lâu dài là tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, cải cách hệ thống tư pháp là một nội dung đặc biệt quan trọng để đảm bảo QCN nói chung và QCN trong HĐTP nói riêng. Để thực hiện thắng lợi chiến lược cải cách hệ thống tư pháp về con người, ngày 02/01/2002 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Đó chính là tư tưởng chỉ đạo cho toàn bộ tiến trình tổ chức và hoạt động của HĐTP ở nước ta hiện nay. Mặc dầu vậy, vấn đề đảm bảo QCN trong HĐTP hiện nay ở nước ta vẫn đang còn là nội dung khá mới mẻ trong nhận thức của công dân, trong hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý, cũng như trong việc tổ chức và thực hiện trên thực tế. Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận lẫn hoạt động thực tiễn để góp phần thiết thực vào việc đảm bảo QCN nói chung và QCN trong HĐTP nói riêng, làm cơ sở cho việc thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Đó là lý do tác giả chọn đề tài "Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay" để thực hiện luận án tiến sĩ Luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, mã số 62.38.01.01. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài QCN và đảm bảo QCN là vấn đề cơ bản, được tất cả các quốc gia trên thế giới đặc biệt coi trọng trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận, cũng như hoạt động thực tiễn. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, các giá trị về QCN và đảm bảo QCN luôn gắn liền với những thành tựu mà nhân loại đã đạt được vì thế, Tuyên ngôn thế giới về QCN được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1948, đã đánh dấu như một cột mốc sáng chói của lịch sử phát triển thị trường QCN của lịch sử loài người. Đây là cơ sở cho việc hoàn thiện về lý luận cũng như thực tiễn của việc đảm bảo QCN trong lịch sử phát triển của thế giới hiện đại nói chung và các khu vực quốc gia nói riêng. Trên thế giới, từ cơ sở Bộ luật quốc tế về QCN, các khu vực quốc gia đều xây dựng cho mình các thiết chế để đảm bảo và phát huy QCN trên thực tế. Năm 1950, Ngoại trưởng các quốc gia thành viên Cộng đồng châu Âu đã ký Hiệp ước về QCN, vạch ra hệ thống bảo vệ QCN cho tất cả các quốc gia thành viên của cộng đồng. Trong đó Ủy ban nhân quyền châu Âu, Tòa án nhân quyền châu Âu cũng được ra đời. Ở châu Á - Thái Bình Dương, các tổ chức nhân quyền ở các quốc gia lần lượt được thành lập ở các nước như: Newzialand, Auatralias, Philippines... để góp phần đảm bảo QCN trong phạm vi quốc gia mình. Cùng với các căn cứ pháp lý về QCN, các quan điểm, tư tưởng và quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này đã được phản ánh hết sức phong phú, đa dạng như: tác phẩm "Nhân quyền, bảo vệ nhân quyền theo Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị" của Lippman Matther, tạp chí Quốc tế California, số 10-1980; tác phẩm "Tòa án nhân quyền châu Âu và việc bảo vệ quyền tự do dân sự - khái quát chung" của Gearty CA, tạp chí Luật Cambridge, số 52-1993; tác phẩm "Việc áp dụng Hiệp ước châu Âu về nhân quyền của Tòa án Pháp" của Steiner Eva, tạp chí Luật kings Collages, số 6, 1996; tác phẩm "Nhân quyền và đánh giá tư pháp tại Đức" của Grimm Dicter và tác phẩm "Các đảm bảo quyền cá nhân theo Hiến pháp Liên bang Mỹ" của Scialia Antomin, nhà xuất bản Martinus Nijhoff publishers, Dordrecht 1994; tác phẩm "Luật nhân quyền quốc tế liên quan đến phụ nữ, các ghi nhớ từ các vụ án và bình luận" của Cook Rebeca J, tạp chí Vanderbilt Jourual of Tran national law, số 23, 1990)... Các tác phẩm nêu trên đề cập đến các vấn đề lý luận về QCN nói chung, QCN ở từng lĩnh vực nói riêng, về tổ chức và hoạt động thực tiễn đảm bảo QCN ở các quốc gia trong Cộng đồng châu Âu, cũng như các quốc gia tổ chức khác trên thế giới... Ở nước ta, đảm bảo QCN nói chung và đảm bảo QCN trong HĐTP là vấn đề đã được Đảng, Nhà nước cùng các nhà khoa học xã hội hết sức quan tâm nghiên cứu nhất là trong thời kỳ đổi mới. Bên cạnh việc thành lập Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người trực thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, hiện nay, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực này, như: Trên lĩnh vực lý luận chung về QCN, gồm có các công trình: Ngày 30/12/1990, tại Học viện Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) đã tổ chức Hội nghị khoa học về đề tài: "Chủ nghĩa xã hội và nhân quyền", với sự tham gia của nhiều nhà khoa học trong Học viện và Viện Nghiên cứu Khoa học xã hội Việt Nam, Ban Văn hóa - Tư tưởng Trung ương, Viện Mác - Lênin, Bộ Ngoại giao, Tạp chí Cộng sản, Văn phòng Quốc hội... 27 báo cáo tham luận trong hội nghị đã phân tích cụ thể của nhân quyền trong thực tiễn xã hội Việt Nam và các kiến nghị liên quan đến lĩnh vực này. Tiếp đó, Nhà nước ta đã cho triển khai Chương trình KX-07 "Con người, mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội" do GS.TS Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm, với hơn 200 nhà khoa học thuộc các chuyên ngành khác nhau tham gia. Trong đó, có đề tài KX.07-16 nghiên cứu về "Các điều kiện đảm bảo QCN, quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước" do GS.TS Hoàng Văn Hảo chủ nhiệm; Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người biên tập hai tập chuyên khảo "Quyền con người, quyền công dân" của nhiều tác giả, xuất bản năm 1995; Viện Thông tin Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người đã tổ chức nghiên cứu, sưu tầm cuốn: "Quyền con người trong thế giới hiện đại" do PGS. Phạm Khiêm ích và GS.TS Hoàng Văn Hảo chủ biên, Viện Thông tin Khoa học xã hội xuất bản năm 1995; công trình: Tìm hiểu vấn đề nhân quyền trong thế giới hiện đại, do TS. Chu Hồng Thanh chủ biên, Nxb Lao động, Hà Nội, 1996… Về lĩnh vực xây dựng pháp luật, có các công trình: Tác giả Võ Khánh Vinh, về đề tài: "Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam" (Luận án phó tiến sĩ Luật học, 1993); tác giả Nguyễn Văn Mạnh về đề tài "Xây dựng và hoàn thiện đảm bảo pháp luật thực hiện quyền con người trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay" (Luận án phó tiến sĩ Luật học, 1995); tác giả Hoàng Hùng Hải về đề tài: "Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người trong xét xử hình sự ở nước ta" (Luật văn thạc sĩ Luật học, 2000); tác giả Phan Trung Hoài về đề tài: "Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ luật học, 2003)... Về lĩnh vực tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo QCN, bao gồm: Đề tài KX-05-07 về "Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy lập pháp, hành pháp, tư pháp nước ta với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" năm 1995, do Nguyễn Văn Thảo chủ nhiệm, đề tài đã đề cập đến các vấn đề cơ bản như xây dựng nhận thức, quan niệm thống nhất về Nhà nước pháp quyền Việt Nam, về chiến lược tổng thể xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam và các đề nghị về các bước đi trong quá trình tổ chức thực hiện; tập sách về "Quyền con người trong quản lý tư pháp" (Vũ Ngọc Bình tuyển chọn, Nxb Chính trị quốc gia, 2000); Chuyên đề "Tổng hợp các kiến nghị khoa học góp phần đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp" (của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, 2000)… Các công trình này đã đề cập về các khía cạnh như khái niệm về QCN, sự phát triển các học thuyết, tư tưởng về QCN trên thế giới, thực trạng QCN ở Việt Nam trong lịch sử và hiện nay, các kiến nghị khoa học về đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp... Về lĩnh vực hoạt động nhằm đảm bảo QCN, bao gồm: Nguyễn Văn Tuân về đề tài: "Sự tham gia của người bào chữa ở Tòa sơ thẩm theo pháp luật Việt Nam" (Luận án tiến sĩ Luật học, 1991); tác giả Đinh Xuân Nam về đề tài: "Trách nhiệm hình sự của vị thành niên" (Luận án phó tiến sĩ Luật học, 1994); tác giả Dương Thị Thanh Mai về đề tài: "Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam (Bằng thực tiễn của Tòa án và luật sư)" (Luận án phó tiến sĩ Luật học, 1995); tác phẩm: Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 2004 do TSKH Lê Cảm - TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên, đề cập đến cơ sở lý luận về cải cách tư pháp, các vấn đề cải cách tư pháp cụ thể trong lĩnh vực hình sự, dân sự, tố tụng, kinh tế, lao động; tác phẩm: Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004, đề cập đến vấn đề lý luận về thể chế tư pháp, về thể chế tư pháp ở các nước trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam... Năm 2001, Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người trực thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học về chủ đề Hiến pháp, pháp luật và QCN - Kinh nghiệm Việt Nam và Thụy Điển, với hơn 20 tham luận và ý kiến chọn lọc đề cập về hoạc động lập hiến, lập pháp cũng như hoạt động thực tiễn đảm bảo QCN trong các quốc gia... Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác đã được đăng tải trong các luận án, luận văn tốt nghiệp, tập san, tạp chí chuyên ngành như Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND), Tạp chí Lập pháp... Mặc dù trên thế giới cũng như trong nước đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực QCN, nhưng nhìn chung, những công trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu đề cập đến những vấn đề lý luận chung về QCN, từng lĩnh vực hoạt động cụ thể về QCN, về tổ chức và hoạt động của các bộ máy nhà nước, về việc xây dựng pháp luật về đảm bảo QCN nói chung. Trong đó, chỉ có một vài khía cạnh đề cập cụ thể về QCN trong HĐTP. Bởi vậy, đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp và tương đối toàn diện cả về lý luận và thực tiễn đảm bảo QCN trong HĐTP ở Việt Nam. Tuy vậy, các công trình nêu trên vẫn là những tài liệu tham khảo quan trọng đối với tác giả trong quá trình thực hiện luận án. 3. Phạm vi nghiên cứu đề tài Đảm bảo QCN trong HĐTP là một đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng về phương diện lý luận và hoạt động thực tiễn. Nó liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của các ngành khoa học xã hội, đến việc đảm bảo QCN - quyền công dân trên trên các lĩnh vực khác của quyền lực nhà nước, đến vấn đề củng cố và xây dựng Nhà nước pháp quyền nói chung. Vì vậy, phạm vi nghiên cứu của luận án được giới hạn trên các vấn đề cơ bản sau đây: - Cơ sở lý luận đảm bảo QCN. - Các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo QCN trong HĐTP ở Việt Nam. - Về một số khía cạnh về đảm bảo QCN trong các triều đại phong kiến Việt Nam và trên thế giới. - Về thực trạng HĐTP nhằm đảm bảo QCN ở Việt Nam. - Các quan điểm, giải pháp nhằm đảm bảo QCN trong HĐTP hiện nay 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án - Mục đích của luận án: Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng đảm bảo QCN trong HĐTP, luận án nêu và phân tích những quan điểm và giải pháp nhằm đảm bảo QCN trong HĐTP ở Việt Nam hiện nay. - Nhiệm vụ của luận án: Để thực hiện mục đích trên, luận án có những nhiệm vụ chủ yếu sau đây: Nghiên cứu cơ sở lý luận đảm bảo QCN trong HĐTP, cụ thể là: làm rõ khái niệm QCN; khái niệm HĐTP, đặc trưng về QCN trong HĐTP; khái niệm, nội dung đảm bảo QCN trong HĐTP. Nghiên cứu, đánh giá về thực trạng đảm bảo QCN trong HĐTP ở nước ta trong thời gian qua, tìm ra những bất cập trong vấn đề này và nguyên nhân của thực trạng đảm bảo QCN trong HĐTP ở nước ta. Đề xuất các quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đảm bảo QCN trong HĐTP hiện nay ở nước ta hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án - Để đạt được mục đích và nhiệm vụ đặt ra, luận án đã vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật nói chung và đảm bảo QCN nói riêng. Luận án còn vận dụng các quan điểm liên quan đến vấn đề QCN, quyền công dân trong HĐTP của Đảng và Nhà nước ta qua các chủ trương, chính sách chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. - Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp nghiên cứu của duy vật biện chứng. Theo đó, các phương pháp nghiên cứu cụ thể được áp dụng như: Phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích, phương pháp khái quát hóa, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp, diễn giải... Đặc biệt, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của khoa học pháp lý như: Phương pháp phân tích quy phạm cụ thể, phương pháp so sánh luật, thống kê và điều tra xã hội ... 6. Điểm mới về khoa học của luận án Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về vấn đề đảm bảo QCN trong HĐTP ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, luận án có những đóng góp khoa học mới sau: - Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, đặc điểm và nội dung của những đảm bảo QCN trong HĐTP. - Xác định rõ vị trí, vai trò trách nhiệm của các cơ quan tư pháp trong việc đảm bảo QCN - Nhận diện việc vi phạm QCN trong HĐTP, làm rõ nguy cơ vi phạm QCN trong HĐTP; khái quát thực trạng đảm bảo QCN trong HĐTP ở Việt Nam hiện nay. - Đề ra một số quan điểm, giải pháp trong việc đảm bảo QCN trong HĐTP ở Việt Nam hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần làm phong phú hơn các quan niệm về QCN nói chung, lý luận về đảm bảo QCN trong HĐTP nói riêng, làm cơ sở cho việc nghiên cứu, bổ sung để hoàn chỉnh hơn các đảm bảo về QCN trong HĐTP. Qua thực trạng về đảm bảo QCN trong HĐTP, nguyên nhân của thực trạng và các giải pháp được đưa ra nhằm đảm bảo QCN trong HĐTP ở Việt Nam hiện nay, luận án đóng góp một phần về cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cho việc thực hiện có hiệu quả hơn các nội dung đảm bảo QCN trong HĐTP. Kết quả luận án còn có giá trị tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy ở các trường chuyên luật, Trường đào tạo các chức danh tư pháp và hệ thống trường chính trị cũng như những ai quan tâm đến lĩnh vực này. 8. Kết cấu của luận án Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 3 chương, 9 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP 1.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP 1.1.1. Quan niệm về quyền con người và đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp 1.1.1.1. Quan niệm về quyền con người, quyền công dân - Quan niệm về quyền con người Con người là vấn đề cơ bản nhất của mọi thời đại, cho nên QCN luôn luôn trở thành nội dung quan trọng thu hút được sự quan tâm cả về phương diện lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn của mỗi quốc gia, của từng khu vực và mang tính toàn cầu. Quan niệm về QCN đã được các nhà tư tưởng bàn đến từ thời cổ đại và không ngừng được phát triển, bổ sung cùng với quá trình phát triển của lịch sử nhân loại. Khi bàn đến QCN Jaeque Mourgeon trong cuốn "Các QCN" đã cho rằng: QCN trước hết được hiểu là những đặc quyền tự nhiên mà con người có. Đó là khả năng hành động có ý thức, trách nhiệm nhất là tự bảo vệ. Nhưng bản thân đặc quyền (quyền tự nhiên) chưa phải là QCN. Mà để đạt đến cái gọi là "quyền" thì phải có yếu tố thứ hai là pháp luật. Chỉ khi được pháp luật ghi nhận thì các đặc quyền của cá nhân mới trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật mới trở thành QCN [5, tr. 131]. Trên cơ sở quan niệm đúng đắn và khoa học về con người, C. Mác đã xác định: "Con người là "con người xã hội" là sự "tổng hòa các quan hệ xã hội", Cho nên QCN thể hiện sâu sắc giá trị các quan hệ xã hội và hiển nhiên mang bản chất đó" [38, tr. 11]. Trên cơ sở các quan niệm về QCN năm 1776, lần đầu tiên các QCN được ghi nhận trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó có quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc". Năm 1791, trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp, QCN tiếp tục được xác định: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải được tự do bình đẳng về quyền lợi"... Từ đó các tiêu chí về QCN từng bước được các quốc gia thừa nhận và quy định trong pháp luật của nước mình. Ở nước ta, vấn đề QCN đã được nghiên cứu và phản ánh một cách phong phú và đa dạng thể hiện trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước và các văn bản pháp luật. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng: "Quyền con người là các quyền tất yếu mà con người phải được hưởng và các quốc gia phải tôn trọng" [28, tr. 338]. Vì vậy, theo quan niệm chung hiện nay, "quyền con người là những giá trị, năng lực, nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người với tư cách là thành viên của cộng đồng nhân loại được thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế" [65, tr. 26]. QCN là giá trị thắng lợi chung của nhân loại, nhưng do điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội ở các châu lục, các khu vực, các quốc gia phát triển không giống nhau nên ở các quốc gia khác nhau thì năng lực và nhu cầu của mỗi thành viên xã hội sẽ không giống nhau mà phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội nhất định mà thành viên đó sinh sống. Cho nên, ở các quốc gia, QCN được thể hiện thành quyền công dân và được đảm bảo thực hiện bởi hệ thống pháp luật của quốc gia đó. Trên cơ sở lý luận và thực tiến của vấn đề này, khoa học pháp lý đã chia QCN theo các lĩnh vực hoạt động của đời sống con người thành các nhóm: - Nhóm các quyền tự do dân chủ về chính trị, bao gồm: quyền bầu cử, ứng cử; quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; quyền bình đẳng nam nữ; quyền tự do ngôn luận; tự do báo chí; quyền được thông tin; quyền tự do tín ngưỡng. - Nhóm quyền về dân sự (quyền tự do cá nhân), bao gồm: quyền tự do đi lại và cư trú trong nước; quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được luật pháp bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền được an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại, điện báo, quyền khiếu nại, tố cáo v.v... - Nhóm các quyền về kinh tế - xã hội, bao gồm: quyền lao động; quyền tự do kinh doanh; quyền sở hữu hợp pháp và thừa kế; quyền học tập; quyền nghiên cứu, phát minh, sáng chế; quyền được bảo vệ sức khỏe; quyền được bảo vệ hôn nhân và gia đình; quyền trẻ em; quyền người già v.v... Thế giới hiện đại với sự thay đổi thường xuyên và nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội, cho nên QCN được phát triển không ngừng, phong phú hơn cả về nội dung lẫn hình thức. Cho nên, trong quá trình phát triển của nhân loại một số QCN mới được xuất hiện như: * Quyền phát triển: Quyền phát triển được Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc chuẩn bị từ năm 1981, được thông qua tại kỳ họp thứ 41 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc ngày 4/ 12/ 1986 dưới hình thức Tuyên ngôn toàn cầu về phát triển. Đó là quyền của các quốc gia, dân tộc đối với chủ quyền trên lãnh thổ của mình như: quyền tự do lựa chọn các thể chế chính trị, kinh tế, quyền được trợ giúp về kỹ thuật và tài chính từ các tổ chức quốc tế và các quốc gia khác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Quyền phát triển là sự hiện thực hóa QCN ở thế hệ thứ ba, khi mà nhiều quốc gia từng phải gánh chịu các hậu quả nặng nề của các cuộc chiến tranh và đang gặp phải những khó khăn trầm trọng về kinh tế như đói nghèo, dốt nát, bệnh tật..., vì vậy họ có quyền được giúp đỡ về kinh tế, tài chính từ các quốc gia tổ chức khác. * Quyền được sống trong hòa bình và môi trường trong sạch Ngày nay nhân loại đang đứng trước nhiều hiểm họa mang tính toàn cầu như hiểm họa chiến tranh hạt nhân, nạn khủng bố mang tính quốc tế, khủng hoảng nghiêm trọng về lương thực, thực phẩm, những cuộc xung đột tôn giáo, chủng tộc, căn bệnh AIDS đến nay chưa có phương cứu chữa thực sự hiệu quả... Thực trạng đó đã và đang đe dọa đến sự tồn tại và phát triển của loài người. Do đó, yêu cầu về quyền được sống trong một thế giới hòa bình, bền vững đang là vấn đề cấp bách thật sự của các quốc gia, khu vực và cộng đồng trên thế giới. Chính vì thế, pháp luật quốc tế ngày càng quan tâm đến các vấn đề liên quan đến cuộc sống trong hòa bình của con người như vấn đề giải trừ quân bị, loại trừ vũ khí hạt nhân, ngăn chặn khủng bố, ngăn chặn các cuộc xung đột, thành lập tòa án quốc tế để xét xử tội diệt chủng, tội phạm chiến tranh và đến ngày 1/7/2002, Liên Hợp Quốc đã thành lập Tòa án hình sự quốc tế hoạt động một cách thường xuyên, độc lập với Liên Hợp Quốc. Bên cạnh đó, do sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, loài người đang đứng trước nguy cơ suy thoái và ô nhiễm về môi trường ngày càng nặng nề. Vì thế, hàng loạt các hội nghị quốc tế đã được tổ chức như: Năm 1972, Hội nghị quốc tế về môi trường được tổ chức tại Stốckhôm (Thụy Điển); năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về môi trường tại Brazin; năm 1993 Hội nghị về nhân quyền được tổ chức tại Viên; năm 1997 Hội nghị về môi trường tại Tôkiô v.v..., Hội nghị này đã xác định rõ: "Môi trường sinh thái đang là vấn đề thách đố toàn cầu...". Cho nên, để con người được sống trong môi trường trong sạch cần thiết phải đảm bảo: 1. Quyền được thông tin và nâng cao nhận thức của con người về môi trường. 2. Quyền được tham gia hoạch định các chính sách và thể chế bảo vệ môi trường. 