Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NGŨ NHỊ SONG HIỀN ĐẶC TRƯNG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT ĐỖ CHU Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HOÀI THANH Thành phố Hồ Chí Minh – 2010 LỜI CAM KẾT Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của TS Nguyễn Hoài Thanh. Công trình này chưa được công bố dưới bất kỳ một hình thức nào. Tôi xin hoàn toàn chịu t

pdf114 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1958 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rách nhiệm về công trình này. TP.HCM, ngày 25 tháng 09 năm 2010 Tác giả luận văn Ngũ Nhị Song Hiền LỜI CẢM ƠN Đề tài “Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu” được hoàn thành dưới sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của TS Nguyễn Hoài Thanh, sự đóng góp ý kiến của các Giáo sư – tiến sĩ phản biện, và các thầy cô phòng KHCN và SĐH. Tôi xin chân thành cám ơn MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Khuynh hướng văn xuôi trữ tình, giàu chất thơ là một dòng chảy của văn học Việt Nam hiện đại mà Đỗ Chu là một ngòi bút tiêu biểu. Đây là một kiểu văn xuôi – thơ hay nói như nhà văn Nga C. Pauxtốpki là “chất thơ của văn xuôi” rất đáng được lưu tâm nghiên cứu. Đỗ Chu là một nhà văn, một người lính trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước. Với khối lượng sáng tác không dồi dào nhưng đã để lại một ấn tượng đẹp trong lòng độc giả.Trong sáng, trữ tình và lãng mạn với các truyện ngắn đầu tay như Hương cỏ mật, Ráng đỏ, Phù sa, Mùa cá bột…ngòi bút ấy càng trở nên dịu dàng, đằm thắm, sâu sắc hơn với Mảnh vườn xưa hoang vắng và Một loài chim trên sóng. Gần đây sự xuất hiện của hai tập tùy bút Tản mạn trước đèn (2005) và Thăm thẳm bóng người (2008) đã tập trung sự chú ý của giới nghiên cứu phê bình và độc giả. Khi người ta đã quen với một Đỗ Chu truyện ngắn trữ tình thì ông lại bức phá với hai tập tùy bút dày công lực. Cái duyên tùy bút của Đỗ Chu thăng hoa ở độ tuổi thâm trầm, để ông có dịp bộc lộ rõ nét một cái “tôi” tinh tế, sâu sắc, đầy chất triết lý. Dù ở thể loại truyện ngắn hay tùy bút, người ta đều bắt gặp một tâm hồn giàu chất thơ của nhà văn. Trải qua hơn 40 năm văn nghiệp, Đỗ Chu không chỉ khẳng định vị trí văn chương của mình ở Giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật (2001), Giải thưởng Văn học Asean (2004) về truyện ngắn mà còn ở Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam (2005) với tập tùy bút Tản mạn trước đèn. Do đó, nhìn nhận, đánh giá tài năng, và nghiên cứu đặc trưng văn xuôi nghệ thuật của Đỗ Chu để hoàn thiện chân dung một tác giả là điều cần thiết. Tác phẩm và tên tuổi của Đỗ Chu thăng trầm qua từng giai đoạn lịch sử. Nhiều người biết và ấn tượng về Đỗ Chu. Song để nghiên cứu một cách có hệ thống các sáng tác của nhà văn cũng như khái quát toàn diện đặc trưng văn xuôi nghệ thuật của Đỗ Chu thì còn thấy hiếm. Rải rác các bài phát biểu và nghiên cứu trên báo, tạp chí và một số ít sách nghiên cứu thiết nghĩ chưa đủ khẳng định sức sống của một cây bút văn xuôi giàu chất thơ như Đỗ Chu. Luận văn mong tiếp nối cái phần còn để ngỏ ấy. II. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đỗ Chu sáng tác tập trung nhất là vào hai mảng truyện ngắn và tùy bút. Do đó luận văn đi sâu khảo sát và nghiên cứu hai thể loại này - hai thể loại đóng vai trò khẳng định phong cách và tên tuổi Đỗ Chu trên văn đàn. Với đề tài Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu, người viết đi vào tìm hiểu, phân tích các tác phẩm trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật nhằm khái quát lên đặc trưng, phong cách của nhà văn. Với một số lượng tác phẩm không dồi dào, luận văn cố gắng tập hợp, khảo sát tất cả các tuyển tập truyện ngắn và tùy bút của Đỗ Chu đã in thành sách hoặc đăng rải rác trên các báo và tạp chí từ năm 1962 cho đến nay. III. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Từ năm 1962, khi những truyện ngắn đầu tay của Đỗ Chu ra đời, văn đàn đã xôn xao tán tụng. Nối tiếp những thành công từ các truyện đầu tay đó, các tuyển tập truyện ngắn của Đỗ Chu đã ra đời. Có tuyển tập hay, được chú ý, có tuyển tập cũng “tàm tạm” nhưng cũng có tác phẩm không mấy gây ấn tượng nên dần chìm vào quên lãng. Tuy nhiên tất cả thống nhất ở một điểm: truyện Đỗ Chu giàu chất thơ, văn phong trang nhã, cẩn trọng trong từng câu chữ. Đề cập đến đặc điểm truyện ngắn Đỗ Chu, giáo sư Nguyễn Văn Hạnh đã có một bài nghiên cứu về Truyện ngắn của Đỗ Chu khá cụ thể và chi tiết in trên Tác phẩm mới (17/9/1971). Ông phân tích cách lựa chọn đề tài, hệ thống nhân vật, bút pháp miêu tả nhân vật, kết cấu, cốt truyện, ngôn ngữ và khả năng phản ánh hiện thực trong truyện ngắn của Đỗ Chu. Về cách xây dựng nhân vật, ông cho rằng: “Mặc dù hoàn cảnh khác, tâm lý khác nhưng nhân vật của Đỗ Chu đều có một cái lõi tính cách giống nhau” :“đều có những phẩm chất tốt đẹp và rất đáng yêu.” [33,tr.437] Và vì thế nhân vật thuộc vào loại “ít hoạt động, mà nặng yêu thương, tâm sự, hồi tưởng”. [33, tr.443 ] Lý giải về điều này, giáo sư Nguyễn Văn Hạnh cho rằng: “nói chung cái nhìn của anh đang là một cái nhìn đậm màu sắc lý tưởng, khuôn định; nguồn sống chủ yếu của tác phẩm anh đang là tâm hồn, một tâm hồn khá nhạy cảm, có thể nói là tài hoa, nó đang được “phân thân” vào hầu hết các nhân vật và những bức tranh thiên nhiên mà anh miêu tả”. [33, tr.441] Về khả năng phản ánh hiện thực trong truyện ngắn của Đỗ Chu, giáo sư cho rằng : “Đỗ Chu ít phân tích xã hội, không nhìn thấy hoặc né tránh những tình huống phức tạp.” Sự hạn chế này dẫn đến “khả năng xây dựng nhiều loại tính cách, cũng như sức khái quát, nói chung còn yếu”, “cốt truyện, kết cấu đều đơn giản, tự nhiên.” Cũng do tự nhiên, “thoải mái”nên Đỗ Chu ít chú ý đến cốt truyện và kết cấu. Tác phẩm vì thế có khi “không cân đối, lỏng lẻo, dàn trải”. Tuy nhiên giáo sư Nguyễn Văn Hạnh khen sự “giản dị và tự nhiên” trong văn phong của Đỗ Chu : “Một nét rất đáng quý trong sáng tác của Đỗ Chu là tính chất giản dị và tự nhiên. Giản dị và tự nhiên trong kết cấu, trong nghệ thuật dẫn dắt câu chuyện, trong giọng văn, trong lời văn.” Những đoạn văn xúc động và giàu chất thơ có thể gần với phong cách của Nam Cao, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc, và xa hơn nữa là Sêkhốp, Pauxtốpki, Aimatốp nhưng “Đỗ Chu vẫn có cái tươi mát, bồi hồi riêng biệt của anh”. [33, tr.446 –tr.449] Ngô Thảo trong bài nghiên cứu Văn học về người lính có phân tích, đánh giá giá trị nội dung và nghệ thuật của những tác phẩm viết về người lính, trong đó có Đỗ Chu. Ngô Thảo nhìn nhận Đỗ Chu là nhà văn có phong cách trữ tình. Ngay từ những tác phẩm đầu tay, Đỗ Chu đã biểu hiện “một bản sắc riêng, một phong cách văn học đã chín…Hiện thực được lĩnh hội thể nghiệm và biểu hiện qua góc độ trữ tình bởi sự nhào nặn bằng chất men riêng của tâm hồn người viết.” [71, tr.44] Bên cạnh đó, Ngô Thảo cũng đã chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu của nhà văn. Mạnh là ở chỗ Đỗ Chu thể hiện rất hay những ấn tượng, cảm xúc, những phong tục và không khí nông thôn. Nhưng hạn chế là ở khả năng bao quát đời sống rộng lớn. Trước những biến động quyết liệt của hiện thực (cuộc chiến tranh phá hoại mở rộng), ngòi bút của ông trở nên “lúng túng”, không còn giữ thế chủ động khi phản ánh. “Anh viết khá nhiều về các trận đánh, các con đường mặt trận, những người ở tuyến trước, nhưng mọi thứ ở đây vẫn có cái gì ngẫu nhiên, cá biệt.”[71, tr.45] Ngô Thảo cũng đã nhấn mạnh : “Cái phần hay của Đỗ Chu chưa có nhiều người đạt tới nhưng cái phần còn yếu của anh lại đang là chỗ mạnh của nhiều người viết khác.” [71, tr.44 - tr.45] Ma Văn Kháng, Nguyễn Trí Nguyên cũng đã từng bày tỏ quan niệm về lối văn giàu chất thơ của Đỗ Chu. Trong Sổ tay truyện ngắn, Ma Văn Kháng đã khen Ráng đỏ của Đỗ Chu tiêu biểu cho lối văn nhẹ nhàng, đơn giản mà thấm sâu, có khả năng lưu lại được cái dư ba trong lòng người : “Tóm lại, quan niệm truyện ngắn phải có cái gì bay bay một tí, không nên mơ màng quá mà trần trụi quá cũng không ổn. […] Tôi thích những truyện có một cốt truyện thực, lại phải có một cái bóng đằng sau, giúp cho người đọc liên tưởng sang nhiều chuyện khác. Ví dụ Ráng đỏ (Đỗ Chu), Chiếc lá (Bùi Hiển)…[58, tr.66] Nguyễn Trí Nguyên cũng nhận thấy ở nhà văn Đỗ Chu phảng phất nét “thơ mộng”, trữ tình như những trang văn của A. Đô-đê : “Đọc những truyện ngắn của Đỗ Chu, điều đáng mừng là tìm lại được phong cách văn học, âm hưởng thơ mộng trong truyện ngắn giàu hồi ức của anh, những ấn tượng có ở truyện ngắn của A.Đô-đê.” [61, tr.116] Trái lại, Nguyễn Quang Sáng lại tỏ ra không thích với lối “câu dầm, ngâm nga từng câu từng chữ” của Đỗ Chu. Ông phục cách nhà văn Đỗ Chu gia công, cẩn trọng trong từng con chữ của mình nhưng không thích đi theo cách viết của Đỗ Chu: “Tôi phục ông nhưng tôi vẫn viết theo cách của tôi.” [58, tr.40] Văn Chinh từng dành nhiều sự ưu ái cho phong cách văn xuôi lãng mạn trữ tình của Đỗ Chu và xem đó như “một đám mây lạ” làm thức dậy cái đẹp, cái thơm thảo trong hồn người: “Một chút lãng mạn Pháp, một chút cổ điển Nga và một chút lý tưởng hóa Nga Xô-viết đã như những đám mây lạ được làn gió chuyển mùa làm nên mưa xuân trên vùng quê văn hóa màu mỡ là Kinh Bắc, khiến hạt mầm nghệ sĩ vẫn còn phong kín trong lòng đứa con rồi ra sẽ làm vinh dự cho quê hương, một đứa trẻ buồn nỗi con côi pha lẫn niềm bâng khuâng vị thành niên đã bật lên truyện Hương phù sa, Mùa cá bột, Chiến sĩ quân bưu, Đường qua nhà, Thành phố bên kia cầu…vẫn với những nhân vật đầy trìu mến, nhiều tài hoa nhưng cũng lặng lẽ, quả cảm, chúng đều khiến thức dậy cái đẹp, cái thơm thảo trong lòng người đọc để ta có thể yên tâm gọi đó là chùm Hương cỏ mật.” [7] Chỉ đến Mảnh vườn xưa hoang vắng, Văn Chinh mới khẳng định tài năng của Đỗ Chu. Ông đánh giá cao về lối viết thung dung, tự nhiên và giàu nhạc điệu: “Đỗ Chu là nhà văn có năng lực làm chủ ngòi bút của mình. Truyện của anh thường có bố cục công phu, nghiêm túc. Văn mạch đi thung dung, nhàn nhã, tự nhiên mà như những trái chín cây. Văn anh giàu biểu cảm, duyên dáng nhưng không ẻo lả. Dù truyện dài trăm trang nhưng đều nằm gọn hết trong một nhạc điệu trầm và trang trọng, làm tĩnh tâm bạn trước khi tiếp nhận những tư tưởng sắc sảo, cao thượng.” [7] Nhiều người dành tình yêu mến cho tuyển tập Phù sa của Đỗ Chu. Vương Trí Nhàn trong bài nghiên cứu Một cuộc gặp gỡ để lại nhiều cảm tình đã có những đánh giá cao về tập truyện ngắn đầu tay này. Ông cho rằng văn phong Đỗ Chu có “duyên” và có “một sắc thái riêng”: “Cái duyên của câu văn, cách bố trí khi dài khi ngắn, âm điệu bằng trắc thế nào, Đỗ Chu gần như có được từ bản năng. Những truyện Mùa cá bột, Đường qua nhà nhỏ xinh như một bài thơ, đọc xong lại muốn đọc lại.” [57, tr.20] Và các truyện ngắn đều cho thấy “một sắc thái riêng trong chất văn Đỗ Chu”. [57, tr.21] Tuy về mặt hình thức, Vương Trí Nhàn cho là “không chặt chẽ, kể lan man”. [57, tr.22] Nhưng ông nhấn mạnh “vẻ duyên dáng thì không vì thế mà giảm sút”. [57, tr.22] Về nhân vật thì ông khá thống nhất với các nhận xét khác, “chưa có nhân vật nào đủ hình đủ bóng, chưa có con người nào khả dĩ vượt khỏi trang sách chuyện trò cùng chúng ta”. [57, tr.25] Bởi vì “hoạt động tâm lý chưa bật lên thành cá thể có linh hồn riêng”. [57, tr.25] Và cuối cùng ông kết luận rằng “nhân vật duy nhất trong các truyện ngắn từ trước đến