Đặc trưng truyện ngắn Lý Lan

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH __________________ Hồ Kim Phụng Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN THỊ THANH XUÂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin chân thành cám ơn Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Khoa học và Đào tạo Sau đại học, Quý Thầy Cô ở Khoa Văn trường Đại học Sư phạm và trường Đại học Khoa học và Xã hội

pdf179 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2400 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Đặc trưng truyện ngắn Lý Lan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, đã giảng dạy chúng tôi trong suốt ba năm học cao học tại trường; Ban giám hiệu và Quý Thầy Cô ở Tổ Văn Trường THPT Trần Phú, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong công tác để tôi có thể theo học chương trình sau đại học. Xin cám ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân vì Cô đã hướng dẫn tôi thực hiện đề tài này. Cô đã giúp tôi tiếp cận đề tài và triển khai luận văn với một tinh thần cởi mở và luôn khuyến khích tôi thể hiện ý kiến cá nhân. Cô cũng dành thời gian đọc và sửa chữa luận văn của tôi. Đặc biệt, tôi xin cám ơn nhà văn Lý Lan đã trả lời phỏng vấn, nhiệt tình cung cấp cho tôi tài liệu và hình ảnh có liên quan đến đề tài. Xin cám ơn gia đình đã hết sức tận tụy giúp đỡ tôi và hỗ trợ tôi trong quá trình tôi thực hiện luận văn. Cuối cùng, cho tôi được nói lời tri ân tất cả. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Truyện ngắn Là một thể loại tự sự, truyện ngắn có những đặc trưng riêng về tính chất, về dung lượng so với các thể loại khác. Truyện ngắn ra đời gắn chặt với hoạt động báo chí nên dễ phổ biến đến người đọc. Với hình thức ngắn gọn, cơ động, truyện ngắn phù hợp việc đáp ứng nhu cầu của độc giả trong thời đại công nghiệp. Là “một lát cắt của đời sống”, như giọt nước nhỏ dung chứa cả đại dương, những truyện ngắn hay dễ để lại nhiều dư âm, ám ảnh trong lòng người đọc. Gần như nhà văn nào cũng ít nhiều thử mình qua truyện ngắn. Truyện ngắn Việt Nam đã trải qua một lịch sử trên một thế kỷ và có nhiều thành tựu nhất định, đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của công chúng Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn văn học đương đại. 1.2. Trong truyện ngắn Việt Nam, truyện ngắn của các nhà văn nữ là một bộ phận rất đáng chú ý. Có thể nói, trong giai đoạn văn học đương đại, các nhà văn nữ có phần lấn át nam giới trên phương diện truyện ngắn. Xã hội càng cởi mở, người nữ càng có cơ hội bộc lộ khả năng suy nghĩ và diễn đạt bằng văn bản. Tiếp nhận cái mới nhanh nhạy, táo bạo trong cách viết, không ngừng đi về phía trước, nhiều nhà văn nữ đã làm nên sự kiện: Dương Thu Hương, Lê Minh Khuê,Võ Thị Hảo, Phạm Thị Hoài, Ngô Thị Kim Cúc,Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Phan Thị Vàng Anh… trong đó, Lý Lan là trường hợp tỏ rõ khả năng chuyên nghiệp, và là người viết truyện ngắn mang đậm bản sắc phương Nam. Từ năm 2003, tác phẩm của Lý Lan được đưa vào giảng dạy ở trường trung học cơ sở trong chương trình ngữ văn lớp 7 với tản văn “Cổng trường mở ra”. 1.3. Có thể nghiên cứu truyện ngắn trên nhiều phương diện, ở đây với đề tài Đặc trưng truyện ngắn Lý Lan, chúng tôi tiếp cận thể loại trong phạm vi một tác giả và tập trung vào phương diện đặc trưng. Có thể nói, nội hàm của khái niệm đặc trưng ở đây gần với khái niệm phong cách (style). Chúng tôi nghiên cứu phong cách tác giả qua một thể loại cụ thể là truyện ngắn. Việc nghiên cứu này đáp ứng nhu cầu trang bị những kiến thức về thể loại, phong cách tác giả, vốn cần thiết cho công việc giảng dạy ở nhà trường phổ thông của chúng tôi, đồng thời giúp chúng tôi hiểu sâu hơn về tính chất của đời sống văn học và văn hóa Việt Nam đương đại, đặc biệt là văn học và văn hóa Nam Bộ. 1.4. Trên góc độ một công tình chuyên khảo hay một luận văn, đây là một đề tài mới, hoàn toàn chưa có ai thực hiện. Chúng tôi nhận thấy, hiện nay những bài nghiên cứu, phê bình về tác giả này chưa nhiều, chỉ có một số bài giới thiệu sách trên báo, chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên biệt về truyện ngắn Lý Lan. Tìm đến văn xuôi Lý Lan, nhất là qua truyện ngắn của bà, tôi phần nào cảm nhận được sâu sắc hơn những tâm tình của người phụ nữ, của tuổi trẻ miền Nam…và hiểu thêm văn học miền Nam và những giá trị văn hóa Nam Bộ hiện đại vẫn luân chảy, tiếp nối trong sáng tác của bà. Hơn nữa, là giáo viên giảng dạy ở trường phổ thông, việc tìm hiểu truyện ngắn Lý Lan đối với tôi có một ý nghĩa thiết thực là qua đó, tôi đã được trang bị thêm những kiến thức cần thiết và bổ ích cho việc giảng dạy truyện ngắn nói chung và các tác phẩm của nhà văn này nói riêng. Những nguyên nhân trên là động lực khiến tôi muốn đi sâu vào nghiên cứu những truyện ngắn của Lý Lan, cũng như muốn khẳng định sự đóng góp của bà cho văn học Nam Bộ hiện đại nói riêng và văn học Việt Nam đương đại nói chung qua đề tài Đặc trưng truyện ngắn Lý Lan. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Nhà văn Lý Lan viết nhiều thể loại: Truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, tiểu luận phê bình…nhưng gắn bó lâu dài và làm nên tên tuổi Lý Lan chính là ở thể tài truyện ngắn. Trọng tâm khảo sát của luận văn là toàn bộ truyện ngắn của Lý Lan, tính đến thời điểm hiện nay (10 - 2009) gồm 102 truyện ngắn, tập trung trong các tập truyện đã xuất bản như: Cỏ hát, Chút lãng mạn trong mưa, Truyện Nguyễn Hải Chí, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Lý Lan (in chung), Chiêm bao thấy núi, Đất khách, Dị mộng, Quá chén, Người đàn bà kể chuyện, Hồi xuân và các truyện ngắn đăng trên báo: Chàng nghệ sĩ, Sau buổi họp, Cái trở mình trong đêm về sáng, Trích sổ chủ nhiệm, Một năm, Cha, con, thầy và trò; Nắng buổi sáng, Đêm sao, Điện thoại, Đi du lịch, Đau tim. Ngoài ra, chúng tôi tiếp cận thêm tác phẩm thuộc thể loại khác của Lý Lan:  Một góc phố Tàu (tuyển tập truyện và ký)  Chân dung người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh (chân dung văn học)  Lệ Mai (tiểu thuyết)  Khi nhà văn khóc (chân dung văn học)  Dặm đường lang thang (ký)  Sài Gòn – Chợ Lớn rong chơi (ký)  Miên man tùy bút (tùy bút)  Bày tỏ tình yêu (tùy bút)  Tiểu thuyết đàn bà (tiểu thuyết)  Là mình (Thơ) Bên cạnh đó, chúng tôi còn tìm hiểu các tài liệu lý thuyết về truyện ngắn và đọc một số truyện ngắn của các nhà văn Việt Nam cùng thời có ít nhiều liên quan với Lý Lan như Lưu Thị Lương, Ngô Thị Kim Cúc, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Trần Thùy Mai, Dạ Ngân, Lê Minh Khuê,…để so sánh nhằm rút ra đặc trưng của truyện ngắn Lý Lan. 3. Lịch sử vấn đề Cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt về truyện ngắn Lý Lan ngoài những bài giới thiệu thay cho lời tựa các tập truyện ngắn, những bài điểm sách, những bài phỏng vấn đăng rải rác trên các báo. Cụ thể là: Trên báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 253, ra ngày 3-12-1982, Nguyễn Thu Hương có bài “Đọc “Bụi phấn” nghĩ về những nhà giáo trẻ”. Tác giả bài báo đã đề cập một truyện ngắn của Lý Lan viết về đề tài nhà giáo: “Trong “Trích sổ chủ nhiệm”, Lý Lan đã phê phán cái quan niệm lỗi thời chỉ cần biết “lên lớp là đủ”, cũng như thái độ “khéo léo che đậy khuyết điểm, thổi phồng thành tích” còn hậu quả như thế nào thì mặc kệ. Nhà trường xã hội chủ nghĩa không thể chấp nhận những quan điểm, thái độ như vậy. Người thầy giáo muốn làm tốt nhiệm vụ “trồng người”, ngoài những giờ lên lớp ra, còn cần “phải đi sát từng em, phải cẩn thận trong mỗi lời nói, hành động của mình”, phải hướng dẫn cho các em trở nên những con người có những phẩm chất đạo đức trong sáng, những tình cảm cao thượng, biết “phân biệt sự giả dối, lừa bịp là sai và dám đấu tranh cho điều mình tin là đúng”. Trên báo Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh, số 24, ra ngày 15- 06 -1985, Nguyễn Thị Thanh Xuân có bài viết: “Về những cây bút nữ thành phố Hồ Chí Minh”. Đặt Lý Lan bên cạnh nhưng cây bút nữ trẻ của thành phố, Nguyễn Thị Thanh Xuân đã nhận xét: “Lý Lan là cây bút sớm được dư luận chú ý. Với cách viết giản dị mà linh hoạt, đậm đà chất Nam Bộ, Lý Lan thể hiện phong cách của mình ngay từ tác phẩm đầu tay” [115, tr. 203]. Cũng trong năm 1985, trong tập tiểu luận và phê bình “Những trang viết, những nhịp cầu”, Nxb Mũi Cà Mau, Nguyễn Thị Thanh Xuân có bài “Truyện ngắn viết về cuộc sống và con người thành phố Hồ Chí Minh (1975-1985)”. Trong bài này, bên cạnh nói về những ưu điểm về nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Thị Thanh Xuân còn nhận định về những hạn chế của truyện ngắn giai đoạn này “…Một vài truyện trong khi khắc họa tính cách nhân vật chỉ mới dừng lại ở một vài hiện tượng không cơ bản và vội vàng kết luận nên sức thuyết phục của chủ đề cũng giảm đi nhiều (Qua đèo của Lý Lan)” [115, tr.217] Năm 1994, cũng trên báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, ra ngày 18-08- 1994, Nguyễn Thị Thanh Xuân có bài phê bình“Hai cây bút nữ một tập truyện”, về tập truyện ngắn Cỏ hát ( in chung của Lý Lan, Trần Thùy Mai). Bên cạnh giới thiệu với độc giả cây bút trẻ Lý Lan đầy tiềm năng, bài viết còn ghi nhận ba phương diện trong truyện ngắn Lý Lan: Thứ nhất là Cảm hứng nghệ thuật: “Cảm hứng chủ đạo bao trùm lên toàn bộ truyện ngắn Lý Lan là từ chỗ đứng hôm nay, tìm hiểu về cuộc chiến đấu vĩ đại đã qua của nhân dân ta với lòng biết ơn sâu sắc”; thứ hai là Nhân vật: “Nổi lên trong truyện ngắn Lý Lan là bóng dáng của những cô gái, những người phụ nữ lặng lẽ âm thầm đóng góp phần mình vào công cuộc xây dựng đất nước sau hòa bình”, thứ ba là Phong cách “Trong những trang viết của cây bút mới vào nghề như Lý Lan, chúng ta bắt gặp đây đó hình ảnh tác giả: Lý Lan đang trong giai đoạn tự ngắm mình” [115, tr.197-198]. Về sau các bài viết này được đưa vào tập tiểu luận và phê bình “Tiếng vọng những mùa qua”. Năm 2001, Nhà xuất bản Hội nhà văn Hà Nội cho ra mắt độc giả quyển sách “Một góc phố Tàu” do Vương Trí Nhàn tuyển chọn và viết phần giới thiệu. Đây là bài viết công phu, mang những nhận định tổng quát nhất về văn xuôi Lý Lan (về sau in lại trong tập phê bình “Cánh bướm và đóa hướng dương”) với những điểm đáng chú ý: Trước hết là về Phong cách văn xuôi Lý Lan: “chính là nằm trong cái mạch của văn xuôi Nam Bộ. Cây bút này đã tiếp nhận một cách hồn nhiên kinh nghiệm của người đi trước, để rồi, trong hoàn cảnh của mình, them vào đó những sắc thái mới, làm nên một giọng điệu mới… là một tiếng nói điềm đạm, không làm điệu làm ồn, tự tin ở sự tồn tại của mình, do đó là một tiếng nói dễ gần, dễ thông cảm…chị đã viết được đều, viết nhanh, viết khỏe, có thể tin là trước mắt chúng ta, một phong cách đã hình thành, một mạch văn đã khơi nguồn và đang chảy xiết, chứ không phải một sự “viết cho vui”hoặc ghe qua nghê nghiệp chốc lát rồi lại bỏ”. [89, tr.12]. Về nhân vật, Vương Trí Nhàn đã chỉ ra: “Ngoài những ông già tốt bụng, những em nhỏ dễ thương…có một loại nhân vật thường trở đi trở lại trong văn xuôi Lý Lan , đó là những cô gái trẻ…Họ giữ được nhẫn nại và chịu đựng. Họ giữ được bình tĩnh để lắng nghe và phân tích đời sống” [89, tr.8-9]. . Về nghệ thuật, Vương Trí Nhàn đã nhận định: “trên một số phương diện văn xuôi Lý Lan đã có được dáng vẻ hiện đại. Chất hiện đại này trước tiên bắt nguồn ở một cảm giác tự do và sự âm thầm tìm