3. Quyền được đền bù thiệt hại do sự hủy hoại môi trường gây ra. Đồng thời, các hội nghị cũng đề ra trách nhiệm quốc tế và và trách nhiệm của các quốc gia trong việc xây dựng quy chế pháp lý và tổ chức thực hiện có hiệu quả vấn đề môi trường. Vì các mục tiêu của quyền phát triển và quyền được sống trong hòa bình và môi trường trong sạch, tháng 9/2002, Hội nghị thượng đỉnh địa cầu được tổ chức tại Johanneburg (Nam Phi) gồm hơn 100 nguyên thủ quốc gia tham gia với nội dung: Tìm biện pháp làm giảm nghèo đói trước thời điểm 2005 và giảm nhẹ thiệt hại môi trường. - Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân Cách mạng tư sản thắng lợi, ách thống trị "Vương quyền", "Thần quyền" của chế độ phong kiến và thế lực Nhà thờ bị lật đổ, cùng với sự ra đời của Nhà nước tư sản, khái niệm QCN, khái niệm công dân, quyền công dân được ra đời. Lúc này người dân trong một quốc gia được xác định là công dân trong xã hội công dân và được hưởng các quyền công dân do pháp luật quy định. Vì thế, là sản phẩm của cách mạng tư sản, quyền công dân được xác định trong các văn bản pháp lý quan trọng nhất của các nhà nước tư sản bấy giờ như: Tuyên ngôn độc lập nước Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền nước Pháp năm 1789, Luật về quyền công dân ở Anh v.v... Ngày nay, cùng với QCN, quyền công dân đã được hầu hết các quốc gia trên thế giới ghi nhận trong bản Hiến pháp và hệ thống pháp luật của nhà nước mình và được đảm bảo thực hiện trong đời sống thực tiễn. Cho nên, có thể xác định: "Quyền công dân là quyền con người, là những giá trị gắn liền với một nhà nước nhất định và được nhà nước đó bảo hộ bằng pháp luật đối với người mang quốc tịch nước đó, thể hiện mối liên hệ pháp lý cơ bản giữa mỗi ca nhân công dân với một nhà nước cụ thể" [5, tr. 133]. QCN và quyền công dân là hai khái niệm không đồng nhất. QCN là phẩm giá, nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có và chỉ có ở con người với tư cách là thành viên của cộng đồng nhân loại, được thể chế hóa trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Còn quyền công dân trước hết cũng là quốc nhưng được các quốc gia ghi nhận và bảo hộ bằng hệ thống pháp luật của quốc gia đối với công dân nước đó. Đó chính là sự thể chế hóa QCN để phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia. Cho nên, quyền công dân là sự thể hiện mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân công dân với một nhà nước cụ thể. Đồng thời, cũng không thể phân biệt đơn giản rằng, QCN là quyền tự nhiên do pháp luật quốc tế quy định, còn quyền công dân là quyền cá nhân do pháp luật quốc gia quy định. Mà phải xác định rõ rằng, con người là một thể thống nhất, do đó QCN và quyền công dân cũng nằm trong một thể thống nhất. Đây là vấn đề có tính xác định đến việc xây dựng các chế định pháp lý về QCN và quyền công dân trong hệ thống pháp luật của các quốc gia. Như vậy, trong lịch sử xã hội loài người, sự hình thành và phát triển của QCN và quyền công dân được gắn liền với thành quả của cuộc đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Nó phản ánh nhân loại đấu tranh tự giải phóng cho mình, làm chủ tự nhiên và làm chủ xã hội. Vì thế nó luôn luôn được xác định là tiêu điểm của các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị và tư tưởng. Ngày nay, QCN và quyền công dân đã trở thành tiêu chí cơ bản để đánh giá trình độ phát triển của một chế độ xã hội - về sự văn minh, nhân đạo hay kém văn minh, lạc hậu, đồng thời đó là cơ sở để các quốc gia, tổ chức thiết lập các quan hệ quốc tế, vì lợi ích của các bên và lợi ích của bộ phận và toàn cộng đồng nhân loại. Cho nên, có thể nói QCN trong các quốc gia là quyền công dân của của chính quốc gia đó. 1.1.1.2. Quan niệm về hoạt động tư pháp HĐTP là một lĩnh vực hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước trong việc bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, đảm bảo trật tự an toàn xã hội theo các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định thông qua sự phối hợp của nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau. Vì thế, để nghiên cứu khái niệm này một cách đầy đủ, cụ thể cần phải đề cập đến các vấn đề khác liên quan đến HĐTP. - Quan niệm về tư pháp Tư pháp được hiểu là một trong những phương thức thực hiện quyền lực nhà nước – quyền tư pháp. Cho nên, ở các nhà nước khác nhau sẽ có các cách hiểu khác nhau đối với khái niệm này. Theo Từ điển tiếng Việt: "Tư pháp là việc xét xử theo pháp luật" [69, tr. 140]. Theo quan niệm của pháp luật Trung Quốc "Tư" là chỉ việc nắm giữ, chấp chưởng, "Tư pháp nghĩa là việc nắm giữ pháp luật" [20, tr. 319]. Theo nghĩa Hán Việt, tư pháp là "trông coi và bảo vệ" [39, tr. 46]. Theo quan điểm của Rouseau J.J: "Tư pháp là cơ quan thiêng liêng nhất và được coi trọng nhất vì nó bảo vệ luật, mà luật do cơ quan quyền lực tối cao ban hành và do chính phủ chấp hành" [53, tr. 23]. Vì thế: Ở nghĩa pháp lý chung nhất thì tư pháp là một ý tưởng cao đẹp về một nền công lý, đòi hỏi việc giải quyết các tranh chấp xảy ra trong xã hội phải đúng pháp luật, phù hợp với lẽ phải, công bằng, bình đẳng và đảm bảo sự tin cậy đối với sự phát triển an toàn của mỗi công dân và cả xã hội [39, tr. 45]. Còn xét theo khía cạnh tổ chức quyền lực nhà nước thì đối với các nước theo thuyết phân quyền, tư pháp là một trong ba nhóm quyền lực (quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp). Quyền tư pháp là quyền xét xử được giao cho Tòa án thực hiện độc lập với các quyền khác. Như vậy, tư pháp được hiểu theo nghĩa này là Tòa án. Ở Việt Nam, việc tổ chức bộ máy nhà nước được thực hiện theo chế độ tập quyền nên tư pháp được hiểu là nền tư pháp của quốc gia gồm hệ thống các cơ quan, tổ chức nhà nước và tổ chức nghề nghiệp mà hoạt động của các cơ quan, tổ chức này trực tiếp hoặc hỗ trợ cho hoạt động xét xử của Tòa án nhằm bảo vệ pháp luật, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Với quan niệm trên, tư pháp là phương thức thực hiện quyền lực nhà nước nên nó có có mối quan hệ mật thiết với khái niệm quyền tư pháp - Quan niệm về quyền tư pháp, quyền tư pháp được hiểu như là một bộ phận quyền lực trọng yếu của một quốc gia. Tuy vậy, ở các quốc gia có chế độ chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau, thì tư pháp và quyền tư pháp được hiểu và tổ chức thực hiện khác nhau. Đối với các nhà nước mà việc tổ chức quyền lực nhà nước theo thuyết "Tam quyền phân lập" coi quyền tư pháp là một bộ phận cấu thành quyền lực nhà nước gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Trong đó, quyền tư pháp là quyền xét xử, được giao cho Tòa án thực hiện độc lập với các quyền lập pháp và quyền hành pháp. Theo nghĩa này, quyền tư pháp chỉ là quyền xét xử của Tòa án. Còn đối với các nhà nước tổ chức quyền lực nhà nước theo "nguyên tắc tập quyền", quyền tư pháp được hiểu là một lĩnh vực tổ chức và hoạt động đặc biệt của quyền lực nhà nước nhằm duy trì một nền trật tự xã hội theo pháp luật, đảm bảo an ninh, an toàn và công bằng xã hội. Cho nên, quyền tư pháp không tách rời với các quyền năng khác của quyền lực nhà nước là quyền lập pháp và hành pháp và là một bộ phận có mối quan hệ mật thiết với các quyền năng này. Theo đó, quyền tư pháp được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa hẹp, quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền là quyền hoạt động tài phán (quyền xét xử) độc lập của Tòa án. Còn theo nghĩa rộng, quyền tư pháp là quyền xét xử của Tòa án nói riêng cũng như hoạt động bảo vệ pháp luật của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát (VKS), Cơ quan thi hành án để đảm bảo cho việc thực hiện quyền xét xử đạt hiệu quả cao, góp phần đưa các nguyên tắc được thừa nhận chung của Nhà nước vào đời sống thực tế. Ở nước ta, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, được tập trung vào cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân là Quốc hội. Vì vậy, quyền lực nhà nước là thống nhất không thể phân chia. Trên cơ sở đó, quyền tư pháp được hiểu theo quan điểm của "nguyên tắc tập quyền" như hầu hết các nhà nước xã._. hội chủ nghĩa đã thể hiện. Đó là một trong ba bộ phận hợp thành quyền lực nhà nước, bao gồm quyền xét xử của Tòa án và các quyền năng khác của Tòa án, của Cơ quan điều tra, VKS, Cơ quan thi hành án và các cơ quan bổ trợ tư pháp hợp thành quyền tư pháp nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tôn trọng và duy trì nền công lý. Như vậy: Khái niệm quyền tư pháp có thể được hiểu theo hai nghĩa: Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, quyền tư pháp là quyền hoạt động tài phán độc lập của Tòa án. Còn theo nghĩa rộng, quyền tư pháp là quyền xét xử của Tòa án nói riêng, cũng như các hoạt động bảo vệ pháp luật để đảm bảo cho việc thực hiện quyền xét xử đạt hiệu quả cao, góp phần đưa các nguyên tắc được thừa nhận chung của Nhà nước pháp quyền và đời sống thực tế [13, tr. 22]. - Các cơ quan tư pháp ở Việt Nam Hiện nay vẫn chưa có khái niệm về các cơ quan tư pháp trong các văn bản quy phạm pháp luật, nhưng căn cứ vào cơ cấu, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta qua quá trình ra đời và phát triển. Đặc biệt là theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII), thì có thể hiểu đó là các cơ quan nhà nước trực tiếp thực hiện quyền tư pháp của quyền lực nhà nước. bao gồm: "Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án" [15, tr. 56]. Tiếp đến, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết 08/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, v.v... cũng đều xác định hệ thống các cơ quan tư pháp bao gồm các cơ quan nhà nước nói trên, trên cơ sở đó: Tòa án nhân dân, là cơ quan thực hiện quyền tư pháp của quyền lực nhà nước, trong hệ thống các cơ quan tư pháp ở nước ta, Tòa án là cơ quan trung tâm của hoạt động tư pháp. Theo quy định của Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân, TAND được tổ chức thành một hệ thống thống nhất từ Trung ương đến địa phương, bao gồm các Tòa án sau: - Tòa án nhân dân tối cao. - Các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. - Các Tòa án quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. - Các Tòa án quân sự. - Các Tòa án khác do luật định. Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt [33, tr. 7]. Viện kiểm sát nhân dân. VKSND là bộ phận hợp thành quan trọng của hệ thống tư pháp. Theo quy định của Điều 30 Luật tổ chức VKSND, hệ thống VKSND được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến địa phương, bao gồm: - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; - Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; - Các Viện kiểm sát quân sự [34, tr. 26]. Cơ quan điều tra, là một bộ phận hợp thành quan trọng của hệ thống tư pháp trong việc tiến hành điều tra các vụ án hình sự làm cơ sở cho hoạt động truy tố, xét xử đối với người phạm tội trước Tòa án. Theo quy định của Pháp lệnh về tổ chức điều tra hình sự, cơ cấu, tổ chức của Cơ quan điều tra gồm có: Cơ quan điều tra của Công an nhân dân, Cơ quan điều tra của quân đội nhân dân, Cơ quan điều tra của VKSND. Đối với Cơ quan điều tra của lực lượng Công an nhân dân gồm có: Cục điều tra thuộc Bộ Công an, phòng điều tra thuộc Công an cấp tỉnh, Đội điều tra thuộc công an cấp huyện. Trong quân đội, tương ứng với mỗi cấp xét xử sơ thẩm có một Cơ quan điều tra. Riêng đối với VKSND, Cơ quan điều tra chỉ thành lập ở cấp VKSND tối cao. Cơ quan thi hành án. Ở nước ta, việc thi hành án được tổ chức thực hiện theo hai lĩnh vực là thi hành án hình sự và thi hành án đối với các loại án khác. Đối với việc thi hành án hình sự, được tổ chức thực hiện thông qua hệ thống các trại giam thống nhất do Bộ Công an quản lý. Còn việc thi hành án các bản án thuộc các lĩnh vực khác (dân sự, kinh tế, hành chính, lao động) được tổ chức thực hiện theo Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2003, hiệu lực từ ngày 1-7-2004). Cơ quan thi hành án dân sự gồm có: Cục thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Cơ quan thi hành án dân sự quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và các Cơ quan thi hành án trong quân đội [43, tr. 13]. - Quan niệm về hoạt động tư pháp Hiện nay ở nước ta vẫn chưa có một khái niệm về HĐTP hoàn chỉnh, thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật. Xuất phát từ vị trí, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước thực hiện quyền tư pháp của quyền lực nhà nước, qua quan niệm của các nhà luật học và trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực này, có thể xác định: HĐTP là hoạt động của các Cơ quan điều tra, VKS, TAND và Cơ quan thi hành án trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và giải quyết các quan hệ pháp luật khác được