nay của Đỗ Chu chính là bản thân tác giả”. [57, tr.25] Còn Phan Thị Minh Thư lại khen ngợi Phù sa về cách sắp xếp, bố trí tình tiết truyện như một người chỉ huy dàn dựng trận địa khéo : “Một truyện ngắn bình thường nhưng vừa đủ số chữ cần thiết, “vào ra” truyện đúng lúc, chính xác ở cả mỗi ngắt đoạn.” [84, tr.94 ] Khi nhìn nhận và tổng kết lại tình hình văn xuôi Việt Nam năm 2002, Nguyễn Hòa đã đánh giá cao sự đóng góp của Đỗ Chu cho nền văn học nước nhà. Tác giả cho rằng Đỗ Chu là người có bút lực dồi dào, văn phong trang hoàng và đẹp đến chuẩn mực. “Nhìn vào giải thưởng Hội nhà văn năm 2001, có thể nhận thấy nổi lên là sự có mặt của Đỗ Chu với tập truyện ngắn Một loài chim trên sóng. Đỗ Chu viết không nhiều nhưng anh lại là một trong số hiếm hoi những cây bút mà chúng ta vẫn gọi là “viết có văn”- nghĩa là trang viết khiến người ta thấy hay, thấy nhớ, thấy đọng lại đôi điều.” [37] Cũng như Phan Cự Đệ, Nguyễn Trí Nguyên, Nguyễn Hòa đã xếp Đỗ Chu vào “hệ những nhà văn rất chú trọng đến vẻ đẹp của câu chữ, như các bậc tiền bối Thạch Lam, Hồ Dzếnh. Bút lực của ông không mấy dồi dào nhưng họ viết chậm và kỹ, câu văn nghiêng về cái đẹp mảnh mai.” [37] Nguyễn Thanh Tú lại có một bài viết về Đặc điểm kết cấu truyện ngắn Đỗ Chu đăng trên báo Văn nghệ quân đội năm 2003. Đọc Tuyển tập truyện ngắn Đỗ Chu xuất bản năm 2003, Thanh Tú phát hiện ra một kết cấu riêng, mang dấu ấn của Đỗ Chu rõ nét: “Tuyển tập đã thể hiện một phong cách văn xuôi Đỗ Chu trữ tình, đậm chất thơ, tinh tế, tài hoa mà theo chúng tôi điều này thể hiện rõ nhất ở đặc điểm kết cấu rất riêng, mang rõ dấu ấn Đỗ Chu”. [88, tr.98] Thanh Tú đi vào phân tích hình thức “truyện lồng trong truyện khá đặc sắc” qua một số truyện tiêu biểu. Sự lan man tưởng chừng như là nhược điểm của Đỗ Chu lại là “đặc điểm trong hệ thống các câu chuyện được kể”. Và chính kết cấu này cũng quy định một giọng điệu trong văn xuôi của Đỗ Chu: “giọng tâm tình thân mật”. Nguyễn Thanh Tú khẳng định : “Đỗ Chu là người viết sớm và sớm tạo cho mình một cách viết riêng, một giọng điệu riêng.” [88, tr.98] Thạc sĩ Lê Hương Thủy đã có một bài nghiên cứu khá cụ thể về Đặc trưng truyện ngắn Đỗ Chu in trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 9 năm 2006. Trong bài viết này, Lê Hương Thủy đề cập đến cảm hứng sáng tác, đề tài, hệ thống nhân vật, và cách dẫn dắt chuyện của Đỗ Chu. Trước 1975, cảm hứng lãng mạn cách mạng là nguồn mạch chính trong các truyện ngắn của ông. Nguồn mạch này chi phối đến hệ đề tài, khiến Đỗ Chu thiên về khai thác cái đẹp, chất thơ trong đời sống. Nó biểu hiện ở vẻ đẹp tâm hồn, thế giới tinh thần phong phú của nhân vật, cách nhìn về thiên nhiên và cách phản ánh hiện thực đời sống. Tuy nhiên từ sau năm 1975, cảm hứng bi kịch trở nên đậm đặc. Nhân vật của ông trở nên đời hơn, và cũng có phần nghiệt ngã hơn. Nhiều mảng tối của đời sống được lật xới lên.Tuy nhiên dù viết về bi kịch thì các tác phẩm của ông vẫn lấp lánh niềm tin và lạc quan. Về kỹ thuật viết truyện, Lê Hương Thủy đánh giá cao cách dẫn chuyện tự nhiên, nhưng cốt truyện thì đơn giản. “Không chú trọng vào việc khai thác những yếu tố bất ngờ, những khúc quanh của số phận, truyện của Đỗ Chu thường ít có những tình huống lắt léo, và vì thế khó kể lại rành mạch theo trình tự của cốt truyện thông thường. Nhiều truyện ngắn hấp dẫn người đọc bởi cách dẫn chuyện, kể, tả và độc thoại nội tâm.” [81, tr.123 ] Và cuối cùng theo Lê Hương Thủy, điều khiến truyện ngắn của Đỗ Chu đến được và lắng lại với người đọc là bởi “lối văn giàu xúc cảm, ở chất giọng trữ tình, ở sự tạo kết những giá trị văn hóa trên những trang viết và ý thức đổi mới ngòi bút.” [81, tr.126] Phan Cự Đệ trong cuốn Truyện ngắn Việt Nam, Lịch sử - Thi pháp - Chân dung đã giới thiệu cho độc giả một chân dung truyện ngắn Đỗ Chu. Trong bài nghiên cứu này, Phan Cự Đệ phân tích sở trường và sở đoản trong truyện ngắn của Đỗ Chu. Bài nghiên cứu tập hợp các ý kiến đánh giá về Đỗ Chu cũng như phát biểu của các nhà văn xoay quanh vấn đề truyện ngắn và quá trình sáng tác, các bước chuyển mình, thay đổi của truyện ngắn Đỗ Chu. Phan Cự Đệ trân trọng xếp Đỗ Chu vào danh sách các nhà văn có “phong cách trữ tình” và phân hạng ông là học trò của Thạch Lam, Nguyễn Thành Long và C. Pautốpxki và A. Đôđê: “Đỗ Chu là một nhà văn viết truyện ngắn có phong cách – phong cách trữ tình. Nếu được phép nhân hạng thì ông là học trò của Thạch Lam, Nguyễn Thành Long (các nhà văn Việt Nam) và C. Pautopxki (nhà văn Nga) và A. Đô-đê (nhà văn Pháp). Phong cách trữ tình của Đỗ Chu tạo nên một kiểu văn xuôi giàu chất thơ.” Phan Cự Đệ phát hiện ra sở trường của Đỗ Chu : “ Có thể nói Đỗ Chu là nhà văn mạnh về trực giác”. Bởi lẽ Đỗ Chu “có cái nhìn đời tươi xanh, lãng mạn, thơ mộng, biết rung động trước những biến thái nhỏ nhất, linh diệu nhất của đời sống.” [23, tr.744] Vì thế khi đọc truyện ngắn Đỗ Chu, người đọc như được sống trong một không khí truyện đặc thù, cái không khí được tạo nên bởi cảm giác – cảm xúc rất mạnh của nhà văn. Điều này tạo nên sắc điệu, giọng điệu trữ tình của truyện ngắn Đỗ Chu. Ông cho rằng văn của Đỗ Chu “có vẻ dềnh dàng, nhấm nháp, nhàn tản, thiếu tính nhập cuộc” nhưng đó không phải là một nhược điểm mà là “một đặc điểm thuộc về “tạng” nhà văn”. [23, tr.744] Ông đi sâu phân tích “lối văn có nhịp điệu” của Đỗ Chu. Câu văn trong truyện ngắn Đỗ Chu “đan xen ngắn, dài làm cho câu chuyện được kể lại cũng “khúc khuỷu”, “nhiều nhánh rẽ” song vẫn có “sợi chỉ đỏ” xâu chuỗi. Đó chính là “cái tứ của truyện”. Phan Cự Đệ còn đi vào phân tích chứng minh kỹ thuật viết truyện ngắn của Đỗ Chu. Ông đánh giá “Đỗ Chu là cây truyện ngắn có nghề, hay nói cách khác nhà văn rất chú ý đến kỹ thuật truyện ngắn. Đỗ Chu khi viết truyện ngắn rất chú ý, dụng công tô đậm cái mở đầu và kết thúc. Bắt đầu từ việc tìm tứ, tìm cảm hứng tổ chức một “trận đánh”, làm sao tạo ra sức chứa và sức nổ ở kết thúc.” [23, tr.751] Chuyển sang thể loại tùy bút, trong những năm đầu của thế kỷ XXI, độc giả bàn tán nhiều về hai tập tùy bút Thăm thẳm bóng người và Tản mạn trước đèn của Đỗ Chu. Có khá nhiều bài viết, bài cảm nhận trên báo, tạp chí và mạng Internet khen chê về hai tập tùy bút này như bài viết của Hoàng Ngọc Hiến, Lý Hoài Thu, Thu Hà, Thạch Linh, Phan Huy Dũng, Nguyễn Hòa, Nguyễn La, Hà Khải Hưng, Tô Hoàng, Nguyễn Thanh Kim… Tuy nhiên đó chỉ là những cảm nhận, suy nghĩ mang tính cá nhân và tính tin tức thời sự. Tùy bút của Đỗ Chu chưa được đặt trong dòng chảy của tùy bút Việt Nam để phân tích, so sánh và tìm ra đặc trưng riêng. Đa số các tác giả đều cho rằng Đỗ Chu đến với thể tùy bút như một sự hối thúc tự nhiên để trải nghiệm vốn sống, vốn hiểu biết cùng những suy tư, trăn trở của mình trước sự đổi thay của đất nước, con người, cuộc đời và nghề văn…Đỗ Chu “hiểu rành rẽ từng khúc quanh của dòng sông văn học, lúc này đang chứng kiến một thời kỳ mới của sáng tác với rất nhiều bề bộn, lẫn lộn cái thực, cái giả chen nhau, cái đích thực và cái thời thượng xem ra không dễ phân biệt.” [22, tr.57] Phan Huy Dũng khi giới thiệu về Tập tùy bút Tản mạn trước đèn đã khen sự tài hoa, tinh tế trong văn phong Đỗ Chu: “Ta được gặp lại ở Tản mạn trước đèn vẫn một Đỗ Chu thời Hương cỏ mật, Mùa cá bột – người từng thể hiện rất tinh tế, tài hoa những cảm xúc ân tình ân nghĩa trong đời sống cộng đồng, đưa lại cho độc giả một cảm giác ấm áp, tin yêu. Thời thế bây giờ khác xưa khá nhiều, vậy mà vẫn giữ được phần lớn cách nhìn ấy và giọng văn ấy, xét ở một khía cạnh nào đó, có thể nói người viết tỏ ra rất tin ở mình hay nói cách khác là có bản lĩnh.” [22, tr.60] Phan Huy Dũng nhấn mạnh bản lĩnh văn hóa, những trăn trở về nghề văn và nghệ thuật của nhà văn: “Khi viết Tản mạn trước đèn, ông muốn đặt lại và tái khẳng định vấn đề trách nhiệm của nhà văn đối với vận mệnh đất nước, bản lĩnh văn hóa của người viết, sự cô đơn của nghệ sĩ trên hành trình đi tìm cái đẹp, sự tỉnh táo cần thiết của một nhà văn giữa muôn nẻo đường sáng tạo để làm sao thoát khỏi mê lầm.”[22, tr.57] Thạch Linh nhận thấy vốn sống văn hóa thâm sâu và lối viết tùy bút nhẹ nhàng, sâu lắng của Đỗ Chu : “Đỗ Chu giấu cả trong mình một kho văn hóa dân gian, bác học, lịch sử, huyền tích, cái trông thấy và cái nghe thấy, cái sống và cái ngẫm, trộn tất cả vào mình rồi rút ra bằng những câu văn như kể chuyện mà như tâm sự, giãi bày, khiến cho những điều ông nói ra được đọng lại day dứt, ngậm ngùi, có cả những điều khó nói cũng được ông nói ra nhẹ nhàng, sâu lắng.” [52] Về phương diện nghệ thuật, Hà Khải Hưng khi nhận xét về tập Thăm thẳm bóng người đã khẳng định vẻ đẹp ngôn ngữ và phong cách trữ tình đằm thắm trong các trang tùy bút của Đỗ Chu: “Ngoài việc cài cắm được nhiều thông tin văn hóa, xã hội…, ông còn chú trọng đến những khoảng lặng của cảm xúc và đặc biệt rất chăm chú đến vẻ đẹp và sức bật của câu văn”. [41] Ông nhận ra tạng cảm xúc “vừa trữ tình lại vừa hóm hỉnh”. “Giọng kể của tác giả sắc mà vẫn ngọt, có chỗ lem lém, cả cười nhưng cũng lắm chỗ chạnh buồn, chua chát…kết hợp nhuần nhị chất văn lẫn chất báo.” [41] Đỗ Đức đánh giá cao sự “sắc sảo” trong văn phong Đỗ Chu qua tập Thăm thẳm bóng người. Đó là lối văn thanh thoát, nhẹ nhàng nhưng cũng không kém phần sang trọng : “Một lối viết mới mẻ, thanh thoát và đầy tự tin, rất vững vàng như thể người luyện võ nay đã đạt tới bậc vô chiêu”. Và Thăm thẳm bóng người là một tác phẩm thăm thẳm tình người. Sắc sảo đến độ, đằm thắm đến độ, giản dị thế và sang trọng thế.” [24, tr.9] Nguyễn Hòa trong bài nghiên cứu Văn chương – hy vọng về những điều tốt đẹp đã ca ngợi văn phong Đỗ Chu như sau : “Văn Đỗ Chu viết kỹ, đẹp cả về giọng điệu lẫn những suy tưởng nhân tình.” [36] Lối viết văn mượt mà, nhịp điệu câu văn khoan thai được Nguyễn Hòa ca ngợi: “Đoạn văn nào cũng đầy ắp chi tiết, phập phồng hơi thở đời sống, chốc chốc tác giả lại chêm vào đó cái nhìn sắc sảo, những câu đúc kết dẫu chưa phải hoàn toàn là chân lý thì cũng rất khoáng đạt, độc đáo…Đặc biệt là, dẫu chủ đề có lan man, song tiết tấu câu văn vẫn luôn rộn ràng, cuốn hút người đọc.” [41] Bên cạnh đó, Nguyễn Hòa cũng chỉ ra nét hạn chế trong lối văn miên man dàn trải dễ gây nhàm chán cho người đọc : “Tùy bút Đỗ Chu “thường được mở đầu một cách “chật vật” với những luận đề dài dòng, khô khan, dễ làm người ta ngại đọc.” [36] Nhìn chung, truyện ngắn và cả tùy bút Đỗ Chu đều có những điểm mạnh, điểm yếu riêng. Người đọc khen cũng nhiều và chê cũng không ít. Song cái chê cũng nhẹ nhàng vì theo họ đó thuộc về “tạng” nhà văn, là đặc trưng riêng trong phong cách. Tuy nhiên tựu trung lại vẫn thấy thống nhất ở một điểm: dù là truyện hay tùy bút thì đều thể hiện một văn phong trữ tình, đằm thắm, câu văn đẹp và chuẩn mực. Tuy nhiên, những bài viết, bài nghiên cứu vừa trình bày trên một số mang tính nhận định khái quát, hoặc riêng lẻ một tập truyện hay một tập tùy bút nào đó, hay công phu hơn là đã đi vào nghiên cứu mảng truyện ngắn như Lê Hương Thủy, Thanh Tú và Phan Cự Đệ. Thật sự vẫn chưa thấy những công trình nghiên cứu đi vào khảo sát các đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu trong một thể thống nhất. Người viết lựa chọn đề tài Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu nhằm tìm ra đặc điểm nội dung, nghệ thuật và dấu ấn riêng của một cây bút văn xuôi cũng ít nhiều có đóng góp vào nền văn học nước nhà qua gần nửa thập kỷ qua. IV. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Luận văn tập trung tìm hiểu truyện ngắn và tùy bút của Đỗ Chu với mong muốn góp phần khẳng định giá trị đặc sắc của mỗi thể loại đồng thời góp phần đi tìm đặc trưng nghệ thuật của Đỗ Chu trong dòng chảy của văn xuôi Việt Nam hiện đại. V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong phạm vi đề tài này, người viết sử dụng phương pháp hệ thống – cấu trúc, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so sánh. Trước hết chúng tôi tổng hợp các công trình hoặc các bài nghiên cứu có liên quan đến vấn đề đặc trưng văn xuôi nghệ thuật của Đỗ Chu. Sau đó thu thập những bài phê bình, nghiên cứu trên các sách, báo có đề cập đến cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Đỗ Chu, đặc biệt lưu ý đến những bài viết đánh giá các phương diện nội dung và nghệ thuật truyện ngắn của nhà văn.Trên cơ sở đó người viết đi vào khảo sát, nghiên cứu và giải quyết các vấn đề đã đặt ra theo quan điểm của mình một cách khách quan, nghiêm túc. Phương pháp phân tích – tổng hợp được sử dụng nhằm cụ thể hoá, sau đó khái quát hóa các nội dung của vấn đề đã nêu. Người viết sử dụng các cơ sở lý luận về phong cách nghệ thuật, đặc điểm truyện ngắn và tùy bút nói chung làm nền tảng vững chắc cho việc phân tích các tác phẩm cụ thể. Phương pháp so sánh được vận dụng để đối chiếu đặc trưng văn xuôi Đỗ Chu với đặc trưng của những nhà văn khác cùng thời hoặc ở các giai đoạn văn học trước trong nước và cả thế giới. Phương pháp này giúp người viết có cái nhìn toàn diện về mặt tích cực và hạn chế, đổi mới hoặc chưa đổi mới của tác phẩm Đỗ Chu so với các tác phẩm khác. Phương pháp hệ thống quy định nghiên cứu các phương diện của đặc trưng văn xuôi Đỗ Chu như là một chỉnh thể nghệ thuật, có sự tương tác, có mối quan hệ logíc. VI. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Luận văn bao gồm 3 chương : Chương 1: Sự nghiệp sáng tác và quan niệm về văn học của Đỗ Chu Chương 2: Đặc trưng truyện ngắn Đỗ Chu Chương 3: Đặc trưng tùy bút Đỗ Chu Chương 1: SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC VÀ QUAN NIỆM VỀ VĂN HỌC CỦA ĐỖ CHU 1.1 Đôi nét về con người và sự nghiệp sáng tác của Đỗ Chu Phong cách nhà văn được hình thành, vận động và phát triển một phần do thế giới quan, môi trường sống, bối cảnh lịch sử xã hội. Phong cách được hình thành trên cơ sở tài năng và cũng do quá trình nỗ lực không ngừng của nhà văn trong lao động nghệ thuật. Tìm hiểu về con người và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Đỗ Chu là điều cần thiết góp phần khẳng định đặc trưng văn xuôi nghệ thuật và phong cách của ông. 1.1.1 Con người Nhà văn Đỗ Chu tên thật là Chu Bá Bình, sinh ngày 05 tháng 02 năm 1944 tại phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang. Ông đến với truyện ngắn từ khi còn là học sinh trường phổ thông trung học Hàn Thuyên (Bắc Ninh). Đỗ Chu là người không hợp trường quy, từng trượt tốt nghiệp phổ thông. Năm 1962, ông gây xôn xao dư luận với các truyện ngắn đầu tay. Những năm 60 của thế kỷ XX, Đỗ Chu là lính cao xạ thuộc quân chủng phòng không – không quân. Năm 1965, Đỗ Chu học khóa II, Trường Bồi dưỡng viết văn của Hội nhà văn Việt Nam. Ông được kết nạp vào Hội nhà văn năm 1971. Từ năm 1975, ông chuyển ngành, công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam. Văn Chinh nhận xét Đỗ Chu là người có “cái dáng lênh khênh mà tự tin, lắm lời mà không nhảm”. [7] Phạm Thị Minh Thư thì nhận xét Đỗ Chu rằng : “Kiêu hãnh, biết mình, nhưng lại cũng rất …biết người.”[84, tr.92] Đỗ Chu là người phóng túng, cũng thuộc típ người chịu giao du, “lênh phênh”, ít chịu trói buộc bởi những quy ước thuần túy nhưng lại bị cột chặt bởi những đạo lý làm người. Khi giảng bài cho học trò ở trường viết văn Nguyễn Du, ông đã mạnh miệng tuyên bố : “Nhưng bí quyết là cái gì nhỉ? Không có bí quyết viết truyện ngắn hay. Nếu có người ta đã dùng cho người ta rồi.” Sau đó thầy trò kéo nhau về ký túc xá nhâm nhi rượu và tán gẫu chuyện đời. [7] Trong con mắt đồng nghiệp, Đỗ Chu thông minh đến mức văn hóa như tự thấm vào người. Những năm tháng làm lính pháo cao xạ và cả những chuyến đi thực tế khắp các nẻo đường đất nước đã giúp cho một con người “ưa hoạt náo” như Đỗ Chu tích tụ được vốn sống và vốn tri thức phong phú. [41] Đỗ Chu đã từng “lội vào những cánh đồng và những cánh rừng, sống với nhân dân, cùng mọi người lo toan bàn bạc. Anh về thăm đình, thăm chùa, đọc văn bia, câu đối, trò chuyện với các cụ già và trẻ thơ. Lên rừng xuống biển, vào Nam ra Bắc, chán thì ra nước ngoài.” [48] Đi nhiều, biết nhiều và viết cũng không ít, cho nên bạn bè đồng nghiệp cho rằng Đỗ Chu là một con người “bận rộn”, bận rộn trong sự nhàn tản. Vốn dĩ con người ham la cà như ông lại chịu đọc, chịu ngẫm ngợi. Vì vậy có lần Nguyễn Khải, bậc đàn anh Đỗ Chu phải tặc lưỡi cười xòa mà khen rằng : “Cứ ngồi một chỗ, sao cái gì cũng biết thế.” [84, tr.92] Cái vốn sống, vốn hiểu biết mà ông thu nạp trong xô bồ của cuộc sống được ông chuyển hết vào trong sáng tác của mình, đặc biệt là những trang tùy bút viết trong thời kỳ đất nước đổi mới và hội nhập. Độc giả sẽ bắt gặp những nguồn tri thức cổ, kim, đông, tây kết hợp một cách nhuần nhị trong hai tập Tản mạn trước đèn và Thăm thẳm bóng người. Đỗ Chu là người có tài biện thuyết. Ông nói nhiều, đủ thứ chuyện trên đời nhưng nói rất hay, đâu ra đấy, không ai có thể bắt bẻ được. Hơn nữa ông là người có trí tưởng tượng phong phú, nói gì cũng hớp hồn người khác. Đỗ Chu cũng là người lắm tài, ngoài viết văn, ông còn biết vẽ tranh và khá “sành” thơ. Tuy không sáng tác thơ nhưng ông có năng lực tinh tế khi cảm nhận thi ca. Chất thơ và họa này đã tự nhiên thấm vào các trang viết của ông, tạo nên một phẩm chất đặc biệt. Điều này lý giải tại sao những trang văn của ông thấm đẫm tính nhạc và họa. Đỗ Chu là người khiêm nhường, thích sống tĩnh lặng để ngẫm ngợi và sáng tạo. Trước những khen chê của người đời, ông chỉ giữ thái độ im lặng. Ông từng phát biểu rằng : “Lặng lẽ âm thầm, cô đơn được thì càng tốt. Và đôi khi mình phải chấp nhận để người ta quên mình đi. Nhà văn không phải diễn viên.” [48] Ông tuyên bố rằng mình không thích sự ầm ĩ. “Nhiều anh thích ầm ĩ quá, trong khi sự tự vượt mình chỉ có thể làm được trong im lặng sống và sáng tạo.” [Nguyễn Thanh Kim, Nguyễn Thanh Kim, Nhà văn Đỗ Chu – Không thích sự ầm ĩ, Báo tiền phong] Và ông cũng khá thẳng thắn khi đánh giá về tác phẩm của mình “Viết nhiều, tất nhiên không phải cái nào cũng hay, nhiều cái đúng là rất nhạt nhẽo, lại còn nhuốm màu cải lương nữa.” Song ông cũng tự an ủi chính mình : “Nhưng cũng có đôi cái đọc được, thôi thế là đã mừng lắm.” [75, tr.158] Những năm 60 của thế kỷ XX, Đỗ Chu đã tạo nên tên tuổi trên văn đàn. Nhưng giới văn nghệ tin rằng thời Đỗ Chu đã hết khi nền văn học mà ông đóng góp những năm 60 đi vào đổi mới những năm 80. Có lẽ Đỗ Chu đã lặng lờ trong những năm bản lề của hai thập kỷ vừa qua. Thật may là ông đã trườn qua sự nổi tiếng cũ mà không đánh mất mình. Ông vẫn kiên trì với phong cách văn chương thiên về duy cảm và duy mỹ. Vẫn một văn phong trữ tình, đằm thắm với nhịp điệu khoan hòa, trầm tĩnh, hướng về đời sống xã hội, con người, đặc biệt là những người lính. Đỗ Chu từng tâm sự : “Có lẽ trong 40 năm cầm bút thì chỉ có độ 4 tháng hay 4 năm là nhà văn thôi.” [92] Là người khó tính lại cầu toàn, ông tự nhận : “Trong một tác phẩm có khi đoạn trước là nhà văn nhưng lúc sau lại không còn là nhà văn nữa.”[92] Các sáng tác của Đỗ Chu, đặc biệt là tùy bút Tản mạn trước đèn hay Thăm thẳm bóng người đều thể hiện rất rõ những yêu ghét rạch ròi của ông. Dù là truyện ngắn hay là tùy bút, người ta đều thấy một Đỗ Chu cẩn trọng và có trách nhiệm với những gì mình viết ra. Dù là một câu chuyện tếu nhưng câu chuyện ấy sử dụng vào mục đích gì và đọc xong khiến người ta nghĩ gì cũng là điều khiến Đỗ Chu phải cân nhắc. Từ khi 16 – 17 tuổi cắp bút theo hầu các cụ Nguyễn Tuân, Tô Hoài, ông đã được dạy là phải viết cho ra viết, trên những câu chuyện rất._. bình dị trong cuộc sống chiến đấu cũng là bài học được ông rút ra cho mình hằng ngày. “Khi tuổi còn trẻ chẳng nói làm gì, nhưng khi về già có định làm cái gì cũng phải kín đáo, trù tính trước sau. Một khi hơi thở đã nhẹ như rùa thở, không còn gấp gáp mạnh mẽ được nữa thì đứng trước mọi việc định là nhớ là phải hết sức thong thả, hết sức gượng nhẹ.” [92] Mạch nguồn để Đỗ Chu sáng tác chính là tình yêu tha thiết mảnh đất quê hương và người mẹ của tác giả, như ông từng tâm sự : “Tổ quốc của tôi, những thiếu nữ mắt đen, tóc đen biển xanh, trời xanh, đất nâu và gió mùa. Nhưng yêu quý hơn cả là mái tóc điểm sương của các bà, các chị. Tôi nhìn vào những mái tóc ấy để sống, để nghĩ ngợi, để viết và để vẽ. Người tôi biết ơn hơn hết là mẹ. Nơi gần gũi tôi nhất là Hà Nội. Tiếng tôi hiểu nhất là Tiếng Việt. Cám ơn cha mẹ đã cho tôi sinh ra để làm một nhà văn của xứ sở này.” [75, tr.158] Chính mạch nguồn này đã chi phối đến các sáng tác của Đỗ Chu. Nó khiến những trang viết của ông đậm tình quê, tình người. 1.1.2 Sự nghiệp sáng tác Đỗ Chu bắt đầu sáng tác từ những năm sáu mươi. Đây là giai đoạn đất nước chuyển từ hòa bình sang chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Văn xuôi tập trung phản ánh công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc, và cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ đang ngày một leo thang ở Miền Nam. Nhìn chung văn xuôi giai đoạn này bám sát từng biến cố lịch sử, từng bước phát triển của phong trào cách mạng. Đề tài các văn sĩ tập trung phản ánh là công – nông – binh. Quan niệm lý tưởng hóa về hiện thực khiến các tác phẩm những năm 1960 đến 1975 nhuốm màu sắc lý tưởng. Đó là một thứ hiện thực được vận động theo khuôn mẫu, tất yếu, hợp lý và lạc quan. Những năm 1960 – 1963, hàng loạt cây bút truyện ngắn ra đời, mỗi người một vẻ. Vũ Tú Nam muốn tìm vào mạch truyện dân gian thơm thảo, giản dị, trong khi Nguyễn Quang Sáng không ngại những chuyện kịch tính, gay cấn. Nguyễn Khải là một ngòi bút cũ nhưng vẫn lạ và đầy sức hấp dẫn. Một Nguyên Ngọc trong sáng và cổ điển trong Rẻo cao, một Nguyễn Ngọc Tấn ấm áp, trữ tình với Trăng sáng, Đôi bạn. Làm cho ta biết rung động với những điều tinh tế, đó là Hải Hồ, Bùi Đức Ái, Huy Phương và Nguyễn Thành Long. Vũ Thị Thường là tiếng nói của một phụ nữa nông thôn mới, chưa từng nghe trong văn học giai đoạn trước. Đây là khoảng thời gian văn học khoe sắc, có nhiều cây viết rất sung sức mang lại một khối lượng tác phẩm dồi dào và đặc sắc. Từ 1964 trở đi, tiếng súng chống Mỹ vang lên, những biến chuyển thời cuộc khiến văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng đổi khác. Thực tế chiến tranh thật có sức tác động mạnh mẽ đến tầng lớp văn nghệ sĩ. Ngòi bút của họ hướng vào khai thác hiện thực khốc liệt của cuộc chiến. Bên cạnh nguồn mạch đó, còn có những truyện ngắn mang những nét vẽ thơ mộng, mềm mại làm cho bức tranh chung thêm màu sắc. Mùa cá bột, Phù sa, Ráng đỏ của Đỗ Chu viết trong giai đoạn 1963 – 1970 làm nên một mạch truyện trữ tình. Nó như một thứ hồi quang của truyện ngắn những năm 1964 trở về trước còn sót lại. Các sáng tác ấy gợi lên cái bỡ ngỡ của những ngày đầu chiến tranh. Cái khốc liệt vẫn chưa hiện lên đủ hình dạng nên các nhà văn “lý tưởng hóa” hiện thực. Ấp ủ trong lòng bao vẻ đẹp, mơ ước và những khoảng trời riêng. Đó cũng là trường hợp của nhà văn Nguyễn Minh Châu với tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng. Có thể nhận thấy trước năm 1975, Đỗ Chu thành danh với thể loại truyện ngắn. Tác phẩm đầu tay có tên là Ao Làng, được in vào số 12 năm 1962 trên báo Văn nghệ quân đội. Trong lá thư ngắn gọn gửi theo đường bưu điện, nhà văn Nguyễn Minh Châu khen : “Ao làng hay, anh hãy viết tiếp gửi cho chúng tôi lấy vài cái, càng sớm càng tốt.” [20, tr.5-tr6] Sau đó Đỗ Chu đã viết truyện ngắn Hương cỏ mật trong một hoàn cảnh khá đặc biệt. Mùa đông năm 1962, một đêm rét, ngoài đường gió lùa lá cây dào dạt, trong nhà đàn muỗi vo ve, trên căn gác xép ọp ẹp ở một dãy phố nghèo và buồn của thị xã Bắc Ninh thưở ấy, Đỗ Chu đã ngồi thu lu bên một chiếc kỹ cổ xưa để viết tác phẩm này gửi về Tạp chí Văn nghệ quân đội. Năm đó ông 18 tuổi, đang còn là một cậu học trò lớp 10 hệ phổ thông mười năm, trường ấp III Hàn Thuyên. Thi cử đến nơi rồi mà học hành thì còn quá chểnh mảng, ở trường về là leo tót lên ngồi ôm lấy cái kỹ gỗ vàng tâm, ngồi đấy mà đọc sách, tập dịch “Dã thảo” của Lỗ Tấn và rồi bỗng một hôm nổi hứng cầm bút viết văn. Hương cỏ mật được giới thiệu trên số tháng 3 năm 1963 báo Văn nghệ quân đội và được xếp vào những truyện dự thi. Đến lúc ấy Đỗ Chu mới biết là đang có một cuộc thi truyện ngắn. Cuối năm, Đỗ Chu được mời về nhận giải thưởng Truyện ngắn hay của tạp chí . Lúc này Đỗ Chu đã nhập ngũ được vài tháng, là binh nhì Bộ đội phòng không. Cũng trong năm đó, trên báo Văn nghệ quân đội, sau Hương cỏ mật, Đỗ Chu đã kịp có thêm hai sản phẩm nữa, đúng như lá thư nhà thơ Nguyễn Minh Châu hẹn hôm nào. Một truyện là Thung lũng cò, là quà tháng 6 dành cho các em nhỏ quê nhà. Một truyện là viết để tạ ơn những người đã ngã xuống vì nền tự do dân tộc, vì hạnh phúc thường ngày của những ai đang còn sống. Truyện có cái tên khá thơ mộng Mùa cá bột. [20, tr.6-tr7] Sau tập Hương cỏ mật in chung cùng hai tác giả Trúc Hà và Văn Ngữ, đến năm 1967, Đỗ Chu đã cho ra đời tập Phù sa. Vài năm sau khi tập sách ra đời, những truyện ngắn in trong này đã lần lượt được dịch qua nhiều tiếng nước ngoài và được độc giả háo hức đón đọc. Bởi lẽ những truyện ngắn của Đỗ Chu đã phản ánh được tâm tư, tình cảm của thế hệ trẻ lúc bấy giờ. Họ mong đợi và trân trọng tài năng của ông vì đã mang đến một tiếng nói tươi tắn, mới lạ, phản ánh những ước ao, khát vọng của lớp lớp thanh niên trẻ trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Sau những thành công của bước đường khởi nghiệp với tập Phù sa, Đỗ Chu đã có một khoảng lặng khá dài. Ông chưa có sự đột phá khỏi bức tường thành cũ. Độc giả bắt đầu thấy nuối tiếc cho một Đỗ Chu thời Hương cỏ mật, Mùa cá bột, Thung lũng cò, Ráng đỏ… Nhiều người cho rằng sau cái huy hoàng của thời kỳ ấy do cái tâm thế uể oải thời cuộc mà phôi thai nên hàng loạt tác phẩm “trung bình” sau đó. (chữ dùng của Phạm Thị Minh Thư) [84, tr.94] Tập truyện ngắn Trung du (1967) viết trong thời gian này không gây chú ý cho người đọc. Những dấu hiệu đổi mới chỉ bắt đầu nhóm lên ở tập Tháng Hai (1969) và Gió qua thung lũng (1971). Năm 1973, Đỗ Chu tiếp tục ra mắt độc giả bằng cuốn tiểu thuyết dày 237 trang với tên gọi Đám cháy trước mặt. Cú thử sức với thể loại tiểu thuyết này là một sự thất bại của Đỗ Chu. Tiểu thuyết của ông không gây tiếng vang. Nó nhanh chóng chìm vào quên lãng khi đặt bên cạnh các tiểu thuyết mang tính thời sự nóng hổi của Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Thi, Nguyễn Quang Sáng, Nguyên Ngọc… Văn Chinh đánh giá :“Đỗ Chu nổi tiếng khoảng hai mươi năm kể từ khi ông xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1962 trên báo Văn nghệ quân đội, nhưng thực sự xao xuyến văn đàn thì được khoảng 10 năm, từ 1965 – 1975” [7] Sau năm 1975, Đỗ Chu lại giấu mình trong im lặng. Chỉ sau đó mười năm, hòa với không khí hòa bình và đổi mới của đất nước cũng như văn học, ông cho ra đời tập tùy bút Những chân trời của các anh (1986). Tuyển tập này tập hợp các bài viết từ những năm đất nước mới giải phóng cho đến khi cả nước bắt tay xây dựng cuộc sống mới. Nó như một bản anh hùng ca, ca ngợi những người lính đã làm nên lịch sử. Tập tùy bút còn là hình ảnh cuộc sống đang đổi thay từng ngày như những mầm non đang đâm chồi, nảy lộc khi xuân về. Truyện ngắn là thể loại tạo nên tên tuổi và chỗ đứng của ông trên văn đàn những năm chống Mỹ cứu nước và khi hòa bình lập lại. Nhưng giai đoạn sáng tác thể hiện sự bứt phá, làm mới của nhà văn chỉ bắt đầu từ Mảnh vườn xưa hoang vắng (1989). Tập truyện ngắn này được bạn đọc và giới nghiên cứu phê bình đánh giá cao ở cái khả năng đi sâu phản ánh hiện thực ngay trong chính bản chất của nó. Điều mà những sáng tác trước năm 1975 của Đỗ Chu còn khuyết. Chính tuyển tập này đã khẳng định dấu ấn phong cách của một cây bút truyện ngắn đặc sắc trong nền Văn xuôi Việt Nam hiện đại. Phải chăng khi người ta đã quên một Đỗ Chu tài hoa rực sáng thì lộ trình sáng tác của ông mới bắt đầu. Và nó là giai đoạn chính yếu khẳng định bản lĩnh, phong cách của ông. Chính sự nỗ lực đổi mới này mà Mảnh vườn xưa hoang vắng cùng với Hương cỏ mật và Phù sa được chọn trao giải thưởng Nhà nước về Văn học – nghệ thuật năm 2001. Tiếp nối nguồn mạch hiện thực và triết lý về đời sống, Đỗ Chu tiếp tục trình làng tập truyện ngắn Một loài chim trên sóng năm 2002. Tuyển tập này được đánh giá ở sự chín muồi và sắc sảo trong tài năng của Đỗ Chu. “Với Một loài chim trên sóng, Đỗ Chu đã đi từ tài hoa của thời Hương cỏ mật đến tài năng của thời văn học đa giọng điệu.” [7] Do đó năm 2004 nhà văn đã vinh dự được nhận Giải thưởng Văn học Asian. Như một sự hối thúc tự nhiên, Đỗ Chu tìm đến thể tài tùy bút. Tản mạn trước đèn trình làng vào năm 2005 và được các độc giả quan tâm đón nhận. Bước trở lại với thể tài tùy bút này đã khiến Đỗ Chu vinh dự nhận giải thưởng của Hội nhà văn vào năm 2005. Vào tháng 1 năm 2008 này, với tinh thần “thừa thắng xông lên”, ông tiếp tục cho ra mắt bạn đọc tập tùy bút Thăm thẳm bóng người có độ dày trên 300 trang. Nó khiến độc giả bị cuốn vào sự miên man, thăm thẳm của cõi lòng tác giả. Trên bốn mươi lăm năm cầm bút với 7 tập truyện ngắn, 1 tiểu thuyết, 3 tập tùy bút, không thể nói là ít mà cũng không nhiều đối với một văn nghiệp. Tuy nhiên với tài năng và cả sự nỗ lực vươn lên của mình, Đỗ Chu đã khẳng định vị thế của ông trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Giới nghiên cứu và độc giả công nhận nhà văn thuộc dạng viết ít nhưng văn chương thuộc loại “tinh”. Đến như Tô Hoài, một trưởng lão trong làng văn, vốn rất kiệm lời khen đã phải hạ bút viết : “Lớp sau hòa bình, Đỗ Chu, Triệu Bôn, Lê Lựu, Lê Minh Khuê hay, có không khí.” [58, tr.10] 1.2 Truyện ngắn và tùy bút của Đỗ Chu 1.2.1 Truyện ngắn Trước 1975, Đỗ Chu cho ra đời hàng loạt tuyển tập truyện ngắn như Hương cỏ mật (1963), Phù sa (1966), Trung du (1967), Vòm trời quen thuộc (1969), Gió qua thung lũng (1971). Ở những tuyển tập đầu tay như Hương cỏ mật và Phù sa, Đỗ Chu viết về những vùng quê thanh bình và yên ả với nếp sống nền nã của người dân quê chân chất. Bên cạnh đó, ông còn cho thấy “sở trường” của một cây bút viết rất hay, rất chân thật, tự nhiên những tình cảm ấm áp, nghĩa tình của con người. Dường như Đỗ Chu hóa thân vào hầu hết các nhân vật để thể hiện một cái tôi đầy xúc cảm, yêu đời và nhạy cảm trước cuộc sống. Chính sự nhạy cảm trong tâm hồn người nghệ sĩ – người lính mới lớn khiến những trang văn của ông lấp lánh vẻ đẹp của thiên nhiên, con người và cuộc sống. Bên cạnh những cây bút văn xuôi phản ánh công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và các mối quan hệ gia đình, xã hội mới thì những trang văn của Đỗ Chu như một dòng suối mát lành. Cái trong trẻo, ngọt lịm của dòng suối ấy khiến người đọc cảm thấy say mê, thích thú. Ông viết về thế giới trẻ thơ hồn nhiên, đầy ắp kỷ niệm (Thung lũng cò, Hương cỏ mật), những tình cảm yêu thương, gắn bó giữa người và người hồn hậu, ăm ắp đầy như phù sa mỗi ngày một bồi đắp thêm cho sông bãi (Mùa cá bột, Phù sa, Chiến sĩ quân bưu)… Những tuyển tập sau như Trung du, Vòm trời quen thuộc, Gió qua thung lũng viết về những ngày chiến tranh chống đế quốc Mỹ. Nhưng khác với các cây bút văn xuôi đương thời tìm vào tuyến lửa phản ánh những khốc liệt của chiến tranh và sự sống – cái chết gần kề bên người lính. Đỗ Chu lại rẽ sang một nhánh sông nhẹ nhàng và êm ả hơn. Nhà văn viết về tâm hồn nghệ sĩ bay bổng, lãng mạn, tinh tế, nhạy cảm nhưng cũng đầy nhiệt huyết và tinh thần chống giặc ngoại xâm. Đỗ Chu ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, những nghĩ suy, trăn trở và thế giới tình cảm phong phú và nhạy cảm của họ. (Chiến sĩ quân bưu, Đường qua nhà, Ráng đỏ) Đặc biệt nhà văn hướng ngòi bút vào khai thác những tình yêu thơ mộng và lãng mạn của những người lính trong chiến tranh. (Chuyện mùa hạ, Tiếng vang của rừng) Phảng phất nét e ấp, nhẹ nhàng, trong sáng như phong vị của tình yêu trong các sáng tác của Thạch Lam. (Dưới bóng hoàng lan) Bên cạnh đó Đỗ Chu cũng có những trang văn miêu tả tình yêu đẹp và buồn có sức lay động lòng người hướng về những mất mát hy sinh do chiến tranh tàn khốc gây ra. (Ráng đỏ, Nhành quế) Không trực tiếp phản ánh hiện thực tàn khốc của chiến tranh, Đỗ Chu hướng ngòi bút vào việc ca ngợi những con người hậu phương giàu niềm tin và nghị lực. Họ đã cống hiến hết mình để chung tay xây dựng cuộc sống mới, góp phần chi viện cho tiền tuyến. Một số truyện ngắn viết về những chàng trai cô gái không ngại khó, ngại khổ đi khai mỏ, tìm quặng, hay bắt tay vào khôi phục những làng nghề truyền thống. (Người và Quặng, Khoảng xanh, Chuyện mùa hạ, Trong tầm súng, Gió qua thung lũng) Nhìn chung, giai đoạn trước 1975, thứ văn xuôi giàu chất thơ của Đỗ Chu chảy tràn trên từng câu chữ đã mang lại cho lòng người một thứ tình cảm ấm áp, tin yêu. Ta thấy trong hơi văn ông phảng phất nét cổ điển và lãng mạn của Môpatxăng, sự tinh tế tìm vào nội tâm và cảm giác của Thạch Lam, chút bâng khuâng, xa vắng của Thanh Tịnh, và nét u hoài, sầu cảm của Hồ Dzếnh, Xuân Diệu…Có thể thấy thứ văn xuôi giàu chất thơ của Đỗ Chu có cội nguồn tiếp nối từ những thế hệ nhà văn đi trước, cộng vào với tâm hồn nghệ sĩ đa sầu đa cảm của mình tạo nên một mạch nguồn riêng. Sau 1975, truyện ngắn Đỗ Chu có sự thay đổi lớn trong cảm hứng sáng tác, bút pháp và giọng điệu. Những truyện ngắn giai đoạn chuyển mình này cũng đã manh nha một sự đổi thay. Ngọn lửa, Mận trắng, Tháng hai, Mưa tạnh, Đất bãi sáng tác trong khoảng thời gian 1975 – 1985 cũng đề cập về người lính. Nhưng những người lính trở về từ trận chiến không còn nhìn cuộc sống với màu hồng lý tưởng. Họ chạm tay vào hiện thực và phát hiện ra những sự thật trần trụi, đau lòng. Trong các truyện ngắn này đã xuất hiện kiểu con người trăn trở, kiếm tìm, hoài nghi vào cuộc sống. Thật sự đổi mới cách nhìn hiện thực phải kể đến tập Mảnh vườn xưa hoang vắng. Đỗ Chu nhìn nhận ra bi kịch của những người lính bị đỗ vỡ niềm tin. Bức tranh tâm trạng của con người với các góc khuất của số phận được Đỗ Chu phản ánh rõ nét. Chất lãng mạn cách mạng ngày nào đã nhường chỗ cho đôi mắt nghiêm nghị, nhìn vào sự thật và nói thẳng sự thật. Đây là bước chuyển mình, tạo động lực cho tập truyện ngắn Một loài chim trên sóng ra đời. Tuyển tập này phản ánh cái muôn mặt của thời buổi cơ chế thị trường. Hầu hết là hình ảnh những người lính trở về. Đỗ Chu đặt họ vào bối cảnh lịch sử hoàn toàn mới để thấy rõ sự tác động dữ dội