kiếm không chịu bó mình trong những khuôn khổ có sẵn. Khi chuyển thành hình thức, chất hiện đại này bộc lộ rõ nhất qua lối tự sự đứt nối, bột phác, mà người ta tìm thấy trong một số thiên truyện như Dị mộng, Những viên sỏi cầm chơi, Biển trong mưa, Công tử vườn…”[89, tr.12-13]. Ngoài ra, Vương Trí Nhàn có một nhận định rất đáng chú ý về một mảng đề tài nổi bật trong văn xuôi Lý Lan: “Riêng với Lý Lan, do hoàn cảnh riêng là lớn lên ở một miền đất mà người Hoa sinh sống tập trung, chị lại có dịp nói kỹ về sinh hoạt của cộng đồng này, từ chuyện làm ăn, một tiệm chạp phô, tiệm nước, tới việc viết chữ ghi lại bút tích ngày xuân…với những con người bảo ban nhau làm ăn, những con người nghèo nghèo, tội tội, đang vật lộn kiếm sống và tìm cách thích nghi với mảnh đất mới” [89, tr.15]. Năm 2002, Nhà xuất bản Văn học ra mắt độc giả “Truyện ngắn bốn cây bút nữ” do Bùi Việt Thắng tuyển chọn và giới thiệu. Trong bài viết “Tứ tử trình làng”, Bùi Việt Thắng phác vẽ đôi nét về cây bút truyện ngắn Lý Lan: “Lý Lan thuộc số không nhiều những nhà văn tạo nên được nhữn đối thoại hay trong truyện ngắn”. Ông cũng nhận xét về nghệ thuật: “Truyện ngắn Lý Lan vừa như cái gì liên tục mà đứt đoạn, mơ hồ mà rõ ràng – có thể đó là lối viết dựa vào dòng ý thức. Lý Lan không quá chuyên chú, miêu tả chính xác các hiện tượng đời sống mà thường cố gắng “ướm” mình vào nhân vật và hay “giả sử” để xử sự trong mọi trường hợp”. Năm 1991, Nhà xuất bản Trẻ thành phố Hồ Chí Minh in tập truyện ngắn “Chiêm bao thấy núi” của Lý Lan với “Lời giới thiệu” của nhà văn Sơn Nam. Ông ghi nhận: “Cảm tưởng của tôi khi đọc Lý Lan là cảm tưởng khi ngắm xem những tranh thủy mặc và những bức sơn mài mới lạ. Chập chờn nhưng rõ nét, đơn giản nhưng phức tạp, làm nét đơn sơ nhưng không bừa bãi”. Ngoài ra, Sơn Nam còn nhận xét về nhân vật trong truyện ngắn Lý Lan “Tôi thấy bóng dáng những người thường dân ngồi ăn bữa cơm trưa bên lề đường hoặc dừng chân, uống ly nước mía, ăn trái ổi, trái mận. Cái tươi trẻ, cái bình dân và dân chủ và sự ranh mãnh của những cô gái trẻ Sài Gòn xưa và nay. Nhất là có phẩm cách”. [85, tr.4]. Năm 1999, báo Sài Gòn giải phóng thứ bảy, số 444 (14-08-1999) đăng truyện ngắn Núi không của Lý Lan cũng với lời giới thiệu của Phan Thị Vàng Anh. Phan Thị Vàng Anh nhận xét về tập truyện Dị mộng của Lý Lan như sau: “14 truyện viết trong khoảng hai năm,… chị đã làm được cái việc rất khó trong viết lách là “làm mới mình”, làm được một cuộc “cách mạng” nho nhỏ với mình” Trên báo Sài Gòn giải phóng số ra ngày 25/04/2000, ở mục “Đọc sách”, Thanh Nguyên có bài “Quá chén và những tâm cảnh”. Thanh Nguyên đã nhận xét về nội dung tập truyện “Quá chén” của Lý Lan: “Là những tâm cảnh với mối giằng xé nội tâm giữa “điều muốn làm”và điều “được phép làm” của từng con người, từng nhân vật mang tính chất mô tả hiệu ứng của thời đương đại…của hội chứng đô thị hóa,…và phát hiện ra những bi kịch nhiều màn về sự không hoàn thiện của con người và cuộc sống”. Tác giả bài báo cũng nhận xét: “Truyện ngắn mới của chị đầy ắp thông tin mang nội dung cảnh báo thú vị, được kể một cách lững thững mà nghe khúc chiết, hóm hỉnh lại có vị chua cay”. Cùng năm 2000, Báo Thanh niên số 69/2000 trong mục “Đọc sách”, có bài “Góp nhặt những nỗi buồn” của Ngô Thị Kim Cúc. Tác giả bài báo đã nhận xét về tập truyện ngắn Quá chén của Lý Lan: “Chỉ trong 114 trang sách, cuộc sống thành thị hiện lên một cách sống động với bao nhiêu loại người cùng tâm trạng, số phận của họ. Bằng những câu văn ngắn không chút cầu kỳ, bằng kết cấu truyện giản dị nhưng hiện đại, Lý Lan làm chủ ngòi bút của mình một cách bản lĩnh”. Năm 2002, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh ra mắt bạn đọc công trình “Thơ văn nữ Nam Bộ thế kỉ XX” do nhóm nghiên cứu Nguyễn Kim Anh, Vũ Ngọc, Hà Thanh Vân và Hoàng Tùng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu. Người biên soạn công trình này đã nhận xét: Lý Lan “viết nhiều về người Hoa, về con cháu của một dân tộc đã sinh sống gắn bó , hòa nhập với mảnh đất này từ bao đời nay …nhưng không thấy hiển hiển nỗi niềm xa xứ, nỗi sầu mênh mang của một người xa lạ, “thiếu quê hương”(chữ dùng của Nguyễn Tuân), hay u trầm, huyền bí, mà chỉ thấy vẻ hiền lành, đơn sơ, mộc mạc của một cộng đồng người giàu đức tính chia sẻ và cảm thông.” Trong phần giới thiệu, các nhà soạn sách cũng khái quát về phong cách Lý Lan: “không chủ tâm đi tìm một sự “lạ hóa”trong cả nội dung và hình thức tác phẩm của mình. Chị viết dung dị, không gọt giũa , không trau chuốt, không cầu kì chữ nghĩa. Đọc văn chị, chúng ta có cảm tưởng như xem một người cầm bút thờ ơ ghi lại những mẩu chuyện đời. Nhưng đằng sau vẻ thờ ơ ấy là một sự sắc sảo, thông minh thầm lặng, phải chăng đó là phong cách viết riêng có của Lý Lan, khiến cho đọc giả không dễ lẫn lộn chị với những giọng văn khác”[4, tr.686]. Năm 2006, Nhà xuất bản Giáo dục thành phố Hồ Chí Minh in lại tập truyện ngắn Chiêm bao thấy núi của Lý Lan bằng song ngữ Pháp Việt, vẫn giữ lời giới thiệu của Sơn Nam như khi tập truyện này in lần đầu tiên năm 1991 và thêm vào bài giới thiệu của dịch giả Marina Prevot. Theo Marina Prevot nhận định: “Không có những mánh khoé, tình tiết éo le vì vậy mà 10 câu chuyện thành ra nhẹ nhàng trong đó các nhân vật có vẻ như cam chiụ số phận, các lời đối thoaị bị chia cắt bởi các khoảng lặng như diễn đạt những rạn nứt bên trong những nhân vật đánh mất phương hướng. Chính bởi sự giữ gìn ý tứ, sự kiềm lòng, kiềm lời của họ mà những câu chuyện rất giản đơn này khiến chúng ta nhận ra một mặt khác cuả xã hội Việt Nam đang rùng rùng chuyển mình” [102, tr.13]. Trên mạng internet tại trang: www.vietnamlit.org.com, LiLy Chiu thực hiện phỏng vấn trực tiếp và viết bài giới thiệu về văn phong và các sáng tác của Lý Lan với ba truyện ngắn cụ thể: Con ma, Chị ấy lấy chồng chưa?, Tai nạn. Về các công trình nghiên cứu chuyên sâu, chúng tôi nhận thấy có một số nhận định, đánh giá có liên quan đến truyện ngắn Lý Lan: Năm 2002, Hồ Thị Liễu thực hiện luận văn thạc sĩ với đề tài: “Khảo sát truyện ngắn của các nhà văn nữ từ 1986 đến 1996” tại trường Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn. Luận văn cung cấp một cái nhìn hệ thống về truyện ngắn nữ Việt Nam 10 năm thời kì đổi mới, bước đầu đưa ra những nhận định về nội dung, nghệ thuật và đóng góp của các nhà văn nữ. Trong luận văn có đề cập đến truyện ngắn Lý Lan. Đặc biệt tác giả luận văn có phân tích truyện ngắn Diễn viên hạng ba khi đề cập đến đề tài gia đình trong truyện ngắn nữ giai đoạn 1986- 1996 như sau: “Tình cảm cha con có thể dung đồng tiền mua được. Người bố của những đứa con trong Diễn viên hạng ba của Lý Lan là một trường hợp như thế…”. Năm 2003, cũng tại trường Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn Thành phố Hồ Chí Minh, Hoàng Thị Hồng Hà thực hiện luận án tiến sĩ với đề tài: “Những đặc điểm của văn xuôi nghệ thuật những năm 80 – đầu những năm 90”. Khi trình bày về những đổi mới trong kết cấu cốt truyện của văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1980 -1990, Hoàng Thị Hồng Hà có sử dụng truyện ngắn Ngựa ô của Lý Lan để làm dẫn chứng minh họa. Năm 2007, trong luận văn thạc sĩ bảo vệ tại trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh nghiên cứu về đề tài: “Người phụ nữ hiện đại trong sáng tác của các cây bút nữ, Trần Thùy An có đề cập đến một số mặt sau trong truyện ngắn của Lý Lan: Về điểm nhìn trần thuật, nghệ thuật xây dựng đối thoại và hình ảnh người phụ nữ hiện đại qua hai truyện ngắn Tai nạn, Mẹ và con trong luận văn. Năm 2008, Kênh VTV3 của Đài truyền hình Việt Nam phát sóng vào sáng Chủ nhật ngày 9/3/2008 trong chương trình Văn hóa, sự kiện và nhân vật, phóng viên Mỹ Linh đã thực hiện phỏng vấn Lý Lan. Trong chương trình này, người đọc được gặp gỡ Lý Lan tâm sự về một điều có liên quan đến sáng tác như thế giới nhân vật, đề tài sáng tác… Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy một số bài phỏng vấn trên truyền hình và trên các báo, viết về sáng tác của Lý Lan nhưng tập trung ở các mảng kí, tiểu thuyết và dịch thuật tập truyện Harry Potter. Nhưng các bài báo đó không phù hợp với phạm vi nghiên cứu của đề tài nên chúng tôi không trích dẫn ở đây. Tóm lại, trên đây chúng tôi đã điểm lại những nội dung chính của lịch sử nghiên cứu vấn đề về Truyện ngắn của Lý Lan. Từ đó có thể thấy rằng, những nghiên cứu về sự nghiệp văn học của Lý Lan, nhất là truyện ngắn trong suốt mấy chục năm qua vẫn còn rất ít, đa số chỉ dừng lại ở những bài báo lẻ, những bài giới thiệu thay cho lời tựa hoặc một vài nhận xét chung, chưa có một công trình nào nghiên cứu công phu và toàn diện. Do đó, chúng tôi ghi nhận, tham khảo và học hỏi những ý kiến trên, đồng thời bổ sung và đi đến hoàn thiện đề tài Đặc trưng truyện ngắn Lý Lan. 4. Đóng góp của luận văn - Qua luận văn, trước hết, chúng tôi cố gắng trong khả năng giới hạn của mình, giới thiệu những quan niệm về đặc trưng truyện ngắn. - Qua việc tập hợp những truyện ngắn của Lý Lan in trên các sách báo, chúng tôi cung cấp những thông tin về tác giả và tái hiện lại quá trình sáng tác của nhà văn Lý Lan. - Luận văn đi vào xác định những đặc trưng truyện ngắn Lý Lan về hai mặt nội dung tư tưởng và nghệ thuật biểu hiện, từ đó đưa ra những nhận định và lý giải truyện ngắn Lý Lan. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp so sánh: là phương pháp chính, so sánh sáng tác truyện ngắn của Lý Lan trong từng giai đoạn, so sánh truyện ngắn Lý Lan với các sáng tác của các nhà văn nữ cùng thời và các cây bút truyện ngắn Việt Nam đương đại khác, nhằm rút ra đặc trưng truyện ngắn Lý Lan. Phương pháp nghiên cứu thi pháp học: giúp chúng tôi khảo sát sâu văn bản truyện ngắn của Lý Lan, nhằm rút ra những đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Lý Lan. Phương pháp tiếp cận văn bản trên góc độ xã hội - văn hóa: Chúng tôi đặt văn học trong mối tương quan với các yếu tố xã hội, văn hóa. Muốn tìm hiểu nội dung của truyện ngắn Lý Lan, chúng tôi không thể không đối chiếu văn học trong bức tranh đời sống xã hội và văn hóa Nam Bộ nhằm lý giải đặc trưng truyện ngắn Lý Lan. Phương pháp phỏng vấn trực tiếp: kết hợp phỏng vấn trực tiếp với những điều Lý Lan trả lời phỏng vấn trên các Báo, Đài truyền hình, chúng tôi tìm hiểu thêm về cuộc đời, tư tưởng và quan niệm sáng tác của nhà văn. Phương pháp phân tích - tổng hợp: giúp chúng tôi tiếp cận, khảo sát trực tiếp văn bản để từ đó đưa ra những luận điểm khái quát của luận văn. 6. Cấu trúc của luận văn Luận văn gồm có 176 trang. Ngoài phần Mở đầu (11 trang) , Kết luận (2 trang) và Tài liệu tham khảo (6 trang), kèm theo phần Phụ lục (9 trang), phần nội dung chính của luận văn (148 trang) gồm có ba chương như sau: Chương 1: Truyện ngắn và hoạt động văn chương của Lý Lan Trong chương này, chúng tôi giới thuyết và khái quát đặc trưng truyện ngắn, giới thiệu về hoạt động văn chương của Lý Lan. Chương 2: Con người trong truyện ngắn Lý Lan Từ nhân vật, chúng tôi tiếp cận nội dung truyện ngắn Lý Lan. Chương 3: Truyện ngắn Lý Lan: những đặc trưng về nghệ thuật Riêng chương cuối, chúng tôi đi vào làm rõ những nét đặc trưng về nghệ thuật của truyện ngắn Lý Lan. Chương 1 TRUYỆN NGẮN VÀ HOẠT ĐỘNG VĂN CHƯƠNG CỦA LÝ LAN 1.1. Truyện ngắn 1.1.1. Khái niệm Trước khi nghiên cứu truyện ngắn Lý Lan, chúng tôi muốn giới thuyết qua về thể loại, cụ thể là xác định khái niệm và đặc trưng của truyện ngắn, bởi vì việc xác định ranh giới của truyện ngắn so với các thể loại tự sự khác là điều rất cần thiết. Dù xuất hiện muộn và chưa có một hệ thống lý luận riêng như tiểu thuyết, truyện ngắn cũng đã được đề cập nhiều trong các sách văn học trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Theo định nghĩa trong từ điển nước ngoài (Encyclopedia Britannica): “Truyện ngắn thuộc nhóm tác phẩm hư cấu và thường được viết bằng văn xuôi dạng trần thuật (Brief fictional prose narrative). Phương thức này có xu hướng đi vào trọng tâm rõ nét hơn các dạng hư cấu khác như tiểu thuyết ngắn (theo khái niệm của thế kỷ XX và XXI), tiểu thuyết hay sách. Truyện ngắn có nguồn gốc từ truyền thuyết và giai thoại truyền miệng, với tình huống truyện được phác thảo và đi vào trọng tâm nhanh chóng. Do sự phát triển đáng kể của tiểu thuyết thực tế, các truyện ngắn thu hẹp lại giống như một hồi, ví dụ tiêu biểu nhất là các câu chuyện như của E.T.A. Hoffmann… Truyện ngắn có khuynh hướng ít phức tạp hơn tiểu thuyết dài. Thông thường truyện ngắn chỉ tập trung vào một biến cố, cốt truyện đơn giản, bối cảnh đơn giản, số lượng nhân vật ít, trong khoảng thời gian ngắn. Ở dạng hư cấu dài hơn, các câu chuyện có khuynh hướng chứa đựng các yếu tố kịch nghệ: sự phơi bày (giới thiệu bối cảnh, tình huống và nhân vật chính), sự phức tạp (sự việc dẫn đến xung đột); hành động trỗi dậy, khủng hoảng (thời điểm quyết định của nhân vật chính và vai trò của anh ta trong mạch diễn biến); đỉnh điểm (là thời điểm cao trào trong quá trình xung đột); giải pháp (thời điểm xung đột được giải quyết), và bài học luân lý. Tuỳ theo độ dài mà truyện ngắn có thể theo hoặc không theo mô hình này. Một số truyện hoàn toàn bỏ qua khuôn mẫu… Ví dụ các truyện ngắn hiện đại đôi khi chỉ có sự phơi bày. Điển hình hơn nữa là sự mở đầu bất ngờ với câu chuyện bắt đầu từ phần giữa của hành động (in medias res). Cũng như các truyện dài, các truyện ngắn đều có cao trào, khủng hoảng, hoặc bước ngoặt. Tuy nhiên, phần kết của nhiều truyện ngắn thường bất ngờ, bỏ ngỏ và có thể không có bài học luân lý hay thực tiễn. Cũng như các hình thức nghệ thuật khác, đặc điểm chính xác của truyện ngắn thay đổi theo từng tác giả. Khi truyện ngắn có khuynh hướng truyền tải các bài học đạo đức, nó rơi vào thể loại phụ gọi là Parables (ngụ ngôn) hoặc (Fables). Dạng truyện này được các lãnh tụ tinh thần hay tôn giáo sử dụng để truyền cảm hứng, khai sáng, giải trí và giáo dục cho môn đồ”. [13, Hồ Kim Phụng dịch]. Từ điển thuật ngữ văn học thì cho rằng: “Khác với tiểu thuyết, là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng đến việc khắc họa một hình tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người” [29, tr.371]. Theo các nhà biên soạn sách “Lí luận Văn học”, là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, “Truyện ngắn đích thực xuất hiện tương đối muộn trong lịch sử văn học. Tác giả truyện ngắn thường hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ con người hay đời sống tâm hồn con người” [79, tr.397]. Theo cách tìm hiểu dựa trên mối tương quan giữa truyện ngắn và tiểu thuyết thì truyện ngắn mang tính đơn nhất trong việc xây dựng tình huống truyện, nhân vật và chủ đề. Nội dung phản ánh của truyện ngắn chỉ nên là một vấn đề của đời sống, của con người, không nên ôm đồm nhiều chủ đề như tiểu thuyết. Do đó, người viết cần tạo cho mỗi truyện ngắn một độ căng nhất định, còn độc giả thì đọc truyện ngắn theo cách đọc liền một mạch không nghỉ cho đến khi kết thúc. Điều này được nhà văn Trung Mỹ, Juan Bosch khẳng định: “Truyện ngắn là sự trình bày một sự kiện nào đó đáng chú ý. Cố nhiên, sự kiện chỉ có thể quan trọng tới mức nào đó nhưng nó cần được độc giả tin cậy” và “Nghệ thuật viết truyện ngắn nằm ở chỗ biết nhìn ra một sự kiện, cả quyết đi thẳng tới nó, không dừng lại ở những chi tiết người viết bắt gặp giữa đường. Tất cả các chi tiết phù trợ đó phải phục tùng cho sự kiện trung tâm” [88, tr.116]. Truyện ngắn thế giới phong phú và đa dạng. Các nhà văn từng sáng tác truyện ngắn đã có những suy nghĩ về truyện ngắn khác nhau. Đáng chú ý là lời bàn luận của Konstantin Paustovski: “Truyện ngắn là một truyện viết ngắn gọn, trong đó cái không bình thường hiện ra như một cái gì bình thường, và cái gì bình thường hiện ra như một cái gì không bình thường” [88, tr.129]. Cách hiểu này có sự gặp gỡ với ý kiến của nhà văn Mỹ, Truman Capote về truyện ngắn: “Đó là một tác phẩm nghệ thuật có bề sâu nhưng lại không được dài” [88, tr.108]. Xuất phát từ dung lượng tác phẩm, cả hai cây đại thụ truyện ngắn thế giới đều khẳng định truyện ngắn phải ngắn gọn, hơn thế nữa, truyện ngắn phải là thứ để kể và để nghe. Đọc truyện ngắn là được tiếp xúc với một vấn đề của đời sống con người thông qua lăng kính của người kể chuyện. Điều này chứng tỏ truyện ngắn ra đời trong tình huống mà nhà văn đã hội tụ được sức sáng tạo dồi dào, chín tới và có nhu cầu chia sẻ điều tâm huyết của mình với độc giả, nghĩa là điều nhà văn muốn nói phải thành một câu chuyện, phải đem lại một hiệu quả, một ấn tượng cho người đọc bằng dụng công kỹ thuật viết, bằng trí tưởng tượng của nhà văn ít nhiều dựa trên cái cái gốc rễ của đời sống con người. Một truyện ngắn hay có thể ví như “Một thứ quả có nhiều vỏ, luôn làm cho đứa trẻ háu ăn bị “nhỡ tàu”. Mỗi lần bóc ra một lớp vỏ, người đọc thở phào thế là xong mọi chuyện, chắc là không phải chờ đợi gì nữa, thì một lớp vỏ khác lại hiện ra” [88, tr.117]. Cũng chính Juan Bosch nêu lên đặc trưng ngắn gọn là quy luật của việc cấu tạo tác phẩm: “Truyện ngắn đóng vai trò như vai trò của hổ báo trong đại gia đình các loài vật. Ở loài thú dữ này, không được có chút mỡ thừa dính vào mọi cơ bắp, nếu không chúng không thể săn mồi được”. Những ý nghĩ về truyện ngắn như vậy được Nguyễn Minh Châu tán đồng khá hình tượng: “Truyện ngắn như mặt cắt giữa một thân cây cổ thụ, chỉ liếc qua những đường vân trên thân gỗ tròn tròn kia, dù sao trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời thảo mộc”[14, tr.45]. Từ đó, chúng ta nhận thấy vấn đề sáng tạo truyện ngắn và vai trò của nhà văn. Truyện ngắn đòi hỏi ở người viết cách tổ chức tác phẩm hết sức nghiêm nhặt, tuân thủ theo dung lượng tác phẩm quy định. Tiểu thuyết mô tả cả cuộc đời con người nên nhà văn có thể viết dài, kể nhiều đoạn phụ, còn với truyện ngắn thì nhà văn phải lao động cật lực ngay từ câu mở đầu và có một kế hoạch tính toán kỹ lưỡng, sát sao từ việc lựa chọn cốt truyện, chi tiết, miêu tả nhân vật, sự kiện, giọng điệu kể chuyện sao cho đạt được hiệu quả cao nhất về nghệ thuật và tư tưởng. Trong cách hiểu truyện ngắn này, chúng ta cũng nhận thấy khả năng lớn lao có thể nói là vô tận của truyện ngắn khi nó đem lại cho người đọc sự liên tưởng lớn hơn số lượng câu chữ hạn hẹp. Đọc truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam, chúng ta không chỉ dừng lại ở cái khoảnh khắc ngày tàn và đêm tối ở phố huyện, ở tâm trạng hai đứa trẻ mà là cả niềm hoài vọng của đời người. Đâu chỉ có một chuyến tàu đêm cụ thể qua phố huyện, chuyến tàu trong truyện ngắn này còn là niềm mong đợi của mỗi con người trên thế gian cho hành trình sống của mình. Với khả năng lớn lao và nhiều triển vọng như thế, truyện ngắn đã mở rộng giới hạn của nó. Truyện ngắn ngày nay không còn bó buộc vào khuôn mẫu gò bó nào: “Đây là một thể tài hết sức năng động, phản ứng rất nhanh, dễ điều chỉnh, và mau thu được kết quả. Đó là một thứ ruồi dấm, trong đó, có thể dễ dàng theo dõi các quy luật sáng tạo của nhà văn, cũng là theo dõi việc giải quyết những vấn đề được đề cập tới” (Kuranôp) [88, tr.144]. Hiện nay có truyện ngắn gần với thơ, truyện ngắn rất ngắn, truyện ngắn gần với kịch, truyện ngắn tiểu thuyết hóa…Tính nhanh nhạy và thích ứng cơ động của truyện ngắn đã đưa truyện ngắn đi xa._. hơn sự mong đợi của nhiều người. Những truyện ngắn giàu chất thơ đem đến cho văn xuôi sự nồng ấm, mềm mại hơn. Những truyện ngắn giàu kịch tính giúp truyện ngắn sắc nhọn hơn khi phản ánh các vấn đề xã hội, hoặc loại truyện ngắn rất ngắn thì thật sự phù hợp với đời sống hiện đại mà vẫn chuyên chở được tâm tư tình cảm con người ở nhiều góc độ khác nhau. Qua việc tìm hiểu một số quan niệm về truyện ngắn của các nhà văn trong và ngoài nước, chúng ta nhận thấy truyện ngắn là một thể tài mà “hình thức nhỏ” nhưng “không có nghĩa là nội dung không lớn lao” [88, tr.124]. Được sinh ra từ những câu chuyện kể hằng ngày rất tự nhiên, truyện ngắn hình thành và phát triển vượt bậc với sức mạnh dẻo dai phi thường qua sự sáng tạo của nhiều thế hệ nhà văn. Đến nay truyện ngắn đã khẳng định vị trí của mình trong hệ thống thể loại tự sự của văn học thế giới. Những khái niệm về truyện ngắn như trên đã phần nào giúp chúng ta đi vào tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn. 1.1.2. Đặc trưng 1.1.2.1 Đặc trưng cơ bản nhất của truyện ngắn chính là tính chất ngắn gọn, cô đúc bắt nguồn từ dung lượng của tác phẩm. Trong mối tương quan với truyện vừa, tiểu thuyết, truyện ngắn nổi bật lên ở dung lượng “ngắn”. Ngay bản thân thuật ngữ “truyện ngắn” trong tiếng Việt đã nói rõ điều này. Tác phẩm truyện ngắn phải có sự quy định về khối lượng câu chữ “ngắn” trong nội dung phải có “truyện”. Nhà văn Antônôp cho rằng:“Chính việc truyện ngắn phải ngắn khiến cho nó tự phân biệt một cách dứt khoát và rành rọt bên cạnh truyện vừa và tiểu thuyết” [88, tr.179]. Nhà văn Tô Hoài cũng cho rằng “Truyện ngắn chính là cưa lấy một khúc của đời sống” [88, 9]. Như vậy, dung lượng “ngắn” vừa là khối lượng câu chữ vừa là nội dung phản ánh của truyện ngắn, đồng thời còn là quy tắc sáng tạo của nhà văn. Đọc một truyện ngắn, độc giả phải khám phá được ít nhất một vấn đề về cuộc sống, về nhân sinh, được bồi đắp thêm mỹ cảm cho tâm hồn. Tuy nhiên, cụ thể “ngắn” như thế nào vẫn còn là vấn đề để mở, chưa ai đưa ra được giới hạn nhất định cho độ dài của truyện ngắn. Theo nhận định của các nhà lý luận nước ngoài thì “Xác định chính xác ranh giới giữa truyện ngắn và truyện dài là một vấn đề phức tạp. Theo định nghĩa cổ điển truyện ngắn là truyện có thể đọc chỉ trong chốc lát, một điểm được nhấn mạnh trong tác phẩm của Edgar Allan Poe's "The Philosophy of Composition" (1846). Một số định nghĩa khác quy định số lượng từ ngữ tối đa là khoảng 7000 đến 9000. Ta có thể tham khảo định nghĩa của hiệp hội Science Fiction and Fantasy Writers of America trong phần hướng dẫn nộp bài dự thi giải thưởng Nebula Awards đối với truyện ngắn thể loại khoa học viễn tưởng là số lượng từ ít hơn 7500. Hiện nay định nghĩa truyện ngắn được dùng cho các tác phẩm không dài quá 20,000 từ và không ngắn hơn 1000 từ. Các truyện ngắn hơn 1000 từ được gọi là “tiểu thuyết cực ngắn” hoặc “truyện rất ngắn” (flash fiction) [13, Hồ Kim Phụng dịch]. Cô gọn trong truyện ngắn, cũng theo Antônốp, dung lượng truyện ngắn cổ điển sẽ từ bảy, tám trang đánh máy. Thực tế sáng tác lại khác, ý kiến của Lê Huy Bắc đáng để suy ngẫm: “Dung lượng truyện ngắn kéo dài từ vài chục chữ đến 20.000 chữ” [8, tr.28]. Như vậy, thể tài này không quy định nghiêm ngặt khối lượng chữ viết. Truyện ngắn vẫn có độ co giản hợp lý, tùy theo nội dung tác giả chuyển tải sẽ có hình thức phù hợp. Nhà văn William Saroyan cho rằng “Truyện ngắn đó là một cái gì không cùng”, nghĩa là trong sự quy định của dung lượng, nhà văn có