phát sinh. Tuy vậy, không phải tất cả các hoạt động của các cơ quan tư pháp đều được coi là HĐTP. Vì mỗi cơ quan tư pháp ngoài việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ trực tiếp liên quan đến hoạt động tố tụng còn phải thực hiện nhiều hoạt động khác như: về xây dựng bộ máy, về tổ chức cán bộ, về công tác hành chính văn phòng v.v... Những hoạt động này không có tính chất của HĐTP nên không thể là HĐTP. Mà chỉ những hoạt động nào liên quan trực tiếp đến trình tự, thủ tục tố tụng của các cơ quan tư pháp mới được coi là HĐTP. Bao gồm: Hoạt động điều tra; hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố; hoạt động xét xử; hoạt động thi hành án và các hoạt động của các cơ quan được Nhà nước giao thẩm quyền trong việc tiến hành một số hoạt động tư pháp theo trình tự thủ tục tố tụng. Trong đó, hoạt động xét xử của Tòa án là trung tâm. Với quan niệm về HĐTP trên, HĐTP có các đặc điểm sau: HĐTP là hoạt động quyền lực nhà nước và do cơ quan tư pháp thực hiện. Các hoạt động này do những người đại diện của các cơ quan tư pháp nhân danh nhà nước trực tiếp thực hiện tùy theo chức danh cụ thể của họ. Đó là tên gọi thể hiện ngạch, bậc của người thuộc biên chế của các cơ quan tư pháp và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật tố tụng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hoạt động đó [76, tr. 4]. HĐTP phải được thực hiện trong quá trình tố tụng và được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng. Đây là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định các trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động để giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, lao động, quyền và nghĩa vụ của những người tiến hành tố tụng... Cho nên, tất cả các HĐTP đều được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật tố tụng. HĐTP phải là những hoạt động liên quan trực tiếp đến quá trình giải quyết các vụ án. Hoạt động của các cơ quan tư pháp được thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó chỉ có hoạt động nào liên quan trực tiếp đến việc giải quyết các vụ án mới được coi là HĐTP. Trong việc giải quyết các vụ án, sự tham gia của các cơ quan nhà nước khác, tổ chức xã hội và công dân vào hoạt động này là một trong những đảm bảo quan trọng mang tính nguyên tắc nhằm góp phần giải quyết các vụ án được khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng pháp luật. Đó là hoạt động của Tổ chức luật sư, hoạt động Giám định tư pháp, hoạt động của cảnh sát bảo vệ phiên tòa..., hoạt động của các cơ quan, tổ chức này được gọi là hoạt động bổ trợ tư pháp. Cùng với các lĩnh vực hoạt động trên, công tác kiểm tra, giám sát, hòa giải, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật nhỏ, các sự việc mới phát sinh tranh chấp xảy ra ở địa phương, cơ sở... nhằm kịp thời ngăn ngừa tội phạm và tranh chấp trước Tòa án, cũng như trong việc kịp thời xác định các chứng cứ ban đầu cho hồ sơ vụ án (án hình sự, dân sự, án hành chính...) có một vai trò không kém phần quan trọng. Thông qua các hoạt động này, sự việc tranh chấp sẽ được giải quyết dứt điểm hoặc sẽ chuyển cho các cơ quan tư pháp, cơ quan quản lý nhà nước khi có căn cứ. Vì vậy, có thể coi loại hoạt động này là "tiền nhiệm" của HĐTP, là một mảng quan trọng làm cơ sở cho HĐTP. Trong hệ thống cơ quan tư pháp, HĐTP được thể hiện: Đối với Tòa án nhân dân Theo quy định của Điều 127 Hiến pháp 1992 sửa đổi và Điều 1 Luật tổ chức TAND 2002, "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Hoạt động của Tòa án là một dạng hoạt động thực hiện quyền tư pháp đặc biệt, bao gồm: "Hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước nhằm xem xét, đánh giá và phán quyết về tính hợp pháp, tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên có lợi ích khác nhau của Tòa án" [70, tr. 64] và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật Là khâu trung tâm của HĐTP, hoạt động xét xử của Tòa án được tiến hành theo cách thức, biện pháp, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định (gọi là trình tự thủ tục tố tụng) và theo nguyên tắc xét xử công khai, dân chủ, bình đẳng, đảm bảo quyền bào chữa bị can, bị cáo, quyền được bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án. Vì thế, yêu cầu đặt ra trong hoạt động của Tòa án là: Sau khi trao đổi, bàn bạc, lắng nghe ý kiến của người khác, Thẩm phán biết tự mình phân tích tổng hợp, đánh giá khách quan, toàn diện các chứng cứ, tài liệu của vụ án để ra các quyết định xử lý một cách độc lập trên cơ sở quy định của pháp luật cả về nội dung và hình thức [18, tr. 16]. Hiện nay, việc giải quyết các quyền và nghĩa vụ pháp lý tại Tòa án được xác định là hình thức công khai, dân chủ, bình đẳng và tiến bộ nhất, nên hầu như tất cả các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân, tổ chức cuối cùng đều được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng, bao gồm: Tố tụng hình sự (TTHS), tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động và tố tụng hành chính để giải quyết các tranh chấp xảy ra thuộc các lĩnh vực dân sự, kinh tế - xã hội tương ứng. Bên cạnh hoạt động xét xử là khâu trung tâm của HĐTP nói chung, Tòa án còn tiến hành các hoạt động khác được coi là hoạt động tư pháp như: Tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp (theo quy định tại Nghị định số 189/ CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ về việc hướng dẫn thi hành Luật phá sản doanh nghiệp), công nhận và thi hành các bản án dân sự của Tòa án nước ngoài (theo thông tư liên ngành số 04/ TTLN ngày 24/ 7 năm 1993), quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án theo quy định tại Điều 180 Bộ luật TTHS 2003, hoãn thi hành án phạt tù theo quy định tại Điều 260 và tạm đình chỉ thi hành án phạt tù theo quy định tại Điều 261 Bộ luật TTHS... Đối với Viện kiểm sát nhân dân VKSND là cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp thực hiện quyền tư pháp. Theo quy định tại Điều 137 Hiến pháp 1992 sửa đổi và Điều 1 Luật tổ chức VKSND, VKSND là cơ quan nhà nước thực hành quyền công tố và kiểm sát các HĐTP. Đây là hai chức năng quan trọng nhằm truy tố người phạm tội ra xét xử trước Tòa án, đồng thời đảm bảo cho các cơ quan tư pháp hoạt động đúng pháp luật có hiệu lực, hiệu quả cao. VKSND thực thực hành quyền công tố và kiểm sát các HĐTP thông qua các nội dung sau: 1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của các Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. 2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của Tòa án nhân dân. 3. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân. 4. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ và cải tạo. 5. Điều tra tội phạm trong những trường hợp do pháp luật tố tụng hình sự quy định. 6. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù [34, tr. 17]. Trong hoạt động tố tụng tại phiên tòa, VKS thực hiện quyền công tố của mình thông qua việc truy tố bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự và việc khởi tố các vụ án dân sự theo luật định. Đối với cơ quan điều tra, Là cơ quan nhà nước thực hiện quyền tư pháp trong việc điều tra, nhằm thu thập chứng cứ, củng cố chứng cứ để chứng minh sự thật khách quan đối với các vấn đề liên quan đến việc thực hiện một tội phạm hoặc các vấn đề liên quan đến nội dung khác cần được giải quyết trước Tòa án theo trình tự, thủ tục tố tụng đã được pháp luật quy định. Trong lĩnh vực TTHS, hoạt động điều tra thuộc về Cơ quan điều tra, là cơ quan chuyên môn trực tiếp điều tra các vụ án hình sự và các cơ quan nhà nước khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra do luật định. Hoạt động này được thể hiện trong việc, bắt người, tạm giữ, tạm giam, khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lấy lời khai bị can, khám người, khám chỗ ở, đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can... Trong lĩnh vực hoạt động tố tụng hình sự, bên cạnh cơ quan điều tra còn có một số các cơ quan nhà nước khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra các vụ án hình sự xảy ra trong lĩnh vực hoạt động của cơ quan mình như: Cơ quan Kiểm lâm, Bộ đội Biên phòng, Hải quan, lực lượng cảnh sát biển… Mặc dù các cơ quan này không phải là cơ quan tư pháp, nhưng các hoạt động liên quan trực tiếp đến việc điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan này chính là HĐTP. Còn trong các lĩnh vực tố tụng khác (tố tụng dân sự, kinh tế, hành chính lao động), hoạt động điều tra thuộc về TAND. Hoạt động điều tra trong lĩnh vực này bao gồm các hoạt động cơ bản như: lấy lời khai của các bên đương sự, hoạt động thu thập chứng cứ, kê biên, niêm phong tài sản, thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời, hòa giải giữa các bên đương sự... "tuy vậy, hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án chỉ mang tính chất hỗ trợ để bổ sung hoặc để thẩm tra các chứng cứ mà đương sự cung cấp mà thôi" [56, tr. 16]. Đối với cơ quan thi hành án, hoạt động của các cơ quan thi hành án là toàn bộ hoạt động nhằm đảm bảo lợi ích của nhà nước, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tố tụng khi bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. "Quá trình này có thể do các chủ thể bị thi hành án tự giác thi hành hoặc do các cơ quan có thẩm quyền buộc các chủ thể đó phải thi hành" [54, tr. 23]. Hiện nay, việc thi hành án được tổ chức thực hiện theo pháp lệnh thi hành án phạt tù đối với các vụ án hình sự và pháp lệnh thi hành án dân sự đối với các loại án khác (án dân sự, án kinh tế, án lao động, án hành chính). Trong HĐTP, "việc đảm bảo thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án là trách nhiệm của mỗi công dân và và của toàn xã hội" [30, tr. 11]. Vì thế, trên cơ sở nội dung, tính chất của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, các cơ quan thi hành án sẽ chủ động tổ chức việc thi hành các bản án hoặc phối hợp với các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp khác theo luật định để thi hành. Trong đó, tất cả các hoạt động của các cơ quan thi hành án nhằm đảm bảo các bản án và quyết định đã có hiệu lực của Tòa án được thi hành trong thực tế được coi là HĐTP trong lĩnh vực thi hành án. Còn các hoạt động khác liên quan đến lĩnh vực này được xem là hoạt động bổ trợ cho hoạt động thi hành án. Ví dụ: Việc kê biên, định giá tài sản, việc cưỡng chế thi hành án, việc thi hành đối với các bản án dân sự có giá trị tài sản dưới 500.000 đồng (được giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện) v.v... Như vậy, có thể xác định tất cả các hoạt động nhằm đảm bảo các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được thực thi trên thực tế của các cơ quan thi hành án đều được xác định là hoạt động tư pháp trong lĩnh vực thi hành án. Đối với các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp, trong HĐTP, hoạt động bổ trợ tư pháp là nhu cầu được đặt ra không thể thiếu được luôn được gắn liền với các lĩnh vực tố tụng. Hoạt động bổ trợ tư pháp là hoạt động thuộc lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ của các cơ quan, tổ chức được tiến hành theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng (TTHS, tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hành chính), trực tiếp làm rõ các vấn đề