của hoàn cảnh lên tính cách và làm thay đổi số phận con người. Cũng như những cây bút truyện ngắn cùng thời khác, Đỗ Chu nỗ lực đi sâu khai thác bản ngã, chiều sâu nhân bản ở mỗi con người. Chính điều này khiến các truyện ngắn giai đoạn sau 1975 của Đỗ Chu không bị chìm lấp đi giữa muôn vàn những cây bút mới, lạ và độc đáo khác. 1.2.2 Tùy bút Bước vào thời kỳ đổi mới, tùy bút cũng phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu. Có thể nói tùy bút Việt Nam hiện đại đã tiến triển theo hướng ghi nhận thực tại cuộc sống ngày càng tinh tế, sắc sảo, giàu tính nhân văn và đậm đà bản sắc dân tộc. Nổi bật lên tên tuổi của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Băng Sơn với các vấn đề về lịch sử, văn hóa, các vấn đề đạo đức, thế sự…Vấn đề “nhà văn, nghề văn, nghiệp văn” được phản ánh trong tùy bút của các giàu cốt cách và bản lĩnh văn hóa như Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Văn Cao, Nguyễn Minh Châu… Đỗ Chu sáng tác tùy bút chỉ trong giai đoạn sau 1975. Tác phẩm đầu tay Những chân trời của các anh tập hợp 14 tác phẩm viết vào thời kháng chiến chống Mỹ và khoảng 10 năm sau ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Các đề tài về chiến tranh, cách mạng, lịch sử và dân tộc vẫn là mạch cảm hứng chính trong sáng tác của nhà văn. Tập tùy bút dành nhiều trăn trở, yêu thương và khâm phục những người chiến sĩ trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Họ là những người con của đất nước, dũng cảm trong chiến đấu, không ngại hiểm nguy, hy sinh. Tập tùy bút còn là hình ảnh cuộc sống đang đổi thay từng ngày với những con người nhiệt huyết, hăng say lao động, sản xuất. Cảm hứng sử thi thấm đượm trong từng trang viết. Do đó tùy bút Đỗ Chu giai đoạn này “đã cất lên một tiếng nói tươi tắn, mới lạ để kể lại những ước ao, khát vọng, cách sống của thế hệ mình.” [40] Sau tập tùy bút đầu tay này, ngót hai mươi năm sau, Đỗ Chu mới “trình làng” tập tùy bút Tản mạn trước đèn, gồm 15 sáng tác đầy suy tư và chiêm nghiệm. Cũng như tập tùy bút Những chân trời của anh, Tản mạn trước đèn là tâm thế của con người đã trải qua những biến động đổi thay của đất nước và bây giờ “chong đèn” ngẫm lại chuyện xưa, chuyện nay với những triết lý lớn về nhân tình thế sự. Bên cạnh những xúc cảm và nghĩ suy về các sự kiện trọng đại của đất nước, các vấn đề nổi cộm và cập nhật của xã hội hiện đại, tập tùy bút dành nhiều tậm huyết để viết về đất, về người, về văn chương nghệ thuật, về phẩm cách và tài năng của người nghệ sĩ. Cảm hứng thế sự là mạch nguồn chính tuôn chảy trên trang văn của ông. Sự xuất hiện trở lại với tập tùy bút dày công lực này cho thấy trách nhiệm của một người con với đất nước và chân dung một nghệ sĩ tâm huyết luôn trăn trở có được những trang viết hay dành tặng bạn đọc. Tuy nhiên, tập tùy bút này ít nhiều mang tính chính luận với những vấn đề mang tầm quốc gia đại sự, hoặc các vấn đề xã hội lớn lao. Tiếp nối mạch nguồn thế sự, Đỗ Chu cho ra đời tập tùy bút Thăm thẳm bóng người vào năm 2008. Đây là tác phẩm thể hiện độ chín muồi trong tài năng của nhà văn Đỗ Chu. Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã đánh giá Thăm thẳm bóng người là “một thành tựu” và cho rằng đây là “trang sách của người thắp lửa”. Đọc tác phẩm này “có một cảm giác thăng hoa như vừa được uống rượu quý”. [34] Vẫn tiếp nối đề tài về đất, về người, về trăn trở của nghề văn, nhưng tính triết lý nhẹ nhàng, gần gụi và thấm sâu hơn. Những bài học về đối nhân xử thế, về giá trị nhân văn cũng được khơi gợi một cách tự nhiên, thâm trầm và sâu lắng. Như Thạch Linh đã nhận xét : “Lối kể chuyện mà như tâm sự, giãi bày, khiến cho những điều ông nói ra đọng lại day dứt, ngậm ngùi, có cả những điều rất khó nói cũng được ông nói ra nhẹ nhàng, sâu lắng”. [52] Tập tùy bút chia làm ba phần. Phần đầu mang tên Hoa bờ giậu – một cái tên nghe thật mộc mạc, khiêm nhường nhưng mang ý nghĩa sâu xa, thấm thía về tình người. Đó là câu chuyện về những con người “vô danh tánh” nhưng có vẻ đẹp giản dị và sức sống bền bỉ như loài hoa bờ giậu. Phần hai của tập tùy bút là Thăm thẳm bóng người, tập hợp những bài viết về những cuộc đời, những con người xưa và nay, trong và ngoài nước, những vấn đề quá khứ và hiện tại với những triết lý và bài học thấm thía, sâu sắc. Nhà văn đau đáu đi tìm những bóng người thăm thẳm và nhận ra “Con người ta kể cũng lạ, cứ như hạt cải hạt vừng gieo đâu mọc đấy, ở đâu âu đấy..” [21, tr.146] Phần ba Về quê đốt lửa là góc đời thường của cuộc sống nơi quê nhà. Đỗ Chu đã từng thốt lên rằng: “Quê nhà yêu dấu bao giờ cũng là cội nguồn của mọi sáng tạo.” [21, tr.283] Bởi lẽ nơi ấy có những con người bình thường nhưng vĩ đại trong chiến tranh dựng nước và giữ nước. Nơi ấy còn là ký ức tuổi thơ không thể phai mờ. Đỗ Chu gửi gắm vào đấy những tình cảm chân thành và da diết đối với vùng quê Kinh Bắc sâu đậm nghĩa tình và giàu lòng nhân ái. Trong tâm thức nhà văn, Kinh Bắc không đơn thuần là quê hương, nó đã được nâng lên thành một tầm cao mới : Làng Việt: “Ôi cái làng Việt mới lạ lùng làm sao…Cái làng Việt luôn là một câu hỏi lớn của lịch sử”. [21, tr.333] Xuyên suốt qua ba tập tùy bút của Đỗ Chu, ta bắt gặp một ngòi bút đằm thắm và sâu sắc. Ông không có chất ngông như tùy bút Nguyễn Tuân, cũng không gợi buồn u uẩn như tùy bút Vũ Bằng, không tài hoa, lịch thiệp như tùy bút Hoàng Phủ Ngọc Tường….Tùy bút của Đỗ Chu dung dị, đôn hậu và trữ tình, xuất phát từ cái tâm trong sáng và trách nhiệm của người cầm bút. Ông muốn mang hết cái tình và chuyện đời mình, đời người gửi gắm vào trang sách chỉ cốt để “mua vui cũng được một vài trống canh”. 1.3 Quan niệm về nghệ thuật của Đỗ Chu 1.3.1 Quan niệm về sứ mệnh của nhà văn và nghệ thuật Có thể thấy Đỗ Chu là người nặng lòng với đời, với nghề. Ông là người có ý thức “lập ngôn” trong văn chương nghệ thuật. Đỗ Chu từng cho rằng trong văn chương, sợ nhất là nhạt. “Nhạt là căn bệnh khó chữa nhất của văn học”.Trả lời phỏng vấn trên báo, ông cho rằng người cầm bút phải sống thật với chính mình, “dốc tuột lòng mình” bấy giờ sẽ có những trang viết của nhà văn. Còn cứ phải phân vân, e ngại hay “chiếu cố” một điều gì thì sẽ không phát huy cái “tôi” sáng tạo của người viết. Văn chương vì thế mà mất đi cái phần hồn hậu và tự nhiên. Nói thật, viết thật hết những gì mình nghĩ là mục tiêu của những người cầm bút chân chính. Nhưng có lúc Đỗ Chu phải trăn trở, thú nhận : “Cũng thấy tiếc những năm tháng vừa rồi, giá cứ viết căng hơn một chút thì chất lượng trang sách nó sẽ nhiều hơn, nhưng khốn nỗi lại cứ phải gượng nhẹ…Mà bản thân mình nó có một con người cụ thể, mình đã nghĩ thế, đã sống thế, thì lại chưa động tới, hình như tôi vẫn giấu tôi.” [92] Đỗ Chu là người có ý thức về sứ mệnh của mỗi người cầm bút. Nhà văn phải tìm tòi, sáng tạo nên những tác phẩm có giá trị đích thực. Văn chương không dung nạp thứ chủ nghĩa trung bình, sống và viết phỉnh nịnh, giả dối: “Tôi thường nghĩ, sứ mệnh cao cả của mỗi nhà văn chính là việc sáng tạo nên những tác phẩm đóng góp một cách có hiệu quả vào quá trình lớn mạnh của nền văn học nước nhà. Ở đây không có chỗ đứng cho chủ nghĩa trung bình với đủ mọi thứ tầm thường của nó. Văn học lúc nào cũng phải là lời kêu gọi để Con người biết ngẩng lên nhìn xa về phía trước với đôi bàn chân luôn luôn bước. Chúng ta không được phép bằng lòng về những gì mình đã có, không được phép phỉnh nịnh mình một cách tội nghiệp, nhà văn không đồng nghĩa với một đám thơ lại ươn hèn.”[20, tr.8] Với ông, trách nhiệm của mỗi nhà văn trước cuộc sống là “phải biết đặt ra những câu hỏi lớn, chứ không phải lúc nào cũng hớt hải, léng phéng chạy đi tìm câu trả lời…Xã hội đặt cho anh nhiệm vụ đi tìm những câu hỏi nghiêm trang nhất, vì con người nhất.” [66] Đỗ Chu cho rằng nhà văn là người cô đơn trên hành trình tìm kiếm cái đẹp. “Càng viết càng thấy bơ vơ, càng thấy cô đơn” và “đây là cái bơ vơ trong lúc đi tìm kiếm, cái cô đơn không hề lẻ loi của một kẻ yêu chúng bạn và gắn bó thiết tha với nghề, nó là sự cô đơn pha chút kiêu ngạo. Nhà văn rất nên có những khoảng trống bơ vơ, để tự đẩy mình nhảy vào dòng xoáy của sự sáng tạo, thật sự là hết sức nhọc nhằn.” [66] Cả đời nhà văn Đỗ Chu đau đáu đi tìm cái đẹp của nghệ thuật. Cũng có lúc ông tự thấy như mình đã chạm đến được nó. Nó hiển hiện qua hình tượng của trái hồng kỳ bí. Tác giả đã “tự nhìn thấy” hình ảnh “một trái hồng treo lơ lửng, đỏ lựng như máu, đỏ như một nhát chấm phá xuất thần của họa sĩ tài năng trong một bức tranh ấn tượng… Nó rất đẹp, rất thảng thốt, khơi gợi…Trong vẻ đẹp của nó chứa đựng nhiều bất thường, nhiều vô lý và có lý, như chính nghệ thuật vậy. Vì vẻ đẹp ấy mà những người làm nghệ thuật nói chung và nhà văn nói riêng phải vượt qua và có thể vượt qua được nhiều điều.” [68] Điều đó lý giải tại sao truyện ngắn và đặc biệt là những trang tùy bút của Đỗ Chu luôn luôn thấy hình bóng của một con người đau đáu đi tìm một Bến sông Tương, đi tìm những nét đẹp vĩnh cửu của quá khứ….đã “vang bóng một thời”. 1.3.2 Quan niệm về sáng tác truyện ngắn và tùy bút Viết truyện ngắn, theo Đỗ Chu là một công việc rất thiêng liêng : “Một truyện ngắn hay có thể làm cho người ta cười lớn hoặc ứa nước mắt….Không biết có quá không, nhưng tôi cứ tự nhủ công việc viết truyện ngắn là rất thiêng liêng. Người ta bảo nhau đó là công việc khiêm tốn, mèo nhỏ bắt chuột con, lấy ngắn nuôi dài.”[…] Phần tôi, tôi từng viết những truyện ngắn đó bằng tất cả những gì vốn có trong mình. Dù là một truyện ngắn, anh tầm thường anh đi một chút, là mọi chuyện hỏng hết.” [11, tr.75] Đỗ Chu đã có lần bày tỏ quan điểm của mình về sáng tác truyện ngắn hay. Theo ông, một truyện ngắn được coi là hay phải là “cuộc gặp gỡ giữa người viết với người đọc, một cuộc gặp gỡ phút chốc nhưng để lại ấn tượng sâu đậm, làm cho người ta khó quên”. [11, tr.71] Sự cô đúc, sức chứa, sức nổ của truyện ngắn cậy nhờ rất lớn vào ngôn từ. Đỗ Chu là người rất dụng công. Đỗ Chu xác nhận : “Một phần những điều đó có thể làm được là nhờ ở ngôn ngữ, cái ma lực do ngôn ngữ tạo ra. Đây là một trong những cái thú của người viết truyện ngắn. Nhà văn phải chăm sóc tới từng chữ. Câu chữ phải trở nên như có nhung, có tuyết. Kể cả khi làm ra vẻ trần trụi, thì đó cũng là sự trần trụi được chọn lọc…”.[11, tr.71] Từ những câu chữ được trau chuốt kỹ càng đó, người ta còn có thể nghe thấy cả nhịp điệu: nhịp của từng phần và nhịp điệu của toàn truyện. Một nhà văn nước ngoài đã từng nói : “Viết văn là cảm thấy một nhịp điệu. Là tiến đến gần nhịp điệu ấy.”[11, tr.74] Đỗ Chu chưa một lần nói tới “phong cách”, mà chỉ lạm bàn về “bút pháp”. Mặc dù ngoại diên của từ “phong cách” bao quát hơn, hệ thống hơn. Đỗ Chu luôn trăn trở kiếm tìm một bút pháp riêng cho truyện ngắn của mình: “Có cái để nói rồi vẫn còn chưa đủ, lại còn phải nói bằng một cách như thế nào nữa. Bằng một bút pháp, một nội lực ra sao là cả một khó khăn gấp bội.