thể xoay sở nhiều cách viết, có thể nói về mọi vấn đề của cuộc sống con người. Phẩm chất “ngắn” của thể tài này gắn chặt với phương diện tồn tại của nó là báo chí. Là thể tài “đích thực xuất hiện muộn trong lịch sử văn học” [79, tr.397], cho nên mảnh đất báo chí phù hợp để truyện ngắn nảy lộc đâm chồi. Ở Mỹ, người ta gọi đây là một “thể tài dân tộc”, vì phần lớn các tờ báo ở Mỹ đều có in truyện ngắn. Tại Việt Nam, đa số các cây bút viết truyện ngắn như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài, Nguyễn Quang Sáng, Lý Lan …đều có tác phẩm được in trên báo trước, về sau mới tập hợp thành tập để xuất bản. Trong khuôn khổ quy định của các cột báo, mỗi truyện ngắn chỉ được phép tồn tại theo khối lượng chữ nhất định. Ngoài ra, người đọc báo cũng cần quan tâm nhiều đến thời gian. Để làm rõ điều này, ý kiến của S. Maugham, nhà văn hiện đại người Anh lại rất gần gũi với ý kiến E. Poe, nhà văn Mỹ, ở chỗ: “Truyện ngắn là một tác phẩm tùy dài ngắn, người ta có thể đọc được trong mười phút hay một giờ, trong đó mọi việc chỉ liên quan đến một đối tượng hay một trường hợp duy nhất, được xác định rõ ràng. Hoặc như mọi chuyện có liên quan tới một loạt trường hợp khác nhau nữa, tất cả phải được phối hợp lại trong một hình thức trọn vẹn. Truyện ngắn cần phải viết sao để người ta không thể bổ sung thêm vào đó chút gì, cũng không thể rút ra bớt chút gì hết” [88, tr.182]. Như vậy, thời gian cho phép là từ dăm bảy phút cho đến hơn một giờ đồng hồ để có thể đọc một truyện ngắn là hoàn toàn phù hợp với phần đông công chúng hiện đại. Xuất phát từ thực tế đời sống với gánh nặng công việc dồn dập, quĩ thời gian hạn hẹp, nhu cầu thẩm mỹ của phần lớn độc giả hiện đại đã thúc đẩy truyện ngắn trở thành thể văn được độc giả ưa chuộng hơn cả. Chính dung lượng nhỏ đã đem lại cho tác phẩm truyện ngắn tính hàm súc và cô đọng. Truyện ngắn do đó thu dần khoảng cách để đến với thơ. Nhà văn Ái Nhĩ Lan, Frank O’Connor rất ưa thích sáng tạo truyện ngắn vì cho rằng thể tài này rất gần với thơ trữ tình. Nhà văn Kuranôp cũng tán đồng với ý kiến đó: “Việc xích lại gần với thơ làm cho văn xuôi trở nên sâu sắc hơn, vừa dễ hiểu hơn, thứ dòng chảy ngầm này cần cho mọi truyện ngắn…có thể ngắn gọn mà vẫn súc tích” [88, tr.145]. Ma Văn Kháng khẳng định cái đức tính phải có của truyện ngắn là giàu chất thơ, thứ “chất thơ chân thật” làm nên những truyện ngắn “có cái gì hơi hơi bay một tí, không nên mơ màng quá mà trần trụi quá cũng không ổn” [88, tr.68]. Nhà văn Vũ Thị Thường cũng nhìn nhận sáng tác truyện ngắn còn yêu cầu nhà văn nuôi cảm xúc trong sáng tạo, điều mà tiểu thuyết không thể có được suốt chặng đường dài từ lúc phôi thai cho đến đủ hình hài tác phẩm. Ngắn gọn, cô đúc, truyện ngắn yêu cầu nhà văn nắm chắc kỹ thuật của thể loại qua những đặc trưng nghệ thuật biểu hiện riêng biệt như: tình huống truyện, nhân vật, chi tiết nghệ thuật, kết cấu, lời văn nghệ thuật… 1.1.2.2 Đặc trưng thứ hai của truyện ngắn chính là tính nhất quán ở các phương thức biểu hiện: tình huống truyện, nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ… Nếu như tiểu thuyết mang tính tổng hợp thì truyện ngắn bộc lộ rõ nhất khuynh hướng khắc họa “tính chất đơn nhất…về mặt chọn tình thế… giọng điệu…nhân vật…”. [108, tr.379]. Nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương đã tổng luận như sau: “Có thể so sánh việc đọc tiểu thuyết với một cuộc đi dạo xuyên qua những địa điểm khác nhau và giả định có một lần âm thầm quay lại; còn đọc truyện ngắn thì giống như leo lên một ngọn đồi để thưởng lãm toàn cảnh thiên nhiên từ một độ cao”[101, tr.73]. Sự so sánh hình tượng này giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn khi tìm hiểu những biểu hiện nghệ thuật của truyện ngắn. Cốt truyện là thành phần quan trọng, cốt yếu của tự sự, đặt biệt có vai trò quan trọng trong truyện ngắn. S. Maugham đã từng cho rằng: “Nhà văn sống bằng cốt truyện, y như họa sĩ sống bằng màu và bút vẽ vậy” [26, tr.16]. Điều này chứng tỏ cốt truyện là nơi thử thách sự sáng tạo của nhà văn. Với chức năng chính là bộc lộ các mâu thuẫn quan trọng trong đời sống, cốt truyện của truyện ngắn có thể được khai thác từ các sự kiện có thật trong đời sống, từ các tác phẩm văn học, từ kinh nghiệm sống của bản thân tác giả hoặc tưởng tượng hoàn toàn nhưng đều được nhào nặn qua sự hư cấu nghệ thuật của nhà văn. Việc sáng tạo ra cốt truyện từ những sự kiện trong đời sống của nhà văn khiến họ ngang hàng với công việc của những người thợ làm ra ngọc quý. Theo các nhà văn viết truyện ngắn, truyện ngắn thường có hai loại cốt truyện là “cốt truyện sắc nhọn” và “cốt truyện tâm tình”. Truyện ngắn có “cốt truyện sắc nhọn” là loại truyện mà nhà văn sáng tạo ra các cốt truyện li kì, hấp dẫn. Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài, Nguyễn Huy Thiệp…là những tác giả thành công về loại truyện kể về một trường hợp đặc biệt nào đó. Truyện ngắn có “cốt truyện tâm tình” là loại truyện mà dường như không chuyện gì xảy ra, hoặc chỉ kể về những sự kiện đơn giản, bình thường, không có mâu thuẫn gì đáng kể. Paustovski, Thạch Lam, Nguyễn Thành Long, Đỗ Chu…là những nhà văn thành công với loại truyện dường như chẳng có chuyện gì xảy ra quan trọng mà người đọc vẫn thấy thích thú. Truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa của Thạch Lam là một tác phẩm có cấu trúc phi cốt truyện, vì trong đó các sự vật, hiện tượng chỉ được liệt kê, sắp xếp nhưng không có sự vận động, chuyển hóa nào. Nhà văn đã khai thác nét biến cố tâm lý là lòng trắc ẩn, thương người của hai đứa trẻ để làm nét thi pháp cốt truyện. So với tiểu thuyết, “cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một thời gian, không gian hạn chế, chức năng của nó nói chung là nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời, về tình người” [29, tr.371]. Nếu như tiểu thuyết cho phép nhà văn tái hiện, xây dựng nhiều mâu thuẫn, nhiều xung đột trong cuộc sống với các chiều kích không gian và thời gian mở rộng thì truyện ngắn lại tập trung vào một khoảnh khắc trong cuộc đời nhân vật. Do đó, việc sáng tạo truyện ngắn yêu cầu nhà văn phải tìm ra được một tình huống truyện. Tình huống truyện là thời điểm một sự việc, một sự kiện xảy ra đối với nhân vật, đưa nhân vật vào tình thế phải đầu đầu, phải bộc lộ tích cách và hành động, tức là vấn đề chính của truyện ngắn được mở ra. Với mỗi truyện ngắn, cơ bản nhất là người viết phải tìm ra, phải sáng tạo cho được một tình huống truyện, cái mà các nhà nghiên cứu, các nhà văn nước ta gọi là “cái moment”, “cái tình thế”, “tình huống” hay “cái phút chốc”. Nhà văn phải tạo ra tình huống sao cho “châu tuần lại những con người vốn cách xa nhau, cho họ tham gia vào chủ đề giữa họ với nhau, sẽ nảy ra tính cách của họ” [88, tr.52]. Vì vậy, nhân vật thường được đặt trong tình huống đối diện với hoàn cảnh hoặc đối diện với chính mình. Nói như Nguyên Ngọc, mỗi truyện ngắn phải “điểm huyệt hiện thực” bằng cách “mỗi truyện ngắn bao giờ cũng được xây dựng trên một tình huống và khai thác tình huống đó” [108, tr.365]. Nhà văn xây dựng truyện ngắn thường trên cơ sở khai thác một mối xung đột, một mâu thuẫn, một tan vỡ, một sai lầm hay một tương phản để tìm ra cái khoảnh khắc giá trị cho truyện ngắn của mình. Truyện ngắn Cần Giuộc của Lý Lan đã tạo ra một tình huống truyện độc đáo. Nhà văn triển khai câu chuyện từ một chuyến xe đò về Cần Giuộc của một cô giáo trẻ vừa ra trường, đi nhận nhiệm sở lần đầu tiên. Trên chuyến xe này, cô chứng kiến bao mảnh đời khác nhau, cách cư xử của con người với nhau, từ đó mà cô gái nhận thức được cuộc sống quanh mình. Tương tự, truyện ngắn Trăng nơi đáy giếng của Trần Thùy Mai, Sang sông của Nguyễn Huy Thiệp, Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu…đều là những “mặt cắt của dòng đời” mà mỗi nhà văn đã sáng tạo ra để góp một tiếng nói riêng của mình về cuộc đời, về tình người. Trong xây dựng truyện ngắn, việc tìm ra cốt truyện và tình huống truyện chiếm hơn một nửa giá trị của truyện nhưng nhà văn còn đặc biệt chú ý đến hai yếu tố quan trọng nữa là chi tiết và kết cấu tác phẩm. Chi tiết chiếm dung lượng lớn trong truyện ngắn, vì nó sẽ góp phần cụ thể hoá cảnh trí, không khí, tính cách, hành động và tâm tư nhân vật. Tiểu thuyết trong giới hạn rộng rãi của nó có thể chứa đựng nhiều cuộc đời, chứa đựng những suy tư của nhân vật về thế giới, về đời người, về toàn bộ sự tồn tại của con người. Còn truyện ngắn thì không phải như vậy. Chính dung lượng ngắn đã buộc nhà văn khi sáng tác phải tránh lối kể chuyện vòng vo, tránh những câu, những đoạn kể cho trôi câu chuyện. Truyện ngắn luôn đòi hỏi nhà văn phải không ngừng sáng tạo trong việc quan sát, tìm tòi, chọn lựa và xây dựng chi tiết nghệ thuật. Nhà văn Nguyễn Công Hoan nhấn mạnh: “Cũng như muốn cái lò xo bật cao, ta phải dùng sức mạnh ấn cái cần xuống, rồi hãy buông ra. Cho nên, muốm triển khai một ý, một vấn đề thì tôi tìm những chi tiết để ấn cái lò xo tình cảm của độc giả xuống mạnh, rồi để cái lò xo bật cao. Ở đây kinh nghiệm càng cho thấy rằng phải đặt được ý, được vấn đề thì mới chọn đúng chi tiết cần thiết, không tham lam, không lông bông. Bố trí không chặt, truyện ngắn không viết được ngắn” [108, tr.305-306]. Như vậy, chi tiết là nội dung của truyện ngắn. Chính chi tiết sẽ cụ thể cho chủ đề chung mà tác giả muốn diễn đạt. Nhà văn cần phải làm chủ ngòi bút của mình một cách thận trọng để tránh đi trật hướng chủ đề đã chọn. Nhà văn chọn chi tiết nào thì chi tiết đó phải mang lại ý nghĩa gì đối với sự phát triển của hành động trong truyện, tức là hướng đến cái chủ đề mình đã định hướng. Nhà văn Vũ Thị Thường thì khẳng định vai trò của chi tiết trong việc xây dựng nhân vật truyện ngắn như sau: “Truyện ngắn sống bằng nhân vật, chi tiết chỉ có ý nghĩa khi góp phần tạo nên nhân vật” [88, tr.35]. Như vậy, chi tiết vừa là phương tiện cho nhà văn khắc họa nhân vật vừa góp phần thể hiện chủ đề, tư tưởng của truyện ngắn: “Trong truyện ngắn chính những chi tiết sắc, đắt đến sợ như vậy làm nên cái ta vẫn thường quen gọi là nội dung hay tư tưởng của truyện” . Việc sử dụng chi tiết trong tác phẩm truyện ngắn còn thể hiện tài năng của tác giả. A. Tsekhov đã khẳng định: “Trong việc miêu tả thiên nhiên, cần biết chọn lấy những chi tiết có vẻ bé nhỏ, nhưng gộp chúng nó lại sao cho sau khi đọc, có thể hình dung ra cả bức tranh” [88, tr.79]. Sự chọn lọc chi tiết trong truyện ngắn là rất cần thiết, nếu nhà văn sử dụng quá nhiều chi tiết thì truyện ngắn sẽ ôm đồm, chồng chất, ngược lại, thiếu chi tiết thì truyện ngắn khó thành công. Chi tiết hình thành do quá trình tích lũy của nhà văn trong cuộc sống. Họ cần có khả năng quan sát hiện thực sâu sắc, tích lũy chi tiết, thậm chí ghi chép cẩn thận để khi nguồn cảm hứng hình thành, khi nhà văn có nhu cầu sáng tác thì chi tiết đời sống mới có khả năng trở thành chi tiết nghệ thuật. Quả đúng là với truyện ngắn, “những bậc thầy truyện ngắn bao giờ cũng là những bậc thầy về chi tiết” [88, tr.73]. Sức hấp dẫn của truyện ngắn chính một phần là ở các chi tiết, đặc biệt là các chi tiết điển hình sâu sắc trong truyện ngắn có vai trò quan trọng như mạch máu nuôi cơ thể con người. Ấn tượng mà mỗi truyện ngắn đem lại chính là độc giả phát hiện ra các chi tiết thú vị. Trên thực tế, có thể độc giả quên tên một truyện ngắn nhưng họ vẫn có thể kể lại truyện ngắn đó qua các chi