liên quan đến nội dung của các vụ án, góp phần giải quyết các vụ án nhanh chóng, đúng pháp luật. Đó là hoạt động của các tổ chức giám định tư pháp, hoạt động của các tổ chức luật sư và các cơ quan, tổ chức khác do luật định. Ngoài các hoạt động có nội dung trên, những hoạt động khác của các cơ quan, tổ chức này không được coi là hoạt động bổ trợ tư pháp. HĐTP của các tổ chức bổ trợ tư pháp bao gồm: Hoạt động của Luật sư trong việc bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các bên đương sự...; hoạt động của Giám định viên trong việc giám định tử thi, giám định thương tích, giám định các tài liệu liên quan đến vụ án.v.v..; hoạt động trong việc dẫn giải bị can, bị cáo, thi hành án… Trong hoạt động bổ trợ tư pháp, hoạt động của luật sư được coi là quan trọng nhất. Hoạt động này được thể hiện thông qua việc bào chữa cho bị can, bị cáo, hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trước các cơ quan tài phán và các hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý cho bị can, bị cáo, đương sự và công dân nói chung. Thông qua đó, đã hỗ trợ tích cực cho việc tuân thủ, chấp hành và sử dụng pháp luật của công dân trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, góp phần làm cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được khách quan, đầy đủ, đúng pháp luật đồng thời góp phần làm cho cơ chế kiểm tra, giám sát HĐTP được chặt chẽ, đầy đủ. Như vậy, các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp là một mảng không thể thiếu được của hoạt động tố tụng nói riêng và HĐTP nói chung. Bằng hoạt động của mình, các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp đã góp phần cùng các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết các vụ án được kịp thời, khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng pháp luật, hợp với đạo lý nhằm đảm bảo các quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia tố tụng, đồng thời góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho công dân, tổ chức trong việc phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm. Tóm lại, HĐTP là là một trong những phương thức thực hiện quyền lực nhà nước, được hiểu là những hoạt động của các cơ quan tư pháp, bao gồm: Cơ quan điều tra, VKS, TAND, Cơ quan thi hành án và các cơ quan được nhà nước giao quyền trong các lĩnh vực điều tra, kiểm sát các HĐTP và thực hành quyền công tố, hoạt động xét xử, hoạt động thi hành án đối với các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và các hoạt động khác liên quan trực tiếp đến HĐTP nhằm bảo vệ pháp luật, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. 1.1.1.3. Quan niệm về đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp Theo quan niệm chung, "đảm bảo là làm cho chắc chắn, thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết" [69. tr. 175]. Vì vậy, đảm bảo QCN nói chung là sự ổn định về chế độ chính trị, xã hội, một nền dân chủ rộng rãi, một nền kinh tế phát triển và ổn định, các QCN được quy định đầy đủ về số lượng, chất lượng v.v... QCN trong HĐTP là một lĩnh vực của QCN nói chung, Vì thế, đảm bảo QCN trong HĐTP là một lĩnh vực đảm bảo QCN nói chung, nó có mối quan hệ mật thiết với việc đảm bảo QCN trong các lĩnh vực khác như, đảm bảo QCN trong hoạt động lập pháp, đảm bảo QCN trong hoạt động hành pháp. Để đảm bảo QCN trong hoạt động tư pháp, bên cạnh việc củng cố và tăng cường các đảm bảo QCN nói chung, còn phải đảm bảo các yếu tố mang tính đặc trưng riêng có của QCN trong HĐTP, như: Về hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về đảm bảo QCN trong HĐTP cần được củng cố và không ngừng hoàn thiện để điều chỉnh các quan hệ pháp luật liên quan đến lĩnh vực này. Bao gồm: Đối với hệ thống các quy phạm pháp luật về QCN trong HĐTP, phải được quy định đầy đủ, cụ thể, trong đó có các quyền quan trọng như: Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, quyền tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các bên đương sự trong tố tụng, quyền bình đẳng trước Tòa án, quyền kháng cáo các bản án đang có hiệu lực pháp luật... Đối với hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về cơ cấu, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, bao gồm các quy định: Về cơ cấu, tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra, VKSND, TAND, Cơ quan thi hành án. Đây là các cơ quan nhà nước trực tiếp thực việc đảm bảo các QCN trong HĐTP; các quy định về quyền và nghĩa vụ của các cơ quan tư pháp, của người tiến hành các hoạt động tư pháp. Trong đó, phải xác định đầy đủ, cụ thể các quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, trách nhiệm của họ trong việc đảm bảo việc thực hiện các quyền của người tham gia tố tụng. Trong hoạt động, các cơ quan tư pháp, người đại diện các cơ quan tư pháp thực hiện các chức năng, nhiệm vụ riêng của mình do luật định, nhưng phải trên cơ sở các nguyên tắc: đảm bảo tính khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng pháp luật để tránh việc lạm quyền, lộng quyền, vi phạm pháp luật từ phía các cơ quan tư pháp và người đại diện của các cơ quan này. Từ đó, nhằm đạt mục đích chung là bảo vệ lợi ích nhà nước, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. HĐTP là lĩnh vực hoạt động của các cơ quan nhà nước với chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền khác nhau nhưng có chung một mục đích là đảm bảo chất lượng, hiệu quả của việc giải quyết các vụ án theo quy định của pháp luật. Vì vậy, cần phải có cơ chế phối hợp trong hoạt động giữa các cơ quan tư pháp trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, cũng như cơ chế phối hợp giữa các cơ quan tư pháp và các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội trong việc thời gian vào lĩnh vực hoạt động này. Cơ chế phối hợp này phải đảm bảo tính chặt chẽ, thông suốt, hỗ trợ cho nhau trong công việc, đồng thời phải có sự chế ước lẫn nhau trên cơ sở trách nhiệm được phân công. Về cơ chế giám sát đối với việc đảm bảo QCN trong HĐTP, HĐTP là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước liên quan trực tiếp đến các quyền cơ bản của con người - là lĩnh vực có tính nhạy cảm cao. Cho nên, đòi hỏi phải có sự giám sát chặt chẽ, để các hoạt động trong lĩnh vực này luôn được thông suốt, đúng pháp luật đảm bảo tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Việc giám sát đối với hoạt động tư pháp cần phải phát huy được đông đảo các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân tham gia. Trong đó, cần xác định rõ các vấn đề liên quan đến trách nhiệm của "người giám sát", của "người chịu sự giám sát", việc giải quyết các vướng mắc trong hoạt động này v.v... Về cơ sở vật chất, kỹ thuật của hoạt động tư pháp. Cùng với các đảm bảo về hệ thống các quy phạm pháp luật, để đảm bảo QCN trong HĐTP cần phải đảm bảo về cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động tư pháp như trụ sở làm việc, các phương tiện, công cụ phục vụ hoạt động của công sở, cho việc thực thi công vụ, nhà tạm giữ, tạm giam, trại cải tạo người phạm tội... Để đảm bảo QCN trong HĐTP, yếu tố quyết định vẫn là con người trong việc tổ chức và tiến hành các hoạt động tư pháp. Họ là người tham gia vào các quy trình hoạt động tư pháp, quyết định các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, như: tính mạng, tự do, tài sản... của người phạm tội, danh dự, uy tín, tài sản của các bên đương sự và những người tham gia tố tụng khác liên quan... Vì vậy, những người tiến hành các hoạt động tư pháp phải là người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm công tác đồng thời phải là người có phẩm chất chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có bản lĩnh vững vàng. Đó là yếu tố cần và đủ để trong hoạt động tư pháp họ mới đảm bảo được sự khách quan toàn diện, đầy đủ, đúng pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích của công dân, góp phần giữ vững an ninh, chính trị trật tự an toàn xã hội. Tóm lại, đảm bảo QCN trong HĐTP là việc đảm bảo các điều kiện, yếu tố cần và đủ cho quá trình thực hiện QCN trong lĩnh vực HĐTP nhằm làm cho hoạt động này có hiệu lực, hiệu quả cáo nhất. Bao gồm các yếu tố cơ bản như: Có hệ thống các quy phạm pháp luật về lĩnh vực này đầy đủ, không ngừng được hoàn thiện; có hệ thống các cơ quan tư pháp hoàn chỉnh, có chất lượng, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; có cơ sở vật chất, kỹ thuật đáp ứng với yêu cầu của hoạt động; có cơ chế giám sát chặt chẽ, thông suốt, có sự tham gia đông đảo của các cơ quan nhà nước,tổ chức chính trị xã hội và công dân… 1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp QCN trong HĐTP là một lĩnh vực của QCN nói chung, vì thế, đảm bảo QCN trong HĐTP bên cạnh những đặc trưng của đảm bảo QCN nói chung còn bao gồm các đặc trưng cơ bản như: 1.1.2.1. Hoạt động tư pháp là lĩnh vực hoạt động đảm bảo quyền con người có hiệu lực, hiệu quả cao nhất HĐTP là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành, bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, cơ quan thi hành án và được những người đại diện cho các cơ quan đó là điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên... trực tiếp thực hiện nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức thông qua việc xử lý các vi phạm pháp luật và giải quyết các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý thông qua trình tự thủ tục tố tụng (tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế...). Trong quá trình tiến hành các hoạt động này, các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan được Nhà nước giao thẩm quyền chủ yếu giải quyết hai nhóm quan hệ tố tụng cơ bản, là nhóm quan hệ được phát sinh do việc thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm và các nhóm quan hệ khác được phát sinh do việc tranh chấp về quyền và nghĩa vụ về tài sản, nhân thân hoặc do yêu cầu xác lập một quan hệ pháp lý liên quan đến hai lĩnh vực này. Đối với nhóm quan hệ phát sinh do việc thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm, là nhóm quan hệ tố tụng được xác lập do yêu cầu của xã hội, thuộc trách nhiệm của Nhà nước. Trong đó, người phạm tội phải gánh chịu nghĩa vụ bằng việc chấp hành các hình phạt mà Tòa án đã tuyên. Hình phạt là hậu quả của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, còn mức độ hình phạt chính là mức độ xã hội lên án đối với tính chất, mức độ, hậu quả mà người phạm tội đã gây ra cho xã hội. Cho nên, trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng đối với người phạm tội mà không thể chuyển giao cho người khác được. Còn đối với các nhóm quan hệ tố tụng khác chỉ được phát sinh do yêu cầu của người tham gia tố tụng. Trong đó, các bên tham gia có toàn quyền quyết định đối với quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng của mình (thông thường quyền của bên này được thực hiện bởi nghĩa vụ của bên kia và ngược lại). Còn cơ quan tiến hành tố tụng (Tòa án) làm người trọng tài của Nhà nước đứng ra làm trung gian giải quyết các vấn đề về quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng. Vì thế, trong các quan hệ tố tụng này quyền và nghĩa vụ của các bên có thể được chuyển giao cho nhau hay người khác. Hoạt động tố tụng mà bản chất của quá trình này là xác định chân lý khách quan đối với sự việc đã