[…] Cần phải tìm cho mình một bút pháp trước đây chưa ai từng có.” [11, tr. 71] Đỗ Chu thừa nhận mình là một ngòi bút viết truyện ngắn, định mệnh đã gắn mình với truyện ngắn. Nhưng cũng có lúc trăn trở vì cái thời viết “đằm thắm, có duyên” như Phù sa đã qua. Bây giờ ông đến với người đọc như một người bạn bình thường, nếu không nói là “vô duyên”. [chữ dùng của Đỗ Chu] Ông tâm sự rằng mình “đã nếm trải những vui buồn của một người trong nghề, cả những sung sướng đến chính mình cũng bất ngờ, những khi thành công, cả những đau xót cảm thấy những gì mình đang có, lại nhoài khỏi vòng tay mình, không sao gọi lại được nữa.” [11, tr. 71] Đỗ Chu đã từng tâm sự những truyện vừa trữ tình vừa hiện thực như Môpaxăng đã ảnh hưởng tới mình, làm nên cái mạnh cái yếu trong truyện ngắn của ông. Quan niệm văn xuôi của Đỗ Chu cho thấy rất gần với thơ: “Nhà văn mang cái nhạc chữ, nhạc ý tứ, nhạc tình cảm của bản thân mình để hát lên, góp phần làm đẹp cho cây đời.” [66] Khảo sát văn xuôi của Đỗ Chu sẽ thấy chất thơ tràn ngập trên từng trang văn. Có những giai đoạn văn học đến với ông thật đẹp. Bắt tay vào viết truyện ngắn, có truyện ban đầu chỉ đến với ông bằng một cái tên thơ mộng, thấy hay hay rồi liên tưởng ra nhân vật và cốt truyện. Có truyện chỉ bắt đầu bằng một khung cảnh. Do quá yêu một khung cảnh nào đó mà chắp bút “tình tang”. Nhưng cũng có truyện bắt đầu từ một vấn đề nghiêm túc, như khi bắt gặp một số phận nào đó trong đời sống. Với tác giả, thường “cốt truyện không thành vấn đề lắm” và cả nhân vật cũng vậy. Giữa nhân vật với tác giả , không có những phân biệt đáng kể. Ông không bám vào hiện tượng quan sát được, mà thường ướm mình vào nhân vật, huy động vai trò bản thân đến mức tối đa. Và do đó “mỗi truyện ngắn thường trở thành một mảnh của sự phân thân”. [11, tr.73] Đỗ Chu đánh giá rất cao vai trò của cảm hứng trong sáng tác. Văn mạch thung dung, tự nhiên được là do cảm hứng đưa đẩy. Nhưng thực sự với ông mở đầu một truyện ngắn bao giờ cũng khó khăn. Đôi khi nhà văn loay hoay mãi mới lần ra chữ, có ý có tứ rồi thì mới lần ra cả mạch truyện.Vậy nên ông đã chiêm nghiệm ra rằng : “Người viết truyện ngắn phải nuôi cho được trong lòng một cảm hứng chắc chắn, rõ ràng. Thứ cảm hứng rõ ràng đó phải được duy trì trong suốt thời gian làm việc.” [11, tr.74] Còn kết thúc truyện, theo Đỗ Chu “đó là một hành động dễ gây ra những xúc động đột ngột”. [11, tr.74] Để tạo ra những xúc động đột ngột phải là những kết thúc bất ngờ, những đoạn kết dang dở, khép lại truyện nhưng mở ra cả chân trời cảm xúc. Từ sau 1975, Đỗ Chu có cái nhìn khác hơn về vai trò của hiện thực, khả năng phản ánh hiện thực đời sống trong văn học. Ông đã phát biểu : “Cái chân đế của một tác phẩm là sự gắn bó với đời sống. Và tác giả cho rằng cần phải gia tăng độ đậm sắc của hiện thực trên những trang viết. Lối viết nương tựa vào ấn tượng chủ quan không gây hiệu quả nữa.” [11, tr.75] Hỏi về nguồn mạch hiện thực cho các sáng tác tùy bút, Đỗ Chu cho rằng : “Viết tùy bút, đi nhiều chưa quan trọng bằng đọc nhiều và nghĩ nhiều. Đi, có khi, thậm chí phải cần đi ít hơn một chút còn để thời gian mà đọc và ngẫm nữa.”[80] Nhà văn coi trọng nguồn mạch được tinh luyện qua trí tuệ và tài năng của nhà văn hơn là việc phản ánh, mô phỏng máy móc hiện thực. Đỗ Chu là người không dụng công tìm kiếm đề tài và thể loại. Trước sau nhà văn vẫn coi trọng yếu tố cảm xúc làm mạch nguồn dẫn dắt cái tứ cho chuyện của mình. Ông cho rằng “Tôi bây giờ không quan tâm đến hình thức khi viết. Ngay truyện ngắn tôi viết cũng đã thoát ra ngoài khuôn khổ.” [41] Vì thế có thể nhận thấy hầu hết truyện ngắn của Đỗ Chu có khuynh hướng vượt qua giới hạn của thể loại để tiến gần đến cách viết của tùy bút. Đặc điểm này giúp bộc lộ trực tiếp cái “tôi” trữ tình của tác giả và nhân vật “vai chính”. Sự hòa nhập, giao thoa giữa hai thể loại tạo cho văn Đỗ Chu một đặc trưng riêng. Dường như nhà văn đã tìm thấy hình hài thích hợp chuyển tải ý tình của mình. Vì theo ông, thể loại không là cái ông quan tâm. Đỗ Chu của truyện ngắn và Đỗ Chu của tùy bút không mấy khác nhau. Cái khác là ở nội dung cuộc sống miêu tả bên trong – như một lẽ tự nhiên. Đỗ Chu đến với tùy bút tự nhiên như khi đến với truyện ngắn những năm tháng tuổi trẻ, dường như chỉ đơn giản là viết ra những điều chất chứa trong lòng. Do quan niệm nghệ thuật như thế mà văn phong ông hồn hậu, tươi mát._.ách cá nhân của tác giả. Cái “tôi” trữ tình trong tùy bút được xem là một yếu tố chuyển tải chất thơ. Bởi vì nó trực tiếp bộc lộ thế giới cảm xúc của nhà văn – nhân vật trữ tình của tác phẩm. Đồng thời nó cho phép ghi nhận, nắm bắt mọi sắc thái của cuộc sống và tâm hồn con người trong sự tinh tế, nhạy cảm nhất. Có thể nhận thấy chất thơ thể hiện qua cái “tôi” của nhà văn, vẻ đẹp của ngôn ngữ và các thủ pháp nghệ thuật. 2.2.2.1 Cái “tôi” trữ tình của nhà văn Phan Huy Dũng nhận xét rằng các trang tùy bút của Đỗ Chu “thâm trầm, uyên áo và sâu xa.” [22, tr.61] Nó có thể “ám ảnh” người ta bởi tâm trạng người viết, bởi giọng văn, cách nghĩ, bởi một vài chi tiết mà khi hồi tâm lại cứ ngơ ngác không biết nó được viết ra từ đoạn nào, để làm gì? Có được điều này là do những trang tùy bút của Đỗ Chu miên man trong dòng cảm xúc của chủ thể trữ tình. Ta bắt gặp một cái tôi dạt dào cảm xúc, cái tôi hoài cổ và cái tôi ưu tư thời cuộc qua các trang tùy bút của ông. Cái “tôi” dạt dào cảm xúc thể hiện tập trung qua tập tùy bút Những chân trời của các anh. Đó là tâm trạng yêu thương, tự hào, hạnh phúc, ngưỡng vọng, căm hờn, đau xót…Một tập hợp cung bậc xúc cảm tề tựu ở đây. Nhân vật “tôi” kể về những sự kiện trọng đại của đất nước, về những chiến sĩ dũng cảm chiến đấu và hy sinh, về những người chung tay xây dựng cuộc sống mới, về những công trình vĩ đại của đất nước đang mọc lên….Từ đó nhà văn bộc lộ cảm quan của mình trước mùa xuân mới của dân tộc. Một lời ru cũng đủ sức làm lay động trái tim chàng trai đang hân hoan trước cuộc đời mới : “Những lời ru chỉ một lần thoáng nghe mà đủ sức đi vào lòng ta mãi mãi khiến ta cảm thấy đất dưới chân nóng bỏng, và khẩu súng vác trên vai bỗng trở nên nhẹ nhõm. Và lòng ta dịu mát, e ấp một niềm vui về một ngày mai đất nước nở hoa”. [14, tr. 97] Thêm một mùa xuân, lại thêm một tuổi đời, nhà văn Đỗ Chu bồi hồi nghĩ về trách nhiệm của mình đối với đất nước : “Tôi tự hỏi mình, anh đang ở tuổi bốn mươi, anh nghĩ gì về chính anh, nghĩ gì về đất nước? Nghĩ gì về những ngày đã qua và những năm tháng đang đến? Nghĩ gì về lẽ sống, về kiếp người, về cái có thể và cái không thể, cái hữu hạn và cái vô hạn, niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ, của anh và của nhân dân anh? [14, tr.105] Cái “tôi” hoài cổ thể hiện xuyên suốt qua các trang tùy bút của Đỗ Chu. Có thể nói Đỗ Chu là một con người vọng cổ. Không chỉ trong truyện mà cả tùy bút, các nhân vật của ông đều chất chứa một vùng thương nhớ về những ngày đã xa. Ta cảm nhận được tình cảm da diết và lâng lâng của tác giả khi hoài niệm về quá khứ: “Đêm mùa xuân dìu dịu hương cây, hương lá, dìu dịu những nỗi niềm, những ý tưởng, tôi bồi hồi tìm về tổ ấm, về với một mảnh vườn xưa thân ái của mình.” [14, tr.87], trong nỗi niềm bâng khuâng về tuổi thơ đã trôi qua : “Tuổi thơ tôi đang lùi xa dần theo năm tháng như chiếc thuyền nan đang khuất dần vào cõi vô cùng, đến một lúc sẽ như một cánh chim bay lẫn vào mây khói chỉ còn để lại cái bóng của nó trong sóng hồ, trong đáy một vũng nước đọng dưới lòng khe.” [21, tr.267] Thấp thoáng trong các trang tùy bút luôn là cái tôi hoài vọng về tuổi thơ, một tuổi thơ trong vắt như một giấc mơ cổ tích : “Đêm nằm trằn trọc khó ngủ, tôi mong sẽ có một lần được trở lại giấc mơ của tuổi thơ. Bà lão ngồi trong một mái lều dưới bóng cây đa cổ tích, mau mắn xếp những trái thị chín vàng lên mặt chõng, vó ngựa gõ dập dồn và chị Tấm từ sau khung cửa khoan thai bước ra trong xiêm áo ngày hội. Rồi bàn chân con gái ngượng ngùng ướm lên chiếc hài vương giả. Bóng chị đi ẩn hiện sau bờ giậu đầy bướm hoa, mùi thị chín ngào ngạt một vùng non nước”. [21, tr.19] Đặc biệt trong hai tập tùy bút Thăm thẳm bóng người và Tản mạn trước đèn. Cái “tôi” này thường biểu hiện tâm trạng ngậm ngùi, xót xa, nuối tiếc, hụt hẫng và ngỡ ngàng khi tìm lại các dấu vết xưa.Ta thấy bóng dáng một Đỗ Chu với cái tôi xê dịch, thích tìm về lối xưa, cảnh cũ. Đó là hình ảnh một thi nhân miên man đi tìm những bóng người, bóng cảnh thăm thẳm. “Lớn lên tôi có một thời thích lang thang trong nhiều xóm ngõ của làng Niềm để tìm dấu xưa, hay đứng ngẩn ngơ trước một cái cổng lớn có đắp chữ Nho làm Đại tự, có mảnh sân lớn lát gạch Bát Tràng, có ao sen, có hòn non bộ, có bóng hoàng lan, hỏi liệu đây có phải là nhà bà Hồng, bà Tuyết ngày xưa không, người ta lắc đầu bảo đây là nhà ông Phán Cư, con cháu giờ đang ở bên Pháp, bên Mỹ không thấy ai buồn về nhòm ngó nữa.” [19, tr.357] Đỗ Chu nhắc nhiều đến bến sông Tương. Bến sông ấy hóa ra là vẻ đẹp xưa mà một đời nhà văn kiếm tìm. Nó chỉ còn trong hoài niệm về quá khứ, hoặc trong thi ca xưa. Ta bắt gặp cái “tôi” tương tư một bến sông Tương thấp thoáng qua trang tùy bút của ông: “Đêm đêm trước đèn mình thức với mình, tôi vẫn mông lung đi tìm cái dòng Tương muôn thưở ấy. Tôi vẫn tin là đang có nó, nó vẫn đang chảy trong lòng đời sống dân tộc. Nó là dòng sông của thi ca, là tình yêu, là nguồn cảm hứng vô tận để chúng ta sống và sáng tạo, là nguồn trí tuệ đáng tin cậy nhất trong sứ mệnh dẫn đường.” [19, tr 272] “Gánh vàng đi đổ sông Ngô Đêm nằm mơ tưởng đi mò sông Tương” Suốt một đời nhà văn đi tìm sông Tương mà vẫn chưa gặp nó. “Ở vùng chúng tôi có tổng Tiêu Giang, lại có xã Tương Giang. Ngờ rằng sông Tiêu Tương nằm ngay chỗ ấy. Sen súng um tùm ven bờ tre, trong ruộng lúa, ao chuôm, đầm lầy. Có thể đấy là dấu vết của dòng sông cổ tích chăng. Đám trẻ thì bảo chẳng có sông Tương, nó ở bên Tàu, người già thì kể có sông Tương nhưng nó chỉ là một con ngòi nhỏ, hát mãi, kể mãi mà thành. Nhiều năm tôi đi xa, nhưng đi xa mấy rồi có lúc cũng phải quay về, mỗi lần trở về là lại một lần qua nơi ấy, là lại phải bận tâm nghỉ tới một dòng sông nay đã biến mất ngay trước mắt mọi người, từ lúc nào không hay.” [19, tr 264] Ta bắt gặp con người nặng nợ với vẻ đẹp xưa… Cái tôi ưu tư thời cuộc cũng thể hiện đậm nét qua các trang tùy bút Đỗ Chu. Nhà văn trầm mặc suy tư về các vấn đề lớn của đất nước, dân tộc. Tản mạn trước đèn là hình ảnh một con người ngồi dưới ngọn đèn mờ tỏ, trải lòng mình ra trang giấy. Ngọn đèn soi rõ tâm can con người. Nhân vật “tôi” ngẫm ngợi về cuộc đời, về dòng chảy thời gian với bao buồn vui của kiếp người: “Trong bóng những người thân có bóng ta, ta tìm thấy mình trong đó. Lũ trẻ lớn lên lại sẽ có buồn vui của riêng chúng, những bài hát của riêng chúng, còn ta vẫn đang có những bài hát của mình, một thời của mình.” [21, tr.168] Đỗ Chu hay trăn trở về số kiếp của con người : “Không thiếu những kiếp sống tẻ nhạt, thời gian trôi qua vô vị, nhưng cũng không thiếu những cuộc đời đằm thắm, một ngày qua là một ngày tự hào về con đường mình đã chọn…Có nhiều cuộc đời ngắn ngủi, đi qua nhanh chóng như một vệt sao băng giữa trời, vậy mà cứ sáng chói lòa trong tâm khảm mỗi người.” [14, tr.116] Cái tôi ưu tư trầm mặc soi xét các giá trị của bản thân là hình ảnh luôn trở đi trở lại trong các trang tùy bút Đỗ Chu. Trong tùy bút Thăm thẳm bóng người, nhà văn tự vấn mình: “Suốt đêm tôi thức ngắm những trái bưởi cuối mùa lặng lẽ tỏa hương trên chiếc bàn đá có đặt cốt của bà. Những cành bưởi chỉ to bằng cổ tay người chứ có là bao. Và tôi tự thấy phải hỏi mình, liệu đời mình có sánh nổi cây bưởi kia không.” [21, tr.120] Dấu ấn chủ thể trữ tình là một đặc trưng không thể thiếu của thơ. Đỗ Chu biến những trang tùy bút của mình thành những trang thơ khi bộc bạch cái “tôi” đầy xúc cảm dào dạt. Qua cái “tôi” ấy ta bắt gặp chân dung tinh thần của nhà văn - một con người tinh tế, giàu yêu thương và nặng