tiết tiêu biểu và ấn tượng. Trong truyện ngắn Một bữa no của Nam Cao, chi tiết bà lão nghèo vì quá đói khổ đã cố ăn những hạt cơm còn sót lại trong nồi để rồi thổ tả mà chết, để lại những ấn tượng lâu bền và giàu sức ảm ảnh trong lòng độc giả. Chi tiết quan huyện “ăn bẩn” hai đồng hào lẻ của người dân nghèo đi kiện ngay tại chốn công đường trong truyện ngắn Đồng hào có ma của Nguyễn Công Hoan đã để lại những dư vị ngậm ngùi trong tâm hồn người đọc về thân phận người nông dân nghèo nước ta trước Cách mạng. Nhà văn Nguyễn Công Hoan đã từng định nghĩa “Truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết” [88, tr.15]. Truyện ngắn có thể thiếu một cốt truyện tiêu biểu nhưng bắt buộc phải có chi tiết, bởi lẽ “Truyện ngắn không thể nghèo chi tiết. Nó sẽ như nước lã” (Nguyên Ngọc)[109, tr.370]. Chẳng hạn, khi chọn chi tiết giấc mơ thấy núi của cô gái trong truyện ngắn Chiêm bao thấy núi, Lý Lan không đơn thuần là đưa một thông tin về tín ngưỡng vào truyện, nhà văn còn định hướng chủ đề tác phẩm: có những giai đoạn trong cuộc sống, người ta không định hướng được cuộc đời mình, suy nghĩ của mình nên đôi khi người ta phó thác cho những điều huyền hoặc. Cô gái đi tìm câu trả lời cho giấc mơ thấy núi này, chính là hướng đến việc cô giải bày thái độ của mình về sự vô tâm của những người bạn thân trước cái chết của một người bạn gái khác. Nhà văn khi sáng tạo truyện ngắn cũng rất chú ý đến cách tổ chức tác phẩm. Kết cấu truyện ngắn do đó cũng đa dạng và phong phú như chính cuộc sống muôn màu trong thực tế. Truyện ngắn có thể được kết cấu xâu chuỗi theo trình tự thời gian hoặc theo hành động sự kiện, kết cấu tâm lý, kết cấu lắp ghép hoặc kết cấu đồng hiện. Nhìn chung thì các thủ pháp kết cấu trong truyện ngắn thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn và quyết định sự thành công của truyện ngắn. Trong cách xây dựng truyện ngắn, nhà văn cũng tập trung chú ý đến phần mở đầu và đoạn kết của truyện, bởi vì truyện ngắn đòi hỏi “không có cái gì được thừa cũng y như trên một boong tàu quân sự, ở đó tất cả phải đâu vào đấy” (A.Tsekhov) [88, tr.80]. Có vô số cách mở đầu truyện ngắn. Nhưng quan trọng là câu mở đầu phải “là một thứ âm chuẩn” giúp cho việc tạo nên âm hưởng chung cho toàn bộ truyện ngắn. Nhà văn một khi đã tìm ra được cách vào truyện tức là họ đã tìm ra cách dẫn câu chuyện đó theo một nhịp điệu riêng. Vì hướng tới hiệu quả tác động duy nhất, truyện ngắn cũng cần phải xây dựng một đoạn kết độc đáo và ấn tượng. Cách chấm dứt câu chuyện của mỗi nhà văn sẽ thể hiện tài năng sáng tạo của họ. Trước đây, truyện ngắn thường kết thúc bằng một kết cục có hậu, giải quyết hoàn toàn các vấn đề. Truyện ngắn hiện đại thường chọn loại kết thúc mở, cũng có thể gọi là kết thúc không có hậu. Câu chuyện dừng lại nhưng vấn đề, sự kiện, nhân vật do nhà văn nêu ra vẫn ám ảnh, day dứt người đọc. Nhà văn không phải là người hướng dẫn, “răn dạy” bạn đọc mà họ chỉ gợi ra vấn đề bằng cách kể câu chuyện đó, còn người đọc thì tiếp nhận câu chuyện như một cuộc đối thoại ngầm về cuộc sống đang từng ngày biến động không ngừng. Tạ Duy Anh cho nhân vật của những truyện ngắn Bước qua lời nguyền, Vòng trầm luân trần gian nổi loạn, Nguyễn Minh Châu để Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát và Chiếc thuyền ngoài xa kết thúc khi nhân vật đang trong quá trình đi vào tìm hiểu hành trình sống của mình. Truyện ngắn cũng có thể kết thúc bằng cách đưa ra nhiều kiểu kết thúc để hướng độc giả tự do chọn lựa, do vậy họ cũng đồng sáng tạo như trường hợp Vàng lửa, Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp, Một chuyện cổ điển của Phạm Thị Hoài… Ngoài ra, sức mạnh của truyện ngắn còn do nhân vật và ngôn ngữ truyện ngắn đem lại. Nhân vật chiếm một vị trí đáng kể trong truyện ngắn. Nhân vật do nhà văn tạo ra nhưng nó có một đời sống riêng trong tác phẩm văn học. Khi sáng tác truyện ngắn cũng là lúc nhà văn tái hiện lại sự sống. Bất cứ chủ đề nào, tư tưởng nào đều được nhân vật thể hiện qua tâm trạng, hành động. Nhân vật có thể là người thật hoặc nhân vật sáng tạo hoàn toàn. Với truyện ngắn, nhân vật có thể là đồ vật như chiếc quan tài trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Công Hoan, có thể là con vật như con voi trong truyện ngắn Chú voi con của R.Kipling…nhưng phần lớn nhân vật trong truyện ngắn là con người. Con người trong truyện ngắn vì vậy có thể đông, nhưng thông thường, mỗi truyện ngắn chỉ nên khắc họa một vài chân dung, tính cách là đã đạt yêu cầu. Nếu “nhân vật chính của tiểu thuyết thường là một thế giới, thì nhân vật truyện ngắn thường là một mảnh nhỏ của thế giới. Nhân vật truyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người” [79, tr.73]. Đây cũng là điểm phân biệt giữa truyện ngắn và các thể tài tự sự khác. Dù không trọn vẹn một cuộc đời nhưng qua vài cảnh đời, những chốc lát trong cuộc đời nhân vật thì nhà văn vẫn đủ sức lôi cuốn bạn đọc cùng suy ngẫm về cuộc đời. Mỗi truyện ngắn là một công trình sáng tạo của nhà văn mà ngôn ngữ là một trong các nhân tố đặc trưng tạo thành tác phẩm. Sự tổ chức truyện ngắn còn phụ thuộc vào nghệ thuật sử dụng ngôn từ nghệ thuật của tác giả. Sergei Vovonin, nhà văn Liên Xô hiện đại, đã nhận định về ngôn ngữ truyện ngắn “thứ ngôn ngữ cô đọng, chính xác, trong sáng và vang lên theo cách của mình. Chính thứ ngôn ngữ này truyền đạt tư tưởng, xây dựng tính cách, khiến cho truyện ngắn tràn đầy nhạc điệu” [88, tr.168]. Cùng quan điểm như thế, nhà văn Paustovski đưa ra một số “quy tắc vàng” để nhắc nhở người viết văn cần lưu ý khi sáng tạo là ngôn ngữ truyện ngắn không chỉ kể chuyện ngắn gọn, khắc họa nhân vật, chủ đề mà còn phải tạo cho nó cái nhịp điệu riêng thể hiện cá tính tác giả. Như vậy, chúng ta có thể hiểu ngôn ngữ truyện ngắn là ngôn ngữ được ý thức cao độ. Trong chuẩn mực ngắn gọn, cô đúc của mình, truyện ngắn buộc nhà văn phải cẩn trọng trong việc sử dụng câu chữ. Nhà văn Ma Văn Kháng nói về những kinh nghiệm viết văn như sau: “Với người viết truyện ngắn, cái khó bắt đầu ngay ở chữ dùng…Câu trong truyện ngắn cũng phải cân nhắc lắm” [88, tr.69]. Đây là điều mà hầu như các nhà văn nước ngoài và Việt Nam đều thống nhất với nhau rằng sáng tác truyện ngắn là một công việc gặp nhiều khó khăn. Trên mảnh đất truyện ngắn này, mỗi nhà văn phải là một người làm vườn cần mẫn và say mê sáng tạo câu chữ, phải lao tâm khổ tứ không ngừng như A.Fadeev đã từng nói là truyện ngắn “đòi hỏi lao động công phu về mặt ngôn ngữ của nhà văn” [88, tr.126]. Mỗi nhà văn viết truyện ngắn phải tốn nhiều công sức gọt giũa, chọn lọc lời văn nghệ thuật gồm ngôn ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật và giọng điệu của truyện. Họ phải tuân thủ những yêu cầu về việc sử dụng ngôn ngữ chung và đạt yêu cầu cao về cá tính sáng tạo như bảo đảm tính chính xác ý nghĩa của từ ngữ, xây dựng đối thoại đa dạng nhưng sâu sắc, hình thành giọng điệu kể chuyện riêng biệt để ngôn ngữ truyện ngắn giản dị, chính xác và tươi tắn. Mỗi nhà văn không chỉ luyện viết ngắn gọn mà còn phải can đảm cắt xén tác phẩm, thường xuyên sửa chữa và kiểm tra, rà soát lại truyện ngắn của mình như cách mà Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan đã làm với truyện ngắn của các ông. Quả thật, “truyện ngắn là một trường học tốt nhất đối với nhà văn” [88, tr.121], ít nhất là về mặt luyện văn. Đỗ Chu cho rằng: “Cái thú của người viết truyện ngắn là phải chăm sóc từng chữ. Câu chữ phải trở nên có nhung có tuyết. Kể cả khi làm ra vẻ trần trụi, thì đó cũng là sự trần trụi được chọn lọc, mà không được xác vờ như khố tả” [88, tr.73]. Chính sự “trau chuốt kỹ càng” của tác giả mà người đọc truyện ngắn có thể cảm nhận được cả cái nhịp điệu riêng của truyện ngắn mình thưởng thức. Vì đọc một truyện ngắn, độc giả đâu chỉ đơn thuần là giải trí, họ đọc văn và vừa đọc vừa ngẫm nghĩ. Một truyện ngắn hay không phải chỉ đạt được ngôn ngữ ngắn gọn, súc tích, giàu dư âm trong lòng độc giả “tuyệt vời” mà còn phải đạt sự giản dị để mọi người hiểu. Nhà văn William Faulner đã yêu cầu: “Nhà văn phải sử dụng ngôn ngữ sao cho mọi người có thể tiếp nhận được, và trong những gì anh viết ra, mỗi lời vang lên một ý nghĩa đặc biệt mà mọi người có thể đồng tình” [88, tr.102]. Như vậy, ngôn ngữ truyện ngắn đặt ra yêu cầu hết sức quan trọng là nhà văn phải không ngừng trau dồi vốn ngôn ngữ chung của dân tộc mình mà còn phải tích lũy vốn sống và không ngừng học hỏi, tìm hiểu và sáng tạo để đem lại cho truyện ngắn thứ ngôn ngữ riêng cô gọn và điêu luyện nhất. 1.1.2.3. Tính hiệu quả cao làm nên đặc trưng thứ ba của truyện ngắn. Nhà nghiên cứu V. Parrington đưa ra luận điểm: “Truyện ngắn thường được coi là thể tài trong đó thể hiện rõ ràng nhất tinh thần dân tộc Mỹ tức ý hướng sùng bái hiệu quả, cố hết sức loại bỏ những gì dư thừa và một nỗi khao khát thường xuyên là đi tìm một thứ kỹ thuật sao cho đáng gọi là hoàn thiện” [88, tr.190]. Trong nhận định này, tác giả nhấn mạnh hiệu quả tác động của truyện ngắn ảnh hưởng đến cả hai phía người sáng tác và người tiếp nhận. Đối với người tiếp nhận, tiềm lực tác động của truyện ngắn là tạo ra một “sức nổ rất lớn” [88, tr.73]. Việc đọc truyện ngắn đem lại cho độc giả sự thỏa mãn trí óc, sự hưng phấn tinh thần bằng những nụ cười rạng rỡ hoặc những dòng nước mắt ứa trào. Việc sáng tạo truyện ngắn cũng đặt ra một yêu cầu cao đối với nhà văn là mỗi truyện ngắn bắt buộc phải để lại một ấn tượng. Truyện ngắn nào không để lại dư vị gì trong lòng bạn đọc thì xem như hỏng hoàn toàn. Đối với nhà văn, truyện ngắn còn là cả một thách thức nghề nghiệp. Đa số các nhà văn khi chia sẻ kinh nghiệm viết truyện ngắn của mình đều có chung một nhận xét là viết truyện ngắn rất khó. Mỗi người cầm bút đến với thể tài này đều hiểu phải dành phần công phu lao động rất lớn trong quá trình sáng tác. Họ muốn tung hoành ngòi bút của mình thì họ cần có vốn sống, vốn chữ nghĩa và cả vốn văn hóa nữa. Nhà văn người Anh, S.Maugham cho rằng trong khối lượng khoảng 12.000 chữ, bản thân ông phải “xoay xỏa vã mồ hôi” để có thể phát triển chủ đề truyện, viết một cách ngắn gọn để tác phẩm đạt được cốt cách nghệ thuật. Cùng với ý nghĩ này, Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan đều công nhận việc viết truyện ngắn là công việc của một người làm vườn. Trên số lượng hạn định chữ viết, bất cứ nhà văn nào cũng phải biết tỉa tót truyện ngắn của mình. Đỗ Chu khẳng định: “Nhà văn phải chăm sóc tới từng chữ”. Người viết truyện ngắn hơn ai hết đều phải hiểu: “Tinh thần của thời đại đòi hỏi nghệ thuật những hình thức thể hiện càng cô đặc” [12, tr.21], nghĩa là nhà văn phải gia công sáng tạo tình huống, chi tiết, ngôn ngữ giọng điệu …trong sự hạn hẹp câu chữ cho phép. Truyện ngắn đem lại cho bản thân người cầm viết niềm say mê vô tận trong việc khám phá nghệ thuật. Viết truyện ngắn “là mặc cái áo dạ hội sặc sỡ và ấn tượng” (Lý Lan) [98], mà áo dạ hội thì không thể chỉ có một cái duy nhất. Vì vậy, sức hấp dẫn của truyện ngắn là chính bản thân nó thay đổi không ngừng về các phương thức thể hiện. Không biết bao người đã chọn truyện ngắn để thử sức viết, để luyện văn, thậm chí là một niềm yêu thích sáng tạo lâu dài như A. Tsekhov…đều chú ý đến tính hiệu quả của truyện ngắn. Suy cho cùng, tính hiệu quả của truyện ngắn là bản thân mỗi truyện ngắn phải làm nên giá trị văn học. Đọc truyện ngắn không đơn thuần