xảy ra từ trước có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của con người, được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật tố tụng. Đây là quá trình hoạt động khó khăn, phức tạp và nhạy cảm. Trong đó, các cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện thẩm quyền của mình theo nguyên tắc "được làm những gì mà pháp luật cho phép" còn người tham gia tố tụng "được làm những gì mà pháp luật không cấm". Trong quá trình này, theo quy định của pháp luật, các chủ thể được tiến hành thực hiện các quan hệ tố tụng một cách công khai, trực tiếp, dân chủ nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến các hành vi vi phạm pháp luật, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ và các yêu cầu khác của những người tham gia tố tụng. Thông qua đó, chân lý khách quan dược xác lập đối với các quan hệ pháp luật bị vi phạm và bị tranh chấp đã xảy ra. Cho nên, có thể nói rằng, HĐTP là lĩnh vực hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước, theo trình tự thủ tục tố tụng được pháp luật quy định nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến QCN một cách khách có hiệu lực, hiệu quả cao nhất. 1.1.2.2. Trong hoạt động tư pháp, chủ thể được đảm bảo quyền con người được xác định cụ thể HĐTP mà đặc trưng là hoạt động tố tụng, là lĩnh vực hoạt động phức tạp bởi trình tự, thủ tục cũng như sự tham gia vào lĩnh vực hoạt động này của nhiều loại chủ thể có quyền và nghĩa vụ khác nhau. Tuy vậy, căn cứ vào tính chất, nội dung quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, có thể chia thành hai nhóm. Một nhóm chủ thể tham gia tố tụng vì có quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến sự phán xét của các cơ quan tiến hành tố tụng. Nhóm chủ thể này gồm hai loại, một loại với tư cách pháp lý là người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án do đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Đối với loại chủ thể này, quyền và nghĩa vụ của họ được giải quyết theo trình tự thủ tục TTHS. Còn loại chủ thể khác tham gia tố tụng với tư cách là các bên đương sự như: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, người bị hại… Đối với loại chủ thể này, các quyền và nghĩa vụ của họ được giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng hành chính và tố tụng lao động. Trong quá trình tiến hành tố tụng, quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể này được đảm bảo thực hiện thông qua những người tiến hành tố tụng. Vì vậy, có thể xác định trong hoạt động tư pháp, những người tham gia tố tụng này là đối tượng đảm bảo QCN . Ngoài ra, Trong hoạt động tố tụng, còn có những người tham gia tố tụng không có quyền và nghĩa vụ cần được xem xét, giải quyết trước Tòa án mà để thực hiện nghĩa vụ do luật định, họ là nhân chứng, người phiên dịch, người bào chữa (cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự... Những người này tham gia tố tụng là để thực hiện trách nhiệm của mình nhằm góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án vì họ không có quyền và lợi ích cần được xem xét, giải quyết trong hoạt động tố tụng. Mặc dù không có nguy cơ bị bị xâm hại về QCN từ phía người tiến hành tố tụng, do họ không có quyền và nghĩa vụ tranh chấp cần được giải quyết trong hoạt động tố tụng, nhưng trên thực tế, những người tham gia tố tụng này cũng có thể là đối tượng bị xâm hại về QCN khi thực hiện trách nhiệm trong lĩnh vực này, nên họ vẫn là chủ thể cần được đảm bảo QCN trong HĐTP. ._.p của họ không thể chi phối được hoạt động của người tiến hành tố tụng và họ không lạm dụng được quyền lực nhà nước khi hành nghề luật sư. Vì thế, thiết nghĩ rằng, việc mở rộng đối tượng tham gia luật sư bao gồm cả viên chức là cần thiết để phát huy được số lượng, chất lượng cho yêu cầu hoạt động bổ trợ tư pháp hiện nay. Đối với tổ chức giám định tư pháp: Để kiện toàn các tổ chức giám định tư pháp theo hướng hiện đại hóa và xã hội hóa. Cần xác định rõ các vấn đề vướng mắc trong lĩnh vực này như: quyền và nghĩa vụ của người giám định, trình tự, thủ tục trưng cầu giám định, nguyên tắc thực hiện giám định, trách nhiệm trong việc giám định, việc giải quyết các xung đột trong giám định… Trong đó, Nhà nước cần đầu tư cơ sở giám định chuyên trách, hiện đại, đủ sức đáp ứng yêu cầu của công tác giám định tư pháp cho các lĩnh vực phức tạp, có nhiều yêu cầu như: Giám định kỹ thuật hình sự, giám định pháp y. Giám định tư pháp là lĩnh vực hoạt động mang tính chuyên môn, khoa học và nghiệp vụ cao, vì thế phải coi trọng việc phát triển đội ngũ giám định viên là các chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực liên quan. Muốn vậy, bên cạnh việc quan tâm về công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, Nhà nước cần phải có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với đội ngũ này. Kiện toàn các tổ chức giám định tư pháp hiện nay đang là yêu cầu bức xúc. Vì thế, cần phải kịp thời xây dựng Pháp lệnh hoặc Luật tổ chức giám định tư pháp và các văn bản pháp luật khác liên quan đến hoạt động bổ trợ tư pháp để thay thế các văn bản pháp luật không đảm bảo được hiệu lực và hiệu quả hoạt động của lĩnh vực này. 3.3.5. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động tư pháp Trong lĩnh vực HĐTP, vấn đề củng cố và tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động đang là một yêu cầu quan trọng và cấp bách. Vì bản chất của HĐTP là để bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo trật tự, an toàn trong xã hội. Trong hoạt động này, cơ sở vật chất kỹ thuật được hiểu là, trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp, công cụ, phương tiện, trang thiết bị để những người tiến hành HĐTP thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình... Thực trạng HĐTP hiện nay, cho thấy: trụ sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc… của các cơ quan tư pháp còn quá nhiều thiếu thốn và bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu đang đặt ra trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao phó. Nhiều trụ sở Viện kiểm sát, Tòa án, Đội thi hành án cấp huyện được xây từ lâu, nay đã xuống cấp không đảm bảo diện tích sử dụng, không đảm bảo tính uy nghiêm của cơ quan công quyền. Rất nhiều cơ quan tư pháp cấp huyện đang dùng máy chữ, Tòa án nhiều nơi không có micrô, loa đài để xử án, các cơ sở giam giữ còn thiếu phương tiện chuyên dụng như xe chở bị cáo, camera... [17, tr. 8-9]. Cho nên, vẫn còn tình trạng nhiều cơ quan tư pháp các cấp phải tận dụng hành lang để làm việc, làm nơi tiếp dân... Tòa án thiếu phòng xét xử, phải dùng phòng làm việc hoặc nhà tạm để xét xử, có cơ quan tư phải phải thuê chỗ để làm việc hoặc ở nhờ các cơ quan khác... Các trại giam, nhà tạm giữ chưa được đồng bộ, hoàn chỉnh, chưa đạt yêu cầu... Tình trạng trên đang là phổ biến cho tất cả các cơ quan tư pháp ở nước ta hiện nay. Chính vì vậy, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho các cơ quan tư pháp đang được đặt ra một cách bức xúc. Đặc biệt là đối với các địa phương vừa được chia tách. Trong thời gian tới, để các cơ quan tư pháp hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, cần phải tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho các cơ quan tư pháp theo hướng hiện đại, đón đầu, tiếp cận ngang với trình độ trang thiết bị hiện đại trong điều kiện cho phép; từng bước xây dựng cơ sở làm việc cho các cơ quan tư pháp theo tiêu chuẩn quốc tế. Vì vậy, cần phải đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho các cơ quan tư pháp theo hướng: ngân sách tư pháp do Quốc hội phân bổ và các cơ quan tư pháp Trung ương quản lý, kết hợp với cơ chế khuyến khích địa phương hỗ trợ. 3.3.6. Xã hội hóa một số lĩnh vực hoạt động tư pháp vì quyền con người Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do dân và vì nhân dân, Nhà nước và dân cùng làm, mọi việc đều phải dựa vào dân. Đó là những kinh nghiệm trong lịch sử chiến tranh nhân dân và trong mười năm đổi mới cần nắm vững và phát huy để tạo nguồn lực giải quyết vấn đề con người và xã hội trong thời kỳ hiện nay [41, tr. 32]. HĐTP là nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Để hoạt động này đạt được hiệu quả cao, cùng với trách nhiệm của hệ thống các cơ quan tư pháp, đòi hỏi phải có phải có sự tham gia đông đảo và phối hợp của các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội và quần chúng nhân dân vào vào hoạt động này. Mặc dù chúng ta đã xây dựng một hệ thống các cơ quan bổ trợ tư pháp, một mạng lưới các cơ quan, tổ chức xã hội và một cơ chế phối hợp hoạt động cụ thể, nhưng thực tế cho thấy, việc tham gia vào HĐTP của các cơ quan, tổ chức và công dân nói chung chưa được phát huy, mà có xu hướng như khoán trắng cho các cơ quan tư pháp. Vì lẽ đó, để tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp, Đảng ta đã chỉ rõ: Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào công tác tư pháp. Các cơ quan tư pháp phải dựa vào nhân dân để hoạt động, đồng thời phải là lực lượng nòng cốt, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp [17, tr. 5]. Để xã hội hóa HĐTP trong điều kiện hiện nay, không chỉ có con đường duy nhất là thông qua trình tự tố tụng tại Tòa án mà còn được thể hiện bằng nhiều cách thức khác nhau trên cơ sở huy động được tối đa sự tham gia của toàn xã hội vào hoạt động này, trong đó hoạt động của các cơ quan tư pháp là khâu trung tâm. Đồng thời phải: Xây dựng cơ chế để nâng cao hiệu quả của các hình thức giải quyết tranh chấp khác như hòa giải, trọng tài, nhằm góp phần xử lý đúng và nhanh chóng những mâu thuẫn, khiếu kiện trong nội bộ nhân dân và giảm nhẹ công việc cho Tòa án và cơ quan nhà nước khác. Nghiên cứu việc xã hội hóa một số hoạt động bổ trợ tư pháp [15, tr. 12]. Từ định hướng trên, việc xã hội hóa phải được tiến hành đồng thời trên hai bình diện: Một là, xã hội hóa hoạt động của các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp như hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý. Theo hướng giải quyết thỏa đáng giữa việc quản lý nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức xã hội và tổ chức nghề nghiệp. Hai là, xã hội hóa trong hoạt động giải quyết các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân, tổ chức. Đây là lĩnh vực hoạt động phong phú, đa dạng, từ mức độ nhỏ đến mức độ lớn, từ tranh chấp đơn giản đến tranh chấp phức tạp. Do vậy, xã hội hóa hoạt động này sẽ đóng một vai trò quan trọng nhằm góp phần giải quyết các tranh chấp được khách quan, đầy đủ, đúng pháp luật. Để thực hiện được yêu cầu này, cần thiết phải phân định phạm vi, thẩm quyền giải quyết các tranh chấp nào thuộc các cơ quan tư pháp, loại tranh chấp nào thuộc thẩm quyền giải quyết của các tổ chức xã hội. Hay nói cách khác là loại việc nào thì phải đưa ra Tòa án xét xử, loại việc nào chỉ cần giải quyết thông qua sự thỏa thuận, hòa giải do nhân dân và các tổ chức xã hội giải quyết. Phương thức giải quyết tranh chấp này sẽ có thể huy động được tối đa khả năng của nhân dân tham gia vào HĐTP, thể hiện được hiệu quả trong việc kết hợp giữa "tình và lý" theo phong tục của nhân dân Việt Nam củng cố được tình làng nghĩa xóm trong sinh hoạt cộng đồng. Để thực hiện có hiệu quả công tác xã hội hóa lĩnh vực HĐTP, cần thiết phải tiến hành những nội dung liên