lòng với quê hương, đất nước. 2.3.2.2 Chất thơ trong ngôn ngữ tùy bút Ở địa hạt thể ký có thể xem Nguyễn Tuân là người rất kỳ công trong việc lựa chọn, sáng tạo và vận dụng ngôn từ. Vì thế ông được mệnh danh là bậc thầy của ngôn ngữ. Còn Đỗ Chu là người được đánh giá cao về văn phong và được coi là nhà văn luôn chú trọng tới vẻ đẹp và “sức bật” của câu văn. Chính vì thế mà Tô Hoàng đã nhận xét: “Người khó tính cũng phải thừa nhận, ở Đỗ Chu văn phong trang hoàng, có những đoạn đẹp đến chuẩn mực.” [39] Ngôn ngữ của Đỗ Chu tươi đẹp, hiền hòa chứ không cốt phô diễn cá tính mạnh mẽ như nhà văn Nguyễn Tuân. Về phương diện này, Đỗ Chu gần với Hoàng Phủ Ngọc Tường và Vũ Bằng hơn. Nhưng cái phần “chuẩn mực” thì hiếm ai bì với nhà văn Đỗ Chu. Vẻ đẹp trong ngôn ngữ của ông thể hiện ở cách sử dụng ngôn từ giàu chất thơ như đã phân tích trong phần truyện ngắn. Nhưng điều đặc biệt trong tùy bút của Đỗ Chu là sự vận động, phát triển trong ngôn từ . Ở tập tùy bút đầu tay Những chân trời của các anh, ngôn từ đẹp như luôn có cánh vút bay cùng cảm hứng sử thi lâng lâng. Đó là thứ ngôn từ miêu tả và biểu hiện mượt mà, giàu sắc thái, cảm xúc. Đặc biệt ông thường sử dụng một hệ ngôn từ rất trang trọng, đề cập đến các vấn đề lớn như Đảng, cách mạng, lẽ sống, dân tộc, thời đại, cốt cách Việt Nam, dân tộc Việt Nam, chiến tranh, hòa bình, máu, nước mắt, mùa xuân, tuổi trẻ, sức trẻ, nhân dân, Tổ quốc Việt Nam, sức mạnh Việt Nam, sức mạnh nhân dân, khuôn mặt đất nước, thế kỷ, thời đại, nô lệ, xiềng xích….Hệ ngôn từ rất phù hợp phản ánh không khí thời đại sau chiến thắng mùa xuân năm 1975. Con người cảm xúc trước những vấn đề rất trọng đại của đất nước mà chắp bút. Cũng chính vì vậy mà ngôn từ của ông mang vẻ đẹp trang hoàng và mẫu mực. Ở hai tập tùy bút sau, ngôn từ Đỗ Chu nhanh chóng tiếp cận thời kỳ đổi mới, trở nên đa dạng, linh hoạt và mang chất “đời” nhiều hơn. Với vốn văn hóa phong phú, vốn sống và tài viết văn của mình, Đỗ Chu đã kết hợp nhuần nhụy những kiến thức “đông, tây, kim, cổ”. Chính điều này khiến văn phong ông vừa truyền thống vừa hiện đại, vừa hiện thực vừa lãng mạn, vừa dí dỏm, hài hước vừa đằm thắm, trữ tình. Khảo sát hệ ngôn từ trong tùy bút Đỗ Chu, có thể thấy các dạng sau: -Ngôn ngữ biểu cảm mang tính văn học: Tác giả sử dụng các hình tượng, biểu tượng mang tính ẩn dụ, so sánh giàu liên tưởng: “Dòng chảy của một nền văn học chẳng khác nào dòng chảy của một con sông mẹ. Trong quá trình đi tới nó đã diễn ra nhiều hình thế, đôi khi phức tạp. Lúc thì thắt mình lại làm nên ghềnh thác, lúc mở lòng ra đón nhận phụ lưu, sau nhiều uốn lượn nó tỏa nhánh gặp biển. Nơi ấy là cửa sông mênh mang bờ bãi, rất dễ ngỡ ngàng, dễ bị ngợp khi muốn nhận hướng….” [19, tr.217] Nói về cốt cách Việt Nam trên đất Thái, ông so sánh những con người ấy là “những con chim Lạc lìa đàn”, “là hạt giống Việt” luôn biết lưu giữ truyền thống văn hóa: “Họ là những con chim Lạc lìa đàn còn biết lưu lại dấu vết chân móng của mình trên tang trống đồng cổ tích, là những con chim Lạc lúc vỗ cánh bay đi trăm ngả vẫn còn biết để bóng dáng mình ở lại với nước non”. [21, tr.27] Đỗ Chu còn xác lập được những khái niệm văn chương mới, gọi tên các sự vật hiện tượng bằng những từ ngữ rất “đắt” : “Các nhà văn mới mỗi người một vẻ, họ giống như những trái núi nằm đấy, ngày ngày ai cũng trông thấy, ấy vậy mà càng ngắm lại càng thấy lạ. Mỗi ngày lại thấy thêm ở họ lộ ra một cái mới. Cái mới không phải ở cá tính riêng, cá tính dẫu thế nào cũng chỉ là cái dáng kiêu, phần ta cần tìm ở họ là cái cốt kiêu.” [21, tr.84] Những con chữ bình thường được nhà văn tách ghép, kết hợp và đặt nó vào một quan hệ mới, lập tức tạo ra một trường nghĩa mới, đầy sáng tạo. Đỗ Chu như đánh thức tiềm năng của từng con chữ khiến nó không yên vị ở đời sống nghĩa bình thường nó vốn có. -Ngôn ngữ cổ xưa: Văn Đỗ Chu mang phong vị cổ kính. Có được điều này là do nhà văn sử dụng hệ thống ngôn từ cổ xưa kết hợp với việc viện dẫn các câu đối chữ Nho, câu văn thơ chữ Hán, và sự cắt nghĩa, lý giải chúng. Tất cả tạo cho các trang tùy bút phảng phất không khí cổ xưa. Ông cũng thường xuyên sử dụng các thuật ngữ, từ cổ khi bàn về đạo đức, lối sống của các bậc hiền triết xưa: “Cụ Khổng Tử dặn nan đắc hồ đồ, nghĩa là người quân tử khó lòng mắc vào những chuyện hồ đồ, nhưng đến thời Tống, một ông họa sĩ nổi tiếng là Trịnh Bản Kiều đã mạn phép mà bổ sung thêm một ý tôi cho là hóm, ông ấy bảo tiểu hồ đồ tiên, nghĩa là cũng nên có chút hồ đồ mới hay, tiên ở đây là cái vui thánh hiền.” [21, tr.78] Tùy bút của Đỗ Chu hay luận bàn về chữ Hán và chuyện văn chương: “Mỗi lối thảo đẹp một vẻ, duyên dáng ý tứ là cách Khuê nữ bộ xuân, mãnh liệt bất chấp là Thiếu niên cự phách…Rung rinh lay động như con giun cựa mình là khi xuân tới, như con rắn lột xác lúc thu về là cách Xuân dận thu xà, còn như nhìn vào thấy đám chữ ùn ùn ngổn ngang mà vẫn có hàng có lối như đám phu kiện đang tiến trên đường thì được gọi là Kiệu phu trạch đạo…” [21, tr.77] Tóm lại, sự phong phú và đa dạng trong ngôn từ đã tạo ra một văn phong trang hoàng, đẹp nhưng vẫn mộc mạc, giản đơn; triết lý nhưng vẫn nhẹ nhàng, không khô khan; trữ tình đằm thắm nhưng vẫn hóm hỉnh, vui tươi. 3.3 Giọng điệu Trong Hồi ký và bút ký thời kỳ đổi mới, Lý Hoài Thu nhận định : “Do sự cởi mở, phong phú về mặt phong cách và cá tính sáng tạo từ sau đổi mới, mỗi tác giả lại mang đến cho thể loại một giọng điệu riêng của mình.” [79, tr.84] Sự chuyển hướng từ cái nhìn sử thi sang cái nhìn hiện thực phức hợp, đa chiều của văn học thời kỳ đổi mới đã giúp cho Đỗ Chu cảm nhận cuộc sống ở nhiều cung bậc khác nhau, mang đến sự đa sắc trong giọng điệu. Người viết đi vào khảo sát các giọng điệu làm nguồn mạch phản ánh bức tranh hiện thực đa dạng của Đỗ Chu : giọng sử thi hào hùng, giọng chiêm nghiệm suy tư, giọng hài hước, hóm hỉnh. 3.3.1 Giọng sử thi hào hùng Trong những năm đổi mới, tập tùy bút Những chân trời của các anh còn thấm đượm tinh thần lãng mạn cách mạng, giọng điệu chủ đạo vẫn là giọng sử thi hào hùng. Cuộc sống sau chiến tranh còn nhiều khó khăn nhưng ta vẫn bắt gặp một tâm hồn, chất giọng bay bổng, vút cao đầy lạc quan: “Đất nước sinh sôi những công trường, những nhà máy, những con đường vượt rừng, những con đường qua biển. Đất nước sinh sôi như những thế hệ nối nhau biết cắm lá cờ đỏ lên dinh lũy cuối cùng của sự nghèo đói và lạc hậu của những cách sống quẩn quanh và ti tiện. Để hùng dũng và bay lên, để khuôn mặt nhân dân bừng sáng hơn bao giờ hết.” [14, tr.51] Giọng đầy khí thế hào hùng, quyết chiến quyết thắng khi viết về cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979: “Ta nhân danh Tổ quốc. Nhân dân Đảng ta, nhân danh sức mạnh vô địch của chủ nghĩa xã hội, của anh em đồng chí. Lại những năm tháng trường kỳ gian khổ, lại những ngày vất vả lao lung, nhưng có hề gì, một khi ta đã hiểu đời ta không thể nào sống nổi nếu phải quay về kiếp người nô lệ….[.. ] Tự lòng ta sâu thẳm vang lên, át mọi thứ kèn thứ súng, vang lên hai tiếng Việt Nam, Việt Nam, Việt Nam muôn năm.” [14, tr.28] Để tạo ra chất giọng sử thi này, Đỗ Chu đã sử dụng các cấu trúc đảo câu, điệp ngữ nhằm nhấn mạnh một giọng điệu mạnh mẽ, dứt khoát: “Chưa bao giờ hết khó khăn, chưa bao giờ không nghèo túng, nhưng quả thật cũng chưa bao giờ không gan góc và bền bỉ”. [14, tr.25] Niềm vui vỡ òa ra khi đất nước, làng quê thay đổi. Điệp ngữ “không còn bao lâu nữa” lặp đi lặp lại như một khúc tráng ca đầy niềm tin và hy vọng: “Tất cả giờ đã thay đổi, bây giờ nơi đó là một công trình nhiệt điện. Một nhà máy nhiệt điện có cỡ không còn bao lâu nữa sẽ ra đời. Không còn bao lâu nữa phố phường, làng mạc gần xa quanh đây đều sẽ bừng lên, quê hương chúng ta bừng lên, bóng tối bị dồn đuổi, đói nghèo dốt nát bị dồn đuổi.” [14, tr.86] Đảo ngữ cùng với điệp cấu trúc “Đã +động từ” khẳng định một cách dứt khoát và tự tin những thành quả mà dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam đã đạt được. Giọng văn mạnh mẽ, dứt khoát: “Đã sống lại mãnh liệt một dân tộc vốn hôm qua còn quằn quại, đã nghiêm trang một khuôn mặt nhân hậu vốn hôm qua còn tăm tối. Đã thu về một mối giang sơn vốn từ bao nhiêu thế kỷ trước vẫn luôn luôn bị giằng xé tả tơi và hồn nước, hồn người, tên nước và tên người , tất cả đã hiện về trong tự do.” [14, tr.96] Bên cạnh đó Đỗ Chu còn sử dụng các kiểu câu mệnh lệnh, cầu khiến : “Ấm dần lên đi những ngón tay trẻ thơ mảnh mai. Hé dần lên đi, rực sáng lên đi những nụ hoa lặng lẽ.” [14, tr.104] 3.3.2 Giọng chiêm nghiệm suy tư Là nhà văn luôn gắn bó với đời sống xã hội, trăn trở với những vấn đề bức xúc của thời đại, Đỗ Chu thường hay suy tư và triết lý. Lý Hoài Thu đã có nhận xét : “Trong tùy bút của Đỗ Chu, người đọc lại bắt gặp một thứ ngôn từ giản dị, chân phương, nhẹ nhàng song vẫn đượm chất triết lý, suy tư.” [79, tr.85] Ông ngẫm nghĩ triết lý về sự đời : “Đã có nhiều cái hôm qua đúng mà hôm nay thành sai…Ngẫm cái khôn cái dại của loài người cũng là chuyện dễ hiểu, cho nên các cụ thường chép miệng nói “chó dại có mùa người dại quanh năm”, là rất nhân tình thế thái.” [19, tr.297] Ông suy tư trăn trở về nghề văn: “Với những ai cầm bút thì chỉ những trang văn là ở lại với đời. Nếu gọi nó là nghề thì liệu có nghề nào lắm chênh vênh như nghề này nữa không? Chênh vênh đấy nhưng bền vững đấy. Chênh vênh như sự sống, bền lâu như sự sống.” [19, tr.217] Đây chính là một kiểu độc thoại nội tâm giàu tâm huyết, thể hiện sự gắn bó với cuộc sống, luôn muốn đặt vấn đề với đời và với chính mình. Tản mạn trước đèn là cõi lòng của con người ngồi trước ngọn đèn bày tỏ những băn khoăn, trăn trở về vận mệnh đất nước, dân tộc và bản thân mình. Còn trong Thăm thẳm bóng người, Đỗ Chu lặn lội đi tìm những bóng người “thăm thẳm”. Ông chìm trong dòng suy tư miên man về con người, về văn chương, nghệ thuật. Ta bắt gặp một giọng chiêm nghiệm suy tư man mác chảy tràn qua các trang văn. Đây là giọng điệu chủ đạo xuất hiện hầu hết trong tùy bút Đỗ Chu, kể cả trong tập Những chân trời của các anh. Dẫu trong tập tùy bút đầu tay này, giọng điệu sử thi vẫn là giọng chủ đạo. Song sau những phút hào hứng, nhiệt thành, lòng người lắng lại ngẫm ngợi về những mất mát, hy sinh, về trách nhiệm của bản thân với đất nước. Vì thế ta vẫn cảm nhận được một giọng văn suy tư, trăn trở. 3.3.3 Giọng hài hước, hóm hỉnh Tùy bút của Đỗ Chu đề cập đến những vấn đề bức xúc, đáng cảnh báo của xã hội. Song ta không thấy ở nhà văn một giọng điệu luận tội gay gắt, đả phá hay phê phán thẳng tay. Dẫu sao Đỗ Chu vẫn là một ông cụ hiền lành, lại kết hợp với văn phong vốn đã rất trữ tình, dịu ngọt nên ta chỉ thấy một giọng điệu hài hước, hóm hỉnh. Có mỉa mai, có lên án thì cũng không quá thẳng tay bốp chát vào mặt. Đỗ Chu phản ánh những vấn đề bức xúc, những hạn chế, bất cập ở các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, điện ảnh. Chính việc lựa chọn câu từ đắt địa, hàm súc, lối nói nửa như thật nửa như đùa khiến ai đọc lên cũng thấy tức cười. “Diễn viên nói chung là xinh, nhưng thường hay bị lột quần, xé áo, mà lại hay ngất nữa, mà Nam Bộ gọi là “té xỉu”.