là biết sự việc gì xảy ra mà là sự khám phá vô tận về đời sống con người, sự học hỏi làm giàu thêm cho tâm hồn con người. Quả đúng như Vương Trí Nhàn đã nêu ra: “Cái đặc điểm duy nhất cũng rõ nhất của truyện ngắn là nằm trong chính sự ngắn gọn của nó, với điều kiện là sự ngắn gọn này đủ tạo nên một hiệu quả nhất định”[109, tr.388]. Vì vậy, mỗi truyện ngắn hay phải đọng lại những âm vang sâu lắng trong lòng người đọc. 1.1.2.4. Rõ ràng, chính truyện ngắn đem lại hiệu quả thẩm mỹ cao cho người thưởng thức và cả người sáng tác do xuất phát từ một phẩm chất không kém phần quan trọng là tính năng động kịp thời trước các vấn đề thời sự của nó. Nhà văn người Nhật, Kôbô Abê trong một cuộc đối thoại văn chương đã cho rằng: “Tính kịp thời là một đặc điểm đáng ngạc nhiên của truyện ngắn” [88, tr.114]. Vì sáng tạo truyện ngắn, các nhà văn có cái lợi lớn là “nó cho phép hôm nay người ta viết ngay về những sự kiện hôm qua”. Sự nghiêm nhặt về dung lượng “ngắn”, nội dung có thể bé nhỏ hơn so với nội dung phản ánh của tiểu thuyết đã cho phép những vấn đề của hiện thực dễ dàng đi vào truyện ngắn. Do đó, truyện ngắn ngày càng chiếm lĩnh vị trí cao trên văn đàn văn học hiện đại thế giới và Việt Nam. Truyện ngắn cơ động và linh hoạt, bắt nhạy hiện thực ở những khía cạnh sắc nét và điển hình nên rất phù hợp với những đổi thay không ngừng của cuộc sống hiện đại. Truyện ngắn có thuận lợi trong việc nắm bắt và thể hiện những khía cạnh nổi bật của một hiện thực xã hội mới đang không ngừng vận động chuyển biến. Truyện ngắn có mặt ngay buổi đầu của các nền văn học mới phát triển. Ngay những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, văn học ở miền Bắc nước ta đã có những truyện ngắn hay của Kim Lân, Trần Đăng, Nam Cao…phản ánh cuộc sống, xã hội và con người miền Bắc trong đấu tranh và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hiện thực cuộc chiến đấu và sinh hoạt của con người miền Nam chống Mỹ ngồn ngộn hiện lên trong truyện ngắn của Anh Đức, Phan Tứ, Nguyễn Thi… Hiện thực ở miền Nam sau giải phóng từ sự chuyển biến của con người cũ ở vùng đất mới cho đến mọi vấn đề của cuộc sống bề bộn, ăm ắp những lo toan đã hiện lên sâu sắc trong truyện ngắn Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Đinh Quang Nhã, Dương Thu Hương, Lý Lan…Bất cứ nhà văn nào khi chọn truyện ngắn đều chú ý phẩm chất thời sự này. Vì truyện ngắn là sự chọn lựa phù hợp nhất giúp họ bày tỏ những trăn trở, suy tư của mình “Truyện ngắn rất thích hợp để giúp nhà văn tìm hiểu những vấn đề mới đặt ra trong đời sống…Truyện ngắn phải đả động đến điều mọi người suy nghĩ trong ngày hôm nay” (Nguyên Ngọc) [88, tr.30]. Có thể nói, truyện ngắn là một hình thức nghệ thuật biểu hiện cuộc sống hiện đại phù hợp nhất. Truyện ngắn ngày càng trở nên hấp dẫn người đọc và không kém phần thu hút người viết vì khả năng co giản và thay đổi không ngừng của thể loại. Dó đó, truyện ngắn có sức mạnh nội tại lớn lao như William Boyd đã khẳng định: “Mỗi truyện ngắn hay như một viên pomivitamin”, vì nó không khác gì “một thứ thực phẩm cô đặc, bổ dưỡng cho mỹ cảm, có hiệu quả trông thấy và tác động nhanh đến không ngờ” [12, tr.23]. Trong việc tìm hiểu truyện ngắn, chúng tôi đi vào một trường hợp cụ thể là tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Lý Lan. 1.2. Lý Lan - Con người và hoạt động văn chương 1.2.1. Con người Nhà văn Lý Lan sinh ngày 16 tháng 7 năm 1957 tại quê mẹ, làng Bình Nhâm, huyện Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Hiện nay, bà đang sinh sống cùng người bạn đời của mình, Mart Steward, một giáo sư sử học người Mỹ, tại vùng Bellingham, tiểu bang Washington, Hoa Kỳ. Tám năm đầu đời, Lý Lan sống cùng gia đình tại làng Bình Nhâm. Vùng đất Lái Thiêu quê mẹ với những vườn cây ăn tr._. ngữ và cách nói của người phụ nữ miền Nam “Chị thấy nó giống chồng chị không?” Nhàn ngắm kỹ đứa bé vô tư nhận xét: “Con nít nhỏ quá khó nói giống ai, nhưng môi, mũi, chân mày thì quả là giống anh Tuấn”. “Con của ảnh mà”. … “Vậy sao?” Người đàn bà bật khóc: “Hồi đó ảnh đục tường qua với tôi. Tại chồng tôi có mèo, có khi đi vắng hai ba đêm. Ảnh nói ảnh cũng không hạnh phúc với chị. Rồi ảnh nói chị đòi dọn nhà đi. Rồi sau khi tôi li dị, ảnh nói chị không chịu li dị. Tôi cũng cam làm bé. Bây giờ vỡ ra là ảnh đang bao một con khác”. Ngoài ra, ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn Lý Lan còn được cá thể hóa, phù hợp với từng loại người, được thể hiện ở nhiều nhân vật khác nhau. Ngôn ngữ của cậu Tư Hiệp (Chim nhạn) lúc nào cũng lên giọng của kẻ bề trên, bộc lộ bản chất của một nhà giàu tỉnh lẻ học đòi làm sang. Ngôn ngữ của trẻ em trong sáng, hồn nhiên (Mùa lá chín, Trăm con hạc trắng, Tóc tiên). Ngôn ngữ của Charles Huỳnh (Diễn viên hạng ba) lịch sự, khách khí dài dòng và rào trước đón sau, phù hợp với sự tính toán, sắp đặt của một người giàu có, vốn trưởng thành ở nước ngoài muốn mướn một diễn viên chăm sóc cho cha mình ở quê nhà. Ngược lại, lời lẽ đối đáp của Vương Chí (Diễn viên hạng ba) lại bộc lộ bản chất của một kẻ cơ hội, tranh thủ thời cơ. Ngôn ngữ của Biên (Phượng) bộc lộ tâm trạng vừa lo lắng cho vợ, vừa hoang mang chống chếnh, cần một người để tâm sự, để lấy lại cân bằng trong cuộc sống. Ông già (Cần Giuộc) nói năng lảm nhảm, không ra đầu ra đuôi, không rõ phàn nàn hay lẩm bẩm lại mang cả giọng giễu cợt phù hợp với một người trí thức lớn tuổi đang lạc lõng trước sự đổi thay của cuộc sống. Tóm lại, ngôn ngữ truyện ngắn sinh động, vừa tiếp thu vốn ngôn ngữ truyền thống của dân tộc vừa rất hiện đại, giàu cá tính, mang đậm phong vị Nam Bộ… là những đặc điểm tạo nên sức thu hút bạn đọc lâu bền của truyện ngắn Lý Lan. KẾT LUẬN 1. Hoạt động văn chương của Lý Lan đa dạng và phong phú. Với hơn ba mươi năm theo đuổi nghiệp văn, Lý Lan đã dành phần lớn tâm huyết của mình cho truyện ngắn. Có thể nói, Lý Lan là một trường hợp chuyên nghiệp, một người viết truyện ngắn mang đậm bản sắc phương Nam. 2. Về phương diện nội dung, truyện ngắn Lý Lan qua các thời kì đều mang đậm dấu ấn của thời đại. Mảnh đất và con người Nam Bộ thời hiện đại là nguồn cảm hứng mãnh liệt chi phối ngòi bút truyện ngắn Lý Lan. Nét riêng của truyện ngắn Lý Lan là nhà văn luôn thể hiện cuộc sống và con người ở những điều bình thường, thậm chí là nhỏ, sâu kín trong tâm hồn con người, đặc biệt là người phụ nữ. Do vậy, đó là những trang truyện ngắn thấm đẫm tinh thần nhân bản. Bà đã cặm cụi, âm thầm ghi nhận và thể hiện chân dung của thanh niên miền Nam sau ngày đất nước giải phóng, chân dung những người phụ nữ hiện đại trong hành trình đi tìm và khám phá chính bản thân mình trong các mối quan hệ gia đình và xã hội. Sống hòa nhập giữa những người bình dân, Lý Lan có điều kiện quan sát cuộc sống thường nhật của họ và nhận ra vẻ đẹp tâm hồn cao quý của họ qua chân dung người già và trẻ em, chân dung người Hoa hội nhập cùng thành phố Sài Gòn - Hồ Chí Minh từ sau chiến tranh cho đến đổi mới với những xáo trộn và đổi thay từng ngày. 3. Về phương diện nghệ thuật, có thể nói, Lý Lan đã khẳng định được phong cách riêng của mình trong truyện ngắn bằng những đóng góp đáng kể. Trước hết là ở nghệ thuật xây dựng cốt truyện. Cốt truyện tuy đơn giản nhưng chi tiết chọn lọc và hấp dẫn, giàu chất đời thường. Bà có những sáng tạo trong việc xây dựng kết cấu truyện ngắn, tình huống độc đáo, tính cách nhân vật rõ nét và sinh động. Ngôn ngữ truyện ngắn sinh động, giàu cá tính và đậm đà phong vị Nam Bộ. Đặc biệt, truyện ngắn Lý Lan cũng thể hiện dấu vết tự truyện khá rõ nét. 4. Trong dòng chảy của văn học Nam Bộ đương đại, Lý Lan có một chỗ đứng khiêm nhường nhưng chắc chắn. Truyện ngắn của Lý Lan chứa đựng những thông điệp về văn hóa, thời đại, tư tưởng nữ quyền sâu sắc. Trong những nỗ lực nhằm tự đổi mới chính mình, nhà văn đã không ngừng sáng tạo truyện ngắn ngày một chuyên nghiệp, đậm đà bản sắc riêng từ đề tài sáng tác, nội dung phản ánh cho đến những đổi mới kỹ thuật viết. Đó cũng là những cống hiến đáng ghi nhận của bà đối với thể tài truyện ngắn nói riêng và nền văn học hiện đại nói chung. Lý Lan từng tâm sự: “Cái duy nhất mà nghề viết có thể lấy đi ở một người phụ nữ là sự im lặng. Khi phụ nữ mất đi sự im lặng, cam chịu nhẫn nhịn, họ sẽ thay đổi thế gian này”. Hơn ba mươi năm cầm bút, trên lĩnh vực văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng, Lý Lan đã làm được một điều đáng ghi nhận là: truyện ngắn của bà đã phản ánh chân thật chân dung con người bình dân Nam Bộ.Đó còn là những trang văn ăm ắp những trăn trở, suy tư của nhà văn về cuộc sống, tuổi trẻ và thời đại, về nhân sinh, về văn hóa dân tộc, đặc biệt là công cuộc đấu tranh không ngừng cho bình đẳng giới là những giá trị quý báu mà nhà văn đã đem lại cho độc giả yêu quý của mình. Lý Lan không chỉ thành công về truyện ngắn, mà còn đạt những giải thưởng văn học khác. Phong cách nghệ thuật Lý Lan đã và đang phát triển, hứa hẹn những tìm tòi và đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam đương đại. Nhà văn đang trên đường đi tới “có thể tin là trước mắt chúng ta, một phong cách đã hình thành, một mạch văn đã khơi nguồn và đang chảy xiết” [88, tr12] để góp phần đưa văn học nước nhà hòa mình vào văn học thế giới. 5. Đọc văn Lý Lan dễ nhận thấy bà là người lịch duyệt, từng trải và có vốn văn hóa sâu rộng nhưng văn phong giản dị, trong sáng với lối đặt câu, dùng từ chuẩn xác và giàu sức biểu cảm. Thiết nghĩ, trong tình trạng hiện nay không ít những nhà văn còn cẩu thả tùy tiện trong việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt thì những trang văn trong sáng của Lý Lan nên đưa vào nhà trường để các em có cơ hội tiếp cận những tác phẩm đương đại mới mẻ và trong sáng. Công trình tuy còn nhiều hạn chế và khiếm khuyết nhưng chúng tôi hy vọng luận văn góp một phần nhỏ bé trong việc tìm hiểu hoạt động văn chương của Lý Lan, một trong những cây bút nữ tiêu biểu của văn học phía Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Văn Ái (1994), Từ điển phương ngữ Nam Bộ, Nxb T.p Hồ Chí Minh. 2. Trần Thùy An (2007), “Người phụ nữ hiện đại trong sáng tác của các cây bút nữ”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm, T.p Hồ Chí Minh 3. Nguyễn Kim Anh, Vũ Ngọc, Hà Thanh Vân, Hoàng Tùng (2001), Thơ văn nữ Nam Bộ thế kỷ XX, Nxb T.p Hồ Chí Minh. 4. Phan Thị Vàng Anh (1995), Hội chợ, Nxb Trẻ, T.p Hồ Chí Minh. 5. Phan Thị Vàng Anh (1999), “Lời giới thiệu truyện ngắn Lý Lan”, Sài Gòn giải phóng thứ bảy, số 444, ra ngày 14-08- 1999. 6. Phan Thị Vàng Anh (1995), Khi người ta trẻ, Nxb Trẻ, T.p Hồ Chí Minh. 7. Lê Huy Bắc (2004), Truyện ngắn, lý luận, tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 8. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại”, Tạp chí văn học, (Số 9). 9. M. Bakhtin (1992), (Phạm Vĩnh Cư dịch), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết,Nxb Bộ văn hóa thông tin và thể thao - Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. 10. Simone De Beauvoir (1996), (Nguyễn Trọng Định và Đoàn Ngọc Thanh dịch), Giới nữ, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội. 11. Ngọc Bích (2007), “Ước mơ lớn của Lý Lan”, Báo Tuổi trẻ, 20-04-2007 12. William Boyd (2005), (Ngọc Phương dịch), “Mỗi truyện ngắn như một viên Polivitamin”, Báo Văn nghệ , ( Số 4 ). 22/01/2005. 13. Encyclopedia Britannica, Brief fictional prose narrative, ồ Kim Phụng dịch) 14. Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 15. Lily Chiu, “Phỏng vấn và giới thiệu ba truyện ngắn: Tai nạn, Con ma, Chị ấy lấy chồng chưa của Lý Lan”, www.vietnamlit.org.com 16. Ngô Thị Kim Cúc (1994), Những người uống trà, Nxb Trẻ, Tp.HCM. 17. Ngô Thị Kim Cúc (1996),Thảm cỏ trên trời, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 18. Ngô Thị Kim Cúc (2000), “Góp nhặt những nỗi buồn”, BáoThanh niên, (69). 19. Nguyễn Văn Dân (2006), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 20. Nguyễn Văn Dân (viết chung, sưu tập chuyên đề), (2001), Văn học so sánh- lý luận và ứng dụng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 21. Đỗ Duy, “Nhà văn Lý Lan, Văn chương còn “chơi” được”, Thể thao và văn hóa cuối tuần, tr. 39. 22. Trùng Dương (1969), Cơn hồng thủy và bông hoa quỳ, Nxb Trình Bầy, Sài Gòn. 23. Hồ Dzếnh (1990), Chân trời cũ, Nxb An Giang. 24. Đặng Anh Đào (2001), Tài năng và người thưởng thức, NxbVăn nghệ, T.p Hồ Chí Minh. 25. Phan Cự Đệ (2007), (chủ biên), Truyện ngắn Việt Nam lịch sử - Thi pháp - Chân dung, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 26. Trần Thanh Địch (1988), Tìm hiểu truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam. 27. Hoàng Thị Hồng Hà (2003), “Những đặc điểm nghệ thuật của văn xuôi Việt Nam cuối những năm 1980 đầu những năm 1990”, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Khoa Học Xã Hội – Nhân Văn, T.p HCM. 28. Thúy Hà (2001), “Nhà văn Lý Lan: Viết một cách có trách nhiệm vì những độc giả tin cậy mình”, Báo Đại Đoàn Kết, số, ra ngày 11-02-2001, tr16. 29. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), (2006), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 30. Nguyễn Văn Hạnh (1995), Huỳnh Như Phương, Lý luận văn học - vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 31. Hoàng Ngọc Hiến (1998), Năm bài giảng về thể loại: kí, bi kịch, anh hùng ca, trường ca và tiểu thuyết, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 32. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 33. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 34. Đỗ Đức Hiểu (2004), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới. 35. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 36. Trang Thế Hy (2006), Truyện ngắn Trang Thế Hy, Nxb Văn hóa Sài Gòn. 37. Đỗ Đức Hiểu, (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 38. Phạm Thị Hoài, (1989), Mê lộ, Nxb Tổng hợp Phú Khánh. 39. Túy Hồng (1964), Thở dài, Thời mới xuất bản, Sài Gòn. 40. Dương Thu Hương (1981), Những bông bần ly, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 41. Nguyễn Thu Hương (1982), “Đọc “Bụi phấn” nghĩ về những nhà giáo trẻ”, Văn nghệ TP.HCM, (53). 42. Lê Thị Hường (1995), “Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975-1995”, Luận án phó tiến sĩ khoa học ngữ văn; Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Hà Nội. 43. Lê Minh Khuê (1994), Truyện ngắn Lê Minh Khuê, Nxb Văn học 44. M.B. Khrapchenko (1979), (Lê Sơn, Nguyễn Văn Minh dịch), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 45. Milan Kundra (1998), (Nguyên Ngọc dịch), Nghệ thuật tiểu thuyết, Nxb Đà Nẵng. 46. Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Phong cách học Tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 47. Lý Lan (2002), Ba người và ba con vật, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 48. Lý Lan (2009), Bày tỏ tình yêu, Nxb Văn nghệ, T.p Hồ Chí Minh. 49. Lý Lan (1996), Bí mật của tôi và thằn lằn đen, Nxb Trẻ, T.p Hồ Chí Minh 50. Lý Lan (1983), Cỏ hát, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 51. Lý Lan (1994), Chân dung người Hoa, Nxb Văn hóa, Hà Nội 52. Lý Lan (1991), Chiêm bao thấy núi, Nxb Trẻ, T.p Hồ Chí Minh 53. Lý Lan (1987), Chút lãng mạn trong mưa, Nxb Trẻ, T.p Hồ Chí Minh. 54. Lý Lan (1999), Dặm đường lang thang, NxbVăn nghệ , T.p Hồ Chí Minh. 55. Lý Lan (2000), Dị mộng, Nxb Trẻ, T.p Hồ Chí Minh. 56. Lý Lan (1995), Đất khách, Nxb Văn nghệ , T.p Hồ Chí Minh. 57. Lý Lan (2009), Hồi xuân, Nxb Văn nghệ , T.p Hồ Chí Minh 58. Lý Lan (1991), Hội lồng đèn, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 59. Lý Lan (1999), Khi nhà văn khóc, NxbVăn nghệ , T.p Hồ Chí Minh. 60. Lý Lan (2005), Là mình, NxbVăn nghệ, T.p Hồ Chí Minh. 61. Lý Lan (1998), Lệ Mai, NxbVăn nghệ , T.p Hồ Chí Minh 62. Lý Lan (2007), Lý Lan tám Harry Potter, NxbVăn nghệ , T.p Hồ Chí Minh. 63. Lý Lan (1997), “Làm sao viết văn”, Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, Mục Hoa Hàm tiếu, số 12 , năm 1997, tr.11. 64. Lý Lan (2008), Miên man tùy bút, Nxb Văn nghệ, T.p Hồ Chí Minh. 65. Lý Lan ( 1993), Mưa chuồn chuồn, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 66. Lý Lan (1984), Ngôi nhà trong cỏ, Nxb Văn nghệ, T.p Hồ Chí Minh 67. Lý Lan (1986), Nơi bình yên chim hót, Nxb Cà Mau. 68. Lý Lan (2006), Người đàn bà kể chuyện, NxbVăn nghệ , T.p Hồ Chí Minh. 69. Lý Lan (1992), Những người lớn, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 70. Lý Lan (2001), Một góc phố Tàu, Nxb Văn học ,Hà Nội. 71. Lý Lan (2001), Quán bạn, Nxb Trẻ, T.p Hồ Chí Minh. 72. Lý Lan (2000), Quá chén, NxbVăn nghệ, T.p Hồ Chí Minh. 73. Lý Lan (1998), Sài Gòn, Chợ Lớn rong chơi, NxbVăn nghệ , T.p Hồ Chí Minh. 74. Lý Lan (2008), Tiểu thuyết đàn bà, NxbVăn nghệ T.p Hồ Chí Minh. 75. Lý Lan (1992), Truyện Lý Lan, Nguyễn Hải Chí, Nguyễn Thị Minh Ngọc, NxbVăn nghệ T.p Hồ Chí Minh. 76. Trần Thị Ngọc Lan, (1995), Phương ngữ Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 77. Hồ Thị Liễu (2002), “Khảo sát truyện ngắn của các nhà văn nữ từ 1986 đến 1996”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Tp.HCM. 78. Mỹ Linh (2008), “Phỏng vấn Lý Lan”, Văn hóa, sự kiện và nhân vật, VTV3 Đài truyền hình Việt Nam, tháng 3 năm 2008. 79. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa, Thành Thế Thái Bình (2004), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 80. Lưu Thị Lương (1996), Lương hoa, Nxb Trẻ, Tp. HCM. 81. Thiên Lương (1997), “Nhà văn Lý Lan: Tôi chỉ muốn mở một cánh cửa”, Báo Người lao động, 17-05-1997. 82. Trần Thùy Mai (2003), Biển đời người, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 83. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb Văn học ,Hà Nội. 84. Sơn Nam (2005), Đất Gia Định, Bến Nghé xưa, và người Sài Gòn, Nxb Trẻ, T.p Hồ Chí Minh. 85. Sơn Nam (2006), “Lời giới thiệu”, Chiêm bao thấy núi, Nxb Giáo dục, TP.HCM. 86. Sơn Nam, (2005), Hương rừng Cà Mau, Nxb Trẻ, T.p Hồ Chí Minh. 87. An-tô-nôp (1960), (Bùi Hiển dịch), Viết truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. 88. Vương Trí Nhàn (1998), Sổ tay truyện ngắn, NxbVăn nghệ, Tp.HCM. 89. Vương Trí Nhàn (2001), “Lời giới thiệu”, Một góc phố Tàu, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 90. Vương Trí Nhàn (2006), Cánh bướm và đóa hướng dương, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 91. Hoàng Nhân (2009), “Tôi không muốn cưa sừng để "ve vãn" độc giả trẻ”, Thể thao và Văn hóa, www.vietkieu.biz 92. Dạ Ngân (1995), Dạ Ngân – Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Văn học, Hà Nội. 93. Dạ Ngân (1993), Quãng đời ấm áp, Nxb Phụ nữ. 94. Nguyễn Thị Minh Ngọc, (1994), Ngọn nến bên kia gương, Nxb Trẻ, T.p Hồ Chí Minh. 95. Nguyễn Thị Minh Ngọc, (1996), Cạn duyên, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội 96. Thanh Nguyên (2000), “Quá chén và những tâm cảnh”, Báo Sài Gòn giải phóng, 25- 04- 2000, tr.5. 97. G.N. Pôpêlốp, (chủ biên), (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 98. Hoàng Phê (1998), (chủ biên), Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng. 99. Hồ Kim Phụng (người thực hiện luận văn), “Trò chuyện cùng nhà văn Lý Lan”, tháng 3 năm 2008, Phụ lục của luận văn. 100. Huỳnh Như Phương (1994), Những tín hiệu mới, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 101. Huỳnh Như Phương, Trường phái hình thức Nga và văn xuôi tự sự, Tự sự học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 102. Phạm Viêm Phương (dịch và chú giải), (2004), Truyện ngắn phân tích, NxbVăn nghệ , T.p Hồ Chí Minh. 103. Marina Prevot (2006), “Lời giới thiệu”, Chiêm bao thấy núi, Nxb Giáo dục, TP.HCM. 104. Minh Quân (1974), Những ngày cạn sữa, Nxb Trí Đăng, Sài Gòn. 105. Trần Đình Sử, (2000), (chủ biên), Tự sự học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 106. Đào Thản (1994), “Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi”, Tạp chí ngôn ngữ, Hà Nội, (số 2). 107. Minh Thi, phỏng vấn Lý Lan, Lao động chủ nhật, ra ngày 24.11.1996, số 126. 108. Bùi Việt Thắng, (1990), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học ,Hà Nội. 109. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn - Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 110. Bùi Việt Thắng (2002), “Tứ tử trình làng”, Truyện ngắn bốn cây bút nữ, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. 111. Minh Thi (1996), "Phỏng vấn Lý Lan", Lao động chủ nhật, ra ngày 24.11.1996, (số 126). 112. Lê Ngọc Trà (2005), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ, T.p Hồ Chí Minh. 113. Thanh Vân (2001), “Dịch giả Lý Lan “Hạnh phúc nhất là được trở về nhà”, www.evan.com.vn. 114. Nguyễn Thị Thụy Vũ (1967), Mèo đêm, Kim Chi xuất bản, Sài Gòn. 115. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2004), Tiếng vọng những mùa qua, Nxb Trẻ, T.p Hồ Chí Minh. Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo một số bài phỏng vấn trên truyền hình và trên các báo, trên mạng internet viết về sáng tác của Lý Lan nhưng tập trung ở các mảng kí, tiểu thuyết và dịch thuật tập truyện Harry Potter. TRÒ CHUYỆN CÙNG NHÀ VĂN LÝ LAN Khi thực hiện đề tài này, tôi không có điều kiện gặp gỡ nhà văn Lý Lan vì chị hiện đang sống tại Mỹ. Tôi thường xuyên liên lạc với chị bằng thư điện tử. Đầu năm Mậu Tý, nhà văn Lý Lan đã ở lại Việt Nam trong sáu tháng. Một buổi sáng tháng ba đẹp trời, tôi đã có dịp trò chuyện cùng nhà văn. Trước đó, tôi đã gửi trước câu hỏi cho chị, thật bất ngờ chị hẹn tôi 8 giờ sáng nhưng ngay từ 7 giờ chị đã trả lời sẵn một số câu hỏi của tôi trên máy tính. Tiếp tôi tại căn hộ trên lầu ba của chung cư 295 Nguyễn Tri Phương, Lý Lan vui lòng trả lời hơn 40 câu hỏi của tôi đến tận 10 giờ sáng. Ngoài ra, chị còn tặng tôi cuốn sách mới “Tiểu thuyết đàn bà” của chị vừa được in để chuẩn bị ra mắt độc giả trong hội sách thành phố ngày 10/03/2008. Trong buổi gặp gỡ thân mật này, chúng tôi đã trao đổi thẳng thắn một số vấn đề chính như sau: NTHLV: Điều gì thôi thúc Chị đi vào con đường văn chương? NV Lý Lan: Chẳng gì cả, hoàn toàn ngẫu nhiên. NTHLV: Xin chị cho biết tác phẩm đầu tay của chị? Tác phẩm được in báo đầu tiên? NV Lý Lan: “Chàng Nghệ sĩ” trên báo Tuổi Trẻ năm 1978. NTHLV: Thời gian thử bút của Chị là bao lâu? Và có thử viết nhiều thể loại khác nhau? NV Lý Lan: Không rõ, hình như không có thử bút, viết ra cái đầu tiên là được xuất bản. Khi bắt đầu viết, tôi không bận tâm thể loại. Bây giờ nhìn lại, tôi thấy mình đã viết thơ, truyện ngắn, tùy bút, ký sự, kịch bản phim, truyện vừa, truyện dài, tiểu thuyết, nghiên cứu, phê bình. NTHLV: Chị đã đến với tản văn như thế nào? Chị có chọn cho mình một phong cách viết tản văn không? NV Lý Lan: Tôi không “đến” với tản văn. Tôi viết, và người ta gọi cái đó là “tản văn”, “tạp văn”, “tùy bút” … gọi sao cũng được. Tôi chỉ “tùy bút” mà viết ra