quan như: Một là, phân định rõ các loại tranh chấp nào thuộc thẩm quyền giải quyết của các tổ chức, đoàn thể xã hội, chức năng, thẩm quyền phạm vi của các cơ quan, tổ chức này. Hai là, sửa đổi, bổ sung các quy định về cơ chế phối hợp, xác định đầy đủ quyền và nghĩa vụ của tổ chức, đoàn thể xã hội, của công dân trong việc tham gia HĐTP. Ba là, hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về hòa giải, trong đó xác định đa dạng hơn các lĩnh vực hòa giải, phạm vi, thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức tiến hành các hoạt động hòa giải, các vấn đề khác liên quan đến công tác hòa giải. Bốn là, đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cho những người trực tiếp tiến hành hoạt động hòa giải, đảm bảo mức phụ cấp thu nhập cho những thành viên này để họ yên tâm thực hiện công việc này. 3.3.7. Khắc phục kịp thời có hiệu quả thiệt hại do người tiến hành tố tụng gây ra Bản chất, thiên chức của HĐTP là là bảo vệ QCN, các quyền cơ bản của công dân bằng quyền lực nhà nước thông qua trình tự, thủ tục tố tụng Trong HĐTP yêu cầu đặt ra là, một mặt là phải đảm bảo việc xét xử các quyền và nghĩa vụ pháp lý bị tranh chấp được khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng pháp luật được "hợp tình, hợp lý" để các bên tranh chấp "tâm phục, khẩu phục" khi thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình. Mặt khác, phải đảm bảo trong trình tự tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải tôn trọng pháp luật, thực hiện đầy đủ, đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật để tránh oan sai, vi phạm QCN trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Có như vậy, việc đảm bảo QCN trong HĐTP mới được đầy đủ ý nghĩa. HĐTP là lĩnh vực hoạt động khó khăn, phức tạp và nhạy cảm vì đó là hoạt động chứng minh về sự thật khách quan của các sự việc đã xảy ra từ trước. Mà mọi bước của trình tự hoạt động này đều liên quan đến việc giải quyết các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng nên nguy cơ vi phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của họ là rất lớn. Vì thế, dù đã cố gắng đến mức cao nhất trong việc đảm bảo các quyền cơ bản của công dân trong HĐTP, nhưng do nhiều yếu tố khách quan, chủ quan chi phối, nên tình trạng vi phạm pháp luật trong HĐTP vẫn còn tồn tại, đã gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp của con người, ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả của HĐTP. Thực trạng này đang là sự nhức nhối trong tình cảm, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và trong nhân dân. nhất là khi các thiệt hại này chậm được khắc phục. Chính vì vậy, để đảm bảo QCN trong HĐTP, việc kịp thời khắc phục hậu quả các thiệt hại xảy ra trong lĩnh vực này đang trở thành yêu cầu mang tính thiết. Vì thế, Nghị quyết 08-NQ/ TW ngày 02/ 01/ 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ: "Khẩn trương ban hành và tổ chức thực hiện nghiêm túc các văn bản pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với những trường hợp bị oan, sai trong hoạt động tố tụng; nghiên cứu quỹ bồi thường thiệt hại" [17, tr. 5] Trên cơ sở đó, ngày 17/3/2003 Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan sai do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Tiếp đến, ngày 25/3/2004, VKSND tối cao, Bộ Công an, TAND tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính đã ra thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BTP-BQP-BTC để hướng dẫn thi hành một số quy định của nghị quyết trên. Để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của các văn bản này, cùng với việc triển khai thực hiện sâu rộng thông tư trên, cần thiết phải sớm ban hành pháp lệnh về lĩnh vực này để cụ thể hóa hơn các nội dung liên quan của nghị quyết vào đời sống xã hội. Nhất là các quy định về việc xác định nội dung, phạm vi về các trường hợp oan sai, trình tự, thủ tục, quyền lợi của người bị oan sai, trách nhiệm của các cơ quan có nghĩa vụ giải quyết các trường hợp oan sai... Để từng bước khắc phục tình trạng thiếu sự thống nhất, đồng bộ, chậm trễ, thiếu hiệu quả công tác bồi thường thiệt hại cho người bị oan sai do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, trong thời gian tới, cần có kế hoạch thống kê thực trạng các trường hợp oan sai trong hoạt động này, kịp thời khắc phục về quyền lợi vật chất và tinh thần cho những người có hoàn cảnh, điều kiện quá bức xúc. Trên cơ sở đó, từng bước tổ chức thực hiện việc khắc phục hậu quả oan sai một cách rộng khắp đối với tất cả các địa phương trong cả nước. Cùng với hoạt động trên, để đảm bảo QCN trong HĐTP cần phải tăng cường công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trong lĩnh vực này. Kiên quyết giải quyết dứt điểm các đơn thư khiếu nại, tố cáo kéo dài có nội dung bức xúc để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đồng thời, xác định đầy đủ, cụ thể trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng liên quan đến việc khiếu nại tố cáo của công dân, tổ chức để có biện pháp xử lý phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Trong HĐTP, kết quả giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân trong lĩnh vực này, được gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp, nó phản ánh về hiệu lực, hiệu quả đối với HĐTP. Đồng thời nó phản ánh bản chất của nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, tăng cường đối với hoạt động này chính là góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả của HĐTP, tăng cường sự đảm bảo QCN trong HĐTP. 3.3.8. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực hoạt động tư pháp Đảng lãnh đạo toàn diện đối với Nhà nước và xã hội là nguyên tắc cơ bản đã được quy định trong Hiến pháp. HĐTP là lĩnh vực thực hiện quyền lực Nhà nước nhằm đảm bảo QCN, cho nên, hoạt động của các cơ quan trong Bộ máy Nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp nói riêng đều được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Về vai trò lãnh đạo của Đảng cần được xác định rằng, Đảng không bao biện, làm thay, không can thiệp trực tiếp vào công việc chuyên môn mà là lãnh đạo thông qua đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, thông qua công tác tổ chức cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động chuyên môn… Mặt khác, sự lãnh đạo của Đảng không làm mất đi tính độc lập, chủ động mà làm cho quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ đúng với chủ trương, chính sách của Đảng. Thực tế cho thấy, cơ quan, tổ chức, địa phương nào quán triệt được đầy đủ, sâu sắc vai trò lãnh đạo của Đảng, đảm bảo được vai trò lãnh đạo của Đảng thì ở đó thực hiện có hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong lĩnh vực HĐTP, vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện một cách toàn diện qua việc: Đảng lãnh đạo về chiến lược, sách lược cho quá trình tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp về lâu dài cũng như trong từng giai đoạn cụ thể; trong việc lãnh đạo xây dựng về cơ cấu, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp; trong việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ tư pháp; trong việc kiểm tra, giám sát đối với lĩnh vực hoạt động tư pháp, trong việc kiểm tra chất lượng của đảng viên trong các cơ quan tư pháp… Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vai trò lãnh đạo của Đảng trong HĐTP được thể hiện một cách toàn diện và sâu sắc qua việc ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và triển khai thực hiện một cách toàn diện trong thực tiễn. Đây chính là linh hồn của công tác cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, đồng thời đó chính là mục tiêu là cơ sở của việc đảm bảo QCN trong HĐTP. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Đảm bảo QCN trong HĐTP là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong hoạt động đảm bảo QCN nói chung của các quốc gia trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Đảm bảo QCN trong HĐTP chỉ có thể có thể có hiệu lực, hiệu quả khi được đặt trong yêu cầu, đòi hỏi chung của xã hội và trên cơ sở nền tảng của việc đảm bảo QCN nói chung. Đó là phải có một sự ổn định về chế độ chính trị, xã hội, một chế độ dân chủ rộng rãi, một nền kinh tế ổn định và không ngừng phát triển. Đồng thời, nó phải được đặt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để đảm bảo QCN trong HĐTP hiện nay, bên cạnh việc tăng cường các đảm bảo QCN nói chung, còn phải: 1- Trên cơ sở hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành, cần phải kịp thời sửa đổi, bổ sung và không ngừng hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về đảm bảo QCN trong HĐTP, để không những đáp ứng yêu cầu trước mắt mà còn đảm bảo được yêu cầu đặt ra trong việc đảm bảo QCN trong HĐTP của của công cuộc đổi mới đất nước. Trong đó, phải quy định đầy đủ, cụ thể các vấn đề liên quan đến cơ cấu, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp, quyền và nghĩa vụ của những người tiến hành các hoạt động tư pháp, quyền và nghĩa vụ của công dân khi tham gia vào hoạt động tư pháp. Trình tự, thủ tục tố tụng để giải quyết các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân. 2- Bộ máy các cơ quan tư pháp, phải được kiện toàn, tinh gọn, đội ngũ cán bộ, công chức tư pháp phải có tình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ được giao. Đồng thời, họ phải không ngừng được rèn luyện, nâng cao về phẩm chất chính trị, trau dồi về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để không ngừng đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của mình. 3- Phải thiết lập một cơ chế phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan tư pháp. Cơ chế này phải phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan tư pháp, chức danh tư pháp trong việc thực thi nhiệm vụ của mình. 4- Phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các lĩnh vực HĐTP. Trong đó phải huy động được sự tham gia đông đảo của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân. 5- Hiệu lực, hiệu quả HĐTP luôn gắn liền với trụ sở làm việc, với cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện làm việc… của các cơ quan tư pháp và công chức tư pháp. Vì vậy, cần phải tăng cường cơ sở vật chất, đầu tư các trang thiết bị hiện đại để góp phần đảm bảo HĐTP có hiệu lực hiệu quả cao. Như vậy, QCN trong HĐTP là một bộ phận không thể tách rời QCN ở nước ta nói chung. Cho nên, tăng cường đảm bảo QCN trong HĐTP là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước đồng thời đó còn là quyền và nghĩa vụ của mọi công dân ở nước ta hiện nay. KẾT LUẬN Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, vấn đề đảm bảo QCN nói chung và đảm bảo QCN trong HĐTP luôn được các quốc gia coi trọng trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển đất nước. Trên cơ sở đó, nó đã trở thành tiêu chí để đánh giá về sự công bằng, dân chủ, bình đẳng của một chế độ xã hội. Mặc dù hiện nay vẫn chưa có khái niệm về đảm bảo QCN trong HĐTP quy định thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật, tuy vậy đảm bảo QCN trong HĐTP có thể được hiểu là đảm bảo các điều kiện, yếu tố liên quan đến việc thực hiện QCN trong lĩnh vực này theo quy định của pháp luật. Đây là hình thức đảm bảo QCN bằng quyền lực nhà nước