[19, tr.156] hay “sở dĩ chưa làm nổi những bộ phim lịch sử nói về đời Lý, đời Trần, là do đến một con ngựa cho ra ngựa chúng ta cũng thiếu.” [19, tr.156] Đỗ Chu đã chêm vào một câu mỉa mai : “ Hay nhỉ, nhưng lịch sử dân tộc chúng ta đâu có phải bắt đầu từ mấy con ngựa”. [19, tr.157] Kể chuyện mình hoặc chuyện giới văn nghệ sĩ thì duyên lạ. Nói về những chuyện không nên nói, khó nói, nhạy cảm để nói thì rất khéo dùng từ. Đôi khi chỉ gợi và lấp lửng để người đọc tự suy luận: chuyện Phạm Tiến Duật, Kim Lân, Chế Lan Viên…..Cách kể chuyện khề khà, tự nhiên, lôi cuốn người đọc bởi sự hóm hỉnh, duyên dáng của mình. Nhìn chung, trong sự nghiệp của Đỗ Chu, bên cạnh truyện ngắn, tùy bút tuy không chiếm số lượng lớn nhưng thực sự là những trang viết mang đậm dấu ấn cá nhân, thể hiện ý thức, quan niệm nghệ thuật của một cây bút giàu tài năng và tâm huyết. Đây cũng là một lĩnh vực khẳng định tên tuổi và vị trí xứng đáng của ông trên văn đàn. Nó giúp bạn đọc hiểu thêm về thế giới tâm hồn của nhà văn, hiểu thêm những con người tài năng và nhân cách sáng ngời trong làng văn sĩ. Ông là người tiếp bước xứng đáng các bậc đàn anh như Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Hoàng Phủ Ngọc Tường…bằng một bản lĩnh văn hóa vững vàng, một trí tuệ uyên thâm, một trái tim mẫn cảm, một ngòi bút nhiệt huyết, đầy trách nhiệm và một văn phong chuẩn mực. Với các tuyển tập tùy bút của mình, Đỗ Chu muốn khẳng định ông luôn đồng hành cùng cái đẹp, đồng hành cùng với vận mệnh dân tộc, đất nước, đồng hành cùng nhịp sống gấp gáp, đầy sôi động nhiều cơ hội nhưng cũng nhiều thử thách ngày hôm nay. KẾT LUẬN Đỗ Chu rất Việt Nam. Cũng như Tô Hoài, văn của ông thuần Việt và không lai tạp. Đọc văn của ông cẩn trọng như đọc văn Tô Hoài. Chúng ta có thể tìm thấy dưới những câu văn của ông sức nặng của đời sống, sự chiêm nghiệm. Đỗ Chu có vóc dáng của con người dày công lực mà không lên gân lên sức. Sự dụng văn của ông bình nhiên tỏa sáng. Đời sống hôm nay chảy trôi mải miết trong dòng thông tin và tốc độ sống nhanh nhạy, cũng bừa bộn và khốc liệt hơn nên ít người đọc văn Đỗ Chu hay văn phong kiểu của C. Pautôpxki thuở trước. Có thể đó là “một món quà xa xỉ với một số người”. Nhưng nếu ai đã bước vào thế giới văn chương Đỗ Chu sẽ thấy cái “bát ngát”, “thăm thẳm” và “miên man” cuốn hút tâm hồn người. [40] Số phận của mỗi nhà văn sau cùng đều tùy thuộc vào sự thẩm định chín chắn của bạn đọc, ở nhiều thời. Các thang bậc giá trị của văn học đáng tin cậy nhất cũng là từ sự thẩm định đó mà ra. Chả ai có thể tự thổi phồng, cũng chả ai dìm dập nổi. “Chẳng có ai tẻ nhạt ở trên đời” – Nhà thơ Nga Eptusenkô đã viết như vậy. Quả thực, trong tâm hồn mỗi con người, nhất là những người có cuộc sống trải nghiệm phong phú, thì dường như đều ẩn chứa những “mỏ quặng”. Dường như có một hành trình tiếp nối. Đỗ Chu trăn trở đi tìm cái đẹp giữa cuộc đời rộng lớn. Còn người đời đau đáu lật tìm cái đẹp trong những trang văn giàu chất thơ của ông để gắng hiểu một con người, một phong cách. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn An (2009), Phiên bản Đỗ Chu, báo Văn nghệ Công an, số (107). 2. M.Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Bộ Văn hóa thông tin và thể thao Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. 3. Vũ Bằng (2000), Thương nhớ mười hai, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội 4. Vũ Bằng (2000), Tuyển tập Vũ Bằng, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 5. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam- Những đổi mới cơ bản, Nxb Giáo dục. 6. Ngô Vĩnh Bình (1993), Đỗ Chu với “Mảnh vườn xưa hoang vắng”, trong sách Nẻo vào văn học, Nxb Văn học. 7. Văn Chinh (2001), Nhà văn Đỗ Chu: Con người phải được yêu mến và kính trọng, Báo Văn nghệ, số (7) 8. Đỗ Chu (1965), Hương cỏ mật, Nxb Văn học, Hà Nội. 9. Đỗ Chu (1969), Vòm trời quen thuộc, Nxb Thanh niên , Hà Nội. 10. Đỗ Chu (1973), Đám cháy trước mặt, Nxb Thanh niên , Hà Nội. 11. Đỗ Chu (1976), Một công việc rất thiêng liêng, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số (8). 12. Đỗ Chu (1977), Trung Du, Nxb Văn học, Hà Nội. 13. Đỗ Chu (1982), Phù Sa, Nxb Văn học, Hà Nội. 14. Đỗ Chu (1986), Những chân trời của các anh, Nxb Quân đội nhân dân. 15. Đỗ Chu (1985), Tháng Hai, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 16. Đỗ Chu (1989), Mảnh vườn xưa hoang vắng, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam. 17. Đỗ Chu (2001), Một loài chim trên sóng, Nxb Văn học, Hà Nội. 18. Đỗ Chu (2003), Đỗ Chu truyện ngắn tuyển tập, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội. 19. Đỗ Chu (2006), Tản mạn trước đèn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 20. Đỗ Chu (2006), Phù sa, Nxb Kim Đồng. 21. Đỗ Chu (2008), Thăm thẳm bóng người, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 22. Phan Huy Dũng (2007), Đỗ Chu chiêm nghiệm về nghề văn và nghệ thuật, Tạp chí Nhà văn, số tháng 3. 23. Phan Cự Đệ (2007), Truyện ngắn Việt Nam, Lịch sử - Thi pháp – Chân dung, Nxb Giáo dục. 24. Đỗ Đức (2008), Ngày xuân đọc “Thăm thẳm bóng người” của Đỗ Chu, Báo Văn nghệ, số (10). 25. Hà Minh Đức (1972), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, HN. 26. Hà Minh Đức (chủ biên) (2007), Lý luận Văn học, Nxb Giáo dục, HN. 27. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, Chương trình KHCN cấp NN KX – 07, Đề tài KX – 07 - 01, Hà Nội 28. Nguyễn Thị Hồng Hà (2004), Đặc trưng tùy bút Nguyễn Tuân, luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Bộ giáo dục và Đào tạo, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.Hồ Chí Minh. 29. Thu Hà, Đỗ Chu: Tản mạn trước đèn, 30. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2003), Từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 31. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, HN. 32. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Truyện ngắn Đỗ Chu, trong sách Văn học, văn hóa – Vấn đề và suy nghĩ, Nxb Khoa học Xã hội. 33. Hoàng Ngọc Hiến (2008), “Thăm thẳm bóng người” – một thành tựu, Tạp chí nhà văn, số (11) 34. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (2004), Từ điển Văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, HN. 35. Nguyễn Hòa, Văn chương - Hy vọng về những điều tốt đẹp, 36. Nguyễn Hòa, Văn xuôi 2002 – Một đoạn đường gập ghềnh, 37. Tô Hoài (1977), Sổ tay viết văn, Nxb Tác phẩm mới, HN. 38. Tô Hoàng (2006), Nhà văn Đỗ Chu trong tâm trí bạn bè, Báo Văn nghệ Công an số 27/2. 39. Tô Hoàng (17/05/2009), Đỗ Chu: Nhà văn binh nhì của chúng tôi, 40. Hà Khải Hưng, Dấu ấn Đỗ Chu trong “Thăm thẳm bóng người”, 41. Hà Khải Hưng, Nhà văn Đỗ Chu: Dù được nhớ tới ở thể loại nào cũng là quý, 42. Phan Hồng Giang (1968), Đọc “Phù sa” của Đỗ Chu – Nghĩ đôi điều về nguồn gốc sức mạnh của con người và nghệ thuật của chúng ta, Tạp chí Văn học số (1). 43. Nguyễn Kiên (1996), Về chất thơ trong truyện ngắn, Tạp chí Văn học, số (3). 44. Nguyễn Văn Kha (2006), Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt Nam 1975- 2000, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. 45. Khrapchenkô, M. B (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 46. Khrapchenkô, M. B (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 47. Nguyễn Thanh Kim, Nhà văn Đỗ Chu – Không thích sự ầm ĩ, theo Tiền Phong, 48. Nguyễn La, Cái tôi trong tùy bút, 49. Thạch Lam (1988), Tuyển tập Thạch Lam, Nxb Văn học, Hà Nội. 50. Thạch Lam (1988), Hà Nội băm sáu phố phường, Nxb Văn nghệ, TP.HCM. 51. Thạch Linh, Đỗ Chu: “Thăm thẳm bóng người”, 52. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục. 53. Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục. 54. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 55. Lê Thị Hồng Minh (2006), Luận án Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường, Chuyên ngành Văn Học Việt Nam, Bộ giáo dục và Đào tạo, Trường Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh. 56. Vương Trí Nhàn (1986), Một cuộc gặp gỡ để lại nhiều cảm tình (Đỗ Chu và tập truyện ngắn Phù sa), trong sách Bước đầu đến với văn học, Nxb Tác phẩm mới. 57. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. 58. Nguyên Ngọc (1991), Văn xuôi Việt Nam: Thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển, Tạp chí văn học số (4) 59. Nguyên Ngọc (2005), Một giai đoạn sôi động của văn xuôi trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Xưa và Nay, số (227-228). 60. Nguyễn Trí Nguyên (1981), Một cuộc thảo luận về truyện ngắn, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số (10). 61. Pauxtôpxki, K (2007), Bông hồng vàng và Bình minh mưa (Kim Ân và Mộng Quỳnh dịch), Nxb Văn học, Hà Nội. 62. Pauxtôpxki, K (2004), Một mình với mùa thu (Phan Hồng Giang giới thiệu), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 63. Hoàng Phê (chủ biên) (1998), Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng. 64. Huỳnh Như Phương (1991), Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ hóa nền văn học, Tạp chí văn học số (4) 65. G.N Pôxpêlôp (chủ biên) (1998), Dẫn luận nghiên cứu Văn học, NXB Giáo dục 66. Hồng Thanh Quang (2004), Nhà văn Đỗ Chu: Cô đơn được càng tốt, Theo báo an ninh thế giới cuối tháng, 67. Nguyễn Hưng Quốc (1989), Nghĩ về thơ, Báo văn nghệ quân đội, số (9). 68. Sài Gòn giải phóng (2004), Nhà văn Đỗ Chu: Bề dày của mỗi tác giả là uy tín văn học, 69. Nguyễn Hoàng Sơn (2002), Từ một điểm nhìn, Tạp chí Nhà văn, số tháng 5. 70. Trần Đình Sử (2002), Văn học và thời gian, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội 71. Ngô Thảo (2003), Văn học về người lính, Nxb Quân đội nhân dân. 72. Bùi Việt Thắng (1991), Văn xuôi gần đây và quan niệm về con người, Tạp chí Văn học số (4). 73. Bùi Việt Thắng (2000), Một bước đi của truyện ngắn, Tạp chí Nhà văn, số tháng 1. 74. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn - Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại (chuyên luận), NXB Đại học Quốc gia, HN. 75. Bùi Việt Thắng (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Giáo dục, HN. 76. Thể thao & Văn hóa (2004), Đỗ Chu: Phải biết xấu hổ mới viết hay được, 77. Nguyễn Thành Thi (1999), Đặc trưng truyện ngắn Thạch Lam, Nxb Giáo dục. 78. Bích Thu (1995), Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau 1975 qua hệ thống môtip chủ đề, Tạp chí Văn học số (4). 79. Lý Hoài Thu (2008), Hồi ký và bút ký thời kỳ đổi mới, Tạp chí nghiên cứu văn học, số (10). 80. Lê Thủy (2005), Đỗ Chu với tùy bút, Báo lao động, ngày 06/02. 81. Lê Hương Thủy (2006), Đặc trưng truyện ngắn Đỗ Chu, Tạp chí nghiên cứu văn học, số (9). 82. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn học, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 83. Đỗ Lai Thúy biên soạn (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 84. Phạm Thị Minh Thư (2002), Cũng một loài chim trên sóng, Báo Văn Nghệ quân đội, số (552). 85. Trần Thức (2002), Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường 2, Nxb Trẻ, TP.Hồ Chí Minh. 86. Ti-mô-phê-ep (1962), Nguyên lý lý luận Văn học, Nxb Văn học Hà Nội, tập 1. 87. Doãn Trang (1996), Băng Sơn với những Tùy bút Hà Nội, báo Lao động xã hội, số (41). 88. Nguyễn Thanh Tú (2003), Đặc điểm kết cấu truyện ngắn Đỗ Chu, Báo Văn nghệ quân đội, số (586). 89. Nguyễn Tuân (1996), Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập I, Nxb Văn học, Hà Nội. 90. Nguyễn Tuân (1996), Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập II, Nxb Văn học, Hà Nội. 91. Nguyễn Tuân (1996), Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập III, Nxb Văn học, Hà Nội. 92. Việt báo (2003), Đỗ Chu: Hình như tôi vẫn dấu tôi, ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5102.pdf
Tài liệu liên quan