quan sát, cảm xúc, suy nghĩ. Ai có thể chọn được phong cách? Phong cách tự hình thành thôi. NTHLV: Rất nhiều người đọc yêu thích giọng điệu văn xuôi Lý Lan ở tản văn, hơn cả truyện ngắn, chị thấy thế nào? NV Lý Lan: Tôi cám ơn những bạn đọc đó. NTHLV: Phải chăng với tản văn, chị thể hiện ung dung hơn thế mạnh của mình: vốn văn hóa, khả năng ghi nhận đời sống, giọng điệu riêng và các suy tưởng bất ngờ? NV Lý Lan: Cám ơn Phụng về nhận xét này. NTHLV: Trong hoạt động văn chương của mình, chị có làm thơ và thơ của chị có lẽ bộc lộ một Lý Lan rõ nét hơn trong truyện ngắn. Chị đến với thơ như thế nào? NV Lý Lan: Tôi cũng không đến với thơ. Tôi làm thơ khi điều muốn thể hiện bật ra thành thơ. NTHLV: Vì sao chị khởi nghiệp bằng truyện ngắn? Chị quan niệm gì về truyện ngắn? NV Lý Lan: Khi viết “Chàng Nghệ Sĩ” tôi chỉ định kể lại câu chuyện mình đi lao động ở biên giới, trong quá trình viết câu chuyện được dặm thêm những chi tiết hư cấu và biến thành một truyện ngắn. Tôi cho là viết truyện ngắn cũng như mặc một cái áo đẹp đi dạ hội. Truyện ngắn phải thực sự mới lạ, khác với những gì mình đã viết trước đó cả trong đề tài và cách thể hiện. NTHLV: Kiến thức từ nhà trường hay sách vở về văn học nói chung và truyện ngắn nói riêng có ý nghĩa như thế nào với Chị? NV Lý Lan: Quan trọng. Đó là nền tảng cho cách viết và sử dụng ngôn ngữ. NTHLV: Việc đọc sách và dạy học có vai trò gì trong đời văn của Chị? NV Lý Lan: Đọc sách là hoạt động thường xuyên, là một nhu cầu hàng ngày, từ khi tôi biết đọc đến bây giờ, và có lẽ đến khi chết. Việc dạy học trước đây là một hoạt động mưu sinh và một lý tưởng “truyền bá tri thức” mà tôi đeo đuổi thời trẻ. Về sau , buồn về nền giáo dục nước nhà tôi nghỉ dạy, nhưng có lẽ sắp tới tôi sẽ trở lại công việc mà tôi cho là rất quan trọng trong xã hội. NTHLV: Chị nghĩ là mình chịu ảnh hưởng ai / cái gì nhiều nhất? NV Lý Lan: Tôi không rõ lắm, chắc là tất cả những ai tôi từng gặp từng đọc đều có ảnh hưởng ở mức độ nào đó, tích cực hoặc tiêu cực. NTHLV: Thường chị viết một truyện ngắn như thế nào? NV Lý Lan: Nghĩ thấu đáo rồi viết ra một mạch, nếu đọc lại hài lòng thì coi như xong, nếu không thì bỏ. NTHLV: Khi viết truyện ngắn, chị thường dồn sức (hoặc có thiên hướng đầu tư) vào phương diện nào (cốt truyện, tình huống, ngôn ngữ, hay chất văn…)? Tại sao? NV Lý Lan: Bắt đầu phải có được giọng văn phù hợp với ý đồ kể chuyện. Vì cái hồn của chuyện bị ảnh hưởng rất nhiều bởi giọng kể chuyện NTHLV: Chị thường viết hồn nhiên hay viết kỹ thuật? NV Lý Lan: Kỹ thuật cao mới đạt được giọng kể hồn nhiên. NTHLV: Một truyện ngắn hay, theo chị? NV Lý Lan: Giống một cái áo dạ hội đẹp, gây được ấn tượng và nổi bật trong đám đông. NTHLV: Trong số tác phẩm của mình, Chị hài lòng truyện ngắn nào nhất? Tại sao? NV Lý Lan: Con Ma. Vì tôi tự thấy nó hay. NTHLV: Sức mạnh của truyện ngắn, theo Chị, là ở đâu? NV Lý Lan: Ý đồ của người viết (hay chủ đề của câu chuyện). NTHLV: Truyện ngắn của chị có sự phát triển theo thời gian và càng ngày càng hiện đại hơn, sắc sảo hơn và mất dần chất trữ tình so với những sáng tác ban đầu, chị có thấy thế không? NV Lý Lan: Tôi không để ý. Có thể, vì tôi mỗi ngày một già hơn? NTHLV: Có thể nói là truyện ngắn của Chị đã đi từ chất trữ tình sang chất hiện thực và chất trí tuệ được chăng? NV Lý Lan: Rất có thể. NTHLV: Trong sáng tác của chị, những nhân vật đàn ông dường như thường không nổi bật? Tại sao? Chị có dự định tiếp tục với những nhân vật nữ trẻ tuổi của đời sống đương đại hôm nay không? NV Lý Lan: Tôi không dụng ý kể chuyện đàn ông. Nhân vật nữ là đối tượng nghiên cứu và chủ thể sáng tạo của tôi. NTHLV: Chị có thể nói thêm về đề tài người Hoa rất độc đáo trong các sáng tác của chị không, kể cả về người Việt sống ở nước ngoài và cả những dự định sắp đến? NV Lý Lan: Tôi đang có tham vọng viết một bộ sách về hành trình người Hoa trên đất Việt – đây là một kế hoạch lâu dài, tôi đã bắt đầu 18 năm trước và sẽ kéo dài đến hết đời tôi. NTHLV: Khi viết, chị có chú ý đến phong cách vùng miền? NV Lý Lan: Có. Tôi không cố tình tạo phong cách hay cố ý dùng phương ngữ, nhưng khi tôi viết về vùng đất nông thôn hay đô thị miền Nam, thì phong cách tự hình thành từ những nét đặc sắc của miền Nam. NTHLV: Nếu có nhận xét: qua truyện ngắn của chị có thể đoán chị là một người phụ nữ độc lập, tự chủ, kiệm lời nhưng sâu sắc, có đúng không? Chị nghĩ sao về điều này? NV Lý Lan: Đó là hình ảnh Lý Lan qua các sáng tác văn học. Con người văn chương chỉ là một phần của con người thực. NTHLV: Nhìn chung trong truyện ngắn của chị, chị đã bộc lộ xu hướng văn học nữ quyền trong cả bút pháp lẫn nội dung, chị có chủ ý về điều này không? NV Lý Lan: Tôi có ý thức về nữ quyền khi sáng tác, nhứt là trong khoảng 10 năm sau này. NTHLV: Chị nghĩ gì về xu hướng sex trong văn học nữ? Sex là một khái niệm được hiểu khác nhau trong những xã hội khác nhau, và “xu hướng sex” trong văn học ở Việt Nam vẫn chưa rõ nét. Tôi nghĩ đề tài dục tính trong văn học nữ ở Việt Nam chưa được khai thác đúng đắn. Một phần do quan niệm xã hội, còn việc dịch tác phẩm có đề cập đến dục tính là do nhà xuất bản kinh doanh. Và tôi nghĩ nên nhìn nhận vấn đề này đơn giản, người đàn ông có thể kể về việc rượu chè, thậm chí ăn chơi, chửi thề… thì người phụ nữ cũng có quyền nói về dục tính bình thường như thế. Không có gì là quan trọng. NTHLV: Có lẽ chị không chú ý lắm điều này trong truyện ngắn của mình? Tôi không quan tâm đến sex bằng những vấn đề khác trong cuộc sống. NTHLV: Một vài truyện ngắn của chị có bóng hình và kỉ niệm liên quan đến cuộc đời chị nhưng vẫn nhận ra một cá tính sáng tạo độc đáo? Chị có xử lý thế nào mối tươg quan giữa nguyên mẫu và hư cấu trong những tác phẩm đó? NV Lý Lan: Người viết luôn luôn thể hiện bản thân mình trong sáng tác, dù có ý thức hay một cách vô thức, nhưng đó là một cái-tôi-tác-giả. Mối liên quan giữa nguyên mẫu và hư cấu là vấn đề kỹ thuật. NTHLV: Ngay trong sáng tác của mình, chị luôn có một thái độ bình thản trước mọi sự đổi thay và luôn giữ được bản sắc riêng, có bao giờ chị nghĩ mình cần thay đổi, “làm mới mình” hơn trong tác phẩm không? NV Lý Lan: Tôi không chủ trương tự làm mới hay có nhu cầu tìm tòi thay đổi trong viết lác. Bản thân tôi sống đến ngần này tuổi tôi thấy mình có thay đổi trong cách nhìn, cách nghĩ, cách sống, nhưng bản chất, tính cách con người mình vẫn vậy. Nếu trong những gì tôi viết ra có thay đổi theo thời gian thì có lẽ điều đó phản ánh sự thay đổi trong cách sống cách nghĩ cách nhìn, và tôi hy vọng “bản chất” của tôi vẫn còn trong trang viết của tôi. NTHLV: Đa số nhiều nhà văn viết truyện ngắn nhưng truyện ngắn không phải là đích họ muốn tới. Ý kiến của chị thế nào? Trong tương lai, chị sẽ phát triển truyện ngắn hay chú tâm hơn tiểu thuyết? NV Lý Lan: Như tôi đã nói ở trên, điều tôi muốn viết tự chọn hình thức thể hiện, cái gì bật ra là thơ thì là thơ, cái gì ngắn gọn thì thành truyện ngắn, cái gì cần dài hơi thì thành truyện dài hay tiểu thuyết. NTHLV: Chị là một nhà văn chuyên nghiệp, có phong cách riêng độc đáo, nhưng tác phẩm của Chị không tạo nên sự kiện, (như sách Chị dịch) và chưa được các nhà phê bình viết nhiều như lẽ ra phải có, chị nghĩ gì về điều này ? NV Lý Lan: Không sao cả. NTHLV: Theo chị đâu là những thuận lợi và khó khăn nào của một nhà văn Việt Nam sống ở nước ngoài? NV Lý Lan: Thuận lợi hay khó khăn tùy thuộc vào hoàn cảnh của từng người - đối với tôi ở đâu tôi cũng làm việc được. NTHLV: Thời gian học tại đại học Iowa đã ảnh hưởng đến Chị ra sao? NV Lý Lan: Đối với tôi, chuyến tham gia chương trình viết văn tại đại học Iowa chính là lúc tôi được trao chìa khóa để tiếp tục đi tìm hiểu và khám phá ra bản đồ bí ẩn của văn chương. NTHLV: Vấn đề chị quan tâm nhất hiện nay trong văn học nói chung và truyện ngắn nói riêng? NV Lý Lan: Tạo được giá trị lâu dài cho tác phẩm văn học trong một thị trường tiêu thụ “nhanh” NTHLV: Cho đến hôm nay là hơn ba mươi năm cầm bút, chị suy nghĩ gì về nghề văn? NV Lý Lan: Đó là một nghề bình thường, có người làm tốt, có người không, nên có sản phẩm tốt có sản phẩm không. NTHLV: Là một người viết văn tự do, không thuộc hội nhà văn nào, chị thấy có những thuận lợi và khó khăn gì không? NV Lý Lan: Nhà văn cần có độc lập về tư tưởng và tài chánh để sáng tác, có thể cần hổ trợ của đồng nghiệp. Nếu hội nhà văn đáp ứng được các yêu cầu đó thì sẽ là một thuận lợi, nếu không thì sẽ trở thành trở ngại cho nhà văn. NTHLV: Từ những trải nghiệm của riêng mình, Chị có thể chia sẻ chút ít về những thuận lợi/ khó khăn trong môi trường hiện tại, của người viết văn, của người cầm bút là phụ nữ, của nhà văn là người Việt Nam? NV Lý Lan: Trở ngại của người viết là phụ nữ trong xã hội VN là ý thức nữ quyền chưa rõ, chưa rộng. Nhà văn là người Việt Nam hiện nay có trở ngại là sáng tác trong sự “quản lý văn hoá văn nghệ”. NTHLV: Chị nghĩ gì về truyện ngắn hiện đại và hậu hiện đại? Tôi cho rằng ở Việt Nam không có hiện đại và hậu hiện đại trong văn học, mà phải dùng khái niệm đương đại. Ở VN, chúng ta từng có văn học thực dân và văn hậu thực dân, xét cho cùng thì Thơ Mới, Tụ Lực Văn Đoàn, ngay cả phê bình của Hoài Thanh chẳng hạn đều chịu ảnh hưởng của Pháp nặng nề một cách ý thức và vô thức, sau này tại miền Nam, có văn học hậu thực dân tức là các nhà văn ý thức về văn hóa dân tộc, cố gắng viết để chống lại ảnh hưởng của văn học Pháp. Ở nước ta, do ảnh hưởng của chính trị, hai miền Nam Bắc có một khoảng thời gian dài văn học khác trào lưu nhưng về sau thì thống nhất. Chúng ta chỉ có văn học dân tộc, văn học đương đại thôi, không nên ngộ nhận về điều này. Còn thì hiện nay trên thế giới khái niệm văn học hiện đại (modern) chính là nền văn học đế quốc tư bản, chẳng hạn nền văn học hiện đại này nặng về nam tính, đề cao người đàn ông da trắng trong thế giới kỹ thuật hiện đại, xem mọi thứ trong thế giới này đều to lớn… Còn văn học hậu hiện đại tức là ra đời sau, là tương lai so với văn học hiện đại, chẳng hạn sáng tác của Lessing, thế giới được nhìn từ những điều bé nhỏ, từ góc nhìn của người đàn bà da đen, từ người đàn ông da vàng, từ đứa bé con lai… Do đó, tôi nghĩ điều này chưa được các nhà văn ý thức nhiều trong sáng tác. NTHLV: Tham gia chương trình viết văn ở Mỹ, Chị có thu nhận được điều gì mới mẻ cho mình không? NV Lý Lan: Chương trình này làm cho tôi vỡ ra nhiều ngộ nhận về kiến thức, ngôn ngữ, văn hóa và văn học. NTHLV: Vì sao chị quyết định nghỉ dạy học? NV Lý Lan: Bản thân tôi đặt quá nhiều kì vọng vào thiên chức nhà giáo, một khi điều đó không còn là lý tưởng của mình, chỉ đeo đuổi để kiếm tiền thì tôi nghỉ dạy. NTHLV: Chị có thể nói thêm về công việc dịch thuật và phổ biến văn chương Việt Nam mà chị đã, đang và sẽ làm không? NV Lý Lan: Tôi sẽ tiếp tục dịch. NTHLV: Nếu một người muốn đi vào con đường viết văn cần xin lời khuyên của Chị, chị sẽ khuyên gì? NV Lý Lan: Cứ viết, nhưng đừng kỳ vọng gì ở văn chương cả. NTHLV: Chị dự đoán gì về tương lai văn chương Việt Nam? NV Lý Lan: Không dám. Điều này thật to tát. NTHLV: Hiện nay thời gian phân bố cho việc viết lách của Chị ra sao? NV Lý Lan: Tôi dành toàn thời gian cho đọc và viết. Xin cám ơn chị về buổi trò chuyện thú vị này. PHỤ LỤC Nhà văn Lý Lan trong buổi giới thiệu sách : “Tiểu Thuyết Đàn Bà” tháng 3/2008 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7513.pdf
Tài liệu liên quan