một cách công khai, dân chủ, bình đẳng và khách quan nhất, nên có hiệu lực và hiệu quả cao nhất. Ở Việt Nam, vấn đề đảm bảo QCN trong HĐTP đã được Đảng và Nhà nước ta đặt ra từ những ngày đầu giành được nền độc lập dân tộc và luôn được xác định như một nhu cầu có tính nguyên tắc của nền tư pháp kiểu mới - nền tư pháp của dân, do dân và vì dân. Cùng với các giai đoạn cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vấn đề đảm bảo QCN nói chung và đảm bảo QCN trong HĐTP đã và đang được từng bước củng cố về mặt lý luận và tôn trọng trong hoạt động thực tiễn. Tuy vậy, trong công cuộc đổi mới hiện nay, vấn đề đảm bảo QCN trong HĐTP vẫn còn bộc lộ những bất cập cả về lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn. Những bất cập này đã xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Đó chính là sự bức xúc lớn mà Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm. Để góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, vấn đề tăng cường các đảm bảo QCN trong HĐTP đòi hỏi: phải kịp thời sửa đổi, bổ sung và không ngừng hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực đảm bảo QCN trong HĐTP. Bộ máy các cơ quan tư pháp phải được kiện toàn, tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đội ngũ cán bộ, công chức của các cơ quan tư pháp phải được tăng cường về số lượng, đảm bảo về chất lượng. Phải huy động được sự tham gia đông đảo của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và nhân dân vào các HĐTP. Trên cơ sở đó phải tăng cường sự kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động của cơ quan tư pháp, của cán bộ công chức tư pháp. Đồng thời, phải tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, công cụ, phương tiện làm việc cho các cơ quan tư pháp, cán bộ công chức tư pháp phù hợp với điều kiện hiện nay… Từ cơ sở lý luận và thực tiễn đặt ra của công cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn cách mạng hiện nay, bản luận án về "Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay" vì thế đã góp phần tạo thêm một viên gạch vào ngôi nhà lý luận và thực tiễn của vấn đề đảm bảo QCN nói chung và đảm bảo QCN trong HĐTP ở nước ta hiện nay. Mặc dù đang là vấn đề mới mẻ và không ít những thách thức cả về lý luận cũng như trong việc tổ chức thực hiện trong thực tiễn, nhưng vì một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cùng với sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, vấn đề đảm bảo QCN trong HĐT nói riêng và đảm bảo QCN ở Việt Nam sẽ được thực hiện thắng lợi trong thực tế. NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Nguyễn Huy Hoàn (1995), "Nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng hình sự", Về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Đà Nẵng, tr. 140-153. 2. Nguyễn Huy Hoàn (1997), "Cần xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật", Dân chủ và pháp luật, (4), tr. 8-9. 3. Nguyễn Huy Hoàn (1997), "Cần xác định lại thẩm quyền trong việc giải quyết một vụ án", Dân chủ và pháp luật, (7), tr. 18-19. 4. Nguyễn Huy Hoàn (2000), "Cần đảm bảo quyền bào chữa theo quy định của pháp luật", Dân chủ và pháp luật, (12), tr. 29-30. 5. Nguyễn Huy Hoàn (1998), "Cần quy định thống nhất thẩm quyền và thủ tục công nhận người bào chữa trong tố tụng hình sự", Dân chủ và pháp luật, (11), tr. 15-16. 6. Nguyễn Huy Hoàn (2002), "Đảm bảo quyền của người chưa thành niên phạm tội trong tố tụng hình sự", Dân chủ pháp luật, (6), tr. 10-12. 7. Nguyễn Huy Hoàn (2003), "Cần áp dụng Điều 7 Bộ luật hình sự 1999 để giải quyết vụ án", Dân chủ pháp luật, (4), tr. 35, 36. 8. Nguyễn Huy Hoàn (2004), "Cần hiểu và sử dụng chính xác thuật ngữ trong tố tụng hình sự", Sinh hoạt lý luận, (2), tr. 56-58. 9. Nguyễn Huy Hoàn (2004), "Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam", Kỷ yếu khoa học đề tài cấp cơ sở, Khoa Nhà nước và Pháp luật, tr. 73-85. 10. Nguyễn Huy Hoàn (2004), "Đảm bảo quyền nhờ người khác bảo chữa cho bị can trong hoạt động tố tụng hình sự - thực tiễn và giải pháp", Sinh hoạt lý luận, (5), tr. 40-43. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Ban chỉ đạo cải cách tư pháp (2003), Báo cáo kết quả kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết 08- NQ/ TW, ngày 17/01, Hà Nội. Ban chỉ đạo cải cách tư pháp (2003), Phiên họp lần thứ IV, ngày 23/01, Hà Nội. Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp (10/2004), Tài liệu phiên họp thứ IX Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp, Hà Nội. Báo Công lý, ra ngày 28/7/ 2003, tr. 3. PGS.TS Trần Văn Bính (Chủ biên) (1999), Toàn cầu hóa và quyền công dân ở Việt Nam, nhìn từ khía cạnh văn hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ Tư pháp - Vụ Quản lý luật sư - Tư vấn pháp luật (1999), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt động của các đoàn luật sư năm 1998, Hà Nội. Bộ Tư pháp - Vụ Quản lý luật sư - Tư vấn pháp luật (2000), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt động của các đoàn luật sư năm 1999, Hà Nội. Bộ Tư pháp - Vụ Quản lý luật sư - Tư vấn pháp luật (2001), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt động của các đoàn luật sư năm 2000, Hà Nội. Bộ Tư pháp (2002), Vụ công chứng giám định, hộ tịch, giám định, lý lịch tư pháp báo thực trạng giáo dục tư pháp, Hà Nội. Bộ Tư pháp, Vụ Bổ trợ tư pháp (2003) Báo cáo tổng kết công tác bổ trợ tư pháp, Hà Nội. Lê Cảm (2002), "Cải cách hệ thống Tòa án trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam", Nghiên cứu lập pháp, (4), tr. 22. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Sắc lệnh số 13 ngày 21.1.1946 về tổ chức Tòa án và ngạch Thẩm phán. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (2002), Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2/1 của Bộ Chính trị, Hà Nội. Trần Độ (2002), "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân", Nhà nước và pháp luật, (11), tr. 16. Phạm Văn Đồng (1995), Xây dựng nhà trường thành một trung tâm nghiên cứu, đào tạo các bộ và truyền bá pháp lý thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội, tr. 20-21. Tiểu Đường (2001), Năm đương đại, Viện Thông tin khoa học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, tr.3, 19. Vũ Hải (2003), Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh, số ngày 17/7, tr. 1. Phạm Hồng Hải (2004), "Những điểm mới về trách nhiệm, nghĩa vụ của người bào chữa ...", Nhà nước và pháp luật, (5), tr. 21 Hoàng Văn Hảo (1999), "Xã hội hóa một số hoạt động của cơ quan tư pháp", Dân chủ và pháp luật, (8), tr. 3. Hiến pháp 1946 (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và 1992) (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi) (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Hiện (2000), "Những khó khăn, vướng mắc trong xét xử án dân sự chưa được khắc phục", Kiểm sát, (6), tr. 9-10. Nguyễn Duy Lãm (Chủ biên) (2001), Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. Hoàng Thế Liên, Nguyễn Thành Thủy (2001), "Những vấn đề vướng mắc trong cơ chế phối hợp về thi hành án dân sự", Dân chủ và pháp luật, (5), tr. 11. Khánh Linh (2002), "Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân", Nghiên cứu lập pháp, (3), tr. 7. Phạm Văn Lợi (1999), "Quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm", Dân chủ và pháp luật, (8), tr. 8. Luật tổ chức Tòa án nhân dân (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Đức Lương (2002), "Đẩy mạnh công tác tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Báo Nhân Dân, ngày 26/3, tr. 6. Trần Đức Lương (2003), Buổi nói chuyện tại Bộ Tư pháp ngày 13/ 8. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác - Ph. Ăngghen (1998), Về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Dương Thị Thanh Mai (1996), Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp, Luận án Phó tiến sĩ luật học. Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật (1990), Nxb Pháp lý, Hà Nội. Đỗ Mười (1995), "Thư gửi cán bộ nhân viên ngành tư pháp nhân dịp 50 năm thành lập ngành", Dân chủ và pháp luật, (12), tr. 11. Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Pháp lệnh thi hành án dân sự (1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Pháp lệnh thi hành án phạt tù (1998), Nxb Pháp lý, Hà Nội. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (1990), Nxb Pháp lý, Hà Nội. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (1996), Hà Nội. Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. "Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự" (1981), Công báo, (16), ngày 31/8, tr. 347. Pháp lệnh tổ chức luật sư (1987), Nxb Pháp lý, Hà Nội. Pháp lệnh tổ chức luật sư (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Pháp lệnh về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Vi Phương (2003), Báo Công an thành phố Đà Nẵng, ngày 15.8. Rouseau. J.J. (1992), Bàn về khế ước nước xã hội, Nxb thành phố Hồ Chí Minh. Lê Minh Tâm (2001), "Thử bàn về lý luận thi hành án", Luật học, (2), tr. 23. Chu Hồng Thanh (2001), "Bảo đảm công bằng xã hội trong hoạt động tư pháp", Dân chủ và pháp luật, (2), tr. 13 Phạm Vũ Thắng, "Coi trọng nguyên tắc đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sự", Công an nhân dân, (8), tr. 16-17. Thủ tướng Chính phủ (2001), Chỉ thị về việc tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án, ngày 17/3, Hà Nội. Tổ chức hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát (1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1999, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2000, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2002), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 2001, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân năm 2002, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân năm 2003, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án quý IV năm 2003 và 10 tháng đầu năm 2004, Hà Nội. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1998), Tập bài giảng lý luận quyền con người, Hà Nội. Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người, Học viên Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình Lý luận quyền con người, Hà Nội. Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người - Viện Thông tin khoa học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Văn kiện quốc tế về con người, Hà Nội. Từ điển Ngôn ngữ học (2001), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. Từ điển tiếng Việt (1998), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Tất Viễn (2000), "Đổi mới chế định Hội thẩm, nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án", Dân chủ và pháp luật, (1), tr. 14. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2001), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2000, Hà Nội. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2001, Hà Nội. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2003), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2002, Hà Nội. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2004), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2003, Hà Nội. Võ Khánh Vinh (2004), "Chức danh tư pháp một số vấn đề lý luận", Nhà nước và pháp luật, (6), tr. 4. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